Nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng hồ chí minh Nguồn gốc,
quá trình hình thành và phát triển tư tưởng hồ chí minh
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong một gia đình sĩ phu yêu nước, ở quê hương
giàu truyền thống cách mạng, trong một đất nước sớm định hình một quốc gia dân
tộc có chủ quyền lâu đời, trong đó tinh thần yêu nước là dòng chảy chủ yếu xuyên
suốt chiều dài lịch sử.
Cuối thế kỷ XIX, đất nước ta bị rơi vào cảnh nô lệ lầm than dưới ách thuộc địa
của thực dân Pháp. Nhân dân Việt Nam đã liên tiếp nổi dậy chống lại ách thống
trị của thực dân Pháp dưới ngọn cờ của một số nhà yêu nước tiêu biểu nối tiếp
nhau, song đều lần lượt thất bại. Đám mây đen của chủ nghĩa thực dân vẫn bao phủ
bầu trời Việt Nam. Dân tộc Việt Nam rơi vào khủng hoảng đường lối cách mạng.
Giữa lúc đó, Hồ Chí Minh ra nước ngoài để học hỏi, tìm một giải pháp mới để cứu
nước, giải phóng dân tộc. Lúc này, chủ nghĩa đế quốc đã xác lập được sự thống
trị của chúng trên một phạm vi rộng lớn của thế giới. ách áp bức và thôn tính
dân tộc càng nặng, sự phản kháng dân tộc của nhân dân bị nô dịch càng tăng.
Phương Đông đã thức tỉnh. Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Cách mạng
Tháng Mười Nga đã thành công, nước Nga Xôviết đã ra đời. Quốc tế Cộng sản được
thành lập. Các đảng cộng sản đã lần lượt ra đời tại một số nước ở châu Âu, châu
á...
Hồ Chí Minh đã hoạt động trong phong trào công nhân và lao động một số nước trên
thế giới; đến với nhân dân cần lao ở các nước thuộc địaớing bị chủ nghĩa thực
dân nô dịch; học tập, nghiên cứu các trào lưu tư tưởng, các thể chế chính trị;
tiếp thu tư tưởng cách mạng của chủ nghĩa Mác- Lênin; chọn lựa con đường cứu
nước, giải phóng dân tộc là con đường cách mạng vô sản; đứng về phía Quốc tế
Cộng sản; tham gia Đảng Cộng sản Pháp. Từ đó, Hồ Chí Minh càng đi sâu tìm hiểu
các học thuyết cách mạng trên thế giới, xây dựng lý luận về cách mạng thuộc địa,
trước hết là lý luận cách mạng để giải phóng dân tộc Việt Nam, xây dựng các nhân
tố cách mạng của dân tộc, tổ chức và lãnh đạo cách mạng Việt Nam tiến lên giành
những thắng lợi vĩ đại vì độc lập của dân tộc, tự do của toàn dân, v.v..
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb.
Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 127.
4
1. Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh
a) Giá trị truyền thống dân tộc
Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước đã hình thành cho Việt Nam các giá
trị truyền thống dân tộc phong phú, vững bền. Đó là ý thức chủ quyền quốc gia
dân tộc, ý chí tự lập, tự cường, yêu nước, kiên cường, bất khuất... tạo thành
động lực mạnh mẽ của đất nước; là tinh thần tương thân, tương ái, nhân nghĩa, cố
kết cộng đồng dân tộc; thủy chung, khoan dung, độ lượng; là thông minh, sáng
tạo, quý trọng hiền tài, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để làm phong phú
văn hóa dân tộc... Trong nguồn giá trị tinh thần truyền thống đó, chủ nghĩa yêu
nước là cốt lõi, là dòng chảy chính của tư tưởng văn hóa truyền thống Việt Nam,
xuyên suốt trường kỳ lịch sử, là động lực mạnh mẽ cho sự trường tồn và phát
triển của dân tộc. Chính sức mạnh truyền thống tư tưởng và văn hóa đó của dân
tộc đã thúc giục Hồ Chí Minh ra đi tìm tòi, học hỏi, tiếp thu tinh hoa văn hóa
của nhân loại để làm giàu cho tư tưởng cách mạng và văn hóa của Người.
b) Tinh hoa văn hóa nhân loại
Hồ Chí Minh đã biết làm giàu vốn văn hóa của mình bằng cách học hỏi, tiếp thu tư
tưởng văn hóa phương Đông và phương Tây.
Về tư tưởng và văn hóa phương Đông, Hồ Chí Minh đã tiếp thu những mặt tích cực
của Nho giáo về triết lý hành động, nhân nghĩa, ước vọng về một xã hội bình trị,
hòa mục, thế giới đại đồng; về một triết lý nhân sinh, tu thân, tề gia; đề cao
văn hóa trung hiếu "dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh".
Người nói: "Tuy Khổng Tử là phong kiến và tuy trong học thuyết của Khổng Tử có
nhiều điều không đúng song những điều hay trong đó thì chúng ta nên học"1. Người
dẫn lời của V.I. Lênin: "Chỉ có những người cách mạng chân chính mới thu hái
được những điều hiểu biết quý báu của các đời trước để lại"2.
Về Phật giáo, Hồ Chí Minh đã tiếp thu tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ,
cứu nạn; coi trọng tinh thần bình đẳng, chống phân biệt đẳng cấp, chăm lo điều
thiện, v.v..
Về chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn, Hồ Chí Minh tìm thấy những điều thích
hợp với điều kiện nước ta, đó là dân tộc độc lập, dân quyền tự do và dân sinh
hạnh phúc.
Về tư tưởng và văn hóa phương Tây, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu tiếp thu tư tưởng
văn hóa dân chủ và cách mạng của cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ.
Về tư tưởng dân chủ của cách mạng Pháp, Hồ Chí Minh đã tiếp thu tư tưởng của các
nhà khai sáng: Vônte (Voltaire), Rútxô (Rousso), Môngtexkiơ (Moutesquieu). Đặc
biệt, Người chịu ảnh hưởng sâu sắc về tư tưởng tự do, bình đẳng của Tuyên ngôn
nhân quyền và dân quyền năm 1791 của Đại cách mạng Pháp. Về tư tưởng dân chủ của
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.6, tr. 46.
5
cách mạng Mỹ, Người đã tiếp thu giá trị về quyền sống, quyền tự do và quyền mưu
cầu hạnh phúc của Tuyên ngôn độc lập năm 1776, quyền của nhân dân kiểm soát
chính phủ.
c) Chủ nghĩa Mác - Lênin
Chủ nghĩa Mác- Lênin là nguồn gốc lý luận trực tiếp, quyết định bản chất tư
tưởng Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh khẳng định:
"Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam,
không những là cái "cẩm nang" thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là
mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản"1.
Đối với chủ nghĩa Mác- Lênin, Hồ Chí Minh đã nắm vững cái cốt lõi, linh hồn sống
của nó, là phương pháp biện chứng duy vật; học tập lập trường, quan điểm, phương
pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác- Lênin để giải quyết các vấn đề thực tiễn của
cách mạng Việt Nam.
Các tác phẩm, bài viết của Hồ Chí Minh phản ánh bản chất cách mạng tư tưởng của
Người theo thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin.
d) Phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh
Ngoài nguồn gốc tư tưởng, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh còn chịu sự tác động sâu sắc của thực tiễn dân tộc và thời đại mà Người đã
sống và hoạt động. Chính quá trình hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh ở trong
nước và khi còn bôn ba khắp thế giới để học tập, nghiên cứu và hoạt động đã làm
cho Người có một hiểu biết sâu sắc về dân tộc và thời đại, nhất là thực tiễn
phương Đông để xem xét, đánh giá và bổ sung cơ sở triết lý phương Đông cho học
thuyết Mác - Lênin.
Từ hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã khám phá quy luật vận động xã hội, đời
sống văn hóa và cuộc đấu tranh của các dân tộc trong hoàn cảnh cụ thể của các
quốc gia và thời đại mới để khái quát thành lý luận, đem lý luận chỉ đạo hoạt
động thực tiễn, qua kiểm nghiệm của thực tiễn để hoàn thiện, làm cho lý luận có
giá trị khách quan, tính cách mạng và khoa học.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm hoạt động tinh thần của cá nhân, do Người sáng
tạo trên cơ sở những nhân tố khách quan. Do đó, tư tưởng Hồ Chí Minh phụ thuộc
rất lớn vào các yếu tố nhân cách, phẩm chất và năng lực tư duy của chính người
sáng tạo ra nó.
Không chỉ ở nước ta mà có nhiều chính khách, nhiều nhà hoạt động văn hóa-xã hội
ở nước ngoài đã nêu nhiều ý kiến sâu sắc về nhân cách, phẩm chất, về tài năng
trí tuệ của Hồ Chí Minh. Ngay từ năm 1923, lúc Hồ Chí Minh vào trạc tuổi 33, nhà
báo Liên Xô Ô. Manđenxtam khi tiếp xúc với Hồ Chí Minh đã sớm nhận biết: "Từ
Nguyễn
1. Sđd, t.10, tr. 128.
6
ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa Âu châu, mà có lẽ là một
nền văn hóa tương lai"1. Văn hóa Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh ngày càng tỏa sáng
theo dòng thời gian của dân tộc và thời đại.
Nhân cách, phẩm chất, tài năng của Hồ Chí Minh đã tác động rất lớn đến sự hình
thành và phát triển tư tưởng của Người. Đó là một con người sống có hoài bão, có
lý tưởng, yêu nước, thương dân, có bản lĩnh kiên định, có lòng tin vào nhân dân,
khiêm tốn, bình dị, ham học hỏi, nhạy bén với cái mới, thông minh, có hiểu biết
sâu rộng, có phương pháp biện chứng, có đầu óc thực tiễn, v.v.. Chính nhờ vậy,
Người đã khám phá sáng tạo về lý luận cách mạng thuộc địa trong thời đại mới,
xây dựng được một hệ thống quan điểm toàn diện, sâu sắc và sáng tạo về cách mạng
Việt Nam, đã vượt qua mọi thử thách, sóng gió trong hoạt động thực tiễn, kiên
trì chân lý, định ra các quyết sách đúng đắn và sáng tạo, biến tư tưởng thành
hiện thực cách mạng.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự tổng hòa và phát triển biện
chứng tư tưởng văn hóa truyền thống của dân tộc, tinh hoa tư tưởng văn hóa của
phương Đông và phương Tây với chủ nghĩa Mác- Lênin làm nền tảng, cùng với thực
tiễn của dân tộc và thời đại qua sự tiếp biến và phát triển của Hồ Chí Minh- một
con người có tư duy sáng tạo, có phương pháp biện chứng, có nhân cách, phẩm chất
cách mạng cao đẹp tạo nên. Tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng Việt Nam hiện đại.
2. Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
Nêu rõ sự phân chia các thời kỳ lịch sử tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ giúp chúng ta
nắm được những nội dung tư tưởng cơ bản của Người trong từng thời kỳ, phản ánh
khách quan hiện thực lịch sử và tài năng trí tuệ của Hồ Chí Minh. Vì vậy, tiêu
chí cơ bản để phân kỳ là phải dựa vào nội dung chuyển biến về mặt tư tưởng của
Hồ Chí Minh trong từng thời kỳ lịch sử cụ thể chứ không phải dựa vào mốc thời
gian hoạt động của Người. Chúng ta có thể phân chia thành 5 thời kỳ như sau:
a) Thời kỳ hình thành tư tưởng yêu nước, thương nòi (trước năm 1911)
Đây là thời kỳ Hồ Chí Minh lớn lên và sống trong nỗi đau của người dân mất nước,
được sự giáo dục của gia đình, quê hương, dân tộc về lòng yêu nước thương dân;
sớm tham gia phong trào đấu tranh chống Pháp; băn khoăn trước những thất bại của
các sĩ phu yêu nước chống Pháp; ham học hỏi, muốn tìm hiểu những tinh hoa văn
hóa tiên tiến của các cuộc cách mạng dân chủ tư sản ở châu Âu, muốn đi ra nước
ngoài xem họ làm gì để trở về giúp đồng bào thoát khỏi vòng nô lệ. Trong thời kỳ
này, ở Hồ Chí Minh đã hình thành tư tưởng yêu nước, thương dân, tha thiết bảo vệ
những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc, ham muốn học hỏi những tư
tưởng tiến bộ của nhân loại.
1. Sđd, t. 1, tr. 478.
7
b) Thời kỳ tìm tòi con đường cứu nước, giải phóng dân tộc (1911-1920)
Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước, trước tiên Người đến nước Pháp, nơi đã sản
sinh ra tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái; tiếp tục đến nhiều nước ở châu Âu,
châu Phi, châu Mỹ, sống và hoạt động với những người dân bị áp bức ở phương Đông
và những người làm thuê ở
phương Tây. Người đã khảo sát, tìm hiểu cuộc cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ, tham
gia Đảng Xã hội Pháp, tìm hiểu Cách mạng Tháng Mười Nga, học tập và đã tìm đến
với chủ nghĩa Lênin, tham dự Đại hội Tua, đứng về phía Quốc tế cộng sản, tham
gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Đây là thời kỳ Hồ Chí Minh đã có sự chuyển biến
vượt bậc về tư tưởng; từ giác ngộ chủ nghĩa dân tộc tiến lên giác ngộ chủ nghĩa
Mác- Lênin, từ một chiến sĩ chống thực dân phát triển thành một chiến sĩ cộng
sản Việt Nam. Đây là một bước chuyển biến cơ bản về tư tưởng cứu nước của Hồ Chí
Minh: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường
cách mạng vô sản"1.
c) Thời kỳ hình thành cơ bản tư tưởng về cách mạng Việt Nam (1921 - 1930)
Hồ Chí Minh đã có thời kỳ hoạt động thực tiễn và lý luận sôi nổi, phong phú ở
Pháp (1921-1923), ở Liên Xô (1923-1924), ở Trung Quốc (1924-1927), ở Thái Lan
(1928-1929)... Trong thời gian này, tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam
đã hình thành cơ bản. Hồ Chí Minh đã kết hợp nghiên cứu xây dựng lý luận, kết
hợp với tuyên truyền tư tưởng giải phóng dân tộc và vận động tổ chức quần chúng
đấu tranh, xây dựng tổ chức cách mạng, chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Những tác phẩm như Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Đường Kách mệnh (1927) và
những bài viết của Hồ Chí Minh trong thời kỳ này đã thể hiện những quan điểm lớn
và độc đáo, sáng tạo về con đường cách mạng Việt Nam. Có thể tóm tắt nội dung
chính của những quan điểm đó như sau:
- Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải đi theo con đường cách
mạng vô sản. Giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng nhân dân lao động,
giải phóng giai cấp công nhân, phải kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã
hội.
- Cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có quan hệ mật thiết với
nhau. Cách mạng thuộc địa không lệ thuộc vào cách mạng ở chính quốc mà có tính
chủ động, độc lập. Cách mạng thuộc địa có khả năng giành thắng lợi trước cách
mạng ở chính quốc và giúp cho cách mạng ở chính quốc trong nhiệm vụ giải phóng
hoàn toàn.
- Cách mạng thuộc địa trước hết là một cuộc "dân tộc cách mệnh", đánh đuổi đế
quốc xâm lược, giành lại độc lập, tự do.
- Giải phóng dân tộc là việc chung của cả dân chúng; phải tập hợp lực lượng dân
1. Sđd, t.9, tr. 314.
8
tộc thành một sức mạnh lớn để chống đế quốc và tay sai.
- Phải đoàn kết và liên minh với các lực lượng cách mạng quốc tế, song phải nêu
cao tinh thần tự lực tự cường, không được ỷ lại chờ đợi sự giúp đỡ của quốc tế.
- Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, của cả dân tộc đại đoàn kết. Phải tổ
chức quần chúng, lãnh đạo và tổ chức đấu tranh bằng các hình thức và khẩu hiệu
thích hợp. Phương pháp đấu tranh để giành chính quyền, giành lại độc lập tự do
là bằng bạo lực của quần chúng và có thể bằng phương thức khởi nghĩa dân tộc.
- Cách mạng muốn thành công trước hết phải có đảng cách mạng lãnh đạo, vận động
và tổ chức quần chúng đấu tranh. Đảng có vững cách mạng mới thành công, cũng như
người cầm lái có vững thuyền mới chạy đúng hướng, tới đích. Đảng phải có lý luận
làm cốt...
Cùng với chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng cách mạng của Hồ Chí Minh trong những
năm 20 của thế kỷ XX được truyền bá vào Việt Nam, làm cho phong trào dân tộc và
giai cấp ở nước ta trở thành một phong trào tự giác, dẫn đến sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam ngày 3-2-1930, thông qua Cương lĩnh đầu tiên của Đảng.
d) Thời kỳ thử thách, kiên trì giữ vững quan điểm, nêu cao tư tưởng độc lập, tự
do và quyền dân tộc cơ bản (1930-1945)
Trên cơ sở tư tưởng về con đường cách mạng Việt Nam đã hình thành về cơ bản,
trong mấy năm đầu của những năm 1930, Hồ Chí Minh đã kiên trì giữ vững quan điểm
cách mạng của mình, vượt qua khuynh hướng "tả" đang chi phối Quốc tế Cộng sản,
chi phối Ban Chấp hành Trung ương Đảng, phát triển thành chiến lược cách mạng
giải phóng dân tộc, xác lập tư tưởng độc lập, tự do, dẫn đến thắng lợi của cuộc
Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra đời. Tuyên
ngôn độc lập do Hồ Chí Minh trịnh trọng công bố trước quốc dân đồng bào và toàn
thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước của dân, do
dân, vì dân đã khẳng định về mặt pháp lý quyền tự do, độc lập của dân tộc Việt
Nam. Đây là mốc lịch sử không chỉ đánh dấu kỷ nguyên tự do, độc lập mà còn là
bước phát triển mở rộng tư tưởng dân quyền và nhân quyền của cách mạng tư sản
thành quyền tự do, độc lập của các dân tộc trên thế giới. Nhân dân Việt Nam nêu
cao ý chí để bảo vệ quyền tự do, độc lập của mình. Đó là: ""Tất cả mọi người đều
sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm
được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu
hạnh phúc"... Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế
giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và
quyền tự do"1.
1. Sđd, t. 4, tr. 1. 9
đ) Thời kỳ tiếp tục phát triển mới về tư tưởng kháng chiến và kiến quốc
(1945-1969)
Đây là thời kỳ Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân ta vừa tiến
hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, vừa xây dựng chế độ dân chủ nhân dân
(1945 - 1954) mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ; tiến hành cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Thời kỳ này,
tư tưởng Hồ Chí Minh có bước phát triển mới, trong đó nổi bật là các nội dung
lớn như sau:
- Tư tưởng kết hợp kháng chiến với kiến quốc, tiến hành kháng chiến kết hợp với
xây dựng chế độ dân chủ nhân dân; tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng
khác nhau, đó là cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc nhằm một mục tiêu chung trước mắt là giải phóng miền Nam, thống
nhất Tổ quốc.
- Tư tưởng chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình
là chính.
- Xây dựng quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì
dân.
- Xây dựng Đảng Cộng sản với tư cách là một Đảng cầm quyền v.v..
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh trải qua hơn nửa thế kỷ hình thành và phát triển,
là sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới, là ngọn cờ thắng
lợi của dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do, vì giải phóng
dân tộc và chủ nghĩa xã hội.