Lời nói đầu
Chủ nghĩa thực dân Mỹ đã đẩy biết bao thanh niên miền Nam Việt Nam
vào vũng bùn tội lỗi, trong đó có Trương Sỏi từ một người bình
thường trở thành tướng cướp. Đã nhiều lần, bà con cô bác chìa bàn
tay nhân ái ra để cứu vớt Sỏi, song Sỏi không đủ nghị lực cải tạo
thành người lương thiện. Cho đến tận sau ngày giải phóng miền Nam
Việt Nam, Sỏi vẫn tiếp tục gây tội ác. Và kẻ phạm tội đã bị trừng
phạt. Nhưng cũng từ cuộc đấu tranh chống tội phạm hình sự, chủ nghĩa
nhân đạo cách mạng được thể hiện khá rõ nét qua hoạt động của các
chiến sĩ công an nhân dân.
Chương 1
1
Lại xin bắt đầu câu chuyện này từ một con sông mặc dầu tác giả không
bao giờ muốn lặp lại cái gì mình đã viết.
Đã ngót nghét mười năm, từ 1954 đến khi câu chuyện này xảy ra; cuối
năm 1964, con sông Hiền Lương được quàng vào mình một cái tên mới,
Sông giới – tuyến. Tên mới mà lại rất cũ, cũ mà lại quá mới, như
vành khăn tang mà bất kỳ một ai không thích nó vào đầu cũng thấy
bàng hoàng không tin được một điều bất hạnh khủng khiếp đã xảy ra
với chính mình.
Vào những năm ấy, sông Hiền Lương cũng là nơi thu hút bước chân của
nhiều người. Người ta đến bờ sông này với rất nhiều lý do khác nhau.
Trước hết là bước chân của những nỗi đau, nỗi nhớ, những day dứt và
khát vọng. Có người mẹ từ tít mũi Cà Mau cũng cơm nắm cơm đùm tìm ra
tận nơi để được nhìn thấy màu cờ đỏ sao vàng miền Bắc. Rồi lại những
bước chân khắp năm châu bốn biển tìm về đây như tìm đến một sự thật
lịch sử, một đòi hỏi nóng hổi của thời đại này: độc lập – tự do. Rất
nhiều lý do khác nhau. Trong đó dù không nhiều cũng có những kẻ chạy
trốn. Trốn khỏi một thực tại, một chế độ. Những kẻ đó chẳng còn con
đường nào khác là vượt qua giới tuyến.
Những kẻ vượt tuyến đi từ ngoài Bắc vào, thường thường không dám bám
theo trục đường quốc lộ 1. Vì như vậy rất dễ bị lộ. Họ rẽ lên phía
tây, vượt qua những dãy đồi đất sỏi trập trùng của Quảng Bình mà vào
Vĩnh Linh. Tại đất giới tuyến này, phía tây con sông Sa Lung cũng là
những dãy đồi tràm lúp xúp mênh mông của Vĩnh Chấp, Vĩnh Thủy. Chẳng
có lực lượng công an hay dân quân nào rải cho khắp các khu đồi ấy.
Cho nên những kẻ vượt tuyến may mắn thường lọt được vào tận ngã ba
sông, nơi con nước Sa Lung đổ vào sông Hiền Lương.
Nhưng cái ngã ba sông mà nhiều kẻ đã gọi là “tam giác chết” này, ông
trời đã không dung kẻ phản nghịch. Con sông Sa Lung đang chảy một
cách thong dong theo hướng Bắc – Nam song song với quốc lộ 1, đáng
lý ra nó phải hợp với sông Hiền Lương thành một góc vuông thì có lẽ
tạo hóa đã đoán trước được sự thể những năm tháng này cho nên mới
uốn quặt dòng Sa Lung rẽ ngược lên hướng tây một đoạn khá dài rồi
mới lại ghép vào dòng sông giới tuyến mà quay ngoặt trở lại để ra
biển. Chính cái khúc oái oăm này đã tạo nên cái lưới bẫy. Những kẻ
vượt tuyến thường đi ban đêm, cứ lò dò nhằm hướng nam mà vào. Bên
tay trái họ là dòng Sa Lung chảy xuôi theo hướng họ đi. Trước mặt là
sông giới tuyến giăng ngang. Họ đinh ninh như vậy. Cho nên đến khi
bàn chân chạm phải đoạn sông giăng ngang thì lập tức họ thầm reo lên
trong lòng: Bến Hải, Hiền Lương đây! Thế là nhào xuống. Lặn một hơi
thật dài thì ra được gần nửa sông. Ngoi lên lấy hơi rồi lặn thêm cú
nữa. Đã hai phần ba biên giới rồi. Họ vung tay đạp nước ào ào. Chạm
bờ rồi. Thoát khỏi bàn tay cộng sản rồi. Ơ, sao vượt tuyến lại dễ
dàng đến vậy? Họ lên bờ. Việc đầu tiên là những kẻ đó phải tỏ ngay
tấm lòng mình cho người bờ Nam hiểu kẻo bị bắn oan. Họ, mặc dầu áo
quần còn ướt sũng nước, có khi rét đến cứng hàm, nhưng vẫn rán hơi
rướn cổ gào thật to: “Ngô tổng thống muôn năm”. Và ngoảnh ra bờ Bắc,
nơi đã nuôi họ từ khi chiếc tã còn đẫm mùi hăng hắc cho đến ngày
biết bơi biết lặn, họ hét: “Đả đảo chế độ cộng sản độc tài!”. Đáp
lại tiếng hô của họ là mấy bóng người chạy ra im lặng nắm tay họ kéo
vào một ngôi nhà nào gần nhất. Họ vừa hồi hộp vừa sung sướng vừa hô
líu lưỡi: “Ngô tổng thống muôn năm!”. Đến khi chui vào nhà, ngẩng
mặt nhìn lên bỗng thấy ảnh Cụ Hồ, họ đứng đực ra như cây sú chết
cháy. Cụ Hồ vẫn cười hiền từ nhìn họ. Còn chủ nhà, có lẽ đã quá quen
với cảnh này nên khoát tay chỉ ra ngoài và giới thiệu bằng một giọng
tự nhiên đến mức sởn cả gáy: “Các bác hô khẩu hiệu khí sớm. Sông
Hiền Lương phía trước nớ tề!”. Dĩ nhiên sau đó số phận những kẻ dại
dột ấy thế nào, có lẽ ai cũng đoán được.
Đêm nay, đêm tháng chạp 1964, có một kẻ vượt tuyến khôn ngoan đã
không lặp lại tất cả những gì mà những kẻ ngờ nghệch trước đây đã
mắc phải. Mặc dù, nếu không nhầm, thì đây là người vượt tuyến nhỏ
tuổi nhất. Mới bước vào tuổi mười sáu. Nhưng hơn tất cả những kẻ rủi
ro trước đó (có khi là những tên gián điệp đã gần ba chục năm làm
nghề), anh ta đã sinh ra, lớn lên ngay trên đất giới tuyến này. Cái
khúc ngoặt trớ trêu của dòng Sa Lung đối với anh lại đơn giản như
một bờ giậu qua nhà hàng xóm. Vả lại anh ta chẳng dại gì mà chọn
hướng ấy để vượt.
Khôn ngoan trước luồng lạch của dòng sông, nhưng trong cuộc sống anh
lại ngờ nghệch hơn tất cả những kẻ khác. Ngờ nghệch đến mức để cuộc
sống của mình dấn vào đêm nay, chỉ vì cuộc cãi vã với thằng bạn giữ
trâu. Thằng bạn ấy anh có ghét gì nó đâu, ngược lại, anh đã quí mến
nó suốt cả thời thơ ấu. Nó chậm chạp hơn anh trong việc đi trâu,
kiếm củi. Những nắm cơm đem theo ăn trưa ở bãi trâu, góp chung lại,
nó thường dồn cho anh ăn những miếng khoai nhiều bột hơn hay miếng
dừa kho béo ngậy. Thằng bạn ấy trọng nể anh vì anh khỏe mạnh hơn,
xốc vác hơn trong việc giữ trâu, kiếm củi. Bao lần anh dồn thêm cho
nó bó củi đầy đặn, và cũng bao lần anh bươn qua gai góc rú Linh để
tìm lại con bò đực của nó hay đứt chạc chạy ròng... Vậy đấy, mà buổi
trưa nay không hiểu sao nó lại cãi bướng Lạng. Đã vô ý đạp vỡ cái
ống sáo Lạng mới khoét được, lại còn làm bướng. Cái sáo tiếng đẹp
làm sao, cứ ghé miệng vô là tuôn ra những âm thanh thật tròn, ai
nghe cũng thấy khoái! Lạng chỉ đẩy vào vai nó, mắng “thằng đui”. Vậy
là nó ngã lăn ra, ôm ngón chân vấp phải cục đá la làng, rồi chửi
Lạng “Đồ con nhà địa chủ ăn xương ăn máu người ta”... Lấy hòn đá mà
đập vào đầu Lạng còn hơn chửi Lạng như vậy. Lạng thấy nhói buốt từ
đầu đến chân. Anh quay lưng, cúi nhặt ống sáo dập, dùng tay bẻ vụn
nát cả ra, rồi lẳng lặng đi tới một bụi sim, gục mặt vào đầu gối,
ngồi suốt buổi chiều. Buổi chiều nặng nề quá đối với đời Lạng. Nặng
quá, nặng đến mức không chịu nổi, và ý định trốn biệt khỏi cuộc đời
– như Lạng nghĩ là cách tốt nhất – đã dẫn anh đến cái đêm ra đi!
Trên dòng Hiền Lương có những điểm tưởng rất lỏng lẻo, chính lại là
nơi hiểm nghèo nhất. Ngược lại, có những khúc bề ngoài có vẻ canh
phòng chắc chắn nhất lại là nơi khả dĩ có thể lọt lưới hơn cả. Chỉ
người ở ngay đất này mới tìm ra ẩn số ấy. Và anh ta, công dân Hoàng
Lạng, đã lọt qua các khe hở của các cửa trận một cách không đến mức
căng thẳng.
Sự căng thẳng đối với Lạng lại diễn ra ở một phía khác.
Khi làn nước lạnh của dòng sông Hiền Lương ngoạm vào chân anh ta thì
một cảm giác tê buốt như lưỡi gươm xuyên lạnh khắp người Lạng. Mới
mười sáu tuổi đầu. Trái tim anh, tấm lòng anh, cả trí não anh nữa,
đang bị dòng nước lạnh siết vào. Bàn chân ngập ngừng, tê cóng. Mặt
sông đang tràn bóng tối. Bao nhiêu mạo hiểm đang chờ. May mắn hay
bất hạnh?
Phía cửa biển, gió hú dài những chuỗi âm thành lâm ly, ghê rợn. Mấy
bóng điện bên bót gác bờ Nam chập chờn, ma quái. Lạng cắn chặt vành
môi. Anh nghe rõ con sông đang sôi trong tâm khảm mình. Sóng đập vào
trí não, rồi dội xuống trái tim, trái tim lại dồi lên trí não. Âm
thanh cứ nhại đi nhại lại như tiếng gọi dội vào vách núi đá: “Vượt
đi!”, “Dừng lại!”, “Vượt đi!”, “Dừng lại!”.
Một thanh niên 16 tuổi – không, phải nói chính xác là 15 tuổi 7
tháng – dám bỏ nhà, bỏ quê, bỏ hết bạn bè mà ra đi, tới một nơi
không hề biết trước, không hề có chút bảo đảm nào. Chỉ thế thôi,
cũng đã thấy sự liều lĩnh đến mức nào. Huống chi nơi đó lại là bên
kia tuyến, là một chế độ khác, một thế giới khác, một cõi trời đối
lập. Mà sự đối lập nào phải ở phong tục, tập quán, hay sự khác biệt,
may ra.... Không. Đây là đối lập của súng, là chết hoặc sống. Là cõi
trần hay địa ngục. Là kiếp người và kiếp thú. Nói tóm lại, một sự
khác biệt mà không thể nào tưởng tượng ra nổi.
Dòng nước tê tái làm liệt dần cái bối rối hầm hập trong tim anh. Sự
liều mạng thường quá đà và trượt dài trong mù quáng. Cả thân người
anh đã ngâm xuống nước. Trái tim như đóng băng. Anh bơi, run rẩy và
vụng trộm. Tiếng nước roóc reéc như cố tình mách lẻo. Da thịt anh
không còn cảm giác. Cái sức lực bẩm sinh của một câu bé chăn bò, đá
bóng, được bọc trong lớp da đen bóng như mạ đồng, bỗng tiêu tan quá
nửa vào nước. Chưa bao giờ anh thấy mình yếu đuối như lúc này, có
những lúc Lãng ngỡ như không khoa tay lên được nữa. Cả cơ thể chìm
xuống. Anh nín thở mặc kệ. Thôi thì chìm đi. Thà như thế còn hơn...
Nhưng rồi cái cơ thể lại nổi lên. Anh vẫn tham sống, mặc dầu cuộc
sống phía trước rồi sẽ ra sao, anh không hình dung nổi... Cố bơi, cố
nữa... anh đã đến giữa sông...
“Hay là quay lại?!”. Ý nghĩ bất chợt ùa đến dữ dội như một cơn lốc.
Quay lại! Trở về với đàn bò mộng mà hợp tác xã vẫn giao cho anh giữ.
Trở về với bãi cỏ trảng phoóc và con đường đất đỏ 12 thơm ngát hoa
chạc chìu. Trở lại với những đêm chiếu bóng trên sân Ủy ban kìn kịt
người xem. Những đêm ấy, anh vẫn vào buồng chiếu xin được hát một
bài. Bài hát “Chiếc khăn piêu thêu chỉ hồng...” rất hợp với giọng
nam trung của anh...
Ý muốn như cơn lốc, nhưng cơn lốc chỉ xoáy tại chỗ, còn thân hình
của anh vẫn chầm chậm trường lên phía trước. Đã hai phần ba sông...
Rồi chỉ cách bờ Nam sông khoảng bảy thước. Lạng hiểu, đã đến thế
giới bên kia rồi. Ở con sông giới tuyến, sự phân chia rất chia rất
chi li. Từ bờ sông ra bảy mét là phần nước bất khả xâm phạm của mỗi
bên. Từ bảy mét ra giữa sông là địa phận có sự quan sát, chịu trách
nhiểm của cả phía bên kia. Anh đã vào vòng bảy mét. Anh đã hoàn toàn
thoát khỏi tầm tay của Công an miền Bắc. Bàn chân chới với trong
lạch nước đục. Bàn chân chạm bùn. Lạng cố chòi lên. Hai tay với ra
níu lấy một ngọn me. Thế là hết. Vĩnh biệt!
Anh không đủ sức quay lại dù chỉ một giây. Cả tấm thân tê cóng phủ
phục xuống bùn. Nhưng anh vẫn biết. Sau lưng mình là miền Bắc, là 15
năm của tuổi thơ, của một thời đã sống. Vĩnh biệt! Đột nhiên anh
khóc. Khóc trong ngập ngụa bùn lầy.
Mới hôm qua thôi... Thằng bạn chăn bò cùng xóm với anh đã đèo anh
bằng xe đạp (nó mượn của ông anh rể) lên xem đội tuyển văn nghệ
huyện. Họ diễn một vở kịch xảy ra trên sông này. Đầu đề kịch là
“Chiếc nón trôi sông”. Một chiếc nón vô tình bị gió hất ra giữa nước
và trôi giạt từ bờ này qua bờ kia. Chiếc nón trở thành mối bận tâm
của bao nhiêu người. Giờ đây, anh không bằng chiếc nón. Chẳng ai bận
tâm đến anh. Không săn đuổi, chẳng lùng bắt và cũng không hề đón
tiếp. Anh cắm mình lên bờ Nam như một cành củi mực ngẫu nhiên dạt
vào.
Mới sáng nay thôi... Thằng Hợp con thím Sinh còn khoét giúp cho Lạng
một ống sáo bằng tre lồ ô. Chẳng hiểu vì lí do gì mà cả nhà thằng
Hợp đều thương yêu Lạng như con đẻ. Thậm chí Lạng có nhiều nét giống
Hợp nữa. Có khác chăng là tính nết. Anh lầm lì ít nói, còn Hợp thì
mặc dù chỉ kém anh có một tuổi nhưng nhí nhảnh như trẻ lên mười. Bây
giờ thì cái ống sáo vẫn nằm nguyên trên đầu giường Lạng. Anh rất
thích thổi sáo, nhưng chẳng mang sáo theo. Anh cố tình không mang
theo gì. Cố tình gạt mọi quá khứ ở lại. Nhưng quá khứ cứ đeo đẳng
trong đầu anh.
Mới trưa nay thôi... Rồi mới chiều nay thôi... Tất cả chỉ mới đó
thôi, mà bỗng xa lắc xa lơ y như kiếp trước vậy. Phải rồi, tất cả là
kiếp trước. Đã thế còn gì mà sợ hãi? Có gì nữa mà băn khoăn. Lạng
chống tay cố vùng dậy. Kiếp trước!... Ồ, hóa ra đã qua một kiếp rồi
cơ đấy... Ta đang lao vào cõi âm phủ chăng? Nào, tiến lên!... Lạng
thường nghe kể về cõi âm ti, rằng phải đi qua một con sông, có con
chó chín đầu canh cửa... Bất giác anh rùng mình. Hình như có tiếng
chó sủa thật. Đúng rồi. Tiếng chó bất ngờ dậy ran khắp bốn phái.
Chao ôi là chó. Ngỡ như tràn trề bốn phía đều là chó. Hai chân Lạng
như bị đóng đinh tại chỗ. Cả thân hình run lên và cứng đờ lại khi
đột ngột có một ngọn đèn pha quét thẳng vào. Thế rồi ào ào, người
chó lẫn lộn, tất cả từ bốn phía nhào đến:
- Đứng im! Đưa tay lên! Đằng sau quay!
Lạng không còn hiểu mình có làm theo những mệnh lệnh ấy không? Hình
như có thì phải. Bởi vì anh vẫn còn một chút cảm giác để nhận ra
rằng mình đã quay mặt lại phía Bắc. Và vẫn cái giọng lúc nãy phả ra
sau gáy anh.
- Anh là ai?
Lạng nín lặng. Mình là ai? Ủa, là ai nhỉ? Trước mặt anh bây giờ lại
là miền Bắc. Nếu còn ở đó thì chẳng ai hỏi mình câu vừa rồi, bởi lẽ
mình tồn tại trước mặt mọi người như một lẽ đương nhiên. Còn bây
giờ, ở đây, mình là gì? Chẳng lẽ nói là xã viên hợp tác xã, không lẽ
xưng rằng chiến sĩ dân quân... Không là gì cả. Ở đây, những gì tồn
tại bấy lâu ở anh hoàn toàn không có giá trị. Anh không còn là anh
nữa rồi.
- Trả lời ngay, mày là ai? Nói ngay, mày là ai?
2
Cái lai lịch rườm ra của Lạng có những chỗ cũng oái oăm như khúc
ngoặt nơi ngã ba sông này vậy. Cho đến cái tuổi đã thành niên rồi mà
anh ta cũng không tự hiểu hết cội rễ của mình. Nhưng ở cái làng đất
đỏ Vĩnh Hòa này thì nhiều người biết. Một trong những người thấu tỏ
cái lai lịch rắc rối ấy chính là tác giả câu chuyện này.
Ở trong cái phủ Vĩnh Linh cũ thì mấy làng đất đỏ ba - zan là những
nơi ăn ra làm được nhất. Xã Vĩnh Hòa xưa kia gọi là làng Liêm Công.
Làng này được chia ra hai cánh mà một thầy địa lý nổi tiếng đã gọi
là hai cánh của một con dơi. Con dơi bay chập choạng trong bóng tối
tìm cái ăn. Cả làng Liêm Công từ đời này qua đời khác cũng đúng như
vậy. Tuy nhiên ở mỗi cánh cũng nổi lên vài ba con người đáng được
gọi là giàu có, và đó là hiện thân cho quyền lực cả làng. Đại diện
cho cánh ngoài là dòng họ Lê Văn, không giàu lắm nhưng lúc nào cũng
nắm các chức vị hương, hòa, lý, mục. Còn tiêu biểu cho cánh dơi phái
trong là họ Hoàng, có thể nói là bồ thóc rương tiền của cả vùng đất
đỏ. Đại diện cho sự giàu có của họ Hoàng là gia đình Hoàng Ất. Người
đời nay còn truyền lại rằng, cái chuồng bò của nhà Hoàng Ất đông đến
mức những người làm thuê thỉnh thoảng dắt trộm một con ra ngoài đồi
giết thịt, mà Ất chẳng hay biết gì. Bởi có khi ngay bò trong chuồng
cũng giẫm đạp lên nhau mà chết. Mỗi bận lấy phân chuồng người ta kéo
ra hàng rổ xương bê con.
Họ Hoàng giàu đến vậy nhưng chưa một lần nào nắm được chức lý
trưởng. Cái quyền lực của họ Hoàng không phải là quyền cai trị mà
quyền của thúng thóc, đồng tiền. Người ta đồn rằng Hoàng Ất có một
con bò Ô khôn ngoan chẳng kém gì chủ. Những nông dân nghèo đến thuê
bò cụ Ất về cày ruộng mình bao giờ cũng được Hoàng Ất răn dạy từ
trước: “Mày thuê cày nhiều hay ít phải nói cho thật, đừng có cày
nhiều nói ít con Ô nó chẳng chịu đâu”. Nghe nói có người cày tấm
ruộng hai sào mà nói dối là sào rưỡi. Đến khi cày được hai phần ba
tấm thì tự nhiên con Ô đứng lại, cúi đầu xuống dùng sừng hất cái ách
ra khỏi cổ. Người thợ cày nhảy tới định khoác lại ách thì lập tức bị
con Ô húc cho một phát bổ chửng ra giữa ruộng. Chuyện đó chẳng rõ
thực hay hư, nhưng một đồn mười, mười đồn trăm, cả cái làng Liêm
Công này đều sợ oai con Ô đến mức trước khi đi đến nhà Hoàng Ất thuê
bò cày, ai cũng phải vác sào ra đo lại ruộng.
Quyền hành đến là vậy, nhưng Hoàng Ất vẫn không mãn nguyện. Cụ cay
cú vì chưa bao giờ nắm được chức lý trưởng. Thế rồi đến một năm nọ,
đúng vào diup làng chuẩn bị tiêm (1) lý trưởng mới. Hoàng Ất khăn
gói lên vai tìm vào tỉnh. Chẳng ai rõ chuyến đi ấy có chuyện gì xảy
ra. Chỉ biết độ mười hôm sau, có motọ ông quan Tây về làng trực tiếp
tiêm lý trưởng.
Thực là hài hước, bởi ông quan Tây này là một lái buôn. Đi theo ngài
là một thông ngôn mắt lé. Về đến làng, thông ngôn thay mặt quan
truyền lệnh: “ Để mừng quan Tây hạ cố về làng, dân làng phải đem nạp
một hộ 5 kg mảnh bát sứ cổ Trung Quốc”. Thế là cả làng sục tìm khắp
gốc tre bờ giậu. Có nhà bí quá phải đập vỡ những bát ăn cơm của nhà
ra để lấy mảnh.
Sau đó cũng chính ngài thông ngôn nói với lý trưởng: “Hãy chọn một
gia đình sang trọng nhất để cho quan nghỉ lại”. Lý trưởng họ Lê Văn,
trước hết muốn mời quan về nhà mình. Nhưng mới đảo mắt nhìn qua,
ngài thông ngôn mắt lé đã lắc đầu quầy quây: “Nhà cửa gì ông mà gớm
ghiếc thế này, quan ở làm sao được!”. Lý trưởng thẹn cháy mặt nhưng
đành cắn răng chịu. Ông dẫn ngài thông ngôn đi suốt tám nhà giàu có
của họ Lê Văn, nhưng đến đâu ngài thông ngôn cũng bĩu môi: “Hừ, quan
Tây chứ có phải lợn cỏ đâu mà các ông cho ở những cái chuồng này”.
Cả họ Lê Văn thở dài sườn sượt. Cuối cùng chính thông ngôn phải nói
toạc ra: “Tôi nghe nói làng này có nhà ông Hoàng Ất giàu lắm kia
mà?”. Cả họ Lê Văn trố mắt kinh ngạc vì không hiểu bằng cách nào mà
quan tỉnh lại biết được. Cực chẳng đã, họ phải dẫn quan trên vào
làng trong. Vừa bước chân đến nhà Hoàng Ất, ngài thông ngôn đã reo
lên: “Có thế chứ, tốt lắm! Chỗ này rất vừa lòng quan Tây”.
Thế là “cánh dơi” trong nhờ có họ Hoàng mà rước được ông mũi lõ vào,
mặc dầu ông quan nước mẹ này hầu như chẳng quan tâm gì tới chuyện
đó. Hai con mắt đùng đục đồng thau của ngài chỉ chằm hẵm vào đống
mảnh sứ mà dân mang đến đổ đầy sân Hoàng Ất. Mọi việc giao dịch ở
tay thông ngôn.Vài người tò mò nhìn vào thì thấy quan Tây có rút
tiền ra giao cho thông ngôn. Nhưng sau đó thông ngôn lại “dịch” ra
rằng: “Ngài rất hài lòng về món quà của dân làng. Ngài rất cám ơn”.
Hóa ra ngôn ngữ bên Pháp với ngôn ngữ bên ta khác nhau đến mức ấy.
Đưa tiền ra, nghĩa là xin cám ơn. Không trách gì mà phải cần phiên
dịch.
Cả làng, chỉ mình Hoàng Ất là hiểu thấu đáo mọi chuyện. Ngài thông
ngôn được một món tiền to. Để đổi lại, ngài thông ngôn “dịch” lại
lời quan Tây rằng: “Lý trưởng của một làng phải là người đại diện
cho bộ mặt của làng, phải nói là nơi sang trọng nhất, danh giá nhất.
Vì vậy, quan trên thấy lần này cần thiết phải bổ nhiệm ông Hoàng Ất
thay chức lý trưởng”.
Thế là lần đầu tiên chức lý trưởng và tiếp sau đó là các chức vị
khác rơi vào tay họ Hoàng. Mà kể ra thế mới xứng đáng với đống mảnh
sành mảnh sứ kia chứ.
Hoàng Lạng ra đời trong ngôi nhà sang trọng của Hoàng Ất vào những
năm mà cái chức lý trưởng đã không còn nữa vì Mặt trận Việt Minh và
chính quyền cách mạng kháng chiến đã khống chế toàn xã. Nhưng quyền
lực của Hoàng Ất thì chưa mất.
Ngay từ ngày còn nằm trong nôi, Lạng đã không được Hoàng Ất âu yếm.
Điều đó Lạng chỉ biết sau này, khi mà toàn bộ cơ ngơi của Hoàng Ất
đã tan tành. Nhưng mẹ anh thì hiểu rõ ngay từ khi còn mang con trong
bụng. Bởi thực ra, cái thai đó không phải là giọt máu của họ Hoàng.
Câu chuyện trớ trêu này có dính dáng đến bò Ô.
Trong làng có anh tợ cày tên là Ngô Sĩ Học, thân hình lực lưỡng,
nhưng tính khí hay bông đùa, hài hước. Nhưng mọi chuyện “bông đùa”
của Học không bao giờ không có mục đích. Ví dụ có lần cả đám thợ
làng đi gặt thuê cho nhà Hoàng Ất, nghe người bạn than thở về chuyện
đói kém, Học đã quẳng cả hai bó lúa trên vai mình vào bụi và bảo bạn
chờ tối trời hãy gánh về nhà. Cả đám trai làng sợ hết hồn, nhưng Học
vẫn ung dung tuyên bố: “Miễn là đừng đứa nào phản tao là được”. Một
anh bạn nói: “Ai phản mày, nhưng chốc nữa lấy lúa đâu mà nạp cho lão
Ất?”. Học vẫn đủng đỉnh: “Đừng lo, chỉ cần chúng mày đừng có về
sớm”. Cả đám thợ gặt chờ cho đến nhá nhem tối mới hộc tốc gánh lúa
chạy qua hè nhà lớn đổ vào sân sau của Hoàng Ất. Một người đầy tớ
của Ất đứng ở đầu hè đếm số gánh. Đám thợ gặt theo mưu của Học chạy
liền nhau thành một hàng. Học chạy gần cuối. Hai đầu đòn xóc của anh
cắm vào hai bó lúa của người chạy trước và chạy sau. Cứ thế Học cũng
chạy, nhún nhảy như gánh nặng. Loáng thoáng trong hoàng hôn, người
đầy tớ nhìn lướt đám thợ gặt chạy hùng hục qua trước mặt, ai cũng
nặng trĩu hai bó lúa trên vai. Chẳng hơi đâu mà đếm. Hai mươi tám
người gặt thì hẳn là hai mươi tám gánh còn gì nữa. Đám thợ gặt sau
khi ra khỏi nhà Hoàng Ất đã ôm nhau cười đến muốn vỡ bụng.
Học nghe thiên hạ đồn về con bò Ô của Hoàng Ất, anh không thể tin
được. Một bữa anh đến gặp Hoàng Ất:
- Thưa ông, cháu có mười thước ruộng, cháu xin ông cho thuê con Ô
một buổi.
Hoàng Ất nhìn Học một hồi lâu vẫn chưa thấy ừ hữ gì. Học lại cất
tiếng:
- Thưa ông, cháu...
Thực ra Hoàng Ất chỉ hơn Học độ dăm tuổi là cùng. Nhưng vì ý thức
đầy đủ về vai trò kẻ cả trong làng nên không bao giờ Ất trả lời ngay
bất cứ một lời hỏi thăm nào. Ất rất thích nghe đi nghe lại nhiều lần
những câu thưa bẩm.
- Thưa ông, cháu chỉ có mười thước ruộng...
Đến đây Hoàng Ất mới gật đầu:
- À, anh thuê bò hả. Nhưng ruộng nhà có bao nhiêu?
- Dạ, tấm ruộng sát bên cạnh ruộng chân đê của ông đấy. Đúng mười
thước ạ.
Hoàng Ất cũng biết ruộng của Học. Nhưng gần như là thói quen hắn răn
dạy:
- Thôi được, Nhưng con Ô nó khó tính lắm đấy. Đừng có nói dối.
Sáng hôm sau Học đến nhận bò, Hoàng Ất vỗ nhẹ vào lưng con Ô, ân ái
như nói với con:
- Này Ô, sáng nay cày giúp cho thằng Học mười thước ruộng nhé. Nhớ
là mười thước, chưa tới một sào đấy nhé!
Học nhận bò về, anh nhảy qua nhà người bạn nghèo bên cạnh và bảo:
- Này, sáng nay mày ra trổ nước vào ruộng, tao cày giúp cho.
Người bạn còn đang ngơ ngác thì học nháy mắt cười. Anh lùa con Ô qua
ruộng người bạn trước. Tấm ruộng ấy cũng gần bằng tấm của Học. Anh
cày xong quay lại bừa. Bừa thật kỹ ruộng bạn rồi để nguyên ách trên
cổ bò, anh dong qua ruộng mình. Lại cày xong tấm ruộng của anh. Con
bò mệt phờ thở phì phò nhưng mỗi lần muốn dừng nghỉ thì lập tức roi
mây Học giáng xuống... Bò Ô đành phải rán ruột kéo.
Chuyện ấy sau đó lại được đám trai làng truyền tụng cho nhau trong
tiếng cười đến chảy nước mắt. Dĩ nhiên tiếng cười hả hê đó cuối cùng
cũng lọt đến tai bà Ất.
Bà Ất, dân làng từ xưa vẫn gọi thế bởi sợ oai ông Ất – thực ra đấy
là một người đàn bà vừa trẻ, vừa đẹp lại nết na. Bà tên là Lành, bố
là một thầy đồ (còn ông nội là một vị quan đô đốc bất mãn với triều
đình bị bãi chức). Cái nết na của bà Lành chính là cái khuôn phép
nhà nho mà cả dòng họ của bà truyền nối lại. Bà lọt vào ngôi nhà
Hoàng Ất thực như là bông hoa nhài cắm bãi cứt trâu vậy.
Từ khi nghe lọt chuyện mướn bò của Học, ông Ất căm lắm. Phải như
thời trước cách mạng, hắn Học đã phải đi phu cho đến trọc nhẵn tóc
trên đầu rồi. Nhưng giữa thời buổi này, cái thế du kích bí mật mạnh
lắm. Ất giận nhưng phải nín thinh. Còn bà Lành cố để ý xem xem người
thợ cày đáo để ấy là ai. Thế rồi bà phát hiện ra Học trong đám người
làm thường lui tới. Cuộc đời thật trớ trêu, chẳng ai có đủ thì giờ
mà dò la thóc mách xem vì lẽ gì mà một bà quyền uy như vậy lại đi mê
chàng trai cày lém lỉnh. Bà Lành hết sức bịt kín mọi chuyện mặc dầu
tiếng đồn ngày một inh ỏi. Ông Ất cũng biết, nhưng phần thì sợ oai
du kích, phần thì sĩ diện với chức lý trưởng, ông đành giả điếc giả
câm. Còn bà Lành lại càng không dám để giống dòng nho gia của mình
bị bôi nhọ. Thế nên Lạng sinh ra, tuy không được bố và các anh chị
yêu quý, vẫn phải mang dòng họ Hoàng.
Nếu cuộc đời cứ thế mà bình lặng trôi qua thì có lẽ cũng chẳng có gì
đáng nói. Nhưng bởi con người ta, tham vọng quyền lực là một bản
năng không giới hạn. Năm 1953, một trận càn lớn của Pháp đổ ập về
Vĩnh Hòa. Trước sức ép quá lớn của hai tiểu đoàn lê dương, dân quân
du kích phải tạm rút vào rú Lĩnh. Pháp chiếm cả xã ba ngày. Trong ba
ngày đó, đám hương hòa, lý mục cũ mới háo hức ngóc đầu dậy. Biết bao
nhiêu cơ sở cách mạng bị bắt giết. Đất đỏ Vĩnh Hòa càng đỏ thêm vì
máu người, mãi mãi về sau, người dân Vĩnh Hòa vẫn nhắc về năm 1953,
năm máu.
Qua ba ngày, Pháp rút đi. Dân quân lại trở về. Dĩ nhiên nợ máu phải
đổi bằng máu. Cái đầu của Hoàng Ất đã rơi xuống trong một đêm tháng
Sáu. Gió Lào rú trên trảng Cồn. Bắt đầu từ đó, cái vinh quang của họ
Hoàng chấm dứt.
Kháng chiến thắng lợi. Người dân Vĩnh Hòa ai ai cũng háo hức đón
chào cuộc đời mới. Suốt những năm cải cách ruộng đất rồi tiến lên
thành lập hợp tác xã, câu bé mới bước vào tuổi thiếu niên ấy đã bị
một mặc cảm nặng nề, rằng mình là con của cường hào bị cách mạng
chém cổ. Càng lớn thêm một tuổi, sự mặc cảm càng lớn thêm ra. Lạng
thường thui thủi một mình, học hết lớp bốn thì bỏ học. Lạng tự nghĩ
có học cũng vô ích. Lạng nhận một đàn bò hợp tác để chăn. Ngay cả
với công việc chăn bò Lạng cũng tự tách mình ra, không muốn chơi
chung với bạn bè trong xóm.
Các bạn đội viên thiếu niên cũng như các anh chị lớn tuổi biết rất
rõ tâm trạng của Lạng, nên ai cũng nghĩ tìm cách gần gũi lôi kéo
Lạng hòa vào với tập thể. Đặc biệt là gia đình ông Học, bà Sinh nhà
ở ngay đầu xóm, nơi mà Lạng thường lùa bò ra bãi rồi vào đấy leo
cây, hái quả, đã hết sức chiều chuộng Lạng. Thằng Hợp con đầu của
ông Học quý Lạng như anh em ruột. Nhờ thế mà dần dần Lạng cũng vui
lên. Nó đá bóng chung với bọn trẻ, lại còn tập văn nghệ nữa. Ai cũng
khen Lạng có giọng hát hay. Và những đêm đội chiếu bóng về xã, lạng
vẫn cao hứng cầm mic – cơ – rô hát dõng dạc bài “Chiếc khăn
piêu...”.
Đầu năm 1964, Lạng tròn 16 tuổi. Cuộc chiến tranh phá hoại của thằng
Mỹ bắt đầu bùng nổ ở một vài điểm ngoài Bắc. Đất Vĩnh Linh, nơi tiếp
giáp đối đầu của hai miền bắt đầu sôi lên như biển động. Mặc dầu đã
được chuẩn bị kỹ suốt mười năm nay, nhưng khi bước vào ngưỡng cửa
của chiến tranh, tất cả mọi vấn đề, mọi lĩnh vực đều phải được xem
xét lại, củng cố thêm một bước. Vì thế những người trước đây có dính
dáng đến tề ngụy đều được triệu tập đi học thêm một lớp mới. Trong
số này không có Lạng, mặc dù Lạng đã đến tuổi có trách nhiệm trước
pháp luật.
Mặc dù không bị gọi đi học, nhưng sự kiện này cũng làm Lạng mất ăn
mất ngủ mấy ngày liền. Cái quá khứ bấy lâu được chôn vùi nhờ cuộc
sống sôi nổi trẻ trung và thân ái của hòa bình trên đất tuyến này
đột ngột bị khuấy lên bởi tiếng bom của chiến tranh ập đến. Với cái
tuổi thanh niên, Lạng bắt đầu biết nghĩ nhiều. Người ta chưa gọi đến
mình, nghĩa là cái án vẫn còn treo lơ lửng đó – Lạng nghĩ vậy. Cuộc
đời làm sao vui được khi trên đầu mình cứ trìu trĩu món nợ truyền
kiếp? Mình đã được kết nạp vào dân quân, nhưng biết đâu đó là cái
bẫy để cột chặt mình hơn? Chắc chắn mình sẽ không được đi bộ đội. Sẽ
không đi công nhân, không thể làm cán bộ. Không là gì cả. Mà ở cái
đất này, như thế thì có khác gì một tên tù bị giam lỏng?
Chao ôi là lý sự. Trên đời này người ta tiến cũng nhờ lý sự mà tụt
dài, tụt mãi cũng bởi lý sự. Cái tư duy ích kỷ ấy đã gây biết mấy
tai ương cho con người. Và Lạng chàng trai mười bảy tuổi đầy lý sự
đó đã khẳng định đời mình là một tên tù bị giam lỏng. Đã bị giam thì
phải phá tù. Phải phá cũi, sổ lồng thôi... Cái kết cục nghe ra thật
quá đơn giản.
3
Khác hắn với mọi sự tưởng tượng của Lạng, anh đã không được đón tiếp
một cách hồ hởi, nhiệt liệt theo kiểu “những người thoát khỏi gông
cùm Cộng sản trở về với chánh nghĩa quốc gia”. Cũng không bị hỏi
cung một cách căn vặn, mặc dù Lạng đã mất mấy đêm sắp đặt các câu
trả lời.
Một sĩ quan già, người khô đét như thanh nứa đã giao cho Lạng một tờ
khai có mẫu in sẵn: Họ tên, ngày sinh tháng đẻ, tên ông bà bố mẹ,
nghề nghiệp, đoàn thể, vân vân. Đại loại là những điều mà Lạng có
thể ghi một cách tự tin thoải mái, không phải đắn đo, cân nhắc gì.
Nạp bản tự khai cho người sĩ quan già rồi, Lạng được an nghỉ trong
một phòng hẹp, mái lợp tôn, cách biệt với trại lính. Quan sát kỹ thì
thấy đây là một ngôi nhà độc lập, có lẽ gọi là phòng giam thì đúng
hơn. Xung quanh nhà không được vệ sinh sạch sẽ như dãy trại lính.
Trong phòng kê một chiếc giường sắt, có màn che muỗi. Kể ra không
đến nỗi như tù. Lạng hồi hộp đến thắt cả ruột, không thể nào đoán
nổi số phận của mình rồi sẽ ra sao. Một ngày trôi qua, yên tĩnh. Lại
ngày nữa, vẫn thế. Rồi ngày thứ ba chẳng có gì khác cả. Không có ai
tra khảo căn vặn gì, cũng chẳng ai săn đón vồ vập. Lạng sống bồng
bềnh trong trạng thái mụ đầu như thể ở trong bình chân không. Bản
tính lầm lì xưa nay cũng không đủ sức giúp anh chịu đựng. Lần đầu
tiên anh khao khát được nói, được hét vang lên, bô bô kể chuyện hoặc
thậm chí có thể cãi nhau. Nhưng ở đây, ngay cả chuyện cãi nhau cũng
không có đối thủ.
Cũng chưa có sự khởi động nào đủ làm cho anh bừng tỉnh để nhận ra
hai chữ phản bội. Không, với anh có gì đâu mà phải day dứt chuyện
ấy. Anh ra đi như con nước bị nghẽn dòng tìm lạch để thoát. Vả lại
ngay từ những ngày sống trên đất Bắc, anh đã tự tách mình ra khỏi
mọi người, tự đối lập mình với chế độ. Thế nghĩa là anh không phản
bội ai, anh chưa hề thề thốt với ai cả... Cách lý sự ấy đã giúp Lạng
ngay từ phút đầu dám cất bước ra đi. Còn bây giờ, trong trạng thái
mơ hồ này đầu anh như đặc lại. Anh chẳng nghĩ thêm được gì hết.
Sáng ngày thứ tư, viên sĩ quan già trở vào phòng của Lạng. Lạng nín
thở chờ đợi. Còn viên sĩ quan thì bình thản y như họ vẫn gặp nhau
thường xuyên từng giờ.
- Anh bạn trẻ thân mến ạ, tôi rất lấy làm buồn bởi vì anh đã không
khai thật...
Lạng chồm người lên:
- Về điểm gì?
Người sĩ quan khoát tay:
- Những điểm cơ bản nhất trong hồ sơ.
- Không, thưa ông, tôi xin cam đoan là tôi đã khai đúng...
Giọng viên sĩ quan vẫn dửng dưng không hề nâng lên hoặc hạ xuống:
- Cái đó tùy anh. Chúng tôi mong lần sau được nhận ở anh những lời
khai thành thực.
Nói rồi y đứng dậy đi ra khỏi phòng với một dáng vẻ thanh thản sau
khi đã đặt xuống bàn một tờ giấy có mẫu sẵn giống như tờ hôm trước.
Lạng mở tròn hai mắt nhìn trừng trừng. Anh nhìn ai? Chẳng nhìn ai
cả. Anh nhìn vào khoảng không trước mặt nơi như chưa tan hết cái âm
thanh trơn tru và lạnh lùng của viên sĩ quan nọ. Hoặc có thể anh
đang nhìn thẳng vào tâm trí mình. Mình nói dối ư? Không. Anh chưa hề
nói dối. Dù cuộc đời có lạnh lùng đến mấy thì anh vẫn tự cho rằng,
từ xưa đến nay mình chưa thèm nói dối. Sau này thời chưa biết. Gặp
những câu hỏi nguy hiểm khác thì có khi phải nói dối thật. Nhưng với
những cái mục đề nho nhỏ trong tờ khai này, có chi mà phải dối trá?
Thà rằng ở miền Bắc, với thành phần có nợ máu như mình, có khi vào
một hoàn cảnh nào đó phải nghĩ cách giấu giếm. Chứ ở đây, thành phần
của mình là đồng đảng đồng chí với chế độ này, lo âu gì nữa mà phải
dối. Vô lý. Hay họ thử mình? Đừng hòng lừa nổi ta.
Sau một chặp tự lý sự. Lạng lại cắm cổ viết một mạch. Lời khai hôm
nay không có gì khác trước.
Chiều hôm đó viên sĩ quan già trở lại. Lần này Lạng không phải chờ
đợi lâu. Sau khi đảo mắt nhìn lướt qua trong giấy, viên sĩ quan, vẫn
cái giọng trơn tru ấy nói mà không thèm bận tâm đến sự phản ứng của
Lạng:
- Tiếc quá, anh bạn vẫn không nói thật.
Lạng hét to lên:
- Chính các anh mới nói dối...
- Tùy anh, chúng tôi sẽ chờ.
Lạng cáu kỉnh ngắt lời:
- Không chờ đợi chi cả. Nếu cần các ông cứ bắn đi.
- Bạn cứ bình tĩnh, cố mà bình tĩnh. Chúng tôi sẽ chờ.
Lại một tờ giấy nữa đặt xuống bàn và cái dáng gầy đét kia ung dung
đi ra như chưa hề có điều gì phật ý. Lạng chồm người lên như một con
cọp đói:
- Này... Tôi không viết nữa đâu... Tôi chẳng có chi mà viết cả.
Nhưng cánh cửa đã đóng sầm lại. Người sĩ quan đi ra xa và húng hắng
ho.
“Đù mẹ chúng mày!”. Lạng chửi rít qua hai kẽ răng. Anh không thể nào
chịu nổi cái vẻ dửng dưng kia. Ừ mà tại sao chúng nó lại không nổi
cáu lên với mình hè. Thà rằng chúng nó hầm hoét, chửi bới hay đánh
đập thì mình còn thấy có lý. Hay chúng nó chỉ giả vờ? Mà đúng rồi lẽ
nào một thằng từ thế giới bên kia rơi tõm xuống đây mà lại được tin
ngay. Phải thử thách, thậm chí thử thách hàng chục hàng trăm lần nữa
là khác. Y như họat động tình báo! Lạng bỗng thấy thích thú! Từ hôm
nay mình trở thành một nhân vật cực kỳ quan trọng. Bao nhiêu cơ quan
tình báo phải chụm đầu vào nghiên cứu về mình, thú vị thật. Ừ, mà
chúng nó cũng không phải hoàn toàn nghi ngờ. Nếu nghi ngờ thì chắc
chắn mình đã bị tra khảo rồi. Cái dáng điệu nhã nhặn ung dung của
lão kia có nghĩa là đã tin mình. Tin nhiều nữa là khác. Như vậy điều
cốt lõi lúc này là phải nhớ cho kỹ những lời đã khai, trăm lần như
một, đừng có khác nửa câu.
Lần thứ ba.. lần thứ tư... lần thứ năm. Những tờ khai như được sao
nguyên văn thành nhiều bản. Cả hai bên đều kiên nhẫn chờ đợi nhau.
Điều chờ đợi của Lạng đã đến. Sau tờ khai thứ năm, viên sĩ quan già
đã không còn giữ được cái vẻ trơn tru mặt lì như trước nữa. Một cái
bạt tai bất ngờ nổ tóa vào mặt Lạng. Anh chưa kịp định thần thì tiếp
một cú đấm móc hàm giòn như cành cây khô gãy. Lạng bổ chửng ra giữa
nhà. Một cảm giác buồn nôn ói lên trong cuống họng. Máu trào ra mặn
rít cả hai hàm răng.
Cánh cửa đóng sầm. Sau vài phút, một tên lính cầm tiểu liên mở cửa
bước vào:
- Đứng dậy!
Lạng nghe rõ tiếng quát nhưng không thể nào cựa mình được. Sự đau
đớn và cả sự căm uất nữa đè bẹp anh xuống sàn nhà.
- Đứng dậy! Có nghe không đấy?
Người lính vừa hỏi vừa cúi sát xuống, lấy tay đỡ khuôn mặt đang vật
nghiêng của Lạng lên:
- Đừng vờ nữa, tao cho một quả vào ngực mà tắt thở luôn bây giờ -
Lời lẽ thì dữ tợn, nhưng giọng người lính lại không có vẻ hung hăng
lắm. Lạng rên rỉ, cầu cứu:
- Anh đỡ dùm... đau quá!...
- Hừ, đã làm tình báo còn sợ đau...
Lạng nín lặng. Hóa ra chúng nó đã nghi mình là tình báo thật. Nhưng
lấy chi làm bằng chứng? Ối, đau quá. Lần đầu tiên trong đời anh phải
chịu đòn đau, mặc dù trong tưởng tượng anh đã từng nghĩ tới bao
nhiêu hình thức tra tấn ghê gớm khác nữa. Liệu mình có chịu đựng nổi
không?
Người lính đã giúp Lạng đứng dậy. Anh ta nhìn Lạng một lúc rồi khẽ
lắc lắc đầu:
- To gan thiệt... Tôi thì có cắt cổ cũng xin vái, không dám chơi cái
trò ấy...
Lạng định nói một câu nhưng hai hàm răng đã dính bết với nhau không
thể nào mở ra nổi. Vả lại anh cũng không biết nên nói cái gì. Chẳng
có cách gì thanh minh được điều oan trái. Lạng cúi mặt cố chịu đau,
ngồi bệt xuống góc giường.
- Ô hay, định ngồi lì đó hả? Đi!
Lạng cố mở to mắt nhìn người lính. Đi đâu? Anh muốn hỏi mà không nói
được. Tuy vậy người lính vẫn hiểu.
- Tôi được lệnh giải ông lên Bộ tư lệnh đặc khu. Đừng để mất thì
giờ, đi!
Một cảm giác ghê rợn bất chợt chạy lan khắp người Lạng. Anh nhắm
nghiền mắt lại. Người lính xốc xốc khẩu tiểu liên trong tay. Cái
nòng súng hơi chếch lên một chút ngang tầm thắt lưng của Lạng. Anh
rùng mình và lập cập bước đi. Từ đâu đó, sâu thẳm trong tâm khảm anh
vọng lên một lời hoảng hốt: “Mình đi vào cõi chết”...
Cảnh tượng chiều cuối đông trên những trẳng cát dài trông thật là
não ruột. Bầu trời và mặt cát như muốn hòa lẫn vào nhau. Những hàng
dương xơ xác rên rỉ trong gió lạnh, thỉnh thoảng lại rùng mình bất
chợt như kẻ động kinh. Mây đông đặc từng cục bay vật vờ với nhau rồi
rã ra thành từng màng mưa mỏng la đà buông xiên từ ngoài biển vào,
choàng lên những xóm vắng của các làng chài cát cái màu bạc mệnh.
Sóng dầm dề vật vã như con bệnh lâu ngày không được chạy chữa thuốc
thang.
Mưa lâu ngày, đường trên cát không còn là đường nữa. Hai người cứ
men theo những đụn cát hình yên ngựa mà đi. Đã cách khá xa khu căn
cứ quân sự đồi 24, họ uể oải đi về phía quận Trung Lương. Trông dáng
bộ bên ngoài hai người lúc này không còn cái kiểu cách áp giải tù
binh nữa, mà là hai kẻ lạc đường đói khát thất thểu tìm nơi trú
chân.
- Này...
Người lính đột ngột gọi giật giọng. Chân Lạng như muốn dính bết vào
nhau. Người chồm vội lên phía trước. Trống ngực đập loạn xạ. “Này”
nghĩa là thế nào? Bắt đầu rồi ư? Hai tai Lạng ong ong hàng trăm
tiếng “này” dập vào dội ra.
- Này... Không nghe à? Đứng lại.
Ngực Lạng nhói thắt một cơn đau đột ngột. Hai chân dừng hẳn lại và
run khập khậy như đang đứng trên cầu treo mỏng manh. Có thể... bắt
đầu thiệt rồi... Lạng vụt nghĩ nhanh và vụt quay lại. Nếu cần thì vồ
đếp bóp cổ hắn... Nếu cần thì khóc to lên... Nếu cần thì van lạy...
Hàng chục phương kế đặt ra cùng một lúc. Nhưng Lạng vẫn không nhấc
nổi người. Ý nghĩ về cái chết như vết mực loang dần trong trí não
nhuộm sệt toàn bộ phản xạ nhanh nhảu của anh. Tất cả sẽ bắt đầu bằng
một tiếng nổ... Anh nghĩ rõ ràng như vậy nhưng vẫn không dám gọi tên
cái bắt đầu ấy ra.
- Nghỉ tí đã ông nội. Đi hăng như là được về nhà ấy...
Người lính xốc lại khẩu súng rồi ngồi xuống cách chỗ Lạng đứng
khoảng năm bước chân. Lạng nhẩm tính, nếu lao đến thì phải nhảy hai
bước, có lẽ nòng súng kịp tóe lửa. Cần đến gần tí nữa, làm sao chỉ
vồ cái là được. Ý nghĩ làm đầu Lạng nóng bừng lên. Hai tay bỗng
luống cuống. Hình như người lính đã đọc được ý nghĩ ấy.
- Này, coi chừng nghe. Ngồi xuống. Liều là bắn bỏ đó cha nội ạ!
“Ông nội” rồi hạ xuống “cha nội”. Lạng bất lực ngồi bệt xuống cát,
mặt cố tình quay ra phía biển.
- Anh hai mấy tuổi rồi mà dám liều thân làm tình báo dữ vậy?
Người lính hỏi trong sự tò mò rất trẻ con. Lạng chợt nghĩ có lẽ lát
nữa nó còn gọi mình là em út hoặc con cháu cũng nên. Sự bực bõ bẩm
sinh nổi dậy, Lạng xẵng giọng:
- Các ông cứ như con nít sợ ma, lúc nào cũng nơm nớp tình báo với
tình chí. Tôi tình nguyện vào với chế độ này... Gia đình tôi có nợ
máu với ngoài đó...
Người lính đột ngột cười vang:
- Ha ha.. nói nghe ngon lành quá! Thôi đi chú mày! Cứ cái giọng leo
lẻo ấy thì toi mạng đến nơi đó. Chính chú em mới trẻ con. Những bộ
óc tình báo trong này dù có thơ ngây đến mấy cũng chẳng bị lừa vì
cái giọng bo bỏ ấy đâu.
- Vì sao?... Vì sao nào?
- Im mẹ cái mồm mày đi. Nhóc con mà dám nói dối như cuội ấy. Những
mạng lưới điều tra khổng lồ của Cục an ninh Quân lực đã trả lời rành
rọt rồi con ạ. Mày không phải là con cái lão đếch gì mà bị Việt Minh
phéng cổ đâu. Dòng máu mày là dòng máu khác, dòng máu Việt cộng nòi.
Bố bảo cho thế để đừng có ảo tưởng với mấy lời khai cũ, đến khi ân
hận thì quá muộn đấy con ạ.
Như một quả tạ giáng xuống đầu Lạng. Anh chết lặng người. Lẽ nào
cuộc đời lại trớ trêu đến thế? Trong một giây quá khứ cuồn cuộn trào
lên... Những tiếng đồn đại của dân làng hóa ra có thật ư? Hay là chỉ
vì những lời đồn đại ấy mà bọn gián điệp gà mờ đã khẳng định như
vậy? Mình không phải con bố Ất, nghĩa là mình không phải họ Hoàng?
Mình là con ông Học thiệt ư? Con một phó chủ nhiệm hợp tác xã? Lẽ
nào họ của mình là Ngô Sĩ.
- Tao nói cho mà biết thế là cốt để cứu mày. – Người lính bỗng đổi
cách xưng hô – Nói thiệt là tao cũng chúa ghét ba thằng cha an ninh.
Toàn như cú mèo cả. Mày cứ liệu đấy, chẳng ai tin mày đâu. Lên trên
đặc khu thì liệu đấy mà khai. Ương bướng chỉ thiệt mạng thôi.
Lạng hầu như mất hẳn ý chí và lòng kiêu hãnh. Sau khi về đến đặc khu
anh đã kể hết tất cả hoàn cảnh của mình, kể cả những lời đồn đại mà
chính mình cũng nửa tin nửa ngờ trong suốt bao năm thơ ấu. Rằng anh
đúng đã sinh ra trong nhà họ Hoàng, tuy vậy cũng có lời xì xào anh
là con ông Ngô Sĩ Học. Nhưng vì gia đình anh là gia đình “nết na”
nên đã cấm ngặt những chuyện đó. Cái “nết na” ấy đã đẩy anh trở
thành kẻ sống lửng lơ, không họ hàng...
Lạng bị giam lỏng đúng hai mươi hôm. Sau đó nghe đâu đã có những xác
nhận mới của Phòng hai Bộ tư lệnh đặc khu quyết định cho Lạng nhập
ngũ. Anh được điều về làm lính ở đơn vị công binh cầu đường. Rõ ràng
Lạng vẫn không được trọng dụng.
Mặc dầu đã được mặc áo lính hẳn hoi, và trong công việc Lạng lại là
người hì hục, tận tụy nhất, song lúc nào anh cũng mặc cảm rằng mình
là một tên tù cải tạo. Xung quanh, hình như ai cũng nhìn anh bằng
con mắt tò mò, dè dặt. Người ta đang nói với nhau chuyện gì đó vui
lắm, nhưng khi Lạng kéo lê chiếc xẻng đến gần thì họ im bặt tiếng
cười rồi lảng ra nói những câu thật nhạt nhẽo. Không một ai bắt
chuyện với Lạng, trừ mệnh lệnh và những câu chửi tục. Mấy ngày đầu
Lạng không thể nào chịu nổi những câu chửi tục. Đã có lần uất quá
anh định vung xẻng lên xán bừa vào giữa mặt cái thằng vừa chửi.
Nhưng rồi anh cố nén chịu. Vài ba lần nén chịu. Cứ thế, nhịn mãi
thành quen. Đầu Lạng cúi thấp hơn, mặc dù trong ngực anh vẫn chưa
thôi những cơn tấm tức như sóng cuộn.
Gần một tháng trôi qua, Lạng sống trong âm thầm chịu đựng. Dần dần
anh cũng tìm ra được một cách sống thích hợp: bất cần và phó mặc.
Suốt ngày Lạng hì hục đập đá, xe đất như một kẻ làm thuê. Hết giờ
anh lặng lẽ ngồi một mình, thẫn thờ nhìn ra phương Bắc. Mặc kệ ai
xầm xì, chỉ trỏ, mặc kệ cả những đôi mắt xoi mói nhìn trộm, Lạng cứ
ngồi thế cho đến khi có lệnh tập hợp.
Lúc này đại đôi công binh đang thi công đoạn đường “Bắc tiến” từ Nam
Đông hướng thẳng ra Khe Dưới. Những ngày giáp tết, mưa liên miên.
Đất đỏ nhão nhoẹt dính đặc sệt đầu xẻng. Máy húc đi trước xới tung
rễ cây, vét cạn những cồn đất cao. Bánh xích băm nhừ lớp đất mặt.
Những người lính mang giày cao cổ lội sì soạp trên bùn. Xe tải GMC
chở kìn kịt những thùng đất sỏi từ dưới các đồi hoang gần Cam Lộ lên
đổ ùn thành đống trên mặt đường. Tiếp đó là công việc của Lạng. Đất
sỏi được xúc rải đều mặt đường tạo nên một lớp cứng như đúc bê tông.
Con đường đỏ quạch cứ thế mà lăn dần vào khu phi quân sự, chọc thẳng
ra miền Bắc như một lưỡi dao bầu bầm máu của tên đao phủ.
Đêm. Cả đại đội đóng quân theo thế dã chiến hai bên trục đường dưới
những mái nhà dù lóng lánh. Nhạc nhảy từ phía nhà chỉ huy đại đội
vàng lên run rẩy. Những cô gái trong đoàn quân tiếp vụ, mặt dày bộp
phấn, đang uốn mông theo nhạc. Mưa vẫn gõ triền miên vào rừng. Lính
ở lán ngủ thiếp đi sau một ngày còng lưng xúc đất sỏi.
Những đêm như thế Lạng thường ngồi ôm gối nhìn lên nhà chỉ huy đại
đội. Lúc đầu anh không thích thú nhạc nhảy cong cớn đó. Ở miền Bắc
bao năm, chưa một lần nào anh nghe thứ nhạc ấy. Nhưng cái gì rồi
cũng quen. Hơn nữa bẩm sinh anh đã có “máu” văn nghệ. Tiếng nhạc
nhảy như một chất nghiện cứ ngấm dần vào anh. Càng nghe càng thèm
thuồng. Lạng rất muốn mò lên nhà chỉ huy để được tận mắt xem các cô
tiếp vụ nhảy. Nhưng anh không dám.
Lạng đang ngồi ngẩn người như kẻ si tình bị thôi miên khi chợt nghe
phía sau có bước chân ai đi gần lại. Lạng bối rối như kẻ bị bắt quả
tang. Anh định nhổm dậy chui nhanh vào lán. Nhưng bước chân phía sau
đã dừng sát sau lưng lạng.
- Nghĩ chi hung rứa, chú?
Lạng nhận ngay ra tiếng anh Mẫn bếp trưởng. Từ ngày về đại đội công
binh này Lạng sống một cách lạc lõng như đứa trẻ mồ côi thẫn thờ
trong một khu gia đình tấp nập. Chỉ duy nhất có một người thường hay
đưa mắt nhìn trôm Lạng. Thoạt đầu Lạng rất khó chịu với đôi mắt ấy.
Nhưng rồi dần dần anh nhận ra Mẫn không phải là kẻ độc ác. Suất cơm
nào Lạng chìa tay ra bê đều được Mẫn đắp vội thêm một miếng cháy to
bằng bàn tay. Rồi đến lúc chính Lạng lại hay đưa mắt nhìn trộm người
bếp trưởng: Đấy là một thanh niên có lẽ phải lớn hơn lạng gần chục
tuổi. Khuôn mặt xương xẩu, tóc quăn, cặp môi rạn nứt như ăn trầu.
Hai cánh tay gầy và dài. Cả con người của Mẫn thoạt trông như một
cành cây sầu đông trụi lá. Tuy vậy đã gần một tháng rồi mà hai người
chưa có lần nào bắt chuyện với nhau.
- Răng trông buồn thiu rứa, nhớ nhà hí?
Mẫn hỏi rồi ngồi xuống bên Lạng. Tiếng nhạc nhảy vẫn bồng bềnh, chao
đảo trước mặt. Gió lạnh thổi tạt từng cơn khiến tiếng nhạc có lúc
mất đi đột ngột như chìm xuống đáy vực rồi bất ngờ rồ lên từng cơn
như tiếng kêu cứu thất thanh. Tự nhiên Lạng bỗng thấy run sợ Hình
như có tai họa gì đó sắp sửa áp lên người Lạng. Bất giác anh rùng
mình. Bàn tay Mẫn đã đặt nhẹ lên vai anh.
- Này... ở ngoài nớ thế nào hè?
Tiếng Mẫn cũng thầm thì run run y như tai họa đã quay đầu chĩa về
phía Mẫn... Chuyện gì thế nhỉ? Lạng thầm hỏi trong ý nghĩ thấp thỏm
không yên.
- Ngoài nớ.. nó như thế nào?
- Là thế nào?
- Là... nói chung mọi thứ?
- Thì vẫn thế...
- Là thế nào?
- Cũng chẳng thế nào cả...
Không ai có thể nhận ra nội dung của những lời đối thoại vụng trộm
và vô nghĩa ấy. Nhưng cả Mẫn lẫn Lạng đều tự hiểu. Cả hai đang đi
chênh vênh trên một giới tuyến mỏng manh và éo le như sợi chỉ giăng
qua bờ vực.
- Ngoài nớ... có hay thiết quân luật không?
- Nỏ (2)
- Có cố vấn không?
- Nỏ!
- Thế thì làm thế nào?
- Làm hợp tác chứ thế nào?
- Hợp tác là cái gì?
Lạng hơi khó hiểu vì sao Mẫn lại hỏi tỉ mỉ những chuyện ấy. Anh đáp
dè dặt.
- Ơ hay hè, rứa tổ đổi công là cái chi?
Lạng sắp sửa cáu kỉnh:
- Cái anh ni hay hè. Thì làm đổi công chứ chi nữa. Nói thí dụ, nhà
anh giúp nhà tôi cấy, nhà tôi lại trả công gặt cho anh.
- Ơ hay hè, rứa nhà nào cũng có ruộng à?
- Ừ, nhưng hiện chừ thì bỏ chung vào hợp tác rồi.
- Rứa là mất ruộng?
- Xì, có vậy mà anh không hiểu à? Bỏ chung vào rồi cùng làm cùng
hưởng. Người mạnh giúp người yếu, nhà nhiều công giúp nhà ít công...
- Ơ hay hè...
Những tiếng “ơ hay hè” cứ khe khẽ phát ra giòn như hạt mưa rơi trên
máng xối. Hai người cứ đà ấy mà ngồi sát lại với nhau lúc nào không
để ý.
- Rứa ngoài nớ có dân vệ không? Có bảo an không?
- Dân vệ là chi?
- Là... kiểu như lính nhưng ở nhà đó, ăn cơm nhà mà có súng...
- À, thế thì cũng có. Ngoài nớ gọi là dân quân.
- Ơ hay hè. Này rứa ngoài nớ...
Cứ vậy, một người say sưa hỏi và một người hào hứng giải thích.
Chuyện hấp dẫn và hứng thú hơn bất kỳ một kho sách li kì nào. Tiếng
nhạc nhảy đã chết lim đi từ lúc nào. Rừng khúm núm trong gió lạnh và
mưa mịt mùng. Đâu đó có những tiếng ngáy khò khò của lính phát ra,
nặng nhọc và khổ ải.
“Mình đã nói những gì về miền Bắc?”. Câu hỏi cứ chập hờn mãi trong
đầu Lạng. Đêm đã quá khuya lính trong nhà dù ngủ li bì. Riêng Lạng
không sao chợp mắt được. Sau buổi nói chuyện như xả hơi bởi quá lâu
rồi phải im lặng, Lãng bỗng giật mình run sợ. Biết đâu Mẫn là người
theo dõi mình? Ừ, dại quá, mình cứ kể tuồn tuột hết mọi chuyện. Nghĩ
đi nghĩ lại Lạng thấy có chút yên tâm vì thực ra cũng chẳng có điều
gì bí mật. Như vậy mình vẫn chưa phải là thằng phản bội. Lạng thấy
xốn xang như có cặp mắt ai đó từ trong khoảng đêm sâu thẳm nhìn xói
vào mình.
Mình không phản bội!... Mà cũng không hề dối trá. Như vầy còn có
duyên cớ gì mà sợ hãi. Nghĩ vậy nhưng Lạng vẫn thấy chờn chợn. Có lẽ
vì mình đã kể về miền Bắc một cách quá sôi nổi nhiệt tình. Ừ, mà
cũng lạ. Mình có gì với ngoài đó mà say sưa đến vậy? Những ngày sống
trên đất Bắc, mình luôn luôn tủi hổ và ấm ức kia mà? Rứa mà chừ vẫn
nhớ. Nhớ quá đi thôi. Lạng nhắm nghiền mắt lại, cố gắng ngủ. Cả một
Vĩnh Linh cuồn cuộn hiện ra trong trí nhớ của anh...
Đột ngột cả khu rừng choàng dậy cuống cuồng. Một cái gì đó không rõ
rệt xảy ra giữa lúc lính công binh còn ngủ mê mệt. Chớp sáng xanh
lè, khói thuốc đạn khét lẹt, tiếng nổ dập dồn từ nhiều phía. Chưa ai
trong đám lính công binh này có chút khái niệm gì về một trận đánh.
Nhưng bằng trực giác của những con người luôn luôn bị cái chết đe
dọa đang ập đến. Đám lính tỏa ra mọi phía, la hét nháo nào. Đất dưới
chân tưởng chừng sụt lở hết. Rừng cây như bốc cháy. Ai cũng hi vọng
được thoát nhưng ai cũng có cảm giác không thể nào chạy thoát được.
Thực ra đây chỉ là một trận tập kích nhỏ của tổ công an bờ Bắc bí
mật phá rối âm mưu làm đoạn đường “Bắc tiến” của Mỹ - ngụy. Trận tập
kích chỉ xảy ra chừng mười phút. Vài chục quả lựu đạn với mấy băng
AK. Thế thôi, nhưng với đại đội công binh thì biến cố này như là một
trận động đất.
Lạng co giò đạp băng qua quãng rừng cằn phía nam, cắm cổ chạy không
hề ngoái lại. Những dây leo chằng ngang dưới đất mấy lần quật Lạng
ngã nhào. Hình như ở trán cháy máu. Mặc kệ, Lạng cứ cắn chặt hai hàm
răng cho khỏi run, cố để tay lên bụng cho đỡ đau thắt mà chạy. Cái
sợ đối với Lạng có một ý nghĩa đặc biệt khủng khiếp. Đấy là nỗi sợ
bị trả thù. Lạng linh cảm thấy giây phút phán xử đã đến. Anh chạy
thục mạng trong một nỗi tuyệt vọng như thể trời sắp sập. Thoát ra
khỏi đám cây rừng là đến đồi tranh. Cỏ tranh lúp xúp trống trải
khiến Lạng càng hốt hoảng hơn. Đôi chân phóng rào rào. Có lẽ chẳng
ai chạy kịp anh hoặc chạy theo hướng anh. Nhưng Lạng không hề biết
điều đó vì anh không ngoái đầu lại một lần nào. Tiếng súng tập kích
đã im tự lúc nào anh cũng không hề biết. Lạng chạy như rút ruột.
Bất ngờ Lạng lao sầm vào một người nào đó từ phía bên lao ngang qua.
Cả hai gần như cùng một lúc hét lên một tiếng nghe khủng khiếp như
tiếng kêu trước lúc tắt thở. Rồi cả hai, không hề có một giây nghĩ
ngợi, ôm chằng lấy nhau, quật lộn nhau xuống đất, lăn sầm sập trên
cỏ tranh, cào cấu, cắn xé, bóp cổ. Tiếng thở hồng hộc chèn vào nhau.
Tiếng rên hư hử. Tiếng đấm thụi huỳnh huỵch. Lạng lật được người lên
trên, đè đầu gối vào bụng kẻ nằm dưới, rồi cứ đà ấy anh nhún toàn
thân. Một tiếng “ợ” trào lên nghe lẫn với tiếng rên khe khẽ:
- Mạ ơi... con chết – Việt cộng...
Đột ngột Lạng chùng tay lại. Toàn thân anh run lên. Cái chút trí tuệ
người ít ỏi trong anh lúc này chợt thức tỉnh. Lạng nhận ra tiếng rên
của người quen. Anh gọi cuống quít:
- Anh Mẫn!... Anh Mẫn phải không?
- Chao... thằng Lạng... hứ? Mi... giết... tao...
- Anh ơi...
- Mi...
Rồi im lặng. Nỗi hãi hùng cùng với sự tuyệt vọng giây lát đông đặc
lại trong trí não Lạng cái màu tối của đêm cuối đông này. Lạng cứng
đờ cả tay chân ngồi câm lặng nghe tiếng thở mỗi lúc một yếu dần của
người bạn. Anh chẳng còn biết chỗ này là chỗ nào chỉ ang áng rằng đã
cách khá xa khu đóng quân của đại đội. Chẳng ai biết được tội lỗi
của anh. Nhưng riêng anh, làm sao mà trốn nổi. Đây là lần đầu tiên
trong cuộc đời anh đã tự tay giết một mạng người. Cả cơ thể anh, trí
não anh rệu rã ra đến mức không thể nào cử động được. Anh cứ ngồi
vậy, mặt cúi gục xuống. Máu từ trán, từ má chảy rỉ xuống khóe miệng
tanh nặc và mặn chát. Lần đầu tiên anh biết tởm lợm mùi máu.
- Mạ tau... ở Đông Hà... gọi là bà Tĩnh... buôn đồ gỗ... gần chợ.
Tau con một... tau thương... Mạ ơi!...
Tiếng “ơi” cuối cùng nấc lên như một tiếng khóc. Cả tấm thân gầy
guộc của Mẫn bỗng giãy lên đành đạch. Lạng hốt hoảng chồm người tới
đè lên ngực Mẫn. Sau cái giãy giụa như muốn vùng chạy, Mẫn nằm co
quắp, cứng đờ. Lạng run rẩy kéo thẳng chân tay bạn ra. Một cảm giác
ghê rợn bất ngờ chạy lan người Lạng. Hai hàm răng va vào nhau cầm
cập. Anh lùi dần, lùi dần rồi đột ngột vùng chạy.
4
Chợ Đông Hà những ngày giáp tết đông một cách lạ thường. Thôi thì
ngàn vạn thứ hàng hóa thi nhau đổ vào đây, la liệt đủ màu sắc, đủ
mùi vị. Người chen người, hàng chen hàng, tiếng rao mời, lời thách
giá, những câu nói cay, nói mát khích bác chửi rủa trộn lẫn nhau tạo
nên cái mớ âm thanh khổng lồ huyên náo. Tiếng máy thuyền dưới sông,
tiếng xe lam trên bến, tiếng đài bán dẫn, băng cát – set mở to hết
cỡ như chửi nhau, thách đố nhau, nháo nhác inh ỏi. Người vừa giật
được món hời cười nói bô bô, kẻ bị móc túi khóc lóc mếu máo. Anh mù
quờ quạng ôm chiếc đàn hát đến khàn giọng. Cô gái làm điếm cười gần
như khô cả hai hàm răng để chào khách. Trẻ con thi nhau đốt pháo
khói mù trời.
Giữa đám người nghìn nghịt, hỗn độn nhưng cũng tinh sỏi chợ búa ấy,
sáng nay có một thanh niên khoác bộ quần áo lính nhòe nhoẹt bùn đất,
có lẫn cả vết máu, ngơ ngác nhòm ngó hầu khắp các quán hàng. Thỉnh
thoảng anh cũng dừng lại đưa tay lật lật mấy nải chuối chín vàng óng
và cặp mắt mở tròn đầy vẻ kinh ngạc khi nhận ra rằng loại chuối này
không có cách gì ăn được vì chuối bằng nhựa. Anh không dừng lại chỗ
nào quá lâu bởi trong người không có một đồng xu dính túi. Cái hứng
thú tò mò lúc đầu mất dần, bước chân anh mỗi lúc một trễ nải, hờ
hững. Anh đi qua mấy hàng đồ điện, lơ đãng tiến về hàng vải, rồi từ
hàng vải lại rẽ quặt qua chỗ bán thùng, chậu nhôm...
Chợt anh dừng lại.
Nhiều người đang xúm xít quanh một ông già đeo đôi kính đen. Lại hát
xin chăng? Lạng thử nhòm vào và lắng tai nghe. Ông già, thực ra cũng
chưa già lắm, áng chừng trên dưới năm mươi tuổi, nhưng vẻ mặt hơi
quái dị, đôi lông mày to gần bằng ngón tay, hai ria mép quặp xuống
như hai dấu ngoặc đơn khoanh chiếc mồm lại. Ông ta không hát mà đang
nói gì đó lảm nhảm. Những người xung quanh há mồm ra nghe. Lạng đứng
ngẩn người một hồi lâu mới nhận ra ông ta làm nghề thầy bói. Lần đầu
tiên anh trông thấy một thầy bói. Lạng rạo rực, thích thú như nhìn
thấy con thú lạ. Quên mất việc phải giữ gìn tung tích của mình, anh
chen bừa vào. Nhiều người quay lại nhìn anh. Khi họ nhận ra bộ quàn
áo lính bê bết đất và máu, người ta vội vàng lảng dần. Lạng xán lại
ngồi chặn ngay trước mặt ông già.
- Ông ơi... Cháu là... cháu là lính... Cháu chẳng có đồng nào cả...
Mặt Lạng đỏ bừng lên vì ngượng. Anh đưa tay sờ soạng khắp các túi y
như để quên tiền nơi nào đó. Rồi đột ngột anh cởi nhanh cúc áo.
- Cháu có chiếc áo mới nhận... cũng có thể được vài trăm... Ông coi
giúp cháu...
Người thầy bói quờ tay lên đỡ nhanh chiếc áo trên tay Lạng rồi đang
ngang sát mặt như để xem. Ông ta thấy gì mà xem? Lạng nghĩ nhanh và
chợt thấy buồn cười. Nhưng thầy đã hạ chiếc áo xuống nhìn Lạng chằm
chằm. Một lát, thầy bất ngờ hạ giọng:
- Anh vừa có điều kinh khủng...
Lạng giật thót cả người. Giọng anh run run:
- Thưa thầy... có chi mà... kinh khủng?...
- Có chuyện giết người.
Lạng cứng đờ quai hàm. Thế mới là thầy chứ. Anh kinh hãi nhìn đôi
kính đen của ông già, có cảm giác như từ phía sau đôi kính kia, cặp
mắt ông đang rọi thẳng vào tâm can mình, xoi mói suốt cả cuộc đời
mình.
Lạng cúi gằm mặt xuống như chịu tội. Còn thầy lại đưa nhanh chiếc áo
lên sát mặt một lần nữa. Hai cánh mũi thầy phập phồng mở ra khép lại
để xác định lần nữa cái mùi tanh tưởi từ cảm giác ẩm ướt trên áo phả
ra. Đoạn thầy thở ra một hơi rõ dài.
- Chuyện mới xảy ra thôi... Mới lắm...
Lạng vẫn cúi đầu nói lí nhí như con chiên xưng tội:
- Dạ... mới thôi.
- Đó đó. Anh sinh năm nào?
- Dạ, năm bốn tám.
- Mậu Tý. Cao số lắm. Canh cô mậu quả. Đời anh cô đơn cho đến khi
chết.
- Dạ.
- Tuy rứa mạng anh rồi cũng tấn! Tấn vi quan, thối vi sư, nếu không
cầm gậy chỉ huy thì cũng làm thầy thiên hạ chứ chẳng chịu lép đâu.
Sinh tháng mấy?
- Dạ... con không biết kỹ. Hình như tháng năm âm lịch...
- Lỗi mùa sinh rồi, đời sẽ lắm tai ương đó.
- Dạ.
- Năm ni mười tám tuổi âm. Nhất thập cử tại tại dần. Rồi đến mãi
thìn tị ngọ mùi thân dậu tuất. Mệnh con năm nay ứng vào con chó.
Khuyển bị tá, nghĩa là con chó bị lửa bỏng. Mà lửa tức là hỏa, đấy
là mùa sinh của con. Năm nay chính là trung hạn. Con phải cẩn thận
lắm mới được.
- Dạ.
- Mười tám tuổi âm. La hầu, Thổ tú, Thủy diệu, Thái bạch, Thái
dương, Vân hán, Kế đô, Thái âm, Mộc đức. Ái chà, nếu con năm nay ứng
với sao Mộc đức, Thái âm, Mộc đức thập nhị nguyệt lộc ân lai, tháng
chạp năm tới sẽ gặp lộc lớn.
- Dạ.
- Con có còn muốn hỏi chi nữa không?
Thầy hỏi rồi nhìn như găm vào Lạng. Lạng ngẩn cả người, mồm lúng
búng như ngậm hạt thị. Còn biết hỏi gì nữa. Quá khứ, tương lai, dịp
may hạn rủi thầy nói cả rồi. Cái gì xem ra cũng đúng. Lạng thở dài
mệt mỏi:
- Dạ... con tạ ơn thầy...
Ngọn đèn dầu vặn nhỏ bấc bắt đầu sáng vàng đục lên mặt bàn thờ nghi
ngút khói hương. Xung quanh ngọn đèn xếp la liệt những hình người
dán bằng giấy, có đủ mũ miện, cân đai, gươm giáo. Thấp hơn một chút
là những nải chuối nhựa vàng rộm, hai ngọn nến cháy rần rật, lại một
bát hương nữa tỏa khói.
Bà Tĩnh gục mặt xuống bàn, mắt nhòe nước, miệng lầm rầm những lời
khấn vái. Lạng ngồi khuất vào một góc, đầu cúi thấp như một kẻ sắp
bị đưa đi hành hình. Tiếng khóc nấc nghẹn chen lẫn lời khấn vái của
người mẹ như nạo vét vào đáy lòng anh. Tội ác đang tê buốt trong
từng thớ thịt.
Lần đầu tiên anh phạm tội ác. Điều ấy đã ghê rợn lắm rồi. Nhưng tội
ác càng khủng khiếp hơn khi tự anh thấy rõ ràng lần đầu tiên anh đã
nói dối một người mẹ. Phải, anh đã không thể đủ dũng cảm kể ra sự
thật. Nói cho công bằng thì anh chỉ mới kể được một phần sự thực.
Đấy là cuộc sống của đại đội công binh, là những ngày anh với Mẫn
thân nhau, là cái đêm tâm sự đầy thú vị. Tiếp đến là cuộc tập kích
của Việt cộng. Đến đó anh bắt đầu phóng đại, tô vẽ lên thành một
trận ác chiến khủng khiếp như những trận đánh ghê rợn mà anh từng
đọc trong sách cổ. Tất cả chuyện đó dẫn đến cái chết của Mẫn. Thế là
cuối cùng, mọi đau đớn của người mẹ, lòng phẫn uất cả bà được trút
lên đầu Bắc Việt. Bà cầu chín phương trời, mười phương phật ra oai
tru di kẻ nào giết hại con bà. Lạng biết lời oán đó chĩa vào công an
miền Bắc. Mặc dù vậy anh vẫn có cảm giác lời nguyền rủa kia đang
trút xuống đầu mình.
Đêm đã khuya. Cái huyên náo bẩm sinh của thị xã ngã ba đường này đã
chìm vào trong giấc ngủ mệt mỏi, phờ phạc. Chỉ còn tiếng máy của xe
GMC thỉnh thoảng rú lên như động kinh ngoài đường Chín. Vài ba phát
nổ lạc lõng của cảnh sát, có thể bắn dọa bọn trấn lột hoặc ra oai
với những Việt cộng nằm vùng.
Trong nhà bà Tĩnh, ngọn nến đã cháy gần quá nửa. Giọng bà khàn đặc
lại vì phải kể lể quá dài dòng. Những ngày ấu thơ của đứa con trai,
cảnh ngộ neo đơn vì chồng chết sớm, những cơn lăn lộn chợ búa, những
đêm thiết quân luât nặng nề, khi buôn thua bán lỗ... Với cái chết
oan ức của con bà, bà thấy cần thiết phải công bố lại toàn bộ quãng
đời mình cho người khách quý ở bên cạnh được biết.
Đến khi quá mệt mỏi vì chuyện mình, bà quay sang tra vấn chính vị
khách. Lạng không thể nói dối được nữa trước con xúc động khôn nguôi
của người mẹ. Hơn nữa, từ lúc sắp sửa bước chân vào nhà này đến giờ,
anh đã tính toán đến nát óc. Trước mắt, anh cần một chỗ để ẩn nấp,
vài giấy tờ hợp pháp. Nếu không dựa vào bà Tĩnh thì khó lòng thoát
khỏi bọn cảnh sát và quân cảnh. Vì thế Lạng đã nói thật. Anh kể một
cách gọn gàng, khúc chiết cảnh ngộ của mình. Bà Tĩnh lắng nghe. Cơn
xúc động bỗng dưng tắt ngấm. Bà nghe một cách chăm chú nhưng không
hề mở miệng nói một câu nào. Lạng thầm nghĩ chắc là bà sợ. Anh chợt
thấy ân hận vì sự quá thực thà của mình. Nhưng đã lỡ mất rồi, không
thể nói khác được. Lạng nín lặng chờ đợi.
Rất lâu, có lẽ phải gần một giờ sau đó, ngọn nến trên bàn cháy gần
tàn, bà Tĩnh mới hỏi một câu thầm thì như tự hỏi chính mình:
- Răng lại bỏ ngoài nớ mà vô đây hè?
Câu hỏi thầm thì nhưng lại có sức mạnh như một quả tạ đè bẹp Lạng
xuống. Giọng anh nghẹn hẳn lại:
- Con... dại...
- Ừ, quá dại con ạ.
Một tiếng thở dài bi thảm. Bà mẹ đứng lên thắp tiếp ngọn nến khác,
cắm thêm mấy que hương... đoạn bà lại lầm rầm khấn vái. Một cảm giác
rệu rã tan loãng trong tâm khảm Lạng. Anh không đủ sức đứng dậy,
không còn biết làm một việc gì giúp bà. Anh ngồi bất động và chờ đợi
một cái gì đó rất vô nghĩa. Một lát, bà Tĩnh mới quay lại:
- Thôi được, đã lỡ chân rồi thì cứ tạm ở đây. Mạ sẽ chạy cho một tấm
căn cước. Cứ lấy họ ba thằng Mẫn. Lạy phật, con phải ý tứ lắm mới
được.
Lạng ngước lên nhìn bà Tĩnh, lòng chan chứa biết ơn. Rồi đột ngột
anh nghĩ, giá như lúc này anh nói ra điều khủng khiếp kia, giá như
bà biết chính anh là kẻ đã đè ruột con bà cho đến phọt máu thì sẽ
thế nào? Lạng bỗng thấy xâm mắt. Chao ôi, biết khi nào trả hết món
nợ này?
Ngày hôm sau bà Tĩnh ra đi từ sớm. Bà đi đâu Lạng không được biết.
Bổn phận của anh là chui tọt vào buồng ngồi nín lặng như một kẻ cắp.
Đến chiều bà Tĩnh về. Nhìn nét mặt của bà, anh biết chưa có chuyện
gì đáng mừng rỡ cả. Hai người lặng lẽ sống với nhau trong bóng tối.
Sáng hôm sau, bà Tĩnh lại đi. Phải mất ba ngày lê thê như vậy. Đến
tối ngày thứ tư, bà chạy về dí vào tay Lạng một tấm giấy cứng, giọng
bà run lên vì mừng mà cũng vì sợ:
- Được rồi, mất hơn năm chục ngàn mới kiếm được. Từ nay con kêu mạ
bằng thím. Tên con là Nguyễn Viết Lãm, con út của bác thằng Mẫn ở
trong Cần Thơ ra...
- Dạ...
Bà lại thở dài:
- Lạy Phật, con phải kiếm lấy việc chi đó mà làm. Đừng có đi long
bong ở đất này mà thiệt thân đó.
- Dạ...
- Thôi, ngủ đi. Mọi việc ngày mai rồi tính.
Lạng ngoan ngoãn chui vào buồng nằm. Nhưng anh không tài nào chợp
mắt được. Từ nay anh là con một nhà họ Nguyễn. Tên anh là Lãm. Cố mà
nhớ. Lạy trời, đừng ai nhắc đến họ cũ của anh.
(1) Cắt cử, bổ nhiệm.
(2) Không
Anh đến gieo hạt nhớ
Nơi cây tôi nảy mầm
Mưa giữa mùa đến muộn
Khoảng trống này... mênh mông
Giang Huong Blog
nutacxinhxan
Xem hồ sơ
Gởi tin nhắn tới nutacxinhxan
Visit nutacxinhxan's homepage!
Tìm bài gởi bởi nutacxinhxan
(#3)
nutacxinhxan
Kẻ lữ hành cô độc Bài gởi: 3,365
Gia nhập: Sep 2006
Trả lời: Người không mang họ - Xuân Đức - 10-07-2007, 07:14 AM
Chương 2
1
Bây giờ xin kể qua một chút về cái thị trấn ngã ba đường này. Gọi là
thị trấn ngã ba bởi vì nó sinh ra cùng thời với cái ngã ba huyết
quản nơi cung đầu của đường 9 với quốc lộ 1. Từ thuở còn người Pháp
đóng chiếm, con đường 9 rải đất sỏi, thì Đông Hà cũng chỉ phôi thai
dăm bảy quán nhà lợp tranh nằm khép nép bên mép sông Cửa Việt. Thế
rồi cái huyết quản đường 9 ngày một to ra, của cải hai chiều cứ trôi
ngày một nhiều thì Bản Đông bên Lào cũng phình to lên mà Đông Hà bên
Việt cũng lớn dậy. Người Mỹ qua, đường 9 trở thành một trục đường
chiến lược thượng hạng, là động mạch chủ nuôi sống toàn bộ phòng
tuyến Mác Na–ma–ra. Vậy là, nhoáng một cái, y như có phép thần thông
biến hóa, thị trấn đầu cầu miền Nam này bỗng như một cô gái nhà quê
ra tỉnh, cười nói huyên thuyên, trang sức lòe loẹt đủ các một lai
căng tân tiến nhất.
Trước hết đây là cái bướu khổng lồ để chứa chấp hai nguồn hàng lậu
lớn. Một nguồn hàng buôn từ đất Thái Lan qua Lào về đất Việt Nam,
một nguồn chủ yếu do quân tiếp vụ chuyển từ phía trong ra hoặc ngoài
biển vào qua cảng Đông Hà. Cho nên, cái nghề nghiệp chủ yếu và bao
trùm lên hầu hết đời sống người dân ở đây là buôn bán hàng lậu và
những hiệu lành nghề làm giả những mặt hàng ngoại quốc. Rồi nữa,
Đông Hà là nơi xả hơi của hai cánh lính. Một cánh từ Khe Sanh, Lao
Bảo về. Bao nhiêu cơ cực của rừng núi biên ải, bao nhiêu gian lao
vất vưởng của những ngày dã ngoại đóng chốt được trút bỏ nơi đây để
tận hưởng thú vui đô thị. Lại một cánh khác từ Sài Gòn, Huế được
điều ra thế chân vùng chiến thuật I, trước phút bước vào tử địa, bao
giờ cũng có tâm trạng coi như đời đến đây là chấm dứt. Hãy sống vài
giây cuối cùng với bao lạc thú thế gian. Cho nên một nghề nữa cũng
không kém phần rầm rộ trên thị trấn này là làm điếm và cướp bóc. Đội
quân này tùy lúc mà tăng giảm nhưng nói chung chiếm đại bộ phận
thanh thiếu niên thị trấn và trên danh nghĩa, trở thành đối tượng
tác chiến của cảnh sát Đông Hà.
Với tất cả bối cảnh ấy, thị trấn Đông Hà lại được đặt giữa một trong
những luồng gió Lào khốc liệt nhất. Gió Lào ở đây có mặt từ tháng
ba, hoành hành thả cửa cho tới tháng bảy, tháng tám. Vào dịp đó thị
trấn như một bãi chiến trường hạng nặng, cát bụi mù mịt, những mái
tôn quăn môi lợn, những tường nhà che chắn bằng ván gỗ hở toang
hoác, nước máy trong các ống dẫn nóng hâm hấp như nước bún giò.
Tóm lại, bản lai lịch của thị trấn Đông Hà không hề có tuổi thơ, chỉ
có những ngày sơ khai kham khổ rồi đánh đùng một cái là tuổi làm
duyên làm dáng, là một thời ăn chơi trác táng và lao ầm ầm trong cõi
cát bụi đua chen.
Nói chung là vậy. Nhưng nói riêng, nhìn vào một căn nhà hay một con
người cụ thể ở đây lại thấy đầy đủ những bản lịch trình oái oăm, li
kì, những số phận nổi trôi. Như căn nhà sát mép hồ nước trên trục
đường 1, với một mái tôn chồm ra như chực ngoạm hết người đi đường,
hai chiếc máy nén hơi đặt cân đối ngay trước cửa y như hai khẩu đại
bác thần công của nhà Nguyễn đặt trước cổng Ngọ Môn. Một chiếc lốp ô
tô đặt phía dưới làm bệ, nhưng chủ nhà vẫn sợ khách không hiểu nên
mới kê lên trên đó một tấm ván ép vẽ hình một chiếc lốp khác, vẫn
chưa đủ lại phải chua thêm dòng chữ: “Phù Ái – vá xăm, lốp, rửa xe,
sửa chữa ô tô lành nghề”. Ông Phù Ái vốn là con nhà đánh cá biển,
quê ở tận ngoài Nghi Lộc, Nghệ An. Từ ngày trở thành ông chủ lớn
(mặc dù chỉ là chủ một trạm rửa xe), ông thường cho công bố tung
tích của mình một cách đầy kiêu hãnh như một trang hảo hớn từng vang
bóng một thời. Chuyện là vào một năm, thuở Việt Minh còn đánh Tây,
trong một cơn động biển bất thần làm chết hàng trăm dân đánh cá, có
một người thanh niên Nghi Lộc dun dủi đã thoát chết, cùng với chiếc
thuyền của mình lênh đênh bốn ngày giữa biển và cuối cùng giạt vào
một bãi hoang rậm rịt đầy cây bông gai và dứa bãi. Người thanh niên
không còn đủ tỉnh táo để phân định phương hướng, không thể hiểu nổi
chỗ này là đâu. Anh ta bò bằng cả hai cùi tay và hai đầu gối, kéo lê
người trên bãi. Bò mãi, bò mãi mà chẳng gặp được người nào để hỏi.
Cái đói và cái mệt đã nhận ngập anh trong rừng cây dại. Anh thiếp
lịm đi bao lâu không còn biết nữa.
Bỗng anh ta chợt tỉnh. Có một hương vị gì đó làm cho anh tỉnh dậy.
Thoạt đầu là một cảm giác bâng khuâng, rồi tiếp đến là nôn nao gan
ruột. Ừ, nôn nao quá, nôn nao đến choáng váng. Anh cố sức hồi tâm
lại. Anh bỗng nhận ra. Đúng là mùi hương khói.
Với kinh nghiệm của người sinh ra, lớn lên trên vùng biển, anh biết
ngay ở đâu đây có miếu thờ Thần. Cố nhổm tấm thân dậy, nhận hướng
gió, anh lại trườn người đi. Hy vọng làm sức anh tăng thêm gấp bội.
Chui người qua hai bờ dứa bãi anh nhìn thấy một cành si xòa ngang.
Chắc chắn đó rồi. Anh lồm cồm run rẩy bò đến.
Không phải ngôi miếu mà là một tảng đá to chồm lên như một con trâu
mộng. Phía trước nó là một phiến đá khác chắn ngang nhẵn thín như có
ai bào. Bên cạnh chiếc bàn bằng đá là gốc si già bị gãy ngang chỉ
còn một cành bằng cột nhà chồm lên phía trước. Người thanh niên đói
khát ấy không bận tâm gì đến cây si linh thiêng ấy mà chỉ chằm hằm
vào con gà luộc đặt trên bàn đá. Phía trong có nắm hương cháy nghi
ngút. Mồm anh lập cập, rên rỉ: “Lạy ngài! Con là kẻ thất lạc, đói
quá, xin ngài một cái cánh”. Nói rồi không đợi ngài trả lời, anh quờ
tay ra túm lấy cánh gà xé toạc. Nhoáng một tý, cả thịt cả xương của
chiếc cánh trôi tuột vào trong cổ họng anh. Rồi không kịp khấn tiếp,
anh xé luôn cánh nữa. Rồi đến một chiếc đùi, hai chiếc đùi, rồi cái
ngực gà, hai mảng sườn, rồi cái sống lưng con gà luộc tiếp nhau lao
nhanh ừng ực vào bụng anh. Cơn đói dần dần nguôi. Tốc độ nhai của
đôi hàm có chậm lại tý chút, và nhờ thế đôi mắt cũng lờ đờ để ý xung
quanh. Bất ngờ anh nhìn thấy một đống giấy bạc đặt trong cùng mặt đá
sát với gốc cây si bị gãy. Chắc chắn là của người đặt lễ. Cây si gãy
chắc đã lâu đời nên mặt gỗ cũng nhẵn gần như mặt đá. Ở giữa ruột cây
có một lỗ bộng đút chân vào lọt trơn thín như hang ếch. Mải để mắt
đến mọi thứ mà anh ăn gần hết con gà lúc nào không nhớ. Chỉ còn
chiếc cổ và cái đầu gà trơ trọi như chiếc búa đóng đinh. Anh mân mê
nâng lên đặt xuống một tý rồi lại lẩm bẩm: “Lạy ngài, đã thương thì
thương cho trót, ít nhiều cũng chịu tiếng ăn mày cửa ngài, cho con
làm nốt cái thủ”. Nói rồi anh yên tâm đưa chiếc đầu gà lên mồm.
Bỗng anh khựng tay lại. Linh tính báo ngay cho anh biết tai họa.
Hình như ngài hiện lên. Loáng một cái anh quay phắt lại. Ở chính
giữa gốc si gãy đột ngột thò lên một cái gì to bằng nắm tay đủ màu
hồng tía, tiếng thở phì phì. Anh chưa kịp định thần thì cái vật ấy
vụt cao lên suýt nữa chạm vào nách anh. Không kịp nghĩ ngợi, không
kịp lạy ngài, nói tóm lại không kịp một giây để định thần, anh chụp
tay lên cổ con vật đó, di xuống mặt bàn đá. Mắt anh nhắm nghiền lại,
tay miết cổ “ngài”, mài lấy mài để. Cả thân hình anh cứng đờ như một
khúc gỗ. Cánh tay co duỗi một cách điên dại. Cho đến lúc cơn đau ở
đó nhói lên buốt khắp da thịt thì anh mới dần dần hồi tỉnh. Cái đầu
“ngài” đã vạt đi quá nửa và tay anh cũng toạc một miếng khá to vì
bào lên mặt đá. Máu “ngài” trộn lẫn máu anh chảy ròng ròng. Anh
buông tay ra, đứng dậy, run cầm cập. Mặc dầu lúc này anh đã có thể
hiểu ra “ngài” là một con rắn bấy lâu sống trong ruột cây si, cũng
có thể đoán được rằng từ lâu “ngài” quá quen với món lễ của dân chài
xứ biển, chỉ có hôm nay mới bị phỗng tay trên. Anh cũng loáng thoáng
nhận định được sở dĩ “ngài” không phản công được kẻ thù vì cả tấm
thân béo nhẫy của “ngài” bị ngập trong bọng cây... Anh còn đủ chút
trí óc để hiểu ra ngần ấy lý lẽ, tuy thế vẫn không sao kìm nổi cơn
khiếp đảm. Người anh cứ run lên như đang cơn sốt, mắt dại đi, tay
chân không sao cử động được nữa. Mặc dầu vậy, trước lúc co giò chạy
anh vẫn quờ mấy ngón tay tê cóng lên mặt đá nhét hết đống giấy bạc
vào cạp quần.
Câu chuyện ấy đến hôm nay đối với ông chủ Phủ Ái là một trang “anh
hùng ca” bất hủ. Nhưng hồi đó lại là cơn ác mộng khủng khiếp. Không
một đêm nào anh ta không nằm mơ thấy “ngài” hiện lên. Lúc thì “ngài”
thè lưỡi phùng mang thổi phì phì vào mặt. Lúc thì “ngài” quấn lấy cổ
anh mà siết đến tắt thở. Phù Ái sống như một kẻ mất trí, đêm ngủ bần
thần la hét, ngày thì đi vất vưởng lang thang. Nỗi khiếp sợ đẩy anh
ngày một xa rời biển. Phù Ái trở thành kẻ sống bên lề chợ. Từ lúc
nào không rõ anh thành kẻ gánh thuê chuyên nghiệp cho những bà buôn
mây, buôn củi từ Cam Lộ về Đông Hà, Ai Tử.
Phù Ái làm thuê một cách tận tụy và cố quên chuyện cũ. Nhưng hình
như “ngài” vẫn chưa buông tha. “Ngài” nhập vào con gái con bà bán
mây. Đó là một người con gái có cặp môi cong như lưỡi liềm, hai mi
mắt lúc nào cũng sưng húp như khóc. Một cô gái mà công bằng ra thì
chẳng có lấy một nét gì hấp dẫn ngoài bộ ngực chồm ra quá mức và cặp
mông như cái thúng úp vào. Đã thế giọng cô lại ồm ồm như ếch kêu mà
lúc nào cũng cau có quát nạt. Đàn bà mà như thế thử hỏi ai mê được.
Thế mà Phù Ái lại mê, mê đến đờ đẫn cả người, mê trong sự nhẫn nhục
chịu đựng. Rõ ràng “ngài” đã cột được số phận của anh! Anh trở thành
kẻ nô lệ riêng cho con gái bà bán mây, và mười ba năm tận tụy đã làm
cho cô ta sinh được chẵn mười đứa con.
Bây giờ thì vợ Phù Ái đã chết. Nhưng toàn bộ thần khí của bà trút
lại cho đứa con gái đầu, cô Kim Chi.
So với mẹ, Kim Chi vượt xa về mọi mặt. Sắc mặt và hình hài nói chung
đã được tu chỉnh lại một cách khá hấp dẫn. Cặp môi không quá cong
như môi mẹ và đôi mắt cũng không sưng húp. Tuy rằng vẫn cái khuôn
mặt bầu tròn hình bánh đúc, nhưng trên mặt bánh đó tạo hóa đã điểm
được cái sống mũi thẳng và cặp má nhô lên vừa phải khiến kẻ ngoài
nhìn vào cũng cảm thấy rung động. Hơn hẳn mẹ, Kim Chi sinh ra trong
thời Mỹ. Sức sống của cô tràn trề kiểu Mỹ. Cái hấp dẫn nhất có lẽ là
chỗ đó.
Cũng như nhiều gia đình khác, ông chủ Phù Ái phô ra phía ngoài cái
biển sửa chữa ô tô, mặc dầu công việc đó không một ai trong nhà này
trực tiếp nhúng tay vào làm cả. Mỗi một thành viên trong nhà này đều
có một nghề nghiệp riêng, thậm chí họ không biết hết công việc của
nhau, càng không thể nào biết đích xác thu nhập thực tế của mỗi
người. Hàng tháng bốn đứa con lớn góp vào cho bố mỗi đứa năm ngàn để
“gây dựng cơ ngơi chung”. Ông bố thanh toán sòng phẳng với các con
như kiểu chủ nhà băng với các cổ phần.
Nguyễn Viết Lãm – từ nay xin hãy quên giùm anh ta cái tên cũ Hoàng
Lạng – làm thuê cho ông chủ Phù Ái. Công việc không đến nỗi quá sức
anh, nhưng rất bận bịu. Bất kỳ lúc nào cũng có chiếc xe đò, hay xe
tải nhà binh, hay xe Zeep các sĩ quan đỗ xịch trước cửa nhà, thì lập
tức đám người làm phải khoa chân múa tay tỏ vẻ sẵn sàng đáp ứng mọi
yêu cầu của khách. Lãm là người được gọi tên nhiều nhất. “Kà lê
mày!”, “Mỏ lết đâu?”, “Dầu đâu, Lãm!”. Thợ cả giục thợ giúp việc,
thợ giúp việc quát tháo đám phụ việc. Những tiếng chửi tục, lời hò
hét cứ nhặng xị lên. Ai cũng tỏ ra cần mẫn trước chủ, ai cũng cố
chứng minh rằng mình hoàn toàn thành thạo công việc được thuê. Dầu
mỡ lấm lem mặt mũi nhưng không rửa, thậm chí đôi lúc Lãm còn tự quẹt
nhọ lên mặt mình. Bởi nếu không thế làm sao chứng tỏ rằng suốt ngày
mình lăn lê với công việc.
Cái cảm giác trước tiên ập vào đầu Lãm là lúc nào cũng quay cuồng,
cuống quýt trong một tốc độ rất lớn. Gọi chạy, nhào “dô”, vặn, siết,
lao xuống, trèo lên... Cứ vậy, tốc độ chỉ tăng mà không hề giảm. Sau
mỗi ngày làm việc Lãm thấy phạc phờ cả người. Cái mệt nhọc không
phải vì công việc nặng nề mà chính vì thần kinh quá căng trong cái
tiết tấu lúc nào cũng như chữa cháy ấy.
Anh trông chờ đêm xuống. Khi mà cả thị xã ngủ như chết lặng sau một
ngày thở hồng hộc vì tốc độ, thì Lãm lặng lẽ ra bờ ao phía sau nhà.
Chưa tắm vội, anh khoan thai ngồi xuống, thả mình lên tấm ghi trơn
ai đó lót để tắm giặt, anh nhắm mắt lại để tận hưởng làn hơi nước từ
mặt ao đang dìu dịu phả lên. Có khi anh ngủ quên luôn ở đó. Muỗi bám
dày hai cẳng chân, bám khắp mang tai, gò má. Mặc kệ, muỗi không làm
cho người ta căng thẳng như công việc ban ngày. Cứ thế, nhiều lần
thành lệ quen. Cứ đêm đến, hễ mặt đường vắng lặng tiếng xe là Lãm
lại len lén chui ra “yên nghỉ” ở cái thiên đường riêng của mình.
Nhưng rồi Lãm cũng không còn độc quyền được chốn thiên đường ấy và
chẳng thể nghỉ ngơi được yên ổn. Cô con gái vốn mang trong mình
giòng máu “bà chủ của đàn ông” của mẹ, lại cộng thêm cái sắc sảo
kiểu sống Mỹ, đã sớm phát giác ra người đàn ông trẻ mới học việc
trong nhà này có cái sức nặng lầm lì của tính khí. Khác với những
người con trai khác lúc nào cũng tròn hai con mắt nhìn như ngây dại
vào khuôn ngực đồ sộ của cô mỗi khi Kim Chi cố tính chạy từ sau
buồng tắm vào nhà để lấy một chiếc áo lót, hay khăn bông, hay một
bánh xà phòng “bỏ quên”, Lãm thường nhíu quặp đôi lông mày lại và
quay đi, mồm lủm bủm một câu gì đó không ai nghe rõ. Thực tình thì
Lãm không sao hiểu được tại sao lần tắm nào cô ta cũng cứ bỏ quên ở
trong nhà một thứ gì đó để rồi giả vờ ngượng ngập lật đật chạy vào
lấy? Một hai lần, dăm bảy lần bực tức cáu kỉnh như vậy rồi cũng quen
đi. Lãm không hề để mắt đến chuyện ấy nữa. Suốt ngày anh chúi đầu
vào gầm xe, đêm đến lén ra khỏi nhà. Đôi lúc có việc phải chạm đầu
với Kim Chi, anh không chào hỏi, không cười cợt, cứ dửng dưng như
khách qua đường. Chỉ cần tỏ chút thái độ thế thôi, chứ anh cũng đủ
trí khôn để ý thức được rằng, đừng dại dột mà làm phật lòng nhà chủ.
Không nên hở miệng châm chọc một điều gì. Lãm đã sống gần nửa năm
như vậy. Nhưng như một kẻ bơi trong ao bèo, khi anh cố tính quay đi
bơi về phía khác thì đằng sau anh đám bèo cứ bám riết như đỉa đói.
Lãm đã dần dần cảm thấy chuyện đó. Cái “cảm thấy” ngày càng tăng
cùng với sự lo sợ hốt hoảng như kẻ gian linh cảm thấy mình đã bị
phát giác. Những đêm trốn ra bờ ao, ngồi một mình anh thường thấp
thỏm nhớ lại ánh mắt sắc như dao chém của cô gái lớn con ông chủ và
những cú nhoẻn cười bất chợt đầy đe dọa đối với riêng anh. Anh đã
thấy một điều gì đó không yên lành đang chen vào cuộc sống vốn đã
rất tạm bợ của mình.
Đêm nay, một đêm hạ tuần tháng sáu. Trăng lên muộn và méo xệch. Lãm
đã ngồi khá lâu trên tấm ghi trơn, sau đó mới bắt đầu tắm. Tắm cũng
khá lâu. Có chuyện gì mà vội. Trăng không sáng. Cả gió nồm nữa cũng
quá hờ hững, vô tâm. Cái nóng vẫn cứ hầm hập phả ra từ cái tường
gạch, từ những đống sắt ngổn ngang phía bến cảng bên kia quốc lộ, từ
những mái tôn lợp quăn queo trên các mái nhà thấp như nấm. Hình như
từ bất kỳ cái gì trên thị trấn này kể cả thể xác con người ta cũng
đều hầm hập trút ra hơi nóng. Cả thị xã như một lò gạch khổng lồ
chưa nguội lửa. Lãm ngâm mình dưới ao chán chê, rồi để nguyên quần
ướt như vậy mà nằm xoài lên tấm ghi. Cái ướt át lan man bò vào trí
não cùng với sự mệt mỏi khiến mắt Lãm ríu lại. Anh ngủ.
Nhưng bỗng Lãm tỉnh dậy. Có một ngọn gió Lào phả hơi nóng hừng hực
vào mạng sườn anh. Anh tỉnh dậy và giây phút đầu tiên nhận ra rằng
trăng đã lên cao và gió nồm cũng đã thổi mạnh. Thế mà sao bên mạng
sườn anh vẫn phần phật hơi lửa? Loáng một cái liếc mắc, Lãm bỗng run
cả người. Kim Chi! Cô ta ra đây tự bao giờ? Tại sao cô lại ngồi sát
vào mình như vậy? Lãm bối rối tự đặt ra bao câu hỏi. Nhưng cả cơ thể
anh vẫn không hề động đậy. Tuy vậy hình như cô gái sõi đời này đã
biết. Kim Chi đứng dậy nhanh và bước hai bước xuống phiến đá dưới
cầu ao. Có thể cô ta chao chân? Lãm thầm lạy trời cho mọi việc trôi
qua nhanh chóng! Nhưng cũng loáng một cái, Kim Chi đã cởi phăng
chiếc áo. Lãm nhắm nghiền mắt lại. Tim anh đập loạn xạ. Nỗi sợ hãi
làm anh thấy tức thở. Lãm nhắm mắt lại khá lâu. Rồi anh khe khẽ mở
mắt ra. Một cái gì đó choáng ngợp tràn trề trước mặt Lãm. Mà lại
quay chếch về phía anh. Nước khoát tung lên nhiều hạt rơi lép tép
xuống mặt Lãm. Anh vẫn không dám động đậy. Coi như đã ngủ, anh cố
nhắm mắt lại lần nữa. Nhưng lần này ngắn hơn. Anh lại khẽ mở mắt ra
mặc dầu nói có trời chứng giám là anh không hề muốn vậy. Trăng đã
lên khá cao. Những tai nước khoát tung tóe rơi xuống như sao sa.
Muôn vàn hạt sao sa quanh khối châu báu đang được tiết lộ và phô
diễn.
Lại một ngày mới. Vẫn những vòng quay tít mù như vậy. Vẫn hồng hộng
tốc độ như vậy. Lại leo lên trần xe, chui xuống gầm, chạy vội, kờ -
lê vặn, siết: gõ côm cốp vào máy phát điện, đạp bản đề, quay ma – ni
– ven, tháo lốp... Vẫn thế và vẫn thế. Nhưng đối với Lãm đã có một
cái gì đó không còn như thế. Nắng hình như gay gắt hơn, bức bối hơn,
và khát. Chao ôi, sao mà lúc nào cũng cảm thấy khát đến cháy cổ. Anh
uống nước ừng ực. Mồ hôi tràn trề da thịt, lại uống nữa. Nhưng vẫn
khát. Mỗi lần Kim Chi đi qua chỗ anh, ném một ánh mắt, quẳng một nụ
cười, thế là cơn khát lại ứ lên, nghẹn tắc ở cổ. Đồng thời với nỗi
khát là sự sợ hãi. Hình như ông chủ nhìn anh với con mắt khác lạ?
Những người thợ cũng nhìn anh thóc mách, nghi kỵ? Cả đám trẻ con
trong nhà này cũng vậy? Tất cả chỉ mới là hình như trong sự mặc cảm
vốn đã thành bản năng tự vệ của anh. Lãm vừa xấu hổ vừa căm uất. Đầu
anh càng cúi gằm xuống. Tại sao lại để cho mọi người khinh mình?
Không thể được. Cả cái xã hội này vốn đã khinh mình vì mình là thằng
thanh niên ngoài Bắc vào. Mặc dù ở đây tung tích anh đã được bịt
kín, nhưng lúc nào Lãm cũng có cảm giác rằng người ta đã phát giác
ra anh bởi vì anh không thể nào hòa hợp được với xung quanh. Cái
dáng đi khác họ, kiểu cười cũng không giống họ. Anh đã tập cáu kỉnh
và chửi tục nhưng xem ra cũng không giống tụi thanh niên trong này.
Anh cũng đã kiếm được một chiếc quần chật ống và loe rộng phía dưới,
song vẫn cứ bứt rứt trong người vì vẫn thấy chưa ra dân gốc ở đây.
Thật là điên tiết, Lãm thường nghiến răng hậm hực. Tất cả đang khinh
mình thì mình cũng căm ghét tất cả. Đếch cần.
Nhưng riêng lần này thì nhục quá. Nhục đến mức không thể ngẩng đầu
lên được.
- Cái ngày ấy... hà... bây chừ nói lại chẳng ai tin, nhưng con rắn
thần kia rõ ràng bằng cái lốp Hon – đa chứ không ít...
Lão Phù Ái thỉnh thoảng lại hứng chí ca lại “bản trường ca” bất hủ
của mình. Lãm đã nghe không biết đến mấy chục lần. Anh có thể nhận
rõ ràng là bịa, thậm chí có chỗ đại bịa nữa. Ví dụ như đoạn nói
rằng, sau này khi Phù Ái đã lấy vợ và một bầy con rồi, tự nhiên một
hôm đến ngày rằm, chỉ vì lỡ một chuyến hàng mây nên chậm về thắp
hương, cả bầy con của lão tự nhiên lăn đùng ra ôm lấy nhau quằn quại
giữa nhà y như một bầy rắn. Lão cam đoan rằng lúc đó nhìn hình dáng
và điệu bộ chúng nó hoàn toàn giống rắn. Chuyện như vậy thì nghe cho
nó vui tai chứ tin làm sao được!
Nhưng mà hôm nay, sau cái điệp khúc “thân rắn” của lão già thì Kim
Chi lại lừ lừ đi từ buồng trong ra. Cô mặc một chiếc áo sọc đen
ngoằn ngoèo, dáng đi ỏn ẻn, uốn lượn. Bất chợt cô ngồi sà xuống sát
Lãm, chồm cả ngực lên vai Lãm và vươn cái đầu ra phía bố ra vẻ như
đang nghe chuyện một cách hấp dẫn. Lãm rùng mình đảo vội mắt về phía
đám thợ xem thử có ai để ý đến mình không? May mà không. Hoặc người
ta giả đò không để ý. Người Kim Chi vẫn vắt chéo qua vai Lãm. Bất
giác Lãm nhận thấy Kim Chi có nét gì đó không bình thường, một nét
gì đó thật khủng khiếp. Và đột ngột anh tin “thần rắn” vẫn đang ở
trong nhà này.
2
Chiếc xe đò chở khách từ Cùa về đến quá quận Cam Lộ thì trời đã tối
hắn. Khách xuống rải rác dọc đường, một số đông xuống Cam Lộ. Lúc
này trên xe chỉ còn độ bốn năm người. Ngọn đèn vàng bợt hắt sáng
xuống mặt đường nhựa. Lái xe là một người già, tóc lởm chởm, râu lơ
thơ vòng quanh mép. Phía sau thùng xe, cậu “ét” vịn tay vào cửa
thùng, ép sát má vào thành sắt ra dáng mệt mỏi. Bỗng chiếc xe chạy
chậm lại rồi dừng hẳn. Cậu phụ xe nhoài người ra nhìn. Một tốp thanh
niên đang đưa tay vẫy. Không có hành lý. Cậu “ét” mở toang cửa sau
thùng xe rồi buông xẵng giọng: “Lẹ lên!”. Đám thanh niên chạy ào
lên. Có vài cậu nhảy phía cửa trước. Cậu “ét” lại xẵng một tiếng
nữa: “Lên sau này!”. Nhưng chẳng ai nghe. Cậu “ét” đảo một vòng mắt,
nhẩm đếm. Năm, sáu, tám người. Cậu chìa tay ra, lạnh lùng: “Mới lên
cho tiền!”.
Ục. Một quả đấm đột ngột giáng vào chính giữa mặt người phụ xe. Anh
chưa kịp phản ứng thì “ục, ục” liền mấy cú nữa. Anh xỉu xuống. Có
tiếng la hét xa xôi, văng vẳng. Tiếng xe máy rú lên đâu đó xa vời
rồi tắt hẳn. Lâu lắm, có lẽ phải gần một giờ sau anh mới tỉnh lại.
- Có đau lắm không con?
Người chủ xe cúi xuống. Tiếng ông như lẫn cả nước mắt. Lãm cố mở mắt
ra, miệng tanh lợm mùi máu. Má ở đâu hè?
- Chi rứa chú?
Người chủ xe thở dài một tiếng. Lát sau ông lầu bầu trong cổ:
- Tụi trấn lột... Đ.mạ cái bọn vô hậu.
Lãm cố chồm người dậy nhưng ngực buốt nhói như có ai cầm lấy tim mà
bóp. Anh lại thả đầu xuống, tiếng thở thều thào:
- Có bị mất nhiều không chú?
- Trụi lụi. Cả một ngày đổ mồ hôi sôi nước mắt bị nó lột sạch. Cha
tổ nội đồ ăn cướp.
Rồi đột ngột ông gục mặt xuống khóc hu hu.
Lãm đã xin nghỉ việc ở nhà Phù Ái với lý do tự bịa ra là mẹ bị ốm
nặng. Sau một tháng lêu lổng, anh lại kiếm được việc làm mới: phụ xe
cho ông Cống.
Công việc này kể ra cũng có chút thú vị hơn ở nhà Phù Ái, mặc dù về
tốc độ còn khẩn trương gấp nhiều lần. Khoái nhất là cuộc đi xa.
Chiếc xe đò rách bươm của nhà ông Cống thuộc loại xe không cam tâm
chịu một cung đường nào nhất định. Khi thì chạy tuyến Cam Lộ, có lúc
vượt thẳng lên đến chợ Cùa. Có lúc lại vào Diên Sanh, cũng đôi lần
vút tận Huế. Mặc dù phải vật lộn với đám buôn chuyến trên thùng xe
đến mướt mồ hôi nhưng Lãm vẫn có được cái khoái chí là rong ruổi
khắp mọi nơi. Sau hơn nửa năm phụ việc sửa xe ở nhà Phù Ái, cộng với
sự thông minh, vốn có của mình Lãm đã có chút tay nghề tạm gọi là
lanh lẹ. Thế nên ông Cống tỏ ra khoái cậu “ét” mới. Ông gọi Lãm bằng
con, Lãm kêu ông bằng chú. Khách đi xe đinh ninh họ là chú cháu
ruột.
Ông Cống không phải là chủ một hãng xe lớn. Vốn liếng của ông chủ
yếu nhờ ở bà vợ buôn dừa. Một thời trẻ trung, bà Cống từng qua tận
Hồng Công hoặc Mã Lai áp tải dừa về đến Đà Nẵng, Huế. Nhưng chẳng
được nhiều. Tiền vào chẳng bù nổi tiền ra. Bà nghén tám lần mà sa
mất năm. Sức khỏe ngày một kiệt. Ông tậu được chiếc xe nhưng không
ai đi “ét” vì ba con của ông đều là con gái. Bà Cống phải đi phụ xe,
cốt là thu tiền chứ còn quay máy, buộc hàng lên nóc thì tự ông phải
làm lấy. Rồi đến khi bà yếu không đi nổi nữa thì cô con gái lớn đi
thay. Nay đến lượt con gái lấy chồng. Cái số nhà ông đưa đẩy thế nào
lại tìm được một anh phụ xe nhanh nhẩu như Lãm. Thành thử hai người
đều quý nhau thực sự như những con người trong vận hạn cần sự bấu
víu che chở lẫn nhau.
Sau đêm bị bọn cướp chặn đường, ông Cống ngừng chạy xe. Ông làm đơn
trình lên cảnh sát quận. Bốn ngày trôi qua chẳng có hy vọng gì.
Lãm đã khỏe trở lại. Ông Cống lên gặp cảnh sát lần nữa. Họ trả lời
với ông rằng cảnh sát đang được lệnh truy tìm thủ phạm. Ông lại thấp
thỏm chờ đợi.
Đêm đó Lãm bắc chiếc ghế dưới giàn đỗ ván ngồi hóng gió. Tháng tám
mưa nhiều, thị xã dễ chịu hơn. Gió nồm thường lên sớm và sương giăng
li ti trong màu sáng nhợt nhạt của đèn đường. Tự dưng Lãm thấy buồn.
Có nỗi nhớ vô định hướng len lỏi trong tâm khảm anh, cũng như trong
lịch trình cuộc đời, chẳng có cái gì ổn định. Có chăng là sự cô đơn
trơ trọi. Những ngày ở miền Bắc anh đã tự tách mình ra vì tự cho
rằng mình là dòng dõi gia đình có nợ máu với cách mạng. Những ngày ở
miền Nam anh cũng không thể hòa nhập được vì lại tự thấy dầu sao
mình cũng là một thằng ở thế giới khác lọt vào. Còn gia đình ư? Lại
càng không có chỗ cho nỗi nhớ kết tổ... Thế nhưng anh vẫn nhớ một
cái gì đó? Hình như đó là sự bình lặng của tuổi thơ. Dầu sao anh
cũng đã có một tuổi thơ yên vui trên đất Bắc, mặc dù hồi ấy anh
không thể ý thức được đấy là một hạnh phúc.
Trăng lên, Trăng nhàn nhạt trong sương. Cả ánh đèn điện nữa cũng
không đủ sáng. Cái tiềm thức của Lãm giờ này như nhòe vào trong màn
sáng mơ hồ kia. Hình như ngoài đó đang bị ném bom? Anh nghe những
người khách đi xe kháo chuyện với nhau như vậy. Nghĩa là hai bên đã
choảng nhau. Thật khó mà mường tượng hết những gì đã thay đổi. Nhưng
Lãm thấy buồn. Khoảng yên ổn trong nỗi nhớ của anh cũng đã bị xáo
trộn.
Có một người lù lừ bước vào cổng. Lãm nhìn thấy nhưng không để ý.
Lòng anh đang tan loãng trong một cơn buồn man mác như sương rơi.
Người đó bước lại gần Lãm. Một hương vị lạ phả tràn mặt anh.
- Anh Lãm làm cao dữ hí. Gặp nhau không được lấy tiếng chào!
Lãm như bừng tỉnh. Hai chân anh luống cuống đứng lên nhưng cả thân
hình lại gắn bệt xuống ghế. Trời ơi, ma quỷ nào lại dẫn nó đến đây?
Miệng Lãm líu lại nói không thành câu:
- Cô... Kim Chi... đến...
- Phải rồi – Kim Chi cười to một cách lộ liễu - ở đây dễ chịu hí?
- Dạ... mát lắm.
- Không, tôi nói ở với cái ông chủ mới này cơ, hẳn là hậu hĩ lắm nên
anh mới bỏ việc nhà tôi.
Lãm cố nén cái giọng mất bình tĩnh của mình để tỏ ra cứng rắn:
- Đừng nói vậy mà tội cô Chi ạ. Mẹ tôi ốm nặng, tôi phải tạm nghỉ
việc. Rồi chạy vạy được ít tiền thuốc thang cho mẹ, nay phải làm trả
công cho người ta.
Kim chi bỗng cười khanh khách:
- Giỏi thiệt. Răng anh không nhập bọn với một gánh tuồng...
- Cô Kim Chi bảo tôi nói dối?
Kim Chi bất ngờ đập một tay lên vai Lãm. Anh cố né tránh nhưng không
kịp. Bàn tay con gái đã áp chặt như một quả tạ đè bẹp anh xuống ghế.
Một chân Kim Chi cũng đột ngột đạp lên mép chiếc ghế. Cử chỉ suồng
sã quá khiến Lãm nhíu chằng mày lại.
- Thứ nhứt, anh không hề có một người mẹ nào ở vùng này cả. Ở đây
anh chỉ có bà thím. Thứ hai anh không hề vay mượn tiền nong gì lão
Cống này cả.
- Này, này...
- Im nào, Kim Chi đã đến tận nhà thím anh rồi. Nhưng thôi, chẳng nói
chuyện đó nữa. Đừng có trợn mắt lên thế, Kim Chi không biết sợ đâu.
Chỉ khuyên anh không nên nói dối...
Lãm thấy khó thở, anh xoay xoay người trên ghế:
- Việc chi mà... cô điều tra dữ vậy?
- Phải điều tra chứ. Tự nhiên vắng anh, tôi... tôi mất thăng bằng
quá sá...
- Này, đừng có giỡn hoài.
- Ai giỡn? Chẳng lẽ anh không biết tôi yêu anh à?
Lãm há tròn miệng ra. Còn Kim Chi thì bỗng nhiên nổi cáu:
- Đồ phụ bạc. Tôi tưởng anh phải khác người ta kia. Không ngờ cũng
là một tuồng cả...
Lãm cũng bắt đầu cáu:
- Cô bảo cái tuồng chi?
- Hừ, anh còn lạ lắm à? Tất tật đàn ông ở cái vùng này đều là đồ chó
má cả.
- Hỗn.
- Phải, tôi hỗn thế đấy. Nếu không thì đã bị ăn thịt từ lâu rồi.
Lãm thấy ngán ngẩm thật sự. Anh không ngờ câu chuyện lại đẩy đến mức
này.
- Thôi, cứ cho rằng cô có lý. Nhưng bây giờ... tôi là người làm của
ông Cống. Tôi với cô chẳng cho chi dính líu nhau cả...
Kim Chi bất ngờ quay phắt lại:
- Bai hả? Cũng được. Nhưng có mở đầu thì phải có kết thúc chứ?
- Thế là thế nào?
Kim Chi hạ chân trên ghế xuống đất, khoanh tay lên ngực và hơi quay
người đi:
- Đêm mai bằng chừ, hẹn gặp anh ở bãi sông gần Cảng.
- Không. Không đời mô tôi đến cả.
- Tôi đợi...
- Mặc cô. Đừng hòng tôi đến.
- Nhất định anh sẽ đến.
- Gớm chưa? Tôi ghê tởm cô, hiểu chưa?
- Hiểu. Đêm mai bằng giờ nghe! Bai!
“Không bao giờ”, “nhất định thế”. Suốt đêm đó, suốt cả ngày hôm sau
nữa, Lãm cứ vật vã đến nôn nao vì quyết tâm đó. Ông Cống quyết định
chạy xe nhưng đổi vào tuyến Diên Sanh. Đường êm như rải nhung. Nhưng
người Lãm cứ thỉnh thoảng lại nảy xốc lên cùng với tiếng kêu thảng
thốt ở trong đầu: “Không đến!”, “không thèm nghĩ tới”.
Nhưng vẫn nghĩ. Lạ quá, Lãm cố xua đuổi bao nhiêu thì ý nghĩ quái gở
ấy lại lồng lên. Trong anh vừa có sự ghê tởm, vừa cảm thấy hãi hùng,
nhưng len vào đó – mà mỗi lúc lại mạnh mẽ thêm lên – cảm giác khao
khát.
Mới hơn mười bảy tuổi đầu, anh chẳng có chút suy tư gì phức tạp về
chuyện này, cũng không mường tượng nổi những gì sẽ xảy ra, xảy ra
như thế nào? Chỉ láng máng trong đầu dăm trang sách tình yêu và mấy
lần bắt buộc ngồi nghe đám thợ ở nhà Phù Ái tán chuyện tục tĩu. Từ
trước tới nay anh vẫn coi những chuyện ấy là chuyện của người lớn
hơn, của kẻ khác. Và cũng không phải không có lần anh lóe lên ý
nghĩ, tại sao mình không thể có được những chuyện ấy? Ở lứa tuổi anh
đối chọi với bản thể ngây thơ là những ham muốn già dặn. Ai cũng
mong mình được thừa nhận là già dặn.
Lãm ăn cơm chiều vội vã. Vội vã trong cảm giác chạy trốn. Hớp vội
ngụm nước, Lãm đi nhanh ra đường cái. Đường hãy còn đông người. Lãm
cúi đầu cuốc bộ, cố tình lẩn tránh mọi người. Thực ra có ai để tâm
đến anh đâu. Lãm lang thang vòng qua khu chợ, len lỏi vào tận những
ngõ phố tối như bịt mắt. Ngột ngạt quá. Ở những lối phố này gió
chiều nào cũng không vào được. Anh nhoi ra hướng cửa sông. Gặp gió.
Gió táp phầm phập vào mặt anh. Nhưng sao vẫn khó chịu. Có cái gì đó
không tháo gỡ được trong cõi vô thức của anh. Lại đi nữa, Lãm ra đến
đầu cầu. Ở đây có dễ chịu hơn đôi chút. Anh cứ lần theo cảm giác dễ
chịu ấy mà mon men đến đầu bến cảng. Cái dễ chịu đang gậm nhấm anh
trong cảm giác đê mê. Đi nữa, thậm chí còn bước vội hơn, bước lập
cập như chạy. Rồi thì lúc nào đó không rõ, người anh run lên như
đang sốt. Mà đúng thật, anh đang sốt. Cả người hâm hấp nóng, mồ hôi
vã ra. Anh chạy. Ngực dội tràn trề hơi thở. Vượt qua một mặt bằng
rộng rãi, anh len vào phía có những đụn cao sắt thép. Gió thổi ào
ào. Hơi sắt gỉ phả ra hừng hực. Cảm giác nóng, lạnh trộn lẫn nhau.
Rồi đột ngột anh đứng sững lại. Kim Chi! Tại sao mình lại đến đây
hè? Chao ôi là ngu, ngu hơn con bò. Lãm run rẩy và bất lực.
- Có vẻ vội rứa ông anh? Kim Chi nói nhỏ nhưng giọng cô cũng run
run.
- Chẳng vội...
Lãm nói rồi, bất ngờ bước nhanh tới một bước. Ở đó, đúng vào phía
trước bàn chân anh, Kim Chi đã đợi sẵn. Hai vòng tay đột ngột ôm
choàng vào nhau, ghì chặt...
Lúc này, phía trên thị xã bất ngờ rú lên một hồi còi. Có tiếng xe rú
máy. Hình như cảnh sát đang săn đuổi một toán cướp. Đêm nào chẳng
thế. Nhưng vào hoàn cảnh này cả hai người dưới bến cảng đều bỗng
thấy sợ hãi. Sự sợ hãi chen trong đam mê. Và sự đam mê nhận ngập họ
ngồi bệt xuống đất, rồi lại xoài mình ra như những thỏi sắt đang hầm
hập lên nhiệt. Đầu óc Lãm mụ lại tối tăm như mặt sắt gỉ. Bất ngờ Kim
Chi ngồi vọt dậy, xốc lại tà áo:
- Hám dữ vậy, ông nội?...
- Em... em chiều anh...
- Con nít.
Lãm đỏ bừng mặt, véo vào chân cô gái:
- Đừng giả đò nữa. Này...
Sau tiếng “này” hoặc là đồng thời với tiếng ấy, chắc chắn Lãm đã có
một động tác gì đó khá quyết liệt. Nhưng bất ngờ một tiếng “bép”
vang lên giòn như tiếng cá đớp mồi. Lãm sững người. Phải mấy giây
sau anh mới ý thức được rằng mình bị tát. Một cơn uất giận tràn lên
chẹn họng anh. Nhưng anh chưa kịp làm gì thì Kim Chi đã đứng dậy. Cô
đứng dậy ngay trước mặt Lãm phủi cát trên quần áo và ngẩng thẳng mặt
bước đi. Lãm vẫn ngồi chết nghẹn bởi uất ức. Cho đến khi bóng Kim
Chi nhòa vào trong những bóng đen sắt thép thì Lãm mới rít lên được
một câu trả thù: “Đồ rắn độc!”.
Có một sự việc nghiêm trọng đã xảy ra trong lúc Lãm đang ngập chìm
trong sự đam mê ngu ngốc ở bến cảng. Một toán cướp đã trấn lột nhà
ông Cống. Cả hai vợ chồng ông Cống đều bị trói chặt vào buồng và hai
tên cầm dao nhọn dí vào bụng hai cô gái. Nếu một trong bốn người lên
tiếng thì máu sẽ chảy. Chúng lần lượt khuân đồ đạc ra khỏi nhà,
không trừ lại một vật gì đáng giá vài trăm bạc. Chưa hả hê, toán
cướp còn mở nắp đầu xe, tháo bộ máy phát điện và bình ác quy. Sau
khi chuyển đi một cách êm thấm mọi của cải, một trong hai tên cầm
dao nhọn từ trong buồng bước ra, dùng sơn quệt lên tường dòng chữ
nguệch ngoạc: “Hãy dựa vào cảnh sát mà sống”.
Lãm về đến nhà nhìn thấy cảnh tang thương ấy mà không cầm được nước
mắt. Ông Cống ngồi rũ rượi ở góc nhà. Bà Cống khóc đã khản tiếng,
thỉnh thoảng lại rú lên như con bệnh cuồng dại. Bà nhai đi nhai lại
một lời oán trách chồng:
- Đã bảo đừng có thưa trình với cảnh sát nữa... Rứa mà cứ ...
hu...hu...
Cũng có nhiều người đến thăm. Cũng thở ngắn than dài. Vài ba lời
chửi đổng. Một ông thợ gò thùng ở cuối phố sau một lúc nghiền ngẫm
như một nhà triết gia thì buông thành lời tán đồng ý kiến của bà
Cống:
- Thím nói đúng. Giá như chuyện bữa trước nhà mình cứ cho qua đi,
đừng chạy lên chạy xuống cảnh sát nữa thì chắc chúng nó không đến
nỗi mò vào tận nhà mình đâu. Thực là dại.
3
Như vậy là ý đồ trả đũa của toán cướp rất rõ. Không chỉ cuỗm hết tài
sản trong nhà mà còn cố tình không cho ông Cống tiếp tục chạy xe
nữa. Lãm bước ra khỏi nhà ông Cống trong một nỗi buồn tê tái. Có
chen chút ân hận. Giá như đêm đó anh đừng ra cảng. Anh có thể làm
được gì nếu có mặt anh ở nhà lúc sự việc xảy ra? Chẳng phải anh cũng
đã chạm trán một lần và chuốc lấy sự đau đớn đến ê ẩm thân xác đó
sao? Tuy vậy, thà thế còn hơn.
Lãm không nỡ lấy tiền công tháng ấy. Anh lang thang ra chợ. Chẳng
còn một nơi nào bấu víu. Nhưng anh không thể đi xin. Nhục nhã quá.
Lại càng không thể móc túi. Tàn ác bất lương quá. Dầu sao mình cũng
là thằng thanh niên miền Bắc vào, chết gục vì đói thì chớ cũng không
bắt chước đám bụi đời ở đây được.
Nhưng đói là một thực tế không cách chi lẩn tránh nổi. Cái đói làm
đôi chân Lãm không lang thang được mãi. Lãm ngồi bệt xuống một góc
chợ, lòng tan nát trong bao nỗi u uất và cô quạnh. Ừ, có lẽ mình là
người cô quạnh nhất trên đời. Chưa bao giờ lại thấy cồn cào thèm
khát một quê hương, một gia đình như những ngày hôm nay.
Trên đời này có mấy kẻ phiêu diêu, cô độc như anh? Họ sẽ sống bằng
gì trong những ngày đầu tiên? Lãm cố nghĩ. Chuyện chàng Rô – bin –
xơn thì không thể học được. Chuyện vợ chồng An Tiêm ra đảo cũng
không thể noi theo. Bởi Rô – bin – xơn hay An Tiêm sống được trước
hết nhờ có được một mảnh đất riêng. Có đất mới tính đến chuyện gieo
lúa, trồng dưa chứ. Còn chuyện ông Phù Ái? Mười phần thì nói phét
hết chín. Ờ, nhưng cái phần còn lại vẫn có thể tin được. Phải lắm.
Một con người bơ vơ có thể bắt đầu từ bên lề chợ. Công việc là gánh
thuê. Có lý lắm. Lãm chợt vùng dậy đảo mắt nhìn quanh. Chợ tan rồi.
Hôm nay đành nhịn đói. Nhưng ngày mai... ngày mai ta sẽ là một Phù
Ái.
Chỗ nào có quang gánh nặng, có thùng hòm to, có những bì tải lấm láp
bùn đất là chỗ đó có mặt Lãm. Lúc đầu còn e dè, Lãm thường kiên trì
đứng cho đến khi nào có một lời nhờ cậy chính thức mới ghé vai vào.
Nhưng những lời tử tế thì hiếm mà tiếng quát mắng đầy quyền thế lại
nhiều. Thôi, cũng được. Miễn là người ta vẫn cần mình. Dầu sao họ
vẫn cần thì mới nhắc đến mình, còn quát mắng là tính nết đương nhiên
của những người có tiền bạc. Dần dần Lãm mất hết sĩ diện, coi thường
tất cả. Không đợi lời mời, cũng không chờ quát mắng, anh cứ xông bừa
vào. Cứ làm, cứ đòi tiền. Có xua đuổi cũng bâu vào. Rồi mỗi kẻ một
đường, ai biết mình là ai. Lãm tự an ủi vậy.
Một buổi tối – những biến cố trong cuộc đời Lãm hay bắt đầu bằng
những buổi tối – khi ác gian hàng xén đã phủ kín vải nhựa, những chủ
hàng nằm đủ kiểu vất vưởng gối đầu, kê chân lên hàng, vừa nhai cái
gì đó trong mồm vừa lim dim ngủ thì Lãm cũng lúi húi tìm cho mình
một góc nhà khô ráo nhất trong cái đình chợ nhão nhoẹt nước ấy để
ngả lưng. Bất ngờ có tiếng gọi:
- Này anh...
Rõ ràng có tiếng gọi. Lãm nghe sát bên tai nhưng vẫn tảng lờ. Bởi đã
chắc gì người ta gọi mình. Lúc này không còn là lúc mà bất kỳ tiếng
gọi nào cũng làm anh hớt hải chạy đến.
- Anh chi đó ơi... giúp cho tay nè...
Bất đắc dĩ Lãm quay lại. Một cô gái đang nhìn anh, ánh mắt vừa có vẻ
cầu van lại vừa đầy lưỡng lự, thăm dò.
- Mệt rồi.
- Gắng chút xíu. Em cũng mệt phờ ra đây.
Cô giá vừa nói vừa quệt tay áo lên mặt. Có lẽ cô cũng không ít tuổi
hơn Lãm. Nhưng dáng bộ hình hài Lãm trong những ngày này ai cũng
phải đoán anh trên dưới hăm lăm, hăm sáu. Lãm biết vậy và anh thường
cố tình cau mày lại cho có vẻ già hơn.
- Răng chừ mới dọn hàng?
- Không. Em không phải dọn ở chợ mà cất hàng từ Huế ra. Xe chót mà.
- Hàng chi?
- Sắt.
Lãm chần chừ một tý rồi cất bước. Cô gái chạy trước, vừa chạy vừa kể
lể nỗi vất vả của việc chạy hàng. Lãm đi nước sải, đầu cúi thấp,
không nói không rằng. Nhưng anh vẫn để tai nghe. Nghe mà chẳng hiểu
gì cả. Anh chỉ nhận thấy một điều, cô gái nói chuyện rất dễ ưa.
Hai bì tải sắt vụ được chất vào hai chiếc gióng sắt. Đòn gánh là một
đoạn tre già. Lãm ướm thử lên vai, nặng đến mức muốn đùn các đốt cột
sống lại. Tuy vậy, anh vẫn bước đi. Cô gái vẫn ở phía trước nhưng
bước có chậm hơn. Họ đi men phía dưới chợ, tắt ngang qua hai ngõ phố
tối om rồi rẽ lên theo hướng đường 9. Đau vai quá. Cái gộc tre như
cưa, như xé vào vai Lãm. Rất nhiều lần bước hụt chân vì một ổ gà
trên ngõ tối, cả người Lãm ngã chúi về phía trước, gánh sắt được thể
dồn tới như muốn đè bẹp anh. Lãm định đặt xuống nghỉ một tý, nhưng
máu sĩ diện nổi lên, anh cắn răng bước tiếp.
- Đây rồi, rẽ vô đây anh. May quá, đặt xuống đi! Mạ ơi. Ba ơi! Mở
cửa...
- Con Hòa phải không? Răng về tối rứa?
Tiếng cửa kẹt mở. Một người đàn ông ốm yếu bước ra tay bê chiếc đèn
dầu.
- Có hàng à? Mấy yến?
Cô gái vừa thở vừa bước vào nhà:
- Tạ mốt. Nặng hết hồn. May mà... à, vô đây đã anh!
Lãm đang sửng sốt vì số lượng hàng vừa đặt trên vai, nghe tiếng gọi
anh bỗng lúng túng:
- Dạ... thôi. Tôi phải về.
Người đàn ông cầm đèn đưa cao lên soi ánh sáng vào mặt Lãm:
- Anh về đâu? Nhà ở chỗ nào?
Lãm cúi đầu không nói. Một nỗi đau nhói lên trong ngực anh, còn đau
hơn nhiều lần vết xước trên vai.
- Anh ấy thường ngủ ở chợ ba ạ - cô gái đã bê ra một cốc to nước.
Anh uống nước đi. May mà có anh chứ không thì em chịu chết.
Lãm hơi ngờ vực trước những lời đầy ơn nghĩa đó. Có gì mà ơn huệ kia
chứ. Kẻ có tiền bỏ ra thuê, đời nào lại đi cám ơn nhưng thằng vai u
thịt bắp. Hay họ định lấy lời ngọt mát ấy để bớt tiền? Đúng là dại,
mình không hỏi giá trước.. Ừ, sao ngốc thế!
- Anh vào nhà tí đã.
Người đàn ông nói vậy rồi bước ra ướm thử tay vào bỉ tải.
- Chết thật, thế này thì... ái chà.
Ông ngần ngừ nhìn cậu thanh niên, lúng túng như người có lỗi.
- Chà, phiền quá, nhưng có lẽ nhờ anh gắng cho một đoạn vô trong
kia...
Lãm khẽ thở dài. Đúng là đã đa mang thì phải đèo bòng. Anh khom
người xuống, đặt gộc tre lên vai. Lần này thì quá nặng. Lãm đã mấy
lần liền mới nhấc nổi hai bì sắt lên khỏi mặt đất. Lãm bước đi chếnh
choáng. Người đàn ông hấp tấp đi trước soi đường chúi qua chiếc máng
hứng nước, họ bước vào nhà trong. Một gian lều bừa bộn những sắt
thép, than củi.
- Thôi được rồi, may quá! Cứ vứt đó đã. Anh lên trên ni uống nước...
Người đàn ông cầm đèn đi trước, Lãm lặng lẽ theo sau. Cô con gái lúc
này đã thay bộ đồ mới. Khuôn mặt vẫn hừng đỏ và lấm tấm mồ hôi. Bà
mẹ đang lúi húi dọn cơm cũng ngẩng dậy chào anh. Một không khí thân
mật có vẻ như không dối trá. Lãm bình tâm trở lại. Anh đỡ cốc nước
trên tay cô gái đưa lên uống và sửng sốt nhận ra, cốc nước có pha
bột xi – rô.
- Chà, anh khỏe dễ sợ. Ngày tôi còn trẻ cũng khỏe lắm, nhưng chắc
chắn không bì được anh. Rứa nhà ở đâu?
Người bố lại vô tình nhắc câu hỏi cũ.
- Dạ... cháu không có nhà. Cháu gánh thuê ở chợ để kiếm sống...
Lãm quyết định gạt mọi sĩ diện để nói thẳng ra như vậy, cốt là ngăn
ngừa cái trò ăn quỵt nếu sự tử tế kia có động cơ ấy. Nhưng hình như
cả nhà không ai bận tâm đến dụng ý của anh. Họ vẫn niềm nở thực sự.
- Anh ngồi ăn cơm rau với em nó.
Đến lượt bà mẹ nhìn anh.
- Dạ không, cháu ăn no rồi mà...
- No gì. Cơm hàng cháo chợ... Bà chợt thở dài – cái sức vóc ấy mà ăn
uống vất vưởng thì chả mấy chốc rồi cũng tàn tạ. Tui coi bộ anh cũng
hiền, sao không kiếm việc gì mà làm, lại lăn ra giữa chợ?
Cực chẳng đã Lãm phải tiếp chuyện:
- Trước đây cháu cũng có việc... nhưng chừ thì...
- Bị đuổi à?
- Dạ không. Nhà chủ tốt lắm. Nhưng hoàn cảnh khó quá không thuê nổi
người làm nữa.
Bà mẹ gặt gù có vẻ am hiểu:
- Chắc là vỡ nợ? Buôn bán thời này nó thế đó...
- Dạ không. Nhà bị nạn chứ không phải vỡ nợ.
Câu chuyện khiến cả nhà tò mò hơn:
- Nạn chi? Cháy à?
- Không ạ. Bị cướp.
Cô gái bất ngờ reo lên:
- A, hay là nhà ông Cống?
- Cô có biết à?
- Thôi đúng rồi. Hèn chi em cứ ngờ ngợ. Ba ơi, anh đây là “ét” xe
nhà ông Cống đó. Con đã hai lần đi xe nhà đó mà.
Người bố rướn to mắt lên, gật gù:
- Ra thế. Nhà ấy cũng là một nhà tử tế. Tội nghiệp...
Không ngờ câu chuyện lại trở nên thân mật thật sự, Lãm thấy yên tâm
hẳn. Và thật là quái quỷ, khi sự ngờ vực lắng xuống thì cơn đói lại
trỗi dậy cấu xé. Thế nên đến khi cô gái đích thân so đũa đưa lên mời
thì Lãm chỉ lắc đầu một cách yếu ớt, rồi ngần ngừ đưa tay đỡ lấy. Cả
nhà bỗng vui hơn:
- Ăn đi anh. Cơm dưa thôi, cũng là nhà nghèo mà. Nhưng cứ ăn cho no
bụng.
Để lấy lại sự tự chủ và cố tình không để người ta coi khinh mình,
Lãm ăn một cách dè dặt và chủ động kể lại câu chuyện cướp giật ở nhà
ông Cống. Sự căm phẫn của anh đã truyền sang mọi người. Ông bố lầu
bầu chửi. Còn cô Hòa – Lãm cố nhớ cái tên đó – thì nhìn như dán mắt
vào anh suốt bữa cơm. Lần đầu tiên sau bao ngày long đong, vất
vưởng, Lãm lại được sống trong một khung cảnh đầm ấm và cảm thương.
Anh ăn ít, đặt đũa xuống trước. Khánh Hòa cũng bỏ bát bê vội cả mâm
ra rửa. Lãm tự thấy không nên ngồi lâu, câu chuyện sẽ nhạt, niềm cảm
mến sẽ vơi đi, anh muốn rút nhanh khỏi căn nhà để được mang nguyên
vẹn không gian ấm áp ở đây mà bước tiếp những đêm dài cô độc.
- Thôi, chừ cháu chào hai bác và ... cô, cháu phải về.
Bà mẹ nhíu nhanh đôi mày lại:
- Về đâu? Về chợ ư? Tội gì phải hấp tấp vậy. Cứ ngủ lại đây cũng
được.
- Cảm ơn bác. Cháu ngủ chợ quen rồi...
Người bố quay vào trong một tí rồi chạy ra hấp tấp giúi vào tay Lãm
mấy tờ giấy bạc, Lãm gạt đi.
- Thôi... cháu giúp cô một lát thôi...
- Đừng. Làm công thì phải có tiền công. Đêm tối, hàng nặng mà anh
tận tình cho thế là may lắm rồi. Cầm lấy.
Dĩ nhiên Lãm không từ chối thêm lần nữa, bởi anh biết đêm nay, ngày
mai nữa, tiền đối với anh là sự sống còn.
Khánh Hòa bước ra đến cửa nhưng không nói gì. Người bố bê chiếc đèn
giơ cao lên soi lối, Lãm chào cả nhà một nữa rồi bước ra. Người bố
cầm đèn đi theo. Đến cuối sân Lãm quay lại:
- Thôi, bác vô đi. Cháu đi đêm quen rồi.
- Thiệt khổ... toàn quen với cái cực. Này cháu... hay là...
Lãm hơi dừng chân lại. Người bố cũng tần ngần xoay xoay ngọn đèn
dầu:
- Hay là... bỏ chợ đi, đến làm giúp cho bác. Việc ở đây thì hơi
nặng, toàn búa với đe thôi. Được cái không đến nỗi vất vưởng...
Lãm biết ông nói một cách thực tâm. Anh ngước nhìn lên. Cả bà mẹ lẫn
cô gái vẫn đứng trên thềm cửa. Chao, làm sao lại có một ngôi nhà ấm
áp như thế lọt vào giữa cái ngõ hẻm mịt mùng này? Có cái gì đó vẫn
còn chập chờn trong óc Lãm như bóng tối lung lay phía ngoài ngõ.
- Cháu... cảm ơn bác. Dạ... để cháu coi coi thử đã.
- Ừ, tùy cháu. Ở với bác thì vui nhưng cũng chẳng sung sướng bằng
nhà người ta đâu.
- Dạ.
Lãm quay người đi. Vầng sáng ở lại trong sân ngõ nhà lợp nứa. Bóng
tối vẫn hun hút phố hẻm. Lãm lần dò từng bước trong màn đen mung
lung đó, lòng rối bời bao hy vọng lẫn ngờ vực lo âu.
Gia đình ông Trương Phú là một trong những căn hộ gốc gác lâu đời ở
đây. Nhưng về nghề rèn, nguội thì mới. Thuở trước, Trương Phú là dân
Vạn Nôốc. Cuộc sống trôi giạt theo ngọn triều, lúc lênh đênh ở ngã
ba sông phía hạ lưu Cửa Việt, khi lại vật vờ như đám lá súng bên mép
chợ Đông Hà. Sông không nuôi nổi người. Dần dần đám dân Vạn Nôốc bỏ
thuyền lên đất. Cái nghề đầu tiên trên đất của vợ chồng Trương Phú
là nhặt nhạnh vỏ hộp, vỏ chai đem về bán cho người buôn Huế. Dạo đó
hàng giải khát ở Huế bắt đầu phát triển, mà vỏ hộp, vỏ chai ở ngoài
vùng chiến thuật I này lại nhiều vô kể. Sau một thời gian, Trương
Phú bắt đầu học được cách gò các mảnh hộp thành cây đèn dầu hỏa. Từ
gò đèn dầu chuyển lên gò thùng, gò chậu. Cứ đà ấy ông thành thợ
nguội. Còn việc mở lò rèn than có muộn hơn một chút. Đó là thời kỳ
hàng sắt của quân lực ngập tràn ra khu vực này nhiều vô tội vạ.
Không khí chung là sắp sửa đánh nhau, sắp sửa “Bắc tiến”. Hệ thống
công sự được triển khai xô bồ từ Cửa Việt lên tận Khe Sanh, Lao Bảo.
Sắt theo từ dưới tàu chở lên, quá nửa bay ra chợ trời. Những nhà
giàu bắt đầu đổ móng xây lầu. Thợ rèn cũng được đà mà phất.
Thế là, mặc dù đã sống trên đất, nhưng cuộc sống của những gia đình
kiểu Trương Phú cũng rập rình, trôi giạt chẳng khác gì lúc còn ở
dưới sông...
Có lẽ trong đời mình, những ngày ở với gia đình Trương Phú là hạnh
phúc và thanh thản nhất đối với Lãm. Việc quai búa, kéo bễ tuy có
nặng nhưng không quay cuồng gấp gáp như nghề sửa xe hay phụ lái. Hơn
nữa không khí trong gia đình thực dễ chịu. Cô Khánh Hòa ngày hai
buổi dọn hàng ra mặt trước cửa nhà. Hàng gồm dao, kéo, thùng, xô
châu, và nhiều nhất là bản lề. Nhà ở Đông Hà dạo này sinh ra lắm
cửa. Cửa tiếp khách, cửa vào chỗ làm, cửa tuồn hàng lậu, chưa kể hòm
xiểng tủ sập... Bản lề sản xuất bao nhiêu bán cũng chạy. Công việc ở
trong lò chủ yếu là ông Phú và Lãm. Còn có cậu em trai chừng mười
hai tuổi giúp việc. Hồi Lãm chưa vào làm, cậu ta phải giữ chân quai
búa. Tội nghiệp, cái dáng gầy mảnh khảnh giống bố của nó cứ dướn
lên, khom xuống bở chiếc búa quá nặng. Quần tuột xuống ngang xương
mông. Tóc tai dính bết mồ hôi, mắt sâu hóp lại. Bây giờ mọi việc
nặng nhọc ấy Lãm cáng đáng hết. Nó được cầm búa nhẹ gò bản lề, hoặc
gạt than, thay nước tôi.
Điều làm cho Lãm dễ chịu nhất là từ ngày về ở nhà này, tâm trí anh
tự nhiên không còn vướng vất gì hành ảnh Kim Chi nữa. Một cái gì đó
mát lành đã len lỏi và trong tâm khảm anh, thấm dịu vết đau của cái
tát sỉ nhục. Sau đêm ở bến cảng, rồi tiếp theo là sự tan nát trong
gia đình ông Cống, Lãm luôn sống trong dặt vặt và ám ảnh. Những đêm
không ngủ được. Lãm trợn trừng mắt lên, muốn lao đi tìm Kim Chi. Tìm
để trả thù, để vặn cổ, để nhiếc móc... Anh tự mường tượng ra muôn
ngàn hình thức rửa hận và bỗng thấy cay đắng bởi không hiểu vì sao
ngay sau cái tát ấy mình không nghĩ được ra cách trả thù như bây
giờ. Hầu như không một đêm nào anh không sùng sục nghĩ đến Kim Chi.
Có lần anh đã hằm hằm bước đi gần quá nửa đường thì dừng lại. Vẫn có
cái gì đó thật khó gọi tên trong anh. Anh tự lục vấn mình. Vì sao
mình không dứt ra khỏi sự ám ảnh của “con rắn độc” ấy? Phải chăng
chỉ vì uất ức, muốn trả thù? Hay còn có nỗi khát khao thèm muốn?
Không! Lãm như muốn kêu to lên. Sao lại thế được? Đốn mạt quá Lãm
ơi! Nhục nhã quá mày ơi!
Khánh Hòa cũng có cái tật là hay nhìn trộm Lãm. Những buổi đầu Lãm
cũng thấy ớn lạnh. Lẽ nào “ngài rắn” lại ám cả vào nhà này? Nhưng
dần dà anh nhận ra cái nhìn Khánh Hòa khác hẳn Kim Chi. Cái nhìn có
nét ngạc nhiên, có tia vui thích và rồi cuối cùng là một cái gì đó
rất chan chứa. Cái nhìn như thầm đoán, cân nhắc, đánh giá. Dĩ nhiên
Lãm cố tránh tất cả. Anh muốn yên ổn.
Tuy vậy không phải không có lúc hai người nói chuyện riêng với nhau.
Đấy là những khi ông Phú thay con đi chạy hàng. Bà Phú ra chợ.
- Quê anh Lãm ở đâu hè?
- Ở đây chứ đâu.
- Bịa
- Bịa thì thôi.
- Răng em trông lúc nào anh cũng ngơ ngơ ngác ngác. Có lần ba em bảo
đi đến một ngõ phố rất quen mà anh cũng chẳng biết hướng nào...
- À, tại vì anh sinh ở đây nhưng lớn lên chủ yếu ở Cần Thơ...
- Răng không nói tiếng đằng trong?
“Chết thật, cô ta để ý mình tỉ mỉ quá! Mà để ý làm chi hè?”. Lãm
bỗng thấy nổi gai khắp người. Không thể kéo dài cách trả lời thụ
động như thế được. Lãm tấn công trả lại:
- Khánh Hòa dò xét tôi ghê quá. Trông tôi có vẻ gian xảo lắm à?
Khánh Hòa bật cười. Cái cười quá hiền hậu:
- Tại vì trông anh hiền quá, chẳng giống con trai quanh chợ này.
Lãm cười ngượng nghịu:
- Tại vì... tôi vốn đần độn... chẳng có chút khôn ngoan nào...
Khánh Hòa trìa dài chiếc môi dưới, nguýt dài:
- Điêu... Đần như anh cho thiên hạ nhờ.
Nói chuyện với Khánh Hòa thật dễ sợ. Khó mà bịa đặt, giấu giếm được
điều gì trước những câu hỏi bất chợt, những nhận xét tinh tường của
cô ấy. Nhưng Lãm vẫn thích được nói chuyện, ít nhất là mỗi ngày một
lần. Hình như Khánh Hòa cũng vậy.
Rồi có lần Khánh Hòa lại chạy hàng vào trong Huế. Những chuyến vào
Huế thường mất hai ngày, có khi chậm đến ba ngày. Những ngày đó Lãm
thấy căn nhà trống tráng hẳn. Có chuyện gì thế nhỉ? Nhớ ư? Lãm giật
mình như giẫm phải hòn than nóng. Buổi chiều Lãm ra bến xe đứng đợi.
Anh làm việc đó theo lời cậy nhờ của ông Phú hoặc bà Phú. Nhưng anh
thường ra sớm hơn thời điểm bình thường của chuyến xe chót chạy từ
Huế ra. Đợi và buồn. Chẳng rõ vì đâu nữa.
Nhiều lần thành lệ quen. Khánh Hòa nhảy xuống xe là đảo mắt một lượt
rồi reo to: “Anh Lãm! Nhanh lên!”. Họ xúm lại khiêng những bao tải
sắt cho vào gióng. Lãm rán sức gánh lên. Khánh Hòa đi trước thỉnh
thoảng ngoảnh lại, mồm liến thoắng bao nhiêu chuyện. “ Hôm qua tụi
cảnh sát với biệt động nện nhau chí chết ở bến Đông Ba..”, “ui cha,
bữa ni có một anh bán thuốc võ giỏi dễ sợ. Anh ta tự đâm vào ngực
mình một thanh gươm dài thế này này...” Khánh Hòa dang tay ra để ước
lượng chiều dài của thanh gươm. Tay cô vương qua mặt Lãm.
Những buổi tối có hàng về, cả nhà vui hẳn lên. Khánh Hòa bô bô kể
chuyện một lúc rồi lăn ra ngủ. Ông Phú đổ các bì sắt ra lựa thành
từng loại. Còn Lãm không sao ngủ sớm được. Anh đút tay vào túi quần
tha thẩn đi ra đường, mồm se sẽ huýt sáo. Rồi có khi cao hứng anh
hát:
“Có con chim cúc cu, kìa nó hát lên một câu rằng, có một nàng lạc
trong rừng...”.
Lâu lắm, anh như quên bẵng giọng hát của chính mình.
4
Cuộc sống tự nó có những quy luật thật nghiệt ngã.
Trong những ngày tháng Lãm sống một cách êm đềm dưới mái nhà lợp nứa
của Trương Phú với những sáng quai búa, nện đe, những chiều ra bến
xe đón đứa em gái, những tối đút tay túi quần huýt sáo tha thẩn, thì
những cái “ổ gà” vẫn chập chờn đầu đó trước măt, xung quanh mà anh
không hay biết. Có những cặp mắt găm thẳng vào anh những lúc Lãm bồn
chồn đợi chuyến xe chót từ Huế ra, có cái nghiến răng đầy ghen tị
khi Lãm lao đến theo tiếng kêu mừng rỡ của Khánh Hòa... Anh chẳng
biết gì cả, và cuộc sống cứ vậy êm trôi.
Một buổi tối quen với thú vui riêng của mình, Lãm lại cho tay vào
hai túi quần lững thững đi ra hướng chợ. Chẳng hiểu vì sao anh lại
ra hướng ấy. Thực ra với Lãm, đi hướng ấy hay hướng nào chẳng có gì
quan trọng cả, miễn là được đi một mình, huýt sáo một mình và nếu
cần thì hát. Nhưng với một số người nào đó thì việc Lãm lững thững
ra phái cổng chợ có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Bởi đó là cái bẫy
đã giăng sẵn. Một tiếng huýt sáo vang lên. Hàng chục bóng đen ập ra
cùng một lúc. Lãm giật bắt người rút tay ra khỏi túi quần. “Hực!”,
“Thụp”. Những cú đấm như mưa. Lãm cúi sát người xuống đất. Có hai
đứa mất đà bổ chồm lên nhau. “Đ.mạ”, tiếng chửi tục bật ra. Lãm đột
ngột đứng dậy. Đầu anh thúc mạnh vào ngực một thằng đang trên đà bổ
sấp xuống anh. Lưng Lãm cũng hắt mạnh vào bụng tên đó. Có tiếng kêu
oai oái. Lãm quờ tay lên túm được cổ áo hắn và nhanh như quài búa
anh vung mạnh người. Một khối thịt rơi sầm xuống bên cạnh. Mấy đứa
vùng chạy. Nhiều bóng đen loáng nhoáng. Một hòn đá xán bộp vào mạng
sườn anh. Đau như gãy xương. Lãm quặn người lại. Nhưng đám kia bỏ
chạy tan tác. Trong sự lộn xộn nháo nhác đó, bất chợt Lãm nhận ra
một dáng người to mập. Cái quần chật bó sát đùi một cách quá đáng.
Mái tóc ngắn cũn cỡn. Anh kinh ngạc đến mức suýt kêu thành tiếng:
Kim Chi!
Lãm có một quyết định khiến cả gia đình Trương Phú đều ngạc nhiên.
Anh xin nghỉ việc và gấp rút vào Huế, nói là thăm một ông bác ruột
bị ốm nặng. Dĩ nhiên không ai nỡ cản ngăn anh. Cả nhà chỉ khuyên một
câu, vào trong đó ít hôm, nếu tình hình không có gì buộc chân anh
lại thì nên quay về với gia đình, Lãm “dạ” một cách dè dặt.
Trong gia đình Trương Phú, trừ cậu con trai còn ít tuổi đang buồn
xỉu vì từ nay phải quai búa nặng, mỗi người dự đoán việc ra đi của
Lãm theo một cách. Bà mẹ thì tin vào điều Lãm nói. “Anh ấy là người
có hiếu có nghĩa, chẳng vô tâm vô tính như đám thanh niên ở đây
đâu”. Trương Phú không tin lắm. Ông cố nghĩ và soát xét lại mọi sự
cư xử của mình xem có điều chi không phải với Lãm?
Riêng Khánh Hòa thì nghĩ xa hơn. Cô nhận thấy có một điều gì đó rất
không bình thường đã xảy ra với Lãm. Ngay từ lần gặp đầu tiên, và
nhất là những ngày Lãm sống với gia đình, Khánh Hòa đã phát hiện
thấy người thanh niên này rất khác thường và đấy bí ẩn. Anh ta không
lẫn được vào đám con trai bụi đời ngổ ngáo ở thị xã này. Hình như
lúc nào ở anh ta cũng tồn tại hai cuộc sống. Một cuộc sống lam lũ
lao động, chan hòa với gia đình, một cuộc sống thầm kín bền bỉ của
riêng anh mà khó ai có thể động tới được. Vậy anh ta là ai? Hay
là...
Những dự đoán có tính nghề nghiệp xuất hiện trong tư duy của cô gái
biệt động nằm vùng. Cô giấu kỹ ý nghĩ ấy cũng như giấu kín hành vi
của mình.
Ở thị xã Đông Hà, mối dây liên lạc giữa rừng với quần chúng cách
mạng còn rất mỏng manh. Lực lượng cảnh sát ở đây khá dày đặc. Tuy
vậy trong vòng mấy năm lại đây, chưa có một cơ sở nào bị vỡ. Cảnh
sát có vẻ như mù tịt các đầu mối. Để gỡ lại uy tín với cấp trên.
Quận cảnh sát thường làm nhặng lên những cú truy nã các đảng cướp.
Hầu như ngày nào cũng có tờ trình về các ổ cướp bị triệt thoái. Cũng
chẳng cần cấp trên khen, miễn sao đừng để nhắc nhở đến một mắt xích
nào đó trong màng lưới tình báo của Việt cộng.
Một tuần trôi qua. Lãm không quay trở lại. Người lo lắng nhiều nhất
là Khánh Hòa.
Nếu anh ta là một đầu mối của rừng, thì việc anh tìm cách lọt vào
nhà mình là một dụng ý. Vậy tại sao anh không bắt liên lạc mà lại
đột ngột bỏ đi? Còn nếu là mật vụ thì sao? Thì nghĩa là đã phát giác
ra mình và khẩn trương hành động. Trong cả hai trường hợp Khánh Hòa
đều thấy nguy hiểm. Ở giả thiết thứ nhất, việc Lãm bỏ đi đột ngột
chứng tỏ anh đã bị lộ. Sớm muộn cảnh sát cũng sục tới đây. Còn nếu
anh ta là mật vụ thì việc mình bị bắt là chắc chắn...
Khánh Hòa bồn chồn không yên. Mờ sáng, cô ôm mấy chiếc bì tải rách,
xách đôi gióng sắt ra bến xe. Khánh Hòa nhảy chuyến xe nhất. Vào đến
Huế đã gần trưa. Cô mang gióng vào nhà một cô bạn quen gửi lại, thay
áo quần rồi xách chiếc làn nhựa lững thững đi dọc phố...
Khánh Hòa bỏ ra hai ngày tìm khắp nội, ngoại thành mà vẫn không phát
hiện ra dấu vết của Lãm. Cô đành mua ít sắt rồi quay trở ra Đông Hà.
Lại thêm một tuần nữa chờ đợi. Rồi gần một tháng trôi qua. Không có
dấu hiệu gì của một cuộc lùng bắt. Khánh Hòa đã cảm thấy hơi yên
tâm. Thế rồi, thay vào nỗi thấp thỏm lo sợ là một nỗi nhớ bần thần
khó tả. Khánh Hòa trông ngóng anh, cô cũng trông cho đống sắt vụn
trong lò chóng vơi để được xách chiếc bì vào Huế.
Đây là lần đầu tiên gánh xiếc “Sơn Nam mải võ” ghé chân đến thị xã
Đông Hà. Tiếng đồn và uy danh của Sơn Nam từ lâu đã làm náo nức cánh
bụi đời ở đây. Cũng đã có một vài “hảo hán” đứng đầu những toán trấn
lột xưng “Nam Sơn mải võ”. Dĩ nhiên người Đông Hà chẳng ai tin
chuyện đó. Họ thừa biết cái tụi trẻ con sống vô gia cư chết vô địa
táng kia. Còn Sơn Nam thứ thiệt vẫn “đóng đô” ở Đà Nẵng, thỉnh
thoảng mới ra Huế. Nghe đồn Sơn Nam là con của bà vợ thứ một của võ
sư ấy đều thuộc loại yêu tinh quỷ quái cả. Nghĩa là hai người đều
giỏi võ, và những cuộc cãi vã bình thường của hai bà thường diễn ra
thành những trận huyết chiến đẫm máu. Thế rồi bà hai bỏ quê ra đi,
xuôi đường về Nam vào tận Sài Gòn. Sơn Nam là con út của bà, nhưng
võ nghệ lại đứng bậc nhất. Hắn thường đứng trụ cột như cột bê tông
trên võ đài trong những lần đấu giải. Hắn sống nhờ vinh quang của
chính hắn và cũng có phảng phất chút dư vị tên tuổi của ông bố bên
Quảng Đông. Nhưng anh hùng thiên hạ mấy ai mà giữ mãi được địa vị
“đệ nhất vô song”. Cách đây bốn năm Sơn Nam bị hất khỏi võ đài bởi
một con gà chọi ít tuổi, bé người và nhẹ cân hơn hắn. Nhục nhã và
buồn tủi, Sơn Nam từ giã võ đài hành hương bán thuốc. Cam tâm trao
lại Sài Gòn tráng lệ cho kẻ khác, Sơn Nam lang thang ra Đà Nẵng, Ở
đây, trong cái chốn bụi bậm này, hắn tìm lại được chút ít niềm vui
“anh hùng nhất khoảnh”. Sơn Nam trở nên thần tượng của đám bụi
đời...
Quả thực “danh bất bư truyền”. Những buổi biểu diễn của Sơn Nam mải
võ đã làm náo động đất Đông Hà. Cái thị xã này vốn chỉ biết chúi đầu
làm ăn hùng hục, chưa hề biết đam mê một thứ gì ngoài tiền lãi, bỗng
nhảy lồng lên như có động đất, núi lở. Ở đâu cũng túm tụm kháo nhau
chuyện cãi nhau, thách đố nhau về những trò Sơn Nam đã biểu diễn.
Đâm một lưỡi gươm thẳng vào cuống họng, đập một thanh díp xe ô tô
ngang sườn đến mức cả thanh thép ấy quằn cong lại, chồng mười viên
gạch lên rồi dùng bàn tay chém xuống, cả mười viên đều gãy đôi. Vân
vân và vân vân. Những kẻ u mê không có sợ kiến thức nào về võ nghệ
thì cãi chày cãi cối rằng đó chỉ là những trò ảo thuật. Nhưng cánh
“ăn chơi” tỏ vẻ am tường võ nghệ lại không chịu. Họ gân cổ lên cãi,
có người còn quả quyết rằng đời ông nội mình, hoặc ông khai khẩn ra
làng mình cũng đã từng đập một cái xà beng vào dây thừng! Sơn Nam
trở nên chói lọi giữa thị xã cát bụi. Bất kỳ già, trẻ lớn bé đều
ngước mắt lên nhìn như bị thôi miên. Bởi thế nên cả thị xã không ai
còn mắt mà để ý đến đám đệ tử, phụ việc đi theo Sơn Nam. Để ý đến
bọn ấy làm gì. Chỉ có Sơn Nam thôi. Đệ nhất anh hùng.
May quá, trong đám tôm tép đi theo Sơn Nam, có một người lúc nào đầu
cũng cúi thấp xuống vì sợ dân Đông Hà trông thấy. Anh ta biết rõ ở
đây có rất nhiều người với động cơ tốt xấu khác nhau đang cố công dò
hỏi tung tích của anh.
Rồi rốt cuộc Lãm cũng không lẩn tránh nổi Khánh Hòa. Nói đúng ra
không phải Khánh Hòa phát hiện được Lãm. Công ấy cần ghi nhận cho
cậu em trai của cô. Cậu ta nhìn thấy Lãm thậm thụt ở trong thùng
chiếc xe Đốt, không chịu bước xuống bãi diễn. Nó cố tình lách vào
gần để gọi nhưng sức nó không sao lấn được đám đông đang hô hố reo
cười một cách ngây dại. Giả sử nó có gọi thì tiếng của nó cũng chỉ
như rơi trong muôn vàn sấm chớp. Nó liền lao về nhà tìm chị.
Phải chờ cho khi các tiết mục biểu diễn tạm ngừng Khánh Hòa mới lách
vào gần được chỗ Lãm. Đấy là lúc người võ sư oai hùng kia dừng tay
võ và ngửa tay kia bán thuốc. Người Đông Hà tản ra, cố tính lờ tịt
điều mà vị anh hùng đệ nhất kia cần có để sống. Dân này đâu có quen
đổi đồng tiền của mình cho những trò vui. Vui là vui, tài thì có
thiệt tài đó, nhưng tiền lại là chuyện khác. Thế là phút chốc đám
đông giãn hết ra. Lãm bất ngờ nhìn thấy Khánh Hòa. Anh định lẩn
nhưng không kịp.
- Anh Lãm!...
- Em... Chú thím có mạnh không?
Khánh Hòa khẽ gật đầu. Ánh mắt cô vẫn chưa tan nét lo âu.
- Anh... nhập bọn vào đây... để làm chi?
- Anh học...
- Học? Học võ ư? Nhưng để làm chi mới được chứ?
Lãm cúi đầu nín lặng. Đôi mắt Khánh Hòa chớp chớp liền mấy cái.
- Anh có thể về nhà... mình được không?
- Không.
- Vì sao?
Im lặng. Lãm khẽ thở dài.
- Anh gầy hẳn đi... Mà sao cái ông Sơn Nam kia lại cho anh học?
Lãm khẽ liếc mắt tới chỗ người thầy của mình đang cao giọng thuyết
minh về công dụng các loại thuốc, giọng Lãm trầm hẳn xuống:
- Trước sau chi rồi anh cũng trở lại Đông Hà. Nhưng bây giờ thì chưa
có thể được. Anh đói... anh chỉ là kẻ học trò, chưa làm được chi cả.
Anh phải phục dịch họ...
Khóe mắt Khánh Hòa rơm rớm nước:
- Tại sao anh lại tự đọa đày thân anh thế? Tại sao nào?
- Vì anh... không chịu được nhục...
- Ai làm nhục anh? Gia đình em ư?
Lãm vội vã:
- Không đâu. Chú thím quá tốt. Đối với anh đó là một tổ ấm.
- Thế thì tại sao?...
Lãm nín lặng hồi lâu rồi quay mặt về phía chợ, giọng anh nghẹn lại:
- Rồi anh sẽ nói hết với em, nhưng không thể nói lúc này được. Trước
sau anh cũng trở lại với Đông Hà.
Khánh Hòa thôi không hỏi gặng nữa. Cô khẽ khàng rút ra một nắm giấy
bạc. Giọng cô run run nhưng quả quyết:
- Anh cầm lấy mà ăn thêm... Chẳng có được nhiều, dạo ni hàng ế...
- Thôi. Đừng làm khổ gia đình nữa...
Lãm giúi tiền trở lại, nhưng Khánh Hòa đã gạt đi:
- Em không muốn anh chết đói. Chỉ muốn có một điều... học võ vẽ gì
đó nhưng đừng có làm chuyện ác...
- Không bao giờ. Anh không như bọn con trai ở đây đâu...
- Em cũng tin thế.
Ở bãi diễn Sơn Nam bất ngờ cất cao giọng:
- Thưa quý “dị”, có lẽ quý “dị” còn bán tín bán nghi công hiệu của
loại thuốc này, vì vậy kẻ võ biền này xin chứng minh trước mắt quý
“dị” một vết chấn thương hạng nặng...
Vừa nói đến đây, Sơn Nam quờ tay chộp một hòn gạch bên cạnh và nhanh
như chớp đập, đánh bốp lên trán mình. Viên gạch vỡ vụn. Một khối u
sưng vù giữa trán nhanh đến mức như có ai bơm phồng làn da lên. Vệt
máu tươi chạy dọc xuống má. Cả đám đông khiếp đảm nín thở. Sơn Nam
lặng lẽ cầm viên thuốc to bằng hạt mít, bóc lớp giấy gói rồi bóp vụn
xoa lên đầu. Vừa làm vị võ sư vừa luôn mồm giải thích:
- Thưa quý “dị”, đây là loại thuốc gia truyền hiếm hoi mà bố tôi
dành dụm gửi sang. Dù vết thương có nặng đến đâu, dù xe cán, ngã cây
hay gươm đâm dao chém, chỉ cần xoa một viên, uống một viên là thịt
da trở lại bình thường. Đây, quý “dị” đã được thấy nhỡn tiền, vết
trên trán tôi đã lặn hẳn.
Tiếng xầm xì rộ lên. Có cả tiếng tắc lưỡi thán phục. Nhưng người mua
thuốc vẫn thưa thớt.
Khánh Hòa bỗng thấy thương hại cho người bán thuốc. Cô quay lại nhìn
Lãm. Lãm bắt nhận được ý nghĩ của cô nên quay vội mặt đi. Bất giác
cả hai cùng thở dài.
Gánh thuốc Sơn Nam dừng ở Đông Hà thêm một ngày nữa, sau đó cả bọn
kéo lên quận Cam Lộ. Ở đó ba ngày họ lại xuống thuyền máy về Cửa
Việt. Lang thang chừng nửa tháng thì quay trở lại thị xã. Lúc ấy
quãng tám giờ tối, Sơn Nam lệnh cho Lãm kiểm tra lại xe cộ, cho anh
em nghỉ ngơi để ngày mai lên đường vô Huế. Lãm sau khi làm xe xong
xin phép thấy ghé về thăm gia đình Trương Phú.
Chưa hôm nào căn nhà lợp nứa ở cái ngõ hẻm này lại tưng từng vui vẻ
đến thế. Ngọn đèn tọa đăng sáng xanh ngời cả nhà trên nhà dưới. Bà
mẹ nấu một nồi chè đường ngọt lịm. Ông Phú cứ trầm trồ khen cái chí
của Lãm phi thường, xuất chúng. Có phải ai cũng lọt được vào cái
chốn “võ nghệ siêu phàm” ấy đâu!
Riêng Khánh Hòa có một tâm trạng đặc biệt khó tả. Đêm qua, cô vừa
nhận được chỉ thị nhanh chóng “cấy” thêm nhân mối để có thể thành
lập được một tổ du kích hợp pháp. Chẳng hiểu sao cô nghĩ ngay đến
Lãm. Con người đó có cái gì vừa làm cho cô tin, vừa làm cho cô ngại.
Người ấy vừa gần cô như thể ruột rà, vừa xa xôi đến mức cô không lần
được một nếp nghĩ. Đã nhiều lần kể từ hôm Lãm ra đi đột ngột đến
nay. Khánh Hòa đã cố sức điều tra khắp thị xã, nhưng hình như không
ai biết thêm tý gì về Lãm ngoài những điều gia đình cô đã biết.
Không thể mạo hiểm bắt mối với một người như vậy được. Nhưng sao
Khánh Hòa vẫn cứ vướng vất trong tâm trí. Hay là con người ấy đã kết
tổ trong tâm khảm mình? Khánh Hòa đỏ bừng mặt vì ý nghĩ đó.
Đêm đã khuya. Lãm từ giã gia đình và cũng không quên câu hẹn ngày
trở lại. Khánh Hòa định tiễn chân anh một đoạn, nhưng nghĩ lui nghĩ
tới một chút, cô liền bỏ ý định đó. Lãm đi nhanh ra sân, lẩn vào ngõ
tối. Rồi anh bước về phía cổng chợ. Kỷ niệm uất hận sôi dậy trong
anh. Lãm đi như chạy, lên đường 9, rẽ ra quốc lộ I. Bây giờ có thể
đi chậm lại. Anh vươn vai hít thở không khí từ phía cảng phả lên.
Cảng đó, vẫn lù lù những đống sắt gỉ. Bất giác Lãm cau mày. Chẳng
hiểu sao hình ảnh “con rắn độc” ấy cứ quấn lấy tâm trí anh. Anh vung
tay đấm vụt một cái lên phía trước. Đó là cú “thôi sơn” đấm thẳng,
tay nắm tròn như quả tạ. Cú “chưởng” đấm hất lên, bàn tay ngửa ra
phía trước như bàn tay gấu, lực dồn vào thành dưới của lòng bàn
tay...
Bỗng có tiếng chân chạy thình thịch. Lãm đảo mắt nhìn quanh xuống
ngõ hẻm. Một bóng đen lao vụt lên, lao sầm đến phía Lãm. Chẳng kịp
nghĩ ngợi, Lãm nhảy phốc đến. Hai bên xáp mặt nhau. “Bục”, một quả
đầm phóng thẳng vào ngực Lãm. À, ra thế. Đúng là bọn trấn lột. Hai
cú đấm nữa giáng như bổ củi vào sườn, vào hàm Lãm. Trong một giây kỷ
niệm về chuyến xe đò đi Cam Lộ và khung cảnh tan nát ở nhà ông Cống
hiện ra. Nhưng như một cần bẫy, Lãm co chân phải đá vụt một phát đồi
giò phía trước đột ngột bị dồn xép vào nhau. Bóng đen bổ sấp người
tới phía Lãm. Vào thế rồi! Cú “móc” này... Lãm vụt xoay ngửa bàn tay
lên, đấm hất ngược như cú “chưởng”, những ngón tay cong lại tạo nên
lòng thìa. “Roác”, cả cơ thể tên cướp như rệu ra, té nhào phía sau.
Nhưng nó cũng là thằng khỏe. Bóng đen lăn hai vòng rồi bật dậy chạy
ngược về phía ga. Bây giờ Lãm mới để ý thấy một chiếc làn nhựa văng
bên lề đường. Anh cúi xuống xách lên xem. Chiếc làn khá dầy. Gì thế
này? Lãm thò tay vào móc thử các thứ ra. Một xấp vải gấp nhỏ. Một
chiếc áo đệm mút. Cái gì mềm mềm đây! Cái gì vuông vuông như hộp gỗ
thế này?...
Lãm đang tò mò xem thì đột ngột hai bóng đen lao sầm vào người anh.
Lãm thả nhanh làn xuống, cong gập người thủ thế. Một phát súng nổ.
Tiếng hét rít lên bên tai:
- Đứng im!
Lãm sửng sốt nhận ra hai viên cảnh sát. Anh bỗng trở nên lúng túng:
- Thưa... chính tôi...
- Thì chính mày chứ còn ai? Đứng im!
- Không!... chính tôi đã bắt được kẻ cướp...
“Bốp”. Một cái bạt tai. “Bục”. Một cú đấm. Lãm định kêu lên nhưng
ngay lập tức một vật gì bằng sắt choang bốp vào thái dương. Lãm
choáng vàng sấp ngã. Tên cảnh sát xô anh dậy, đẩy giúi lên phía
trước:
- Cố nội mày, có đi không?
Thế nghĩa là mình bị bắt? Một viễn cảnh đen tối của nhà tù choáng
ngập mặt Lãm. Không thể cưỡng được, anh đành phải bước. Tuy vậy, nỗi
oan ức vẫn không nén nổi, cứ chực trào lên:
- Các... bác... xét cho con...
- Câm!
- Chính con đã chặn...
Hự! Một cú đấm từ phía sau giáng tới. Lãm nhào về phía trước và
tưởng như tắt thở. Trẻ con, người lớn từ các quán giải khát đã tắt
đèn ở hai bên vệ đường bỗng chốc thức dậy đổ dồn ra xem. Tiếng bàn
tán í ới, nhộn nhạo. Hai tên cảnh sát vẻ hả hê bởi chiến công, chúng
vừa đi vừa chửi để biểu hiện cái sự quá vất vả vì tên cướp này. Có
vài đứa trẻ con chạy theo ném sỏi vào lưng Lãm. Chưa bao giờ anh
phải chịu đựng cảnh nhục nhã đến mức này. Người đổ ra đường mỗi lúc
một đông. Bao nhiêu năm nay kẻ cướp hoành hành, dân tình cứ phải
sống trong cảnh nơm nớp lo sợ. Bao nhiêu đêm xe cảnh sát tú còi lồng
lộn. Thế nhưng đã có lần nào tóm được một thằng móc túi hẳn hoi đâu.
Cho nên sự kiện này thật là trọng đại, thực là oanh liệt. Sự kiện
này đánh thức cả thị trấn dậy, đổ ra mặt đường. Cướp đâu? Tội phạm
đâu? Xem mặt mũi ra sao nào! Chao ôi là tởm! Khạc, nhổ. Giết đi! Băm
xác nó ra...
Tiếng chửi tới tấp dội xuống đầu Lãm, còn đau hơn những cú đấm. Đầu
anh không sao nhấc lên được nữa. Anh thật sự hiện nguyên hình một
tên tội phạm bước tới chỗ ngục tù.
Nhưng, cũng rất đột ngột, từ trong đám người lộn xộn bên vệ đường,
hai bóng đen thấp bé lao vụt ra như hai hòn đá ném. Chưa ai kịp xác
nhận điều gì thì hai bóng đen ấy đã bay lên ôm choàng lấy cổ hai tên
cảnh sát. Lãm nghe rất rõ những tiếng hự như máu phọt ra. Anh xoay
mình lại. Bốn người đang quặp lấy nhau thành từng cặp. Lại một phát
súng nổ. Nhưng liền đó là một cú chém tay nghe “rào” như tiếng gió.
Khẩu súng văng trúng chân Lãm. Anh cúi nhanh xuống nhặt. Có tiếng
hét vào tai:
- Tiểu đệ, tẩu đi!
Lãm sững sờ một giây rồi chợt hiểu. Anh lao vù đi, đâm nhào vào đám
đông, băng xuống ngõ tối, chạy bừa qua đám ruộng bùn lầy lội rồi
phóng thẳng về phía đường 9. Qua lối xưng hô, anh biết đám học trò
trong gánh thuốc Sơn Nam đã cứu anh. Vì vậy Lãm không dám chạy vào
chỗ bọn Sơn Nam đang ngủ, mặc dù từ nơi ẩn dật vào đó rất gần. Lãm
không muốn liên lụy đến thầy và các bạn hữu. Anh chạy thục mạng lên
phía đường 9, rẽ ra quãng đồi tráng. Đến đây Lãm mới thực sự tin
mình thoát nạn.
Lãm cứ ngồi im dưới một lùm cây, cố trấn tĩnh cho tim đập nhẹ lại.
Lúc này anh không còn nghĩ gì hết. Căm giận, uất ức, tủi nhục... tất
cả đều bị xóa mờ bởi sự kiện hú tim vừa xảy ra. Bây giờ Lãm chỉ nghĩ
đến hai ân nhân vừa cứu mình. Ai hè? Hình như thằng Phụng lùn và Mẫn
trọc. Phụng lùn thì thân với anh, nhưng nó là đệ tử xếp ngôi thứ sáu
trong bọn. Nó chưa thể có cú chém tay như gió ấy đâu. Hay Quân râu?
Nhưng Quân râu bình thường có vẻ không ưa Lãm, lẽ nào dám xả thân
như vậy?
Đã khuya lắm, thị xã yên ắng trở lại. Sau một cơn choàng tỉnh hớt
hải như mất trộm, bây giờ tất cả lại thiêm thiếp trong trạng thái
mệt mỏi. Lãm lần do theo con đường mòn đi tắt về khu ruộng bùn. Đứng
bên này anh đảo mắt quan sát ra phía quốc lộ I. Không có dấu hiệu gì
đáng ngại. Lãm thận trọng đi dọc mép ruộng ngược lên một đoạn. Gặp
chiếc cầu tay vượn, anh rón rén vượt qua. Rồi xuôi trở về hướng nhà
ga, Lãm lò dò đi tới khu quán giải khát “Minh Tuyền”, nơi gánh thuốc
ngủ trọ.
Bước vào đến đầu hè nhà giải khát “Minh Tuyền”, Lãm giật mình đứng
sững ra. Chiếc xe Đốt không còn ở đó nữa. Anh se sẽ bước lại gần
cửa. Nhà tắt đèn, tối om. Có khi khả năng có thể xảy ra. Cảnh sát đã
gông cổ cả bọn cùng với chiếc xe chở đồ đạc đưa lên quận. Hoặc Sơn
Nam đã cho dời chỗ ngủ để tránh nguy hiểm.
Lãm tính ngược tính xuôi một tý rồi lè lẹ rút lui. Anh quay về đúng
đường cũ. Nhưng đến gần mép đường 9 thì bất ngờ Lãm thay đổi quyết
định. Anh vượt qua bên kia đường. Không dám đi hướng cổng chợ. Lãm
nhảy qua một cổng sắt, lách người vào sân sau của một nhà chữa xe,
rồi lại leo qua cổng gỗ, men theo ngõ ấy mà lùi sâu vào ngõ sau. Từ
đó, lần theo một phố quen đi về phía nhà Trương Phú. Chắc gia đình
sẽ ngạc nhiên khi anh trở lại đột ngột. Hoặc có thể nguồn tin về tên
cướp bị bắt đã loang tới đây rồi. Có thể Khánh Hòa sẽ trố mắt nhìn
anh sợ hãi và ghê tởm. Không sao! Anh sẽ nói thật. Anh sẽ kể hết
toàn bộ sự việc xảy ra. Và nếu cần, nếu Khánh Hòa vẫn không tin thì
anh sẽ kể lại tất cả cuộc đời mình để chứng minh cho điều này, anh
không thể là kẻ cướp, không thể cùng hội cùng thuyền với bọn bụi đời
ở đây...
Có một khả năng mà Lãm chưa hề dự tính đến là gánh thuốc Sơn Nam
ngay đêm đó đã lên xe lặng lẽ trở vào Huế. Rồi chừng như vẫn chưa
thật an tâm, ngay ngày hôm sau Sơn Nam hạ lệnh rút về Đà Nẵng. Cả
bọn đều thấy nhớ đứa học trò út mới nhập hội vừa thông minh, vừa tận
tụy nay đã bị bỏ rơi.
Rõ ràng gia đình Trương Phú rất đỗi ngạc nhiên, nhưng mọi việc diễn
ra không đến nỗi như Lãm đề phòng. Sau khi nghe Lãm kể vắn tắt lại
sự việc, ai nấy đều tỏ rõ sự bất bình. Bà mẹ cứ chép miệng kêu khổ
hoài. Còn Trương Phú thì luôn mồm chửi đồng: “Cảnh sát với cảnh sót,
toàn đồ ăn hại!”.
Như vậy Lãm không có lý do gì để phải mang cuộc đời mình ra tâm tình
nữa. Chỉ có ở đây Lãm mới có được những sự tin cậy hoàn toàn như
thế. Anh ngước mắt nhìn mọi người, lòng chan chứa biết ơn. Chỉ có ở
đây, dưới mái nhà lợp nứa này anh mới thành thằng người, anh mới dám
tin vào người khác và cũng dám mong cầu người khác tin anh.
Lãm lại trở về với chiếc búa nặng. Cậu em trai hoan hỉ ra mặt cầm
lấy búa nhỏ gò mép bản lề. Trương Phú đeo chiếc gương sáng gọng nhỏ
lúc nào cũng chực tuột xuống mũi, tay cầm chiếc kìm dài quặp lấy
lưỡi dao đỏ lòm màu lửa, lật đi lật lại trên mặt đe như dân chài
nướng cá lẹp. Tiếng búa nện chan chát, tiếng lửa bắn ra lép bép,
tiếng sắt tôi trong nước xèo xèo. Âm thanh tuy khô khan mà vui vẻ.
Cả nhà ai cũng vui vẻ, trừ Khánh Hòa.
Khánh Hòa vẫn dọn hàng ngay trước cửa và vẫn ngồi bó gối suốt ngày.
Công việc của cô vẫn thế. Nhưng rõ ràng cô không vui. Điều đó Lãm
nhận thấy rất rõ. Có thể cả nhà không ai để ý, nhưng Lãm không thể
bỏ qua từng nét đổi thay trên ánh mắt, khuôn mặt Khánh Hòa. Đôi mắt
ấy nhìn xa hun hút và có đôi lúc lơ đãng như không nhìn gì cả. Đôi
mắt ấy mỗi lần bắt gặp cái nhìn trở lại của Lãm thì chợt bối rôi,
sau đó như muốn hỏi điều gì, lại như muốn nói rằng không bao giờ tôi
nói cho anh biết điều tôi đang nghĩ.
Lẽ nào cô ấy mất lòng tin ở anh? Lẽ nào sự có mặt trở lại của anh
trong ngôi nhà này làm Khánh Hòa buồn phiền? Hay không phải chuyện
đó, mà là chuyện vui buồn riêng của con gái? Nghĩa là cô ấy đã yêu!
Và có thể tình yêu ấy đang trắc trở? Lãm chợt nhận ra có cái gì đó
không ổn định trong lồng ngực mình. Cả hai dự đoán trên đều làm cho
anh thấy mỏi mệt. Nếu cô ấy không tin mình nữa thì thật đau quá.
Nghĩa là trên đời này sẽ không còn ai tin mình hết. Còn nếu cô ấy đã
có một tình yêu?... Nếu vậy thì... tất cả sẽ vô nghĩa lý.
Cả nhà, trừ anh ra, không ai biết được Khánh Hòa đang buồn. Lãm
khẳng định chắc chắn như vậy. Và cả nhà, kể cả Khánh Hòa nữa, không
ai biết được chính anh cũng đang nghèn nghẹn một nỗi buồn. Anh dám
quả quyết thế.
Nhưng rồi thật đột ngột, vào một buổi sáng Lãm thức dậy sau một giấc
ngủ nặng nề vì mệt mỏi, anh chợt nhận ra cả nhà đang buồn rũ rượi.
Nói cả nhà nghĩa là ông Trương Phú và bà mẹ. Còn cậu em trai, vẫn
nằm khoèo trên giường mê mệt ngủ. Khánh Hòa không có mặt trong nhà.
Cô ta đi đâu sớm vậy? Lãm tự hỏi rồi tự trả lời, có lẽ cô ấy nhảy
chuyến xe sớm nhất vô Huế cất hàng.
Người mẹ ngồi quay mặt vào phên liếp, cúi đầu khóc thút thít. Thỉnh
thoảng bà lại xịt mũi. Những tiếng nấc làm toàn thân bà run lên. Rõ
ràng bà cố ghìm không để khóc to thành tiếng. Ông Trương Phú không
khóc nhưng thỉnh thoảng cũng xịt mũi. Mắt ông đỏ vằn lên. Không ai
nói với ai một tiếng. Không ai để tâm đến sự có mặt và sự ngạc nhiên
đến sững sờ của Lãm. Cả nhà như vừa trải qua một cơn tang tóc. Lãm
chợt quay nhìn bốn phía. Hay đêm qua bọn kẻ cướp đã đột nhập vào nhà
này? Nhưng không, mọi thứ hình như đều nguyên vẹn. Với lại lẽ nào
một trận cướp bóc như vậy không làm Lãm tỉnh giấc.
Một buổi sáng khác thường bảng loảng. Lò không nổi lửa. Trương Phú
cũng không thiết nhìn ngó đến đống sắt vụn. Bà mẹ không ra chợ. Tất
cả như ngừng trệ, như tạm bợ, như chuẩn bị di cư. Cậu con trai
choàng dậy cũng ngơ ngác không kém gì Lãm. Nhưng sau khi hỏi ba về
việc lên lửa lò và được ba trả lời bằng cái lắc đầu uể oải thì nó
lao vù đi. Nó biệt tăm cho đến trưa, khi bụng đã lép kẹp mới mò về.
Ăn ẩu xỉ vài miếng rồi lại nhót đi. Với nó không phải quai búa, đốt
lò là vui nhất.
Có một ngày bất bình thường như thế đã xảy ra trong gia đình Trương
Phú giữa những ngày bình thường và cũng hết sức tầm thường trong
nhịp sống hùng hục của cả thị xã này. Cái ngày lểnh loảng, chơi vơi
đó đã khắc đậm trong trí não Lãm mãi mãi về sau, khi cái tên Nguyễn
Viết lãm không còn nữa mà thay vào đó là những biệt danh dữ tợn “Cọp
xám”, “Hổ mang”, “Beo vằn”, khi cuộc đời Lãm đầ ắp những cảm giác
mãnh liệt, những thói quen liều lĩnh và khát vọng cuồng nhiệt, thì
cái ngày ấy như một hơi sương, như một làn nước bồng bềnh quẫy dậy
giữa cõi u tối và đông đặc trong tâm khảm anh.
Chính cái ngày ấy, ngày ra đi của cô gái trẻ Đông Hà, ngày ra đi của
một kỷ niệm ấm áp tin cậy trong lòng Lãm, để rồi về sau, hơn chục
năm sau, Khánh Hòa trở lại, và chính căn nhà này với kỷ niệm ấu thơ
của nó đã giúp cô lần gỡ được đầu mối của một hồ sơ mà không có phần
đầu lai lịch. Những chuyện đó là mãi sau này, còn lâu mới kể đến.
Còn ngày hôm nay, một ngày giữa thu, trời nhiều mây vảy cá, nhưng
những khoảng không có mây thì da trời lại xanh đến mức bỡ ngỡ, Lãm
hết đi vào lại đi ra. Ngôi nhà lợp nứa trống trải quá. Giữa khoảng
không đó, Lãm nhận ra cái sắc màu bỡ ngỡ kia. Đấy là chiếc áo màu
xanh lục vẫn còn treo trên vách. Hình như mọi vấn đề bắt đầu từ đó.
Nhưng lúc này anh chỉ cảm thấy thôi mà không sao giải thích được.
Lãm cứ thơ thẩn vì cái khoảng xanh thẳm trên trời và chút xanh lục
hững hờ ở liếp cửa. Anh lững thững đi ra ngõ rồi như không cần
phương hướng, anh vòng chéo qua ngõ nhà bên cạnh. Bất chợt anh huýt
sáo. Anh huýt khẽ chỉ đủ cho mình nghe.
Đột ngột có tiếng xa máy rú ga lao đến. Lãm quay lại. Hai chiếc
honđa đỗ trước hiên nhà Trương Phú. Bốn lính cảnh sát nhảy xuống
chạy sùng sục vào nhà. Có chuyện rồi! Tim Lãm đập loạn xạ. Anh ngồi
vội xuống vạch mấy lá bã đậu nhòm sang. Cảnh sát đang soát nhà.
Tiếng xáo trộn sầm sầm. Ông Trương Phú đứng đực giữa sân như một cột
cháy. Bà mẹ vẫn ngồi phía trong. Thỉnh thoảng Lãm nghe tiếng bà hỏi
lập bập:
- Các cậu... cần chi rứa?
Vẫn tiếng sầm sập, loảng choảng của sắt thép, nồi xoong. Tiếng thình
thịch của giày cảnh sát. Một lát yên ắng rồi đột ngột có tiếng hỏi
giật giọng:
- Con Khánh Hòa đâu?
- À, giọng bà mẹ vẫn lập bập nhưng cố tình cười, em nó đi Huế từ
sáng.
- Đi Huế làm chi?
- Dạ, em nó thỉnh thoảng vẫn đi mua hàng trong đó mà.
- Nói láo. Sắt còn cả đống đây, mua mà tế mạ bay à?
Trương Phú lúc này mới cố nhấc được chân lên, kéo lê từng bước vào
thềm và bắt chước vợ, ông cũng cười nhăn nhó:
- Ăn nhằm chi mấy cậu. Sắt chừng đó chỉ làm mấy hôm là hết. Dạ, em
nó... hì hì... phải đi...
Thằng cảnh sát mặt đầy tàn hương xem chừng khó chịu với lối cười giả
tạo của ông già nên quay phắt lại trợn mắt lên:
- Đi túm c cho Việt cộng hí?
- Dạ?
- Đ. mạ, nhanh như sóc.
Cũng chính thằng mặt đầy tàn hương ấy chửi đổng một câu, hắn đi đi
lại lại vẻ bực dọc rồi đột ngột chụp lấy cổ Trương Phú:
- Này, thằng già kia, nói thiệt đi! Con gái mày lên rừng rồi hả?
Trương Phú run lên bần bật:
- Các cậu nói chi kỳ rứa... Nó... nó...
Một cú xô giúi làm cho ông già ngã chổng quèo. Bà mẹ mếu máo chạy
ra, vừa lạy vừa khóc:
- Lạy các cậu... lạy các cậu... Em nó đi Huế mua hàng thiệt mà.
Không tin các cậu cứ lục nhà. Đó... đồ đạc em nó vẫn còn nguyên
xi... Cái áo xanh lục em nó vẫn mặc đó... Nó đi xa răng được...
- Câm! Đ. mạ, cứ leo lẻo cái mồm. Mày không nói thì để tao nói cho
nghe. Chúng tao đã nắm gọn hồ sơ con gái mày trong tay đây này. Chỉ
tiếc hơi muộn một chút. Nhưng thôi, nó chưa thoát đâu. Lúc đó mày sẽ
trợn mắt lên mà coi con mày chết đạn. Đ. mạ!
Cả mấy thằng cùng đồng loạt nhổ toèn toẹt nước bọt xuống sàn nhà rồi
đùng đùng nhảy lên xe. Hai chiếc xe cùng rú máy một lúc và cùng lao
đi hồng hộc như lúc đến. Phải chờ cho tiếng xe thật xa Lãm mới dám
bò ra khỏi bụi cây và dè dặt bước vào nhà. Anh chưa biết nên nói câu
gì để an ủi. Lòng anh đang vỡ vụn ra trong bao tâm trạng hoảng loạn
trái ngược nhau. Cảnh sát đã sục đến đây, đó là điều cực kỳ ghê gớm.
Nhưng hơn cả chuyện đó là việc Khánh Hòa lên rừng. Cô ta là Việt
cộng. Hóa ra lâu nay anh được sống trong sự đùm bọc của một gia đình
Việt cộng. Một gia đình như những gia đình bình thường bên kia
tuyến, nơi mà anh rũ áo ra đi. Mỉa mai chưa, rốt cuộc anh không tìm
được một chỗ ấm thân và tin cậy nào khác ngoài những căn nhà đó. Lãm
bước vào trong nhà. Nỗi sợ hãi càng tăng khi anh bắt gặp ánh mắt còn
nhòa nước của người mẹ Việt cộng. Nếu mẹ biết rằng Lãm từ phía những
ánh mắt như thế chạy trốn vào đây.
- Thím!...
Lãm thấy nghẹn ở cổ. Dầu sao cũng phải nói một câu an ủi. Anh cố
ghìm mọi cảm xúc lại.
Nhưng thật bất ngờ, người mẹ vừa lúc nãy run rẩy hoảng sợ đến vậy mà
chỉ một loáng, khi tiếng xe máy cảnh sát chưa tắt hẳn đã có thể nói
với Lãm một cách điềm tĩnh lạ lùng:
- Lãm! Con phải đi gấp đi. Nhà mình đang lúc chưa ổn. Chúng nó còn
quay lại. Em con đi thiệt rồi... Nó có dặn thím nói lại với con
là... đừng giận nó. Việc của Mặt trận nó không thể báo trước được.
Em con bị lộ, trên rừng rút lên. Con cũng thu xếp nhanh lên...
Lãm vẫn đứng nguyên nhìn chằm chằm vào người mẹ. Thực là kỳ lạ, lúc
này chính anh cũng không còn thấy sợ sệt gì nữa.
Anh đến gieo hạt nhớ
Nơi cây tôi nảy mầm
Mưa giữa mùa đến muộn
Khoảng trống này... mênh mông
Giang Huong Blog
Last edited by nutacxinhxan; 10-07-2007 at 07:45 AM..
nutacxinhxan
Xem hồ sơ
Gởi tin nhắn tới nutacxinhxan
Visit nutacxinhxan's homepage!
Tìm bài gởi bởi nutacxinhxan
(#4)
nutacxinhxan
Kẻ lữ hành cô độc Bài gởi: 3,365
Gia nhập: Sep 2006
Trả lời: Người không mang họ - Xuân Đức - 10-07-2007, 07:49 AM
Chương 3
1
Lên đường!
Chỉ có lên đường mới tồn tại, nằm im là chết. Đấy là phương châm
sống, là cốt lõi nghề nghiệp, là bản năng tự vệ của Sơn Nam mãi võ.
Những đình làng, những bãi chợ, những ga tàu, bến xe; những ngã ba
ngã tư trong phố, ở đâu có thể tụ tập được người là gánh thuốc Sơn
Nam đi đến. Tiếng rao hài hước cố cù lấy tiếng cười của người đời,
tự đâm dao vào bụng mình, cầm gạch xán vào đầu mình để đổi chút lòng
tin và sự khâm phục của thiên hạ. Dí mũi dao găm sắc ngọt lên mặt
rồi chồng lên trên cán dao ấy những chiếc đĩa men sứ dễ vỡ hoặc
những vật nặng thừa sức đè dao đâm toạc da thịt mình. Chồng chềnh đi
trên một sợi dây thép và ở phía dưới có ba người cầm gươm chĩa thẳng
lên để nếu anh ngã xuống gươm sẽ xuyên qua người... Tất cả những trò
ấy là phương tiện sống mà Sơn Nam đã lựa chọn, đặt sinh mạng mình
vào chỗ cheo leo nguy hiểm nhất, cứ thế lên đường!
Mùa xuân mưa bụi lăn tăn, mùa hè nắng như táp lửa vào mặt. Thu đến
mang theo bão giông bất thần, những cơn lũ hỗn láo nhảy xổ từ trên
cao xuống đồng bằng cắt tung những trục đường chính. Mùa đông gió
rét tím lịm da thịt, mưa dầm dề não nuột. Nhưng với gánh thuốc Sơn
Nam thì thời gian không chia mùa.
Bây giờ là cuối đông. Mùa đông năm nay ít mưa nhưng có cái rét đặc
biệt. Người có tuổi ôm ngực ho lụ khụ. Trẻ nhỏ rên hừ hừ vì những
cơn sưng phế quản cấp tính. Trâu bò lăn đùng ra chết cứng giữa đường
đi. Rét mùa đông không hề báo trước. Bất thần trông thấy nắng, thiên
hạ hoan hỉ cởi chiếc áo sợ dày cộm ra thì đùng đùng rét đến y như nó
nấp sẵn đâu đó quanh mình. Để đối phó với cái rét, người ta thi nhau
cưới. Quanh một ngõ phố có tới hàng chục đám cưới trong một ngày.
Pháo nổ chát chúa, liên hồi, khói đùn lên xám mờ từng ngõ. Càng rét
càng cưới, cưới vội vàng, cưới hấp tấp hớt hải như lục tìm chiếc áo
ấm sau giấc ngủ bị rét tập kích. Trong bối cảnh chung đó Sơn Nam mải
võ cũng cưới vợ.
Vợ Sơn Nam là một cô gái gầy như thanh díp ô tô mà đức ông chồng
thường dùng để đập vào hai bên mạng sườn. Gầy nhưng khá đẹp. Mái tóc
cắt ngắn hơn cả tóc Sơn Nam. Đôi má luôn rực hồng và đặc biệt là cặp
môi, tạo hóa đã tẩn mẩn chế tạo được đôi môi sắc như nét vẽ. Tên cô
là Loan, nhưng từ ngày nhập hội bán thuốc, cô được mang thêm cái tên
kép: Kiều Loan.
Loan vào hội này hồi đầu là nhận việc bán thuốc. Nhưng vì cô đẹp –
tai họa sau này cũng vì sắc đẹp ấy – nên Kiều Loan trở thành học trò
cưng của thầy Sơn Nam. Sơn Nam dạy cho cô võ nghệ còn kiên trì chu
tất hơn cả những đứa đệ tử thân tín khác. Đương nhiên không ai dám
ganh tị chuyện đó. Kiều Loan vừa là học tò, vừa là “thanh díp” làm
công cụ để Sơn Nam tồn tại. Hai người ăn ở với nhau như vợ chồng.
Tuy vậy Sơn Nam vẫn không thích lấy vợ. Hắn sợ bận bịu, đặc biệt là
sợ có con. Hơn nữa, có vợ, ăn nằm với vợ là việc quá thông tục,
người tầm thường nào chẳng thế. Đằng này không vợ mà vẫn sống thỏa
mãn mới là bậc “đại ca”. Thế nên Sơn Nam thường “xuống chưởng”
nghiêm tị kẻ nào xui hắn cưới vợ.
Nhưng đánh đùng một cái, cũng ú tim như trò đâm kiếm vào bụng, hắn
quyết định cưới. Cuộc cưới diễn ra thực kỳ lạ. Ngoài bầy học trò
thường ngày vẫn kề vao sát cánh ra, Sơn Nam không thèm mời một ai.
Thực ra có ai nữa mà mời. Nhưng rốt cuộc đám cưới này lại trở nên ồn
ào, tấp nập và nổi tiếng nhất thành phố Đà Nẵng.
Gánh thuốc được chia làm hai, y như hai họ. Một bên là Sơn Nam, họ
trai. Một phía là Kiều Loan, họ gái. Trang phục kỳ dị theo lối cổ
xưa. Sơn Nam mặc áo giáp ngắn chân, đi đôi lư vàng. Kiều Loan bận
một gi – lê đen có những đường viền trắng, tóc búi cao (dĩ nhiên là
tóc giả), hai ống quần bó chặt. Tay phải Sơn Nam cầm lưỡi kiếm, tay
trái cầm một cành hoa. Còn Kiều Loan một tay cầm bó đuốc giả, tay
kia nâng một cốc bia to. Pháo nổ. Toàn pháo đại. Khói mù trời. Tiếng
nổ long óc. Chàng rể, cô dâu bước lên giá cao và đặt chân lên sợi
dây thép. Pháo càng nổ to hơn. Những bước đi chếnh choáng, tròng
trành. Dây thép chùng hẳn xuống. Phía dưới đoàn phù rể và phù dâu
cầm gươm chĩa thẳng lên như sẵn sàng găm xác nếu có người rơi xuống.
Không biết cơ man nào là khách. Cả bãi sông chặt ăm ắp người. Tất cả
đều nín thở. Các cô gái lấy tay bưng mặt. Những bà già run khập
khậy. Trẻ con cứ hét lên mỗi lần dây chao như đưa võng. Thật là
khủng khiếp. Pháo vẫn nổ. Cô dâu chú rể đã gặp nhau. Họ trao hoa,
trao bia cho nhau rồi cùng uống. Hấp! Khán giả rú lên, nhưng liền đó
thở phào hoan hỉ. Họ đã ôm nhau đứng dưới đất giữa tua tủa gươm
giáo.
Đám đệ tử của Sơn Nam vui thích ra mặt. Chúng nó sung sướng vì từ
nay chủ nó đã có vẻ chững chạc. Đàn ông mà thiếu một bà vợ xem ra
chống chếnh lắm. Nhưng việc đó chưa quan trọng. Điều làm cho chúng
hoan hỉ nhất là đinh ninh sẽ được nghỉ xả hơi một thời gian dài cho
thầy với phu nhân hưởng tuần trăng mật. Nhưng chúng lầm to.
Sau lễ cưới hai ngày, Sơn Nam lại hạ lệnh lên đường.
Trong gánh thuốc, ngoài người vợ trẻ chiếm địa vị độc tôn trong sự
ưu ái của thầy, thì Lãm là người được Sơn Nam dành cho một tình cảm
đặc biệt hơn cả. Trước hết bởi Lãm là người chăm học và lam làm. Anh
đã cứu nguy cho toàn gánh những khi chiếc xe Đột giở chứng dọc
đường. Anh còn là tay thợ tận tụy làm ra những dụng cụ cầu kỳ để
biểu diễn. Lãm là con người khác hẳn bọn trong gánh, không ăn chơi,
không hung hãn. Lãm sống âm thầm nhưng không thấp kém, lễ phép nhưng
không cúi luồn. Có lẽ trong đời Sơn Nam, bây giờ mới tìm thấy đây là
thằng học trò lý tưởng. Lãm ý thức được điều đó và cố gắng tận dụng.
Bất kỳ lúc nào anh cũng có thể hỏi và Sơn Nam đều không tiếc lời chỉ
bảo. Dần dần chính Sơn Nam cũng ngạc nhiên về sự thông minh nhanh
nhẹn của người học trò này. Mới gần nửa năm mà võ nghệ của Lãm được
xếp vào bậc thứ năm trong đám học trò.
Thời gian này sách “chưởng” của Kim Dung tràn ngập thị trường Đà
Nẵng. Một không khí “chưởng” sùng sục trong sinh hoạt của lớp trẻ
đến mức Sơn Nam cũng giật mình thấy rằng nếu không theo mốt “chưởng”
thì chẳng còn danh tiếng gì nữa. Thế nên Sơn Nam mải võ quyết định
thay chữ “võ sư” mà bấy lâu đám học trò cố tình tâng bốc thành một
tên gọi “Băng chủ”. Kều Loan cũng không ưa đám lâu la gọi mình là
phu nhân nữa mà khiêm tốn xin nhận làm “tiểu muội”. Thế là trong
gánh thuốc đột nhiên nhí nhố những tên gọi mới nghe quái gở đến tức
cười “Trình Băng chủ” “Thưa tiểu muội”, “Nhất đệ, nhị đệ, tam đệ, tứ
đệ v.v...” Bầy học trò có mười hai người. Nhưng đến “thập đệ” là
hết, vì chẳng lẽ lại xưng “thập nhất đệ... thập nhị đệ”. Nguyễn Viết
Lãm được mang tên mới Nguyễn Ngũ Đệ.
Sơn Nam quí Lãm bao nhiêu thì Kiều tiểu muội cũng quý anh bằng ấy,
có khi còn hơn. Ngoài những giờ học với thầy, Lãm thường được Kiều
Loan mách bảo thêm cho những thế võ hiểm mà trong đám học trò ngoài
cô ra không ai được Sơn Nam truyền dạy cả. Xưa nay luật dạy võ là
thế. Thầy bao giờ cũng là thầy. Dù có quý trò đến đâu cũng không bao
giờ truyền hết. Nhưng với Kiều Loan, cái ưu thế đàn bà thường phá
bung mọi khuôn phép. Vả lại Sơn Nam tự lý sự rằng, dù Loan có giỏi
bằng mấy cũng là con gái. Võ nghệ đâu chỉ có miếng, có thế mà phải
cần có sức nữa. Về phía Lãm, nói cho thật công bằng anh chẳng ưa gì
cô gái đỏng đảnh kia. Con gái mà theo đòi võ nghệ đã khó coi rồi,
lại bằng ngần ấy tuổi mà cũng ăn trên ngồi trốc, sai phái nạt nộ đám
học trò thì coi chướng quá. Nhưng Lãm tuyệt nhiên không biểu lộ thái
độ. Hơn nữa sức mấy mà quan tâm đến những chuyện quái gở trên đời
này. Miễn sao học cho được những miếng võ cao cường. Ý chí đó ngày
đêm cứ sùng sục đốt cháy tâm can Lãm. Thế nên Lãm không tiếc một nụ
cười đáp lại vị nữ đệ nhất kia. Và nếu có điều kiện là anh tìm cách
gần gũi.
Ngày qua rồi ngày lại đến. Thời gian vốn là của quý. Nhưng thời gian
cũng nguy hiểm, và trớ trêu thay, Lãm khó mà giải thích được từ bao
giờ trong cái chuỗi thời gian lê thê đó, anh lại đi đa mang mối cảm
tình với Kiều “tiểu muội”. Còn gì hốt hoảng bằng khi tự bắt được quả
tang sự ám muội trong lòng mình. Cuộc sống anh đột nhiên thoảng thốt
như lúc nào cũng găm mũi dao vào bụng, lúc nào cũng bước chênh vênh
trên dây. Nếu Sơn Nam biết được?... Bất giác Lãm rùng mình. Anh cố
tình lơi ra, cố tâm lảng tránh mũi dao kia. Anh cắn chặt ham muốn,
tự trấn áp mình như thế võ lùi, xuống tấn. Những lúc như thế, hình
bóng “con rắn độc” lại hiện lên. Anh cầu viện nó, Bởi chính nó – con
rắn độc Kim Chi ấy – là bài học sâu sắc nhất về sự nhục nhã của đam
mê. Nhưng ác thay, Kim Chi không giống Kiều Loan. Kiều Loan đối với
anh không hống hách, không trêu cợt. Trong ánh mắt của vị “tiểu
muội” này có cái gì đó rực lên như ánh lửa và ảm đạm như làn mây.
Ánh mắt đó như hiện thân toàn bộ phần hồn của Lãm. Anh càng hốt
hoảng hơn và cầu khẩn đến Khánh Hòa. Ừ, Khánh Hòa mới gần gũi làm
sao, mới dễ tin làm sao! Khánh Hòa – nỗi nhớ ấy ấm áp quá! Nhưng
Kiều Loan là Kiều Loan, vẫn không có gì thay thế được. Kiều Loan
không có cái nhìn dè xẻn, thăm dò như cô em hàng sắt ấy. Kiều Loan
đến với anh bằng sự liều lĩnh vốn có của con nhà võ. Điều đó rất hợp
với tính cách của Lãm.
Lãm cố tính lảng tránh. Nhưng thà đừng như vậy có khi lại hơn. Kiều
Loan đột ngột phờ phạc, âm thầm. Ánh mắt cô lơ đễnh như đang mang
bệnh nặng. May mà Sơn Nam rất vụng trong môn “tâm lý học”, hơn nữa
Băng chủ vốn không ưa săn sóc vợ.
Những ngày Tết, đấy là cơ hội làm ăn to nhất trong năm. Toàn gánh
thuốc nhổ trại lên đường. Đi một vòng những nơi đã đi bao lần trước,
đi rộng ra những vùng nông thôn, đi quanh quẩn như kiến bò cành cụt.
Cuối cùng lại dừng chân ở Huế. Gánh thuốc cắm trại ngay bên sông
Hương. Ngày diễn trò bán thuốc, đêm xuống thuyền chơi đĩ. Ra giêng
tháng rộng ngày dài.
Dĩ nhiên đó là cách nghĩ của đám lâu la, học trò. Họ chẳng chịu
trách nhiệm gì cả. Còn Sơn Nam, ông chủ của toán người, kẻ cầm trong
tay sự tồn tại của cả toán thì lo lắng thực sự. Thuốc bán ế ẩm.
Người xem nhờn mặt. Tiết mục cũ quá không còn làm cho thiên hạ sửng
sốt nữa. Có những ngày diễn trò từ sáng đến quá chiểu mà chỉ bán
được vài viên thuốc. Bữa ăn trong ngày giảm xuống rõ rệt. Mỗi người
chỉ được phát một chiếc bánh chưng.
Sơn Nam chán nản bỏ mặc đám học trò đang làm ảo thuật giữa bãi, ủ rũ
đi ra đầu xe ngồi bệt xuống như một quả bóng xì hơi. Lãm bước sẽ đến
ngồi bên cạnh.
- Băng chủ!... Tình hình này xem ra không ổn... Đừng biểu diễn nữa.
Sơn Nam ngước mắt nhìn thằng học trò. Dù sao trong bọn lố nhố kia
cũng có đứa biết lo toan cái lo của chủ. Bởi thế Sơn Nam càng mến
Lãm hơn.
- Em bảo nên thế nào?
- Em chợt nghĩ thế này, không biết Băng chủ có ưng không?
Lãm liếc mắt về phía đám khán giả đang cười hô hố kia như sợ họ nghe
thấy. Anh ghé miệng thì thào vào tai Sơn Nam. Đôi mắt Sơn Nam chợt
sáng lên. Một cái vỗ vai đau điếng người xán xuống vai Lãm:
- Tuyệt. Nhưng chọn ai?
- Băng chủ cứ chọn em...
Mắt Sơn Nam chớp chớp ra dáng cảm động. Nhưng bản tính con nhà võ
vốn ít tình cảm. Băng chủ đứng dậy đi nhanh ra bãi:
- Thưa quý “dị” đáng lý chúng tôi còn tiếp tục mua “dui” cho quí
“dị” thêm vài hồi nữa, nhưng vì có khách lớn vừa đến nhắn sẽ mua hết
chỗ thuốc của chúng tôi. Khách ấy ở Sài–goòng mới ra, đã từng biết
công hiệu kỳ lạ của loại thuốc này. Thế nên Sơn Nam mải võ xin tạm
giã từ quí “dị”. Hẹn hôm sau sẽ tái ngộ.
Chấm dứt bài diễn văn tự bịa. Sơn Nam vẫy tay cho tất cả lên xe. Đám
học trò ngơ ngác nhưng không dám chậm trễ. Xe nổ máy lao ra mặt
đường giữa lúc khán giả còn chưa kịp giải tán. Xe cua tay mặt, phóng
về phía cầu Tràng Tiền. Đột ngột từ bên kia đường trong một quán
giải khát có một thanh niên chạy băng qua. Chẳng hiểu có chuyện gì
gấp gáp đến mức ấy. Vừa lúc chiếc xe Đốt vù đến. Người đi đường hét
lên thất thanh. Khán giả ở phía sau cũng ào lên. Chiếc xe đã phanh
kịp thời nhưng tai nạn vẫn không sao tránh khỏi. Người thanh niên bị
“ba–đơ–xốc” húc ngã, nằm sóng soài trên vệ đường, máu tóe ra từ bả
vai và đầu gối. Người xúm lại mỗi lúc một đông. Sơn nam bước xuống,
ôm xác nạn nhân lên rồi dõng dạc tuyên bố:
- May quá, chưa chết! Thưa quý “dị”, thật là rủi ro, nhưng lỗi đâu
có tại chúng tôi. Chắc quý “dị” cũng thấy rõ người thanh niên này
hoàn toàn sai luật. Nhưng thôi, cứu người là trên hết đã. Dù ai sai,
ai đúng cũng không bỏ mặc người. Nào, anh em, đưa thuốc xuống đây!
Giỏ thuốc được bê xuống. Bọn học trò xúm vào. Đứa thì hòa thuốc vào
chén nước ép nạn nhân uống. Đứa thì cởi áo nạn nhân ra dùng thuốc xa
bóp. Người xem mỗi lúc một đông. Đông hơn bất kỳ một cuộc tụ họp
nào. Chỉ những người đứng vòng trong cùng mới thấy xác nạn nhân còn
người ngoài chỉ túm tụm hỏi vọng vào. Thế rồi chừng ba mươi phút nạn
nhân từ từ đứng dậy. Anh ta xin lỗi chủ xe. Anh ta lại cảm tạ thuốc
thần. Rồi anh lặng lẽ bước đi về phía chợ.
Chẳng còn ai quan tâm đến anh làm gì nữa. Người ta giành nhau mua
thuốc quý. Sơn Nam tuyên bố chỉ bán cho mỗi người ba viên thôi. Thế
là xô nhau, đẩy nhau, chửi bới cãi vã om sòm. Có nhiều kẻ gian lận
lộn vòng mua hai lần. Đám đông như vớ được của trời. Tiếng ồn ào náo
động khắp bờ sông. Đấy là một ngày đại thắng của Sơn Nam mải võ. Chờ
cho đến khi đám đông giải tán hết, số thuốc gói đã bán hết sạch, Sơn
Nam mới cho xe chạy. Xe lao lên phía chợ Đông Ba. Không có vị khách
Sài–goòng nào đợi cả. Chỉ có Lãm ngồi giấu mình bên cổng chợ trong
cơn đau rát bỏng, ê chề.
Sau chiến công hiển hách ấy, Lãm được chủ ban thưởng đặc biệt. Sơn
Nam cho riêng Lãm năm ngàn đồng và nhấc anh lên hàng đệ nhị. Và để
xứng đáng với danh hiệu “đệ nhị mãi võ”, Lãm được Sơn nam cùng với
Kiều Loan dành riêng cho một chương trình dạy võ ngoại ngạch. Dĩ
nhiên Sơn Nam rất bận với công việc biểu diễn cho nên sau khi bảo
ban có tính lý thuyết, hắn giao cho Kiều Loan hướng dẫn cụ thể. Đấy
là những ngày chan chứa nhất của cặp tình nhân vụng lén.
Vào một đêm khi cặp tình nhân đang xoắn xuýt lấy nhau phía sau thành
Đại nội thì bị bắt quả tang. Những kẻ lập chiến công lớn lao đó là
Quân râu đệ tam và Chúc rồ đệ tứ. Từ lâu Quân râu vốn không ưa Lãm.
Lý do đơn giản vì Lãm nhập môn sau Quân hai năm mà không chịu cung
phụng bậc anh cả. Rồi dần dần Lãm chiếm được lòng tin cậy của chủ
hơn cả bọn khiến cho Quân râu hậm hực, ngứa mắt. Đến khi Lãm được
bất ngờ nhấc lên hàng đệ nhị, ngồi chiếu trên chỉ sau Băng chủ với
Kiều đệ nhất, thì Quân râu, Chúc rồ tự thấy như một điều sỉ nhục
không sao cam tâm nổi. Một ngày còn Lãm, chúng nó sẽ không cất mặt
lên được. Thế nên cái việc đã xảy ra như một điều tất nhiên phải
thế.
Một đêm khủng khiếp trôi qua trong sự câm lặng đến rợn người của Sơn
Nam. Sáng hôm sau vẫn chưa có dấu hiệu phản ứng gì. Kế hoạch biểu
diễn hoãn lại. Sự im lặng tới mức đông đặc, như cơn oi nực trước
trận bão giông. Khoảng gần 9 giờ, bất ngờ Sơn Nam triệu tập “đại
hội”.
Mỗi một người đều có thể tự tưởng tượng ra trong đầu một khung cảnh
ghê rợn khác nhau của sự nổi giận. Mỗi người tùy theo vốn võ nghệ
của mình mà hình dung ra một kiểu “xuống chưởng” của Băng chủ. Tất
cả đều thấp thỏm, nín thở. Riêng Lãm, anh chẳng nghĩ gì nhiều. Một
cảm nhận chua xót ngấm vào trí não anh làm cứng trơ mọi sự lo âu,
hốt hoảng. Anh biết rằng đã dấn thân vào đây là đương đầu với những
trò đùa nguyên thủy nhất.
Khi tất cả đã ngồi yên theo ngôi thứ, Sơn Nam bắt đầu nói. Giọng hắn
bình tĩnh một cách lạ thường:
- Sự việc ai cũng đã rõ, tôi miễn nói lại. Chắc anh em nghĩ rằng tôi
sẽ trả thù đệ nhị? Không. Vì nghĩa lớn mà trả thù mới là hảo hán. Vì
chuyện riêng mà sát hại nhau chỉ là lũ tiểu nhân. Tuy vậy, một nước
không thể có hai vua. Một người đàn bà không thể có hai chồng cùng
sống một chỗ. Hoặc Đệ nhị sẽ thay tôi thống lĩnh anh em, hoặc chúng
ta sẽ không còn Đệ nhị nữa. Tôi rất quý Đệ nhị, điều đó chắc anh em
đều rõ. Nhưng trong giới võ lâm, tình cảm và lý trí phải rõ ràng.
Vậy tôi tuyên bố thế này...
Băng chủ ngừng lại, chậm chạp đứng lên. Cả đám người hồi hộp đến tắt
thở.
- Mời Kiều đệ nhất đứng ra làm trọng tài. Tôi Sơn Nam mãi võ sẽ thi
đấu với Nguyễn Đệ nhị. Ai thắng sẽ thống lĩnh tất cả. Bắt đầu!
Cả bọn sững sờ, ngơ ngác. Trò chơi này còn quái đản hơn bất kỳ tiết
mục nào, kể cả thọc dao vào cổ hoặc lao người ra trước đầu xe. Chỉ
còn cách chồm người, ra bò lê sát mặt đất, kêu gào dưới chân Băng
chủ may ra người rủ lòng thương mà hủy bỏ cuộc trừng phạt oái oăm
kia đi. Cả bọn, kể cả những kẻ đã đang tâm săn tìm Lãm đêm qua bây
giờ cũng tái xanh mặt mày, Kiều Loan run lẩy bẩy, mồm ríu lại nói
không thành câu:
- Lạy Băng chủ... lạy... anh...
Nhưng Sơn Nam mải võ đã đứng lên, sửa sang lại áo quần và nhẹ nhàng
đi đến vị trí thi đấu. Cả bọn hớt hải nhìn Lãm. Quỳ xuống đi! Bò đến
sát chân Băng chủ đi! Ai cũng cuống cuồng giục gọi trong lòng như
vậy. Nhưng Lãm vẫn ngồi nguyên, mặt cúi gằm. Thế rồi đột ngột anh
đứng dậy, uể oải nhoẻn một nụ cười khô héo. Chậm chạp như bước vào
cửa chết, Lãm lê gót chân đi đến vị trí của mình. Băng chủ nhìn anh
gật đầu vẻ hài lòng.
Hai người – một thầy một trò, một chủ một tớ - dừng lại một tý rồi
Sơn Nam xoay người lên phía trọng tài khẽ cúi chào, lại quay về
những kẻ ngồi dưới cúi lần nữa. Lãm cũng làm theo y như một kẻ mất
trí. Sau đó hai bên nhìn nhau, Sơn Nam khẽ nheo một mắt, nói:
- Đừng uể oải thế! Con nhà võ bất kỳ tình thế nào cũng phải lồng
lên, sắp chết cũng lồng lên, nhớ chưa?
- Dạ...
- Vô đi!
Lãm tiến vào miễn cưỡng như có ai xô giúi từ sau lưng. Dáng bộ anh
không có một chút gì là con nhà võ nghệ. Nhưng mặc kệ, từ phía trước
mặt một cú “thôi sơn” nhanh như tia chớp đã hất bật anh ra. Đau như
đứt ruột. Cái đau là liều thuốc kỳ diệu làm cho Lãm bừng tỉnh. Sơn
Nam xông tới giáng như một nhát chém xiên chéo qua cổ anh. Kiều Loan
rú lên. Nhưng Lãm đã ngồi thụt xuống, văng mình qua trái. Không ngờ
thằng học trò lại tránh được miếng chém hiểm đó, Sơn Nam trợn mắt
lao tới. Lãm bước giật lùi, co gập bụng lại. Không còn thời gian để
chán nản, để tuyệt vọng. Không còn ranh giới cho nỗi tủi hờn và sự
hài hước cấu xé nhau. Hơn cả đứng trên dây hoặc đưa ngực ra đỡ mũi
kiếm sắc, ở đây anh đang đứng trước những cú đấm tổng lực của một võ
sư từng lừng danh suốt một thời. “Hụp”! “mậy”. Những cú đấm phóng ra
như gió. Những người ngồi ngoài vã mồ hôi trán. “Hực”! Trúng rồi! Cú
móc lên nghe giòn như bát vỡ. Máu ở miệng Lãm trào ra. Nhưng đúng
vào lúc Sơn Nam quá chủ quan vì thấy đối phương hộc máu thì nhanh
như một xoẹt lửa, Lãm quay mình xây lưng lại phía thầy. Một cú đánh
bằng cùi tay cộng với lực xoay của cơ thể làm cho Sơn Nam choáng
váng. Đầu hắn tóe lên một ý nghĩ: “A, thì ra con mẹ ấy đã truyền cho
nó miếng này!”. Lợi dụng lúc thầy còn chếnh choáng, Lãm nhảy chồm
tới công thêm quả móc nữa. Nhưng anh không thể nhanh bằng Sơn Nam.
Hai tay Băng chủ khép lại giữa mặt. Quả đấm của Lãm như táng vào một
khối thép. Đau quá Lãm lùi ra. Không kịp! Một cái gì đó sắc lạnh như
khối nước đá đổ òa lên thái dương anh. Cú đánh độc đến nỗi những
người ngồi ngoài không hề nhìn thấy. Lãm nằm như ngủ. Tảng băng lạnh
đang tan từ phía trên đầu lênh láng ra khắp cơ thể. Giá như cuộc đời
cứ được như thế mãi thì tốt biết bao...
... Nhưng cuộc đời vẫn đánh thức anh dậy. Lúc đó hoàng hôn đã buông
mờ thành Huế. Lãm tỉnh dậy và cảm nhận đầu tiên của anh là mình đã
bị bỏ rơi. Nhưng anh không hề buồn, chưa đủ tỉnh táo để buồn. Lãm
vẫn khép mắt nằm im. Có những bước chân sát cạnh anh. Tiếng xì xào
bàn tán. Ai đó buột miệng than vãn: “Thiệt khốn khổ cái giống xì
ke...”. Lãm biết người ta đang nhòm ngó mình. Từ sáng đến giờ hẳn đã
bao nhiêu người xúm lại ngắm nghía. A ha, mình là thằng xì ke! Cái
thứ đó ra làm sao nhỉ?
Có cái gì cồm cồm phía dưới mạng sườn. Lãm lần lần bàn tay xuống đó.
Rồi anh cố mở mắt ra. Cái gì thế này? Một chiếc khăn tay nhỏ. Kiều
Loan! Đúng cái hương vị thoang thoảng của nàng ẩn trong làn vải ấy
nữa anh cũng nhanh chóng nhận ra. Lãm thấy ngây ngất. Anh cố kéo
chiếc khăn mặt lên. Từ trong gói khăn rơi ra mấy viên thuốc. Trời
ơi, Kiều Loan! Kiều Loan! Bây giờ thì anh đã hiểu. Lãm cố sức ngồi
dậy và mở gói khăn ra. Tất cả là mười viên.
2
“Anh!...
Em có trở lại Đông Hà trong một đêm tối trời, gặp ba gặp mạ mà không
gặp được anh. Em được nghe mạ kể lại chuyện bữa chúng nó khám nhà
mình và anh buộc phải ra đi. Rứa là cùng một ngày ba mạ thiếu em rồi
thiếu luôn cả anh nữa. Nghĩ thương ba, mạ quá. Thương cả anh nữa.
Giờ ni anh ở đâu, anh Lãm? Có điều chi bất hạnh đến với anh
không?...”
Giờ này thì Lãm đang ở trong ngôi nhà lợp nứa đã rách nát trên nóc
và hai mái. Lá thư Khánh Hòa nằm trong tay anh, lá thư mà người mẹ
cố tình cất giữ vì tin rằng sớm muộn chi anh cũng tìm về với gia
đình. Tin tức đầu tiên mà ông Trương Phú loan báo cho anh là đừng
dùng cái tên Nguyễn Viết Lãm nữa. Trong sổ đen của quận cảnh sát đã
có tên ấy. Chúng nó đã lần ra được rằng, có một người thanh niên ở
trong nhà Khánh Hòa. Người thanh niên ấy thường ra bến xe đón Khánh
Hòa mỗi lần cô ta đi cất hàng nơi xa về. Người ấy cũng biến mất sau
khi Khánh Hòa bị lộ buộc phải thoát li. Dù là bộ óc ngu si nhất cũng
có thể đưa ra một kết luận, người thanh niên ấy phải là đồng chí của
nữ Việt cộng nằm vùng. Người đó mang căn cước Nguyễn Viết Lãm.
Lãm vừa thấy chờn chợn lo lắng, lại vừa thấy hài hước. Anh mà là
đồng chí của Việt cộng ư?
“... Anh Lãm ơi, anh có giận K.H. không, bởi ngần ấy tháng ngày ở
trong gia đình mà em không hề nói cho anh biết công việc của em.
Không phải em không tin anh đâu. Em đã sớm nhận ra anh là một người
có bản lĩnh. Anh không giống bất cứ gã con trai nào trong cái thị
trấn hỗn loạn đó. Mà đâu phải chuyện giả vờ. Người ta khó ai giả vờ
được hoài, phải không anh? Nhưng nói thiệt tình, cho đến phút này em
vẫn không thể hiểu nổi anh là ai? Ở đâu đến? Ngay cả cái tên Nguyễn
Viết Lãm nữa đã chắc chi trúng tên anh? Đôi lúc em rùng mình vì một
ý nghĩ, biết đâu anh lại là một nhân vật quan trọng của những lực
lượng đang săn tìm em? Nhưng rồi em cố gạt ý nghĩ ấy đi. Anh là
người tốt. Nhất định thế. Mặc dù em chẳng biết chi nhiều về cuộc đời
anh cả. Thế rồi đến hôm nay nghe mạ kể lại việc anh tẩu thoát khỏi
cuộc vây lùng của cảnh sát thì em bỗng thấy thương anh quá. Anh có
biết em thương anh đến dường nào không?...”
Lãm trở lại nhà Trương Phú đã hơn một tuần. Theo lời dặn của gia
đình, anh tuyệt nhiên không ra khỏi cửa. Hàng sắt cũng được dọn ra
chợ, không bán trước cửa nhà nữa. Tuy vậy Lãm vẫn thấy không yên
tâm. Công việc làm rất hạn chế. Thêm một suất ăn trong gia đình lúc
này là thêm một gánh nặng. Lãm loay hoay tìm một kế thoát thân. Anh
trao đổi với Trương Phú, nhờ ông tìm cho một việc làm với cớ là tìm
cho thằng cháu họ. Ông Phú đang cố sức chạy. Trong thời gian đó Lãm
ngồi tẩn mẩn nghĩ cho mình một cái tên mới. Họ thì đương nhiên phải
lấy họ Trương vì cháu ruột Trương Phú mà. Còn tên?... Sao khó thế
nhỉ? Các mẹ đặt tên cho con thời dễ, người ta tự đặt cho mình quả là
quá khó. Lãm vô tình lục lại trong trí nhớ những cái tên xa xưa.
Hoàng Lạng.. Ngô Sĩ Lạng... Nguyễn Viết Lãm.. Mỗi một tên khắc ấn
một vết đau. Nếu cứ thế, tốt hơn hết đừng mang tên họ gì cả, sống
ngoài gia phả, ngoài hồ sơ, ngoài những điều kiện sinh tồn xã hội.
Một nỗi hằn học quẫy dậy. Lãm thấy căm uất tất cả. Mình chỉ là hòn
sỏi trên dặm đường đời mà thôi. Mình là hòn sỏi... Đau chưa? Tôi tên
là Trương Sỏi! Lãm kêu lên bất ngờ và bật cười ngất ngưởng.
“... Em thương anh, lo cho anh nữa. Anh hãy tin như vậy. Nhưng anh
phải nói thiệt với em đi, anh là ai thế? Có thể anh sẽ bực mình vì
câu hỏi lẵng nhẵng của em. Nhưng anh có biết không, em chỉ ao ước có
một điều, anh hãy làm người tốt như vậy mãi mãi để em đừng buồn,
đừng thất vọng. Mãi mãi anh là người tốt nghe anh Lãm!...”.
A ha, anh là người tốt. Anh là Trương Sỏi, em có biết không? Lãm lăn
ra trên giường cười như một thằng say.
Lúc đó có lẽ khoảng nửa đêm. Lãm chợt giật bung người ra khỏi giường
vì một tiếng la thất thanh. Cái phản xạ đầu tiên khiến anh hốt hoảng
là cảnh sát. Nhưng chỉ vài giây sau Lãm đã nhận ra rằng đấy chỉ là
một toán cướp. Lãm lao mình ra phía cửa. Bất ngờ một cú đám giáng
thẳng vào ngực anh. Cú đấm chưa đủ lực làm anh ngã. Lãm định thần
trở lại. Một cánh tay quàng siết qua cổ anh cùng đồng thời với tiếng
quát rít trong kẽ răng:
- Muốn sống đứng yên!
Lãm mặc kệ cho cánh tay kẹp siết ở cổ, anh đảo nhanh mắt nhìn một
vòng. Trong màn đêm lờ mờ, anh vẫn có thể nhận biết được mấy bóng
đen hì hục khuân đồ đạc. Có hai đứa cao kẹp giữa hai người lớn trong
gia đình. Một đứa khác đè cổ thằng em trai trên giường. Thế là rõ.
Lãm chợt bật tiếng cười khô trong cổ. Cánh tay của tên cướp siết mỗi
lúc một chặt thêm. Có cảm giác lành lạnh ở dưới sườn. Lãm biết đó là
mũi dao nhọn. Trước hết phải tránh mũi dao đã. Lãm vờ nghẹt thở xỉu
người xuống. Tên cướp buộc lòng phải khom người theo. Lãm thả lỏng
cơ thể bẹp xuống như một đống thịt không xương. Tên cướp thấy nặng
quá phải chống cả tay cầm dao lên nền đất. Vào thế rồi! “Bung!”. Một
cú xoay nhanh như nhào lộn. Tên cướp văng ra xa, loạng choạng ngã.
Nhưng nó đã kịp gượng dậy. Phía sau lưng Lãm đột ngột lao sầm đến
một tên khác trong lúc anh còn khom người dưới đất. Lợi dụng luôn
thế đó, Lãm giật lùi người. Tên phía sau bị mông anh thúc vào bộ hạ,
đau nhói người, bổ sấp lên lưng anh. Vào thế! Lãm quờ tay lên vít
lấy xương vai. Vút! Hực! Cú đánh kết hợp giữa mông và tay giật đã
quẳng chéo tên phía sau lên đằng trước. Cả khối thịt rơi đánh “rắc”
một phát vào tên cướp đang lom khom phía trước Lãm. Bọn bên ngoài
lao chạy. Lãm quờ tay tìm hộp quẹt. Đèn sáng lên. Căn nhà ngổn ngang
hòm xiểng, áo quần. Thằng cướp nằm sấp mặt, máu rỉ ra giữa nền đất.
Lãm lấy chân hất ngửa nó ra.
Thằng cướp chừng hăm ba, hăm bốn tuổi nhưng ria mép chừa rất dài.
Chiếc cằm nhọn xuống như cái bướu. Hai môi đỏ lòm máu. Nó mở mắt
trừng trừng nhìn Lãm. Anh nhổ toẹt xuống một bãi nước miếng rồi quay
lại phía ông bà già lúc này ngồi bất động như chết rồi.
- Chú thím dọn dẹp lại đi. Coi thử chúng nó đã lấy được cái chi
chưa?
Ông Trương Phú như bừng tỉnh khỏi cơn mê, lồm cồm đứng dậy. Ông rên
rỉ như sốt nặng, hai chân hai tay cứ luống cuống. Lãm bê đèn đi khắp
nhà giúp ông dọn dẹp. Bà mẹ cũng tỉnh dần lại. Cả cậu em út nữa. Tất
cả bổ nhào đi lục lại đồ đạc của mình. Chừng nửa tiếng thu dọn họ
mới thực sự yên tâm vì thấy kẻ cướp chưa kịp khuân thứ gì cả. Thực
hú vía.
Trong thời gian đó Lãm nghĩ nhanh đến một hậu quả có thể rất tai hại
cho mình. Bọn cướp có thể báo với cảnh sát tung tích anh. Anh không
thể nán thêm ngày nào trong ngôi nhà này nữa. Nhưng nếu anh đi thì
bọn này sẽ quay lại báo thù kiểu như nhà ông Cống dạo trước.
Lãm quay lại chỗ tên cướp bị thương. Hắn đã qua cơn đau đớn và hốt
hoảng. Nhìn ánh mắt lấm lét của hắn, anh biết thằng này đã khỏe
nhưng vẫn giả vờ nằm để tìm kế tẩu thoát. Lãm kéo một chiếc ghế lại
ngồi xuống bên hắn, cố ghìm giọng thật khẽ:
- Ngồi dậy!
Thật là bất ngờ, thằng cướp ngồi vọt dậy một cách khỏe khoắn. Hai
mắt hắn nhìn Lãm một cách hoảng loạn tưởng như sắp bị đưa đi xử bắn.
Lãm nhếch một bên mép đầy vẻ giễu cợt rồi ném xuống hai viên thuốc.
- Một viên xoa, một uống. Nhớ lấy câu này, hễ còn đụng đến ngôi nhà
này thì cố nội mày sẽ cho mày nhừ xương.
Tên cướp sáng mắt lên vì tin chắc được thoát. Hắn cố gượng cười, một
kiểu cười nhão nhoẹt:
- Dạ... lạy lay... đại ca. Đại ca có... có thể cho bọn đàn em...
biết quý... quý danh?
- Tao là Trương Sỏi. Đệ nhị mãi võ. Cánh tay đắc lực của Băng chủ
Sơn Nam. Mày cứ nhìn mấy viên thuốc gia truyền kia là đủ biết. Chú
đây là chú họ tao. Từ nay tao ở đây. Hoặc nếu tao có đi vắng ít ngày
thì đừng có ngu dại dắt nhau đến đấy. Nếu hỗn láo đừng trách ta độc
ác.
Tên cướp đột ngột quỳ bẹp hai chân, rập người xuống lạy sát đất. Cử
chỉ bất ngờ quá suýt nữa làm Lãm bật cười.
- Muôn lạy Trương đại ca! Nghìn lạy Đệ nhị mãi võ. Bọn đàn em có mắt
như mù dám vấy bụi lên chân đại ca. Trăm nghìn lần mong đại ca lượng
thứ...
Lãm bỗng thấy buồn nôn vì cái lối xưng hô tréo cuống họng ấy. Nhưng
anh biết việc đó có lợi cho gia đình Trương Phú nên cố chịu đựng.
- Thôi, cút đi! Nhớ truyền cho nhau biết lời ta dặn.
- Dạ...
Đi đâu bây giờ? Còn có chỗ nào yên ổn nữa? Chao ôi, người đời họ ước
mơ bao nhiêu điều cao sang, mong mỏi bao nhiêu chuyện phi thường,
thế mà khối kẻ vẫn đạt được. còn mình, mình chỉ ước được yên ổn, dù
làm thuê, làm mướn, dù ăn muối ăn dưa miễn sao yên ổn. Thế mà đến
hôm nay hoàn toàn vô hy vọng. Suốt đời mình chẳng hành hạ ai, chỉ
mong có một điều đừng bị ai hành hạ. Nhưng rốt cuộc có thoát nổi
đâu.
Lãm vừa đi vừa ngẫm nghĩ. Cuộc đời là cái chó gì? Là cạm bẫy, là trò
đùa, là tâm địa độc ác với nhau. Có đất nào cho ta dung thân không?
Có. Nhưng muộn mất rồi. Lãm tự khẳng định và cảm thấy chua xót. Nỗi
chua xót kết tủa trong anh, hành hạ anh. Anh nhận ra nó như kẻ bạc
tình xáp mặt với vợ cũ. Đã một thời, hầu như xa lắm rồi, xa vời vợi
ấy (thực ra mới cách đây hai năm) anh đã sống một cách êm ấm. Thời
của “chiếc khắn piêu thêu chỉ hồng...”. Anh đã đánh mất nó mất rồi.
Anh bỏ mất như người nghèo đánh rơi của quý. Rơi một đằng mà đi tìm
một nẻo. Tìm đâu ra sự yên ổn ở phía bên này.
Lãm bơ vơ đi tìm kiếm một chỗ dung thân với hy vọng như kẻ mê tín
trông chờ may rủi. Giờ thì anh đã khẳng định cái may không dành cho
anh. Không bao giờ, mãi mãi về sau cũng thế, Lãm cắn chặt hai hàm
răng. Không hy vọng nữa! Không chờ đợi nữa! Tất cả chỉ là trò ảo
thuật. Nhưng phải sống! Sống bằng cách nào đây? Phải tự mình vực
dậy! Tự mình gây dựng nên thôi, không chờ ai hết. Nhưng vực dậy bằng
cách nào? Gây dựng cái chi mới được chứ? Lãm vung ta ra trước mặt
như cố giải thoát khỏi tâm trạng bế tắc. Điên tiết, anh nhảy phốc
lên vừa đá vừa đấm tung vào không khí!
- Trương đại ca!
Lãm giật bắn mình đứng sững lại. Một tóan năm, sáu thằng con trai
như từ dưới đất chui lên vây ập quanh Lãm. Anh nhận ra ngay tên cằm
nhọn, ria mép dài. Định phục thù chăng? Lãm lùi người về thế tấn.
- Muốn gì?
Cả bọn kia cũng lùi lại, mắt nhớn nhắc nhìn tên cằm nhọn. Thằng này
nói tiếng cà lăm:
- Ấy đư...ừng! Bọn em muốn... muốn được tiếp đại... đại ca...
“Có thể thế thật”. Lãm khẳng định ngay vì nhìn mắt đứa nào cũng hốt
hoảng.
- Dạ... từ hôm được mang ơn của đại ... đại ca, em về có nói... nói
lại những điều đại ca dặn... Bọn đàn em này khao... khao khát muốn
được tận mắt ngưỡng... mộ vị Đệ... đệ... nhị mải võ của Sơn Nam...
- Thôi được rồi – Lãm khó chịu ngắt lời – giờ thì chúng mày cần gì?
Nét mặt tên đầu đảng rạng rỡ hẳn lên:
- Dạ... ở đây có cái qu...án... rượu rất ngon... Mời đại ca...
- Thôi, miễn trò ấy. Ta không biết uống rượu.
Xem ra có vẻ thân mật. Cả bọn ùa đến vây quanh Lãm:
- Lạy... lạy đại ca...
- Trình với Đệ nhị mãi võ...
- Dạ bọn đàn em đây...
Một lô một lốc những lời lẽ nịnh hót mà Lãm không có cách gì nghe
lọt vào tai được. Tuy vậy anh vẫn đứng yên. Sự ghê tởm xen lẫn chút
kiêu hãnh. Ừ, từ ngày vào đất Đông Hà, cái bọn bụi đời này luôn luôn
nhìn mình bằng con mắt khinh miệt. Giờ thì lại quỳ xuống, lạy bẩm.
Giả tạo quá! Tởm lợm quá! Nhưng cũng hay hay. Đôi khi con người ta
sống được nhờ chút thỏa mãn với sự giả tạo của xung quanh. Thế nên
mặc dù vẫn lắc đầu quầy quậy nhưng hai chân Lãm lại không cưỡng nổi
những cú xô đẩy và nhặng xị những lời mời mọc. Cả bọ kéo ào vào quán
rượu “Cẩm Linh”.
- Cho chai “na – pô”. Sáu đĩa gan xào!
Tên râu mép dài gọi mà không thèm nhìn vào quán. Cả bọn ngồi tràn
xuống như một bầy vịt quây quanh chiếc máng tép. Rượu “na – pô – lê
– on” rót tràn chén phả mùi ngây ngây. Gan xào nóng hôi hổi. Cả bọn
chụm đầu lại nhai và chụm đầu nói chuyện. Chúng cố tình nói khẽ
nhưng thỉnh thoảng vẫn bực ra tiếng cười hô hố.
- Em tên là Quản. Gọi là Quản nhọn vì cái cằm em đây này... Từ trước
đến nay, em được bọn này yêu mến tôn làm đại ca. Nhưng con đom đóm
không dám đùa trước anh mặt trời. Từ nay nếu đảng “Đào lưu” này có
được uy danh của Đệ nhị mải võ thì phúc lớn tày đình cho bọn em
quá...
Lãm chẳng nghe nổi mà cũng chẳng hiểu được thằng nhiều râu mép đang
nói cái gì. Phần vì lời lẽ chúng nó rắc rối cong queo quá. Hơn nữa
rượu mạnh làm tai anh ù đặc. Chao ôi, cả đời bây giờ mới uống rượu.
Lại phải uống nhiều nữa. Đất trời như lộn tùng phèo với nhau. Những
tiếng “Đệ nhị” “đại ca” “phúc lộc” “hảo hán” cứ rủng roảng như xóc
đĩa trong đầu. Chẳng hiểu gì hết nhưng mà khoái. Lãmchỉ biết có một
điều, bọn này đang bái phục mình. Tất cả những thằng có máu mặt ở
đất này đang xu nịnh mình. Rồi cả cái miền Nam này sẽ hết hồn vì
mình... Có thế chứ! Có thế chứ! Cúi đầu mãi được sao! Uống nào! Đệ
nhị nào! Hảo hớn nào! Râu mép dài nào!... Sợ đếch gì mà không
uống...
Sau này, có những lần cố bình tâm nghĩ lại, Lãm chợt bâng khuâng
không biết bằng con đường nào mình trở thành trưởng đảng cướp, cũng
như trước đó nữa, chẳng hiểu sao mình lại vượt tuyến vào Nam. Sau
này, vào cái thời mà sự thơ ngây thực thà trong đầu Lãm đã cạn,
nhường chỗ cho những canh bạc, thuốc phiện và cướp giật, thì hắn đổ
hết cho sự ngẫu nhiên. Đời là ngẫu nhiên. Tính tóan cũng bằng thừa.
Anh đến gieo hạt nhớ
Nơi cây tôi nảy mầm
Mưa giữa mùa đến muộn
Khoảng trống này... mênh mông
Giang Huong Blog
nutacxinhxan
Xem hồ sơ
Gởi tin nhắn tới nutacxinhxan
Visit nutacxinhxan's homepage!
Tìm bài gởi bởi nutacxinhxan
(#5)
nutacxinhxan
Kẻ lữ hành cô độc Bài gởi: 3,365
Gia nhập: Sep 2006
Trả lời: Người không mang họ - Xuân Đức - 10-07-2007, 07:55 AM
Chương 4
1
Không cần sổ sách, văn tự nhưng lại có sự trừng phạt của “luật rừng”
thay thế, từ lâu bọn bụi đời ngấm ngầm thỏa hiệp với nhau chia thị
xã Đông Hà ra làm ba khu vực “cai quản”. Từ chợ Đông Hà đổ ngược lên
phía tây, bên ngoài đường 9 là vùng kiểm soát của đảng cướp “Đào
lưu”. Từ cửa chợ đổ về hướng đông, qua bên kia Quốc lộ I và phía nam
đường 9, bao gồm cả khu cảng cả vùng phía bắc cầu Đông Hà đều thuộc
đất của đảng “Mãng xà”. Ga tàu lửa và đoạn đường Quốc lộ trước mặt
ga kéo vào cho đến quá cầu Lai Phước là khu vực độc tôn của đảng
“Hận đời”.
Trước đây đảng “Đào lưu” là một lực lượng đáng gờm nhất. Khu vực
“kiểm soát” của nó được kéo dài xuống tận cảng và lan qua bên kia
đường 9. Nhưng sau một lần xích mích với bọn “Mãng xà” thì hai toán
xảy ra một cuộc sát phạt khá đẫm máu. Lực lượng “Đào lưu” thiệt hại
nặng. Sau đó một số sợ hãi bỏ chạy qua đảng “Hận đời”. Cho đến bây
giờ trong tay trưởng đảng Quản nhọn chỉ còn bốn chiến hữu với một
vài cơ sở chứa chấp. Hắn đành cúi đầu chịu nhục mà thu hẹp địa bàn
lại. Nhưng nào có yên, lực lượng bọn “Mãng xà” ngày một bành trướng.
Nghe đâu đã lên tới trên hai chục đứa. Chúng trắng trợn lấn tràn qua
bên này chợ. Quản nhọn vừa căm uất, vừa hoảng sợ. Đích thân hắn phải
tìm gặp trưởng đảng “Hận đời”, cống nộp 10 ngàn đồng để xin hợp tác
lực lượng sát phạt lại bọn “Mãng xà”. Nhưng Hậu lác, con người đã
khắc đậm giữa ngực hai chữ “Hận đời” không thèm nói nửa lời với Quản
nhọn, đã thế lại cướp không 10 ngàn bạc không chút xấu hổ. Rồi tiếp
đó, biết lực lượng “Đào lưu” đã quá tan tác, đảng “Hận đời” nhanh
chóng thọc bàn tay lên vùng đường 9. Thế là Quản nhọn bị kẹp giữa
hai thế lực mạnh. Hắn lồng lộn đến sùi bọt mép. Nhưng biết làm sao
được, đảng “Đào lưu” đang đặt trước nguy cơ xóa sổ.
Cho nên không dễ gì mà Quản nhọn cúi đầu nhường chức thủ lĩnh cho
một kẻ ngoài đảng như Trương Sỏi (tức Lãm). Tình thế thúc ép Quản
phải hành động như vậy. Trương Sỏi nhanh chóng nắm được tâm trạng ấy
của nhóm cướp, hắn tập hợp bọn đàn em lại, chậm rãi tuyên bố:
- Tôi không thích sống theo kiểu này. Bình sinh Trương Sỏi tôi vốn
ưa điều ngay thật. (Hắn bắt đầu quen với lối nói trong sách chưởng).
Nhưng cảm mến tấm lòng ưu ái của anh em, tôi không nỡ bỏ. vì vậy, ta
cần nói thẳng với nhau một điều. Tôi sẽ không tham gia vào những vụ
trấn lột. Chuyện đó mặc kệ anh Quản. Tôi chỉ ra tay giúp anh em dạy
cho bọn “Mãng xà” và “Hận đời” những bài học bằng máu về sự láo
xược, để chúng nó biết thế nào là công bằng. Sẽ thu hồi lại “lãnh
thổ” của đảng ta. Sau khi những mục tiêu ấy thành đạt thì anh em cho
phép kẻ biếng lười này rút lui. Lúc đó ép nhau cũng không được.
Tiếng vỗ tay lẹt đẹt. Quản nhọn đứng dậy vòng hai tay lên trước mặt
y như một vị đại quan đứng trước mặt Thượng hoàng trong các vở tuồng
cổ:
- Trình đại ca! Bọn đàn em cũng biết đại ca là bậc danh tiếng chẳng
thèm dấy bẩn vì đám bụi đời này, cho nên không dám phiền nhiều đến
đại ca. Công việc làm ăn hàng ngày là việc vặt vãnh. Đại ca cứ thẳng
lưng mà ngủ đừng có lao tâm làm chi. Chỉ mong sao, bằng uy danh của
mình, đại ca phục hồi lại cho đảng “Đào lưu” những gì đã mất – Nói
đến đây đôi mắt Quản nhọn chớp chớp như muốn khóc. Hắn quay lại phía
bọn đàn em – Hỡi ôi, hẳn anh em đều chưa quên lịch sử. Sở dĩ chúng
ta mang danh “Đào lưu”, bởi vì từ thuở mới khai trương đảng anh em
mình dọc ngang như con nước xiết, mênh mang đất trời không hề biết
quy phục ai. Lúc đó làm chi có bọn nhãi nhép “Mãng xà”? Làm chi có
tụi mất dạy “Hận đời”? Chỉ có ta thôi. “Đào lưu” là dòng chảy của
máu đó. Bây giờ dòng máu ấy đang bầm tím lại, sôi sùng sục vì uất
hận – Hắn lại xoay người lên hướng Trương Sỏi – Nếu nhờ danh tiếng
của đại ca mà uy danh đảng ta lại lẫy lừng như trước thì lúc đó xin
mời đại ca cứ an nghỉ, thẳng bụng mà ăn, thẳng lưng mà ngủ. Bọn đàn
em này xin suốt đời làm tôi tớ cho đại ca.
Đại khái cuộc hội ngộ đầu tiên là thế. Rồi rượu lại được rót ra. Rồi
những lời thưa trình xủng xoảng, kỳ quái. Nhưng đến đó thì Trương
Sỏi không còn nghe gì nữa. Cả đời không quen uống rượu, giờ uống vào
là Sỏi không còn nghe gì hết.
Đến lúc Trương Sỏi tỉnh rượu thì không còn một ai ở bên cạnh. Trời
nhá nhem tối. Sỏi biết rằng bọn chúng đã ra đi. Cây đèn dầu bóng dài
bắt màu sáng xanh lè ra mặt đường 9. Cô chủ quán, một cô gái chừng
mười tám tuổi, tóc quăn râu ngô, mũi gãy, má lem lém vết chàm đang
xoa bóp ở đùi Trương Sỏi. Cô gái cười một kiểu cười dị dạng.
- Đại ca... ngủ ngon hè?
Trương Sỏi nhíu mày khó chịu. Cái thằng Quản nhọn bày ra lắm trò quỉ
quái quá. Hắn nhặt đâu được con bé tởm lợm thế này? Cái quán này là
“bản doanh” của đảng “Đào lưu”. Chủ quán là người trong bọn. Đây là
chỗ ăn, họp, chỗ bàn tính âm mưu. Quán lui xa khỏi thị trấn, đặt ở
chỗ cua trên đường từ Cam Lộ về Đông Hà. Có lẽ trước ngày Trương Sỏi
về đây, con bé khốn khổ này đã từng xoa bóp kiểu này cho Quản nhọn
và nhiều thằng khác. Nghĩ vậy bất giác Trương Sỏi rùng mình.
Rượu chưa tan hẳn trong đầu, cái độ nồng còn lại đủ gây cho Sỏi một
nỗi buồn da diết. Cuộc đời! Cái gì đã qua và cái gì đang đến? Kỷ
niệm tuổi thơ vẫn chưa chịu chết hẳn, mặc dù cuộc sống người lớn đã
chồng chất đè nặng lên nó hết lớp này đến lớp khác. bàn tay cô chủ
quán vẫn xoa lên khắp da thịt Sỏi. Hơi rượu cũng lan man bò trong
tâm khảm anh. Văng vẳng đâu đó tiếng hát trầm trầm. Bài hát “Chiếc
khăn piêu...” Những đêm chiếu phim nhộn nhịp và hồ hởi... Những buổi
thả trâu ngoài trảng Phước. Tiếng mõ trâu lóc cóc khua rền. Bài ca
“chiếc khăn piêu thêu chỉ hồng” thường lẫn vào trong những âm thanh
ấy. Hồi đó, người thích hát bài ấy mới là một thanh niên, bước đầu
lên tuổi thanh niên, người đó không biết rằng bài hát ấy nói về một
câu chuyện tình yêu chan chứa... Tình yêu là gì anh ta nào có ý thức
được. Đến bây giờ, đến tuổi trưởng thành thì làm gì còn những lời ca
kia nữa. Tất cả đã không thèm quay trở lại với anh...
- Đại ca dùng một chai Cô – ca cho nhả rượu nghe?
Sỏi lắc đầu. Hắn đang cần rượu để được ngủ tiếp trong trạng thái đê
mê ấy. Công việc Sỏi định làm trong đêm nay là về dưới bờ ruộng chỗ
gần chiếc cầu tay vượn để mò lại khẩu súng ngắn. Khẩu súng của tên
cảnh sát văng vào chân Sỏi trong cái đêm hút chết ấy. Bây giờ Sỏi
thấy cần đến nó! Cần làm gì? Trương Sỏi chưa có ý định rõ rệt. Có lẽ
trước hết chỉ để tăng thêm phần oai vệ mà thôi.
Nhưng Trương Sỏi vẫn nằm yên, mắt khép hờ. Hơi rượu âm ỉ chuyển động
trong từng tế bào. Bao mệt mỏi của một cuộc chạy đua đường trường
của mặc cảm và chí phục thù, tích tụ lại trong cơ bắp, thần kinh,
nay đang tan hòa, bốc hơi ra khỏi người hắn. Một sự đền bù từ phía
ngoài râm ran chuyền vào. Bàn tay cô chủ quán vẫn xoa đều. Quán vắng
lặng quá. Ai dám đi đường này vào lúc tối tăm như thế này nữa. Lại
càng không ai to gan ăn nhậu ở một cái quán chơ vơ đầy ngờ vực này.
Không gian u mờ như hoang đảo. Sỏi khẽ trở mình, quờ tay ra phía
trước. Một hơi nóng áp vào ngực hắn hầm hập như nồi nước sôi mở
vung. Hắn vẫn không thèm mở mắt. Lúc này hắn tự cho mình có quyền
được hưởng những sung sướng mà không cần biết của ai, từ đâu đến.
Sự êm đềm giả tạo ấy không thể kéo dài. Việc có mặt của Trương Sỏi
chưa hề mang lại tác dụng gì mà lại quàng thêm vào cổ nhóm cướp một
gánh nặng. Những câu thưa bẩm, những lời nịnh hót ngày một thưa thớt
dần. Rồi Trương Sỏi đọc thấy trong các ánh mắt vẻ bực bõ, khó chịu
của đám bụi đời này. Dần dần là thái độ khinh mạn. Đặc biệt những
đêm không kiếm chác được gì, bọn chúng thường cấu xé lẫn nhau.
- Đồ ăn hại! Chỉ được híp mắt lại là giỏi.
- Đ. mạ! Thằng nào ăn hại? Xem cái bả vai tao đây này, chừng này máu
chưa đủ cho mày uống à?
- Câm mồm đi! Có đổ máu mới có cái mà nhậu chứ. Cứ phưỡn bụng ra thì
lấy cứt mà đổ vào mồm à?
Trương Sỏi đứng bật dậy, máu nóng trong người sôi lên sùng sục. Hắn
biết tất cả những lời bới móc ấy nhằm vào ai. Nhục quá! Mà cũng đau
quá! Để cho bọn nhãi nhép này xỉ vả thì còn ra cái kiếp chó gì nữa!
Cả bọn vẫn chúi đầu vào bàn ăn. Những quả chuối cuối cùng đã bị bóc
vỏ. Những chai la – ve cuối cùng đã dốc ngược đít. Thằng Cún thọt
cầm chiếc vỏ chai huơ lên như một gã điên:
- Nốc đi! Đ.mạ, chúng mày nốc đi!
- Còn máu... gì nữa mà nốc?
- Hừ, rứa đứa nào uống? Há? Đứa nào uống hết? Đ.mạ, đứa nào đã uống
hết la – ve thì nốc nốt nước đái tao đây này. Ha... ha...
Trương Sỏi lao sầm đến. Bung... xoảng!.. Một cú đá như sét đánh hất
tung chiếc bàn ăn, vung tóe bọn người ngồi xung quanh. Cả đám kinh
hoàng nằm xuống đất. Lần đầu tiên đại ca nổi giận! Đôi mắt Trương
Sỏi long lên sòng sọc.
Quản nhọn run lẩy bẩy:
- Đại... ca... vì sao... đại ca lại như... như vậy?...
Trương Sỏi quay người đi, lòng nặng chịch. Từ ngày đặt chân vào đất
này, hắn đã tự nghiến răng lại mà thề dù chết đói cũng không để cho
lũ khốn kiếp này coi thường. Huống chi nay, đường đường là “anh hùng
nhất khoảnh” thế mà lũ ôn dịch kia dám lăng mạ hắn. Tại sao mình
không xông vào đập vỡ sọ chúng nó ra? Sao không cắn xé cho tơi tả
những bộ mặt kia ra? Ừ, tại sao? Trương Sỏi bỗng thấy nghẹn ứ trong
cổ. Tại sao có trời mà biết! Nhìn những bộ mặt kia vừa thấy đáng
ghét, vừa đáng thương. Chúng nó phờ phạc quá, thiểu não quá! Những
thằng mười ba, mười bốn tuổi: mười chín hai mươi tuổi... Cái tuổi
ăn, tuổi ngủ. Thế mà đói. Đói cả cơm, đói cả ngủ. Đói thì cắn bậy
nhau thôi. Còn mình? Chao ôi... ngủ, ngủ li bì trong rượu và thức
nhắm. Có lẽ mắt mình híp lên vì ngủ. Có lẽ chúng nó nhìn vào bộ mặt
mình còn đáng ghét gấp trăm lần khi mình nhìn mặt chúng nó. Không!
Không thể nào đập vào mặt chúng nó được. Mà có đập thì cũng chưa
phải lúc. Đánh lúc này là mang tiếng ác, là phản bội, xấu nhất là
loại ăn cháo đái bát. Không, tao không thèm quỵt chúng mày đâu. Tao
sẽ mang tiền về. Tao sẽ chồng đống bạc ra giữa mặt chúng mày rồi rít
lên “Đó, nhậu đi, đồ rẻ rách! Chúi đầu vào như vịt mà ăn đi!”. Phải
như thế đã. Sau đó mới dạy cho chúng bài học về sự lễ độ.
Nhưng tiền ở đâu ra? Câu hỏi ấy đến đột ngột khiến Trương Sỏi đứng
sững người. Chẳng lẽ... chẳng lẽ mình cũng phải đi ăn trộm ư? Trời
ơi thằng Trương Sỏi này mà cũng đi ăn cướp ư? Thằng Trương Sỏi,
không, tên nó là Nguyễn Viết Lãm, mà cũng không phải, là Lạng kia,
Hoàng Lạng, Ngô Sĩ Lạng... dù sao thì không có cái tên nào thích hợp
với nghề cướp. Mình có thể nào lại trở thành nỗi kinh hoàng của ông
Cống, chú Trương Phú.
Mồ hôi Sỏi vã ra. Hơi rượu vẫn còn cay cay trong sống mũi. Cần tiền
quá! Thậm chí cần rất nhiều tiền nữa. Chỉ cần một lần này thôi, một
lần thôi để rửa nhục. Ai khinh hắn còn khả dĩ, chứ để lũ bụi bặm kia
kinh thì quá nhục. Tiền! Tại sao mình không có tiền? Bao nhiêu tiền
ở đâu hết mà không đến với mình, mặc dù ít ai ham làm bằng mình, ít
ai chịu khó chịu khổ bằng mình. Thế mà tiền vẫn ở lì trong túi những
kẻ sinh ra để giữ tiền. Tiên sư đứa có tiền! Đ. mạ bọn nhiều tiền!
À, tiêu diệt chúng nó đi, bọn có tiền ấy. Móc họng chúng nó ra, lũ
chứa tiền ấy. Để cho chúng ít nhất là một lần biết thế nào là nỗi
nhục nhã của kẻ không tiền. A ha, móc họng chúng nó ra.. Càng làm
cho chúng tiêu điều càng thích... Những ý nghĩ hung ác cứ lồng lộn
lên sùng sục như một vạc dầu sôi trong óc Sỏi. Hắn mang ngọn lửa
bừng bừng ấy mà đi như chạy về phía thị xã.
Từ xa Trương Sỏi đã vội vã khẳng định mục tiêu. Ngôi nhà hai tầng
ngay lối rẽ vào chợ, Nhà ấy hẳn là giàu. Nhà ấy phải bị trừng trị,
mặc dù ai là chủ ngôi nhà đó không cần biết. Lúc này còn quá sớm.
Người vẫn đi lại thong dong trên phố. Nhưng Trương Sỏi rất sợ sự
chậm trễ. Sự chậm chạp có thể làm hắn mất ý chí. Chỉ cần một thoáng
đắn đo lúc này là hỏng hết việc. Tiền đâu? Này... Sỏi vịn tay vào bờ
tường, lên gồng đu một phát vào phía bên trong. Hú hồn, không một ai
nhìn thấy. Sân vắng lặng, nhưng trong nhà vẫn đỏ đèn. Cửa chưa cài.
Làm sao đây? Cứ vào thẳng. Tội đếch gì mà lén lút, ăn trộm ư? Cóc
cần. Cứ lao sầm vào mà đòi tiền. Băm vằm những đứa có tiền ra. Nào,
a – lê – hấp, vô...
“Gâu! Gâu!”. Con chó xồm ở đâu bất ngờ lao ra. Sỏi giật bắn người
lùi lại. Con chó sủa dồn dập và chồm chồm người chực cắn.
- Ai đó?
Tiếng hỏi vọng ra. “Gâu! Gâu!”. Tiếng chó đáp khẩn cấp.
- Ai đó?
- Gâu! Gâu!
Đèn bất ngờ bật sáng trưng cả hai gác nhà. Tiếng soạn sửa lích kích
như kiểu tìm dao, gậy. Tiếng chân chuyển động sậm sịch. Đột ngột cửa
trước được xô tung, ba bóng người cao to lao ra cùng một lúc. Con
chó xồm được thế nhảy phốc vào. Bụp! Ẳng... Sỏi chỉ kịp co chân đá
tung con chó lên phía trước rồi nhào trở ra bờ tường. Vừa đu lên thì
một cây dao lao vù đến may kẻ phóng dao không phải là con nhà võ.
Sỏi văng người ra phía ngoài. Vừa lúc có mấy người đi đường qua chỗ
đó. Họ hét lên thất thanh và bỏ chạy tán loạn. Bên trong nhà tiếng
la ầm ĩ náo động .Sỏi co giò phóng. Đám người đi đường chạy giạt ra
hai bên. Chỉ còn có một người đàn bà luýnh quýnh chạy thẳng phía
trước mặt. Sỏi lao thục mạng cốt để thoát thân. Nhưng khi đuổi kịp
người đàn bà, một ý nghĩ điên dại lóe lên. Sỏi với tay xô nghiêng
một cái. Người đàn bà ngã sóng soài. Sỏi cúi nhanh xuống. Hai bàn
tay Sỏi quờ quạng khắp người, mặt nạn nhân. Cặp hoa tai... một chiếc
nhẫn... một ví căng kẹp dắt trong lưng quần... Hình như người đàn bà
ríu lưỡi van lạy. Nhưng tất cả đều lẫn trong tiếng gió. Sỏi chẳng
nghe gì cả. Phía sau chó vẫn sủa. Láo nháo tiếng la hét. Sỏi chỉ kịp
dừng lại bên người đàn bà độ một phút rồi lại co giò ào ào phóng lên
phía trước, nhằm về phía có chiếc quán cô độc. Chúng mày đâu! Lũ bọ
hung kia đâu! Tiền đây, cả vàng nữa. Chúi đầu vào mà cười hô hố như
chó sủa đi!
Sự êm ả lại trở về với Trương Sỏi. Một phần nhờ vào số tiền cướp
được của người đàn bà xấu số nào đó. Phần nữa do bọn cướp kinh hãi
trước tài ba có thực của vị đầu đảng, chỉ mới ra tay chưa đầy tiếng
đồng hồ đã mang về một đống của cải, lại dốc túi ném hết cho bọn
chúng. Con người thế mới hảo hán chứ! Bây giờ dù có hết ăn, dù gặp
khi xúi quẩy nhất chúng vẫn không dám hé răng trước mặt Trương Sỏi.
Đứa nào cũng lạnh gáy khi nhớ lại cú đá bay chiếc bàn ăn tối nọ. Chỉ
cần một cú đá như vậy vào chúng nó thì coi như bai đời.
Lại bắt đầu mùa gió lào. Dấu hiệu đầu tiên là những làn hơi nóng lất
phất ở đâu đó không rõ hướng tạo nên cảm giác uể oải và buồn ngủ.
Gió lay lao xao tàu chuối, cuốn vật vờ những rác mỏng bên lề chợ.
Thế rồi, một buổi sáng nào đó ngủ dậy người ta tự nhiên thấy gió
tuôn ào ào. Những cành cây ngả nghiên quằn về một phía. Những khối
bụi cuồn cuội trôi dọc các lối đi. Gió vẫn còn man mát nhưng không
ru người ngủ được nữa. Bắt đầu thấy ngợp vì gió. Tai lúc nào cũng ù
ù tiếng gió. Cổ họng khô bong. Mặt mũi, da dẻ ram ráp bụi. Rồi cái
man mát cũng mất luôn, một hơi nóng lạ kỳ từ trong gió phả ra, phần
phật như quạt lửa. Lá cây tan tác. Cỏ trên đường khô giòn. Chó thè
dài lưỡi thở như dốc ruột. Người cởi vứt áo ngoài, cởi quần dài, cởi
cả áo lót. Người và đất lẫn nhau, đen đủi, bụi bặm và nhầy nhụa.
Không một chỗ nào có thể ngồi yên. Không thể bình tâm để làm bất cứ
việc gì. Cơ thể bốc dần hết nước. Trí não bốc hết sự lanh lợi, khôn
ngoan. Trái tim khô cạn mọi rung động. Những ánh mắt trở nên đờ dại,
tính khí thất thường và cái bản năng hung hãn trong từng người có
thể bất thần cuộn tung lên cùng gió và cát bụi...
Trong mùa gió lào đến, những kẻ khôn ngoan nhất thường phải cố tỉnh
táo để có một cách ứng xử thích hợp với mọi người: đừng để mất lòng
ai. Thế nhưng, kẻ cầm đầu đảng cướp “Hận đời” lại không phải là
người khôn ngoan. Những vụ tranh ăn liên tiếp xảy ra trên trục đường
9. “Hận đời” cậy thế đông thường trấn lột trở lại bọn “Đào lưu”. Mỗi
lần bị ăn chặn, đám đàn em lại hớt hải chạy về kêu với Trương Sỏi.
Sỏi nghe xong, khẽ lim dim mắt suy nghĩ. Hắn không nói một lời. Đám
lâu la đành cắn răng chịu nhục, không dám nói thêm gì nữa.
Chúng nó không biết rằng, chính trong cái bức xúc của gió lào, vị
đại ca của đảng “Đào lưu” đang hừng hực một ý nghĩ độc ác. Phải làm
cỏ bọn nhãi nhép “Hận đời”! Nhưng bằng cách nào? Trừng trị vài thằng
tép riu thì ăn nhằm gì! Rồi để chúng nó co vòi lại, lẩn tránh hết
thì còn biết lần mò đâu ra nữa. Phải làm sao phạt cho tận gốc. Làm
sao cho lũ đàn em của tên Hậu lác kia hết nơi nương tựa, chúng sẽ
phải gục đầu mà xin theo chân Trương Sỏi. Lúc đó uy danh của Sỏi sẽ
chùm khắp Đông Hà. Rồi đó, sẽ tính đến chuyện sát phạt “Mãng xà”.
Cũng có lúc cái con người Nguyễn Viết Lãm trong Trương Sỏi chợt thức
dậy. Hắn sửng sốt vì một câu hỏi bất thần của trái tim: “Hại một con
người như thế có quá ác chăng?”. Nhưng gió lào ào ào thổi bạt chút
từ thiện mỏng manh ấy đi. Trương Sỏi quả quyết, Hậu lác là một thằng
cướp, nó phải bị trừng trị. Việc ta làm là hành động cao cả của
lương tâm (!).
Bọn đàn em không hề đọc được sự tính toán ấy của đảng trưởng. Đám
cướp “Hận đời” lại càng không biết chút gì. Sự kiêu căng ngày một xô
chúng tới bờ vực tự hủy diệt.
Một sáng nọ, đám cướp “Hận đời” lại phát hiện thấy đích Quản nhọn
(mà chúng vẫn đinh ninh là đảng trưởng “Đào lưu”) móc chiếc ví của
một bà già từ trên xe Huế ra. Trong lúc cả xe nhốn nháo vì có người
bị mất cắp thì Quản nhọn đã lẩn nhanh vào chợ, băng về phía bến đò
rồi thoắt cái, đã biến vào một ngõ phố hẻm. Chừng mười phút sau,
Quản nhọn xuất hiện ở một quán ăn phía cuối thị xã dọc theo đường 9.
Quản nhọn gọi một tô bún bê ra ngồi ở chiếc bàn ngoài cùng. Hắn ngồi
một mình quay lưng ra đường nên không để ý đến một tốp bốn đứa như
từ dưới đất chui lên, lẹ làng kéo ghế tới ngồi kẹp sát Quản nhọn.
Nhưng kẻ vừa móc được khoản tiền lớn vẫn chúi đầu vào bát bún, không
thèm đưa mắt lên nhìn. Cho đến lúc có vật gì đó chọc nhẹ vào mạng
sườn gây một cảm giác buốt lạnh như kim đâm thì Quản nhọn mới dừng
tay thìa. Lưỡi dao găm bé xíu lấp loáng phía dưới tà áo hắn.
- Ngồi yên, người anh em!
Quản nhọn vốn nói lắp càng được dịp líu lưỡi:
- Ấy... đư...ừng!...
- Đưa số tiền lúc nãy đây!
- Khoan đã.
- Im! Cứ húp bún đi. Tay kia lấy tiền.
Quản nhọn ngoan ngoãn cúi đầu xuống bát bún, tay trái lần vào túi áo
bên trong. Nhưng hắn không xỉa tiền ra mà lại chìa qua một tờ giấy
gấp nhỏ.
- Cái chi đây?
Tên cầm dao khẽ hỏi và tự tay mở tờ giấy. Hắn đọc lướt một tí rồi
gấp nhanh lại bỏ vào túi.
- Chuyện ấy nói sau. Cứ đưa tiền đây đã.
Quản nhọn lại cho tay vào túi. Chiếc ví được nhanh chóng chuyền qua
tên bên cạnh. Nhoáng một tý, đám thanh niên tản ra rồi biến mất.
Quản nhọn vẫn cúi đầu húp sồn sột nước bún. Khách trong quán chẳng
ai hay biết gì.
“Trình Hậu đại ca, trưởng đảng Hận đời!
Kẻ yếu hèn này xin cúi đầu trước oai hổ của đại ca mà thưa rằng, từ
mấy tháng nay lũ nhãi nhép chúng tôi vô cùng long đong khốn đốn bởi
tay chân của đại ca đã không nương tay nhường nhịn. Càng gần đây sức
ức hiếp của họ càng trở nên quá quắt... Tôi thiết nghĩ rằng con sâu,
con kiến cũng cần có cái ăn mới sống được huống chi người cũng đôi
lần, cái giận lấn cái khôn, toan ra tay xin lại miếng cơm bị chặn,
nhưng nghĩ đến tình bằng hữu lâu nay giữa hai đảng chúng ta, lại
thêm hoảng sợ trước oai hổ của đại ca nên đành cắn răng chịu lún.
Tự nghĩ, có mặt trời cũng phải có mặt trăng, có đại thụ cũng cần có
lau sậy, chẳng lẽ đại ca nỡ sống một mình? Thế nên cúi xin đại ca mở
rộng cửa cho kẻ nhỏ mọn này được tiếp kiến. Xin dẫn trước 10 ngàn
làm quà cho địa ca hút thuốc. Nếu được ra mắt sẽ mang thêm 20 ngàn
gọi là chút lễ mọn để được bàn lại với đại ca lãnh địa sinh tồn. Đại
ca nói cho một lời thì chúng tôi được sống yên ổn. Rồi ra dành dụm
chút quà cáp hầu mong thường xuyên gửi tới đại ca. Còn nếu không
thể, con giun xéo lắm cũng phải quằn, tới lúc đó sợ có lời thất thố.
Nếu được chấp thuận xin cắm lên cây số ba một tờ giấy vàng. Tôi sẽ
gặp đại ca vào 8 giờ tối thứ bảy tại lò gạch cũ dưới chân đồi Vành
Khuyên.
Vô cùng sợ hãi. Đảng trưởng Đào lưu. Ký.”
Hậu lác ôm bụng cười như nôn mửa. Rồi đột ngột hắn lại trừng mắt
lên, vò mảnh giấy ném bẹt xuống đất. Rõ ràng lời lẽ lá thư có vẻ
khiếp sợ, bái phục nhưng ẩn ý bên trong lại gầm ghè dọa nạt. Hỗn láo
chưa! Thằng Quản nhọn kia sức mấy mà dám nói tới điều thất thố? Hắn
định đâm cổ tự sát trước mặt ta chăng. Anh em, cắm cờ vàng để chúng
nó đến! Tối thứ 7, tại lò gạch cũ Vành Khuyên, ta sẽ xóa sổ bọn oắt
con “Đào lưu” ấy đi. Mãi mãi về sau đừng ai nhắc đến lũ ấy nữa.
Phía trong lòng cái lò gạch bỏ hoang ấy đặt một ngọn đèn dầu lờ mờ.
Hậu lác ngồi trên một chồng gạch khá cao. Bên phải và bên trái là
hai “hổ tướng” hộ vệ. Khoảng rộng còn lại phía trước dành cho khách.
Khách cũng có ba người. Quản nhọn đứng giữa, Cún thọt đứng bên trái,
hai thằng này thì Hậu lác đã nhẵn mặt. Còn một hộ vệ phải, người
thâm thấp, mặt luôn luôn cúi gằm vẻ sợ sệt. Có lẽ bọn “Đào lưu” mới
thu thập thêm người? Hậu lác nghĩ nhanh vậy, bởi hắn nắm được một
cách chắc chắn rằng đảng “Đào lưu” chỉ còn có 6 tên, năm trai, một
gái. Lực lượng sắp tan rồi.
Có hai việc đầu tiên làm cho Hậu lác khó chịu. Một là Quản nhọn vào
mà không quỳ xuống chào. Hai là sau mấy câu xã giao nhột nhạt vẫn
không thấy Quản nhọn xỉa ra 20 ngàn như đã hẹn trước. Máu giận trong
người Hậu lác bắt đầu bốc.
Cuộc “hội đàm” bắt đầu. Hai bên nói năng bằng những lời lẽ tối cổ:
“Thưa đại ca...” Hiền đệ cứ thẳng thắn...” “... Nhị vị hổ tướng hãy
nói giúp với chủ soái vài lời...” Đại loại là như vậy. Một bên xin
mở rộng địa bàn trở về như cũ, nghĩa là suốt hai bên đường 9 và toàn
bộ vùng chợ. Đối lại, Hậu lác buộc bọn “Đào lưu” phải rút lên trên
Cam Lộ, đừng bén mảng xuống Đông Hà nữa. Thế là cãi nhau. Những từ
ngữ cổ kính biến mất. Bắt đầu văng các thứ ra. Hai bên tranh nhau
nói. “Nhị vị hổ tướng” cũng không còn giữ nguyên phong cách hộ vệ
chủ soái nữa mà cũng lồng lên, sùi bọt mép ra chửi. Cả hai “phái
đoàn” sắp sửa xáp vào nhau, tay chống nạnh, áo phanh cúc. Những câu
chửi tục nhất, những động tác đểu cáng nhất đều được xỉa ra. Chỉ duy
nhất trong đám có một người vẫn cúi đầu im lặng. Đó là hộ vệ phải
của Quản nhọn. Mặc cho hai bên văng các “của báu” đàn ông, đàn bà
vào người nhau, người vệ sĩ kia cứ cúi thấp đầu, bình tâm như một tu
sĩ.
Đột ngột Hậu lác hét lên một tiếng: “Anh em!” Tức thì như trên trời
rơi xuống, trước cửa lò gạch lù lù hiện ra mười bóng đen đứng xít
nhau thành một hàng rào thịt. Quản nhọn như có vẻ biết trước điều đó
sẽ xảy ra, hắn ngửa mặt cười hi hí:
- Tao tưởng mi anh hùng kiểu nào chứ cũng nhát như cáy.
- Tao mà nhát à?
- Không nhát mà mai phục chừng nớ thằng? Tao có ba đứa thôi, mi có
giỏi lấy một chọi một.
Hậu lác tức lộn ruột, hấp háy con mắt lác:
- Đêm ni mi đừng hòng chạy thoát
- Mi ăn cứt tao à?
- Đù mạ. Tao sẽ cắt ngang cổ...
Nhoáng một cái, Hậu lác rút từ trong lưng quần ra một con dao sáng
loáng. Răng hắn nghiến lại ken két. Nhưng Quản nhọn vẫn đứng. Hai hộ
vệ cũng đứng sít lại, Hậu lác tự lượng sức thấy khó mà làm gỏi được
ba tên này, hắn nhảy lùi một bước vào sâu bên trong. Quản nhọn và
hai vệ sĩ tiến theo một bước. Lập tức mười thằng bên ngoài cùng nhất
loạt ập vào. Thế là cả bọn chen nhau đứng chật lòng lò gạch. Đấy
chính là toàn bộ kế hoạch tài tình của người vệ sĩ thâm thấp lúc nào
cũng cúi gầm mặt bên phải Quản nhọn.
Hậu lác rên hừ hừ trong cổ:
- Chừ thì... chừ thì... tao cắt tiết mày...
Hắn vung cây dao găm lên, khom người lại gằm gằm tiến tới Quản nhọn.
Quản nhọn thụt lùi một tí, mắt cũng nhìn như cọp đói vào Hậu lác,
hai tay chực nắm lấy cổ tay Hậu.
- Thôi, dừng lại!
Tiếng ra lệnh bất ngờ khiến tất cả những đứa có mặt trong lò gạch
đều ngẩn ra. Cặp “gà chọi” ở giữa vòng chiến cũng dừng lại. Hậu lác
hấp háy đôi mắt
- Đứa mô hét?
- Đưa dao đây!
Người “vệ sĩ” nãy giờ cúi đầu im lặng ấy bất ngờ ngẩng mặt dậy. Hắn
chìa bàn tay ra phía trước một cách trịnh thượng mắt nhìn như găm
vào tên đầu đảng “Hận đời”
- Đưa dao đây!
- Con c. Mi là thằng nào?
- Đưa dao đây!
- Đ. mạ! Dao đây này...
Hậu lác chuyển mục tiêu đâm chéo một nhát vào giữa mặt tên “vệ sĩ”
hỗn láo. Nhưng thật bất ngờ, cái cổ tay của vị địa ca kia đã bị kẹp
cứng trong năm ngón tay của người “vệ sĩ”. Hậu lác trợn ngược mắt
lên, giật lùi một phát. Nhưng người “vệ sĩ” vẫn đứng trơ trơ như cột
đá.
- Thả dao xuống.
- Mi... mi... ái, đau quá!...
Hậu lác không giật được tay ra, hai môi run lên vì tức giận. Hắn vờ
dặc dặc cánh tay cầm dao rồi đột ngột dùng tay kia thọc một quả đấm
vào bụng dưới đối thủ. Cú đấm dốc toàn lực hòng gỡ khóa trên tay.
Nhưng thực lạ, quả đấm vừa phóng ra thì táng phải một lực gạt tưởng
gãy lìa cổ tay. Hậu lác run bắn người, toát mồ hôi hột.
- Anh... anh em...
Bí quá hắn phải kêu cứu. Bọn đàn em được lệnh ào vào. Một cuộc ẩu
chiến bắt đầu. Tiếng đấm thụi, tiếng chửi tục, tiếng kêu oai oái xen
lẫn nhau.
Thực ra, đám đàn em của Hậu lác không phải đến nỗi không vượt qua
được Quản nhọn với Cún thọt. Thâm tâm chúng đứa nào cũng chột dạ khi
nhìn thấy gã vệ sĩ thấp lùn kia khóa tay đảng trưởng. Chúng mượn cớ
tập trung đánh hai tên kia để khỏi phải xông vào gần “vệ sĩ”. Đã có
nhiều đứa bị đòn đau. Có đứa hộc cả máu mồm. Có đứa còn ôm hai mắt
nhào ra phía sau. Tuy vậy với cái áp lực đa số chúng vẫn dồn Quản và
Cún vào thế hiểm nghèo. Những cú đấm ào ào bạt tử. Gạch đá nèm vèo
vèo. Bí quá Quản nhọn kêu toáng lên:
- Đại ca... Đệ nhị...
“Huỵch” một cú lẳng tay nhanh như phạt cỏ. Cả tấm thân Hậu lác đập
sầm vào bờ gạch. Cả đám đàn em hết hồn, đứng sững ra. Trong một tích
tắc, chúng chợt phát hiện thấy người “vệ sĩ” đang lao vào chỗ chúng
nó. Ba bốn đứa ngã nhào một lúc. Mấy đứa khác định co giò chạy.
Nhưng không kịp. Người “vệ sĩ” đạp lên xác những thằng dưới đất,
chặn ngay đường rút của chúng. Từ phía cửa, những cú đấm, đá phóng
vào. Bên trong Quản nhọn, Cún thọt mặc sức nện ra. Cả một bọn lăn
xoài xuống đất, khóc rống lên, lạy lục kêu van.
Dĩ nhiên tiếng đấm đá đến một lúc cũng phải ngừng vì chẳng còn có
cái gì để đấm. Có lẽ cũng chẳng đứa nào chết, nhưng tất cả đều hộc
máu. Tên “Hậu lác” nằm như người gãy xương mồm rên hừ hừ. Cảnh tượng
trông thật thê thảm. Nhưng những người vừa hạ sát không hề tỏ ra xúc
động. Chúng cuộn vạt áo lên lau mồ hôi và máu trên mặt. Còn cái
người “vệ sĩ” thấp bé kia chẳng thèm nhìn kĩ một ai, nó nhổ toẹt một
bãi nước miếng lên thân một đứa nào đó rồi bất ngờ nói to:
- Tao là Trương Sỏi, Đệ nhị mải võ, thừa lệnh của Băng chủ Sơn Nam
ra dẹp loạn vùng này. Ta tuyên bố, từ nay xóa sổ đảng “Hận đời”.
Những đứa nào trong tụi bay còn muốn tiếp tục sống nghề này thì tối
thứ năm tuần tới tập trung về quán rượu cây số Bốn. Tất cả hợp lại
trong đảng “Đào lưu”, tất cả là anh em. Đứa nào mang lòng phản trắc
thì đừng trách thằng Sỏi này độc ác!
2
Đòn sát phạt nhóm cướp “Hận đời” chẳng mấy chốc đã loan truyền khắp
giới bụi đời Đông Hà. Rồi tin chính thức cho biết hai đảng “Hận đời”
và “Đào lưu” sát nhập dưới quyền Đệ nhị mải võ. Lợi dụng lúc thanh
thế còn lẫy lừng, Trương Sỏi cho bắt một tên móc túi của nhóm “Mãng
xà” đưa về quán, sai tay chân nện cho một trận rồi lệnh hỏi cho ra
tung tích đảng trưởng của nhóm này. Sỏi định dùng uy lực của mình,
gửi một lá thư bắt đảng “Mãng xà” phải quy phục.
Nhưng tên bụi đời bị bắt cóc này không biết một chút gì về thủ lĩnh
của hắn. Hắn bị đòn oan. Sự thực, toán cướp Mãng xà do hoạt động sát
nách cảnh sát nên có một kiểu tổ chức đặc biệt.
Nhóm cướp được chia thành nhiều tốp nhỏ. Hầu hết những đứa này đều
có một nghề nghiệp công khai như bốc vác ở bến xe, bến cảng, chữa
đồng hồ, chữa hon đa, xe đạp, hay ít ra cũng bán krem, thuốc lá. Bọn
chúng đều có gia đình, ăn ở ổn định chứ không chui bờ ngủ bụi như
đám “Đào lưu” hay “Hận đời”. Thậm chí có đứa là con nhà quyền quý,
ăn diện nhất nhì thị xã.
Các tốp nhỏ trong đảng không được biết hết mặt nhau. Đặc biệt chúng
không hề biết mặt tên đầu đảng. Nhưng từng đứa phải tự giác nộp một
phần tiền cuỗm được cho từng tổ, tổ nạp lên cho một bà có máy làm
krem. Số lãi được chia trở lại một phần, còn một phần làm quỹ chung.
Số vốn vẫn được bổ sung đều đặn. Sự trung thành của nhóm cướp này
chủ yếu là vì số vốn ngày một nhiều ấy. Có đứa thóc mách biết loáng
thoáng rằng, đảng trưởng của nó đã dùng một phần số vốn lũy tiến kia
cộng thêm số lãi gọi là quỹ chung kia để buôn nha phiến. Nhưng chẳng
đứa nào dám hé răng. Bởi biết đâu đảng trưởng lại là thằng bên cạnh
mình. Chưa ai từng thấy một trường hợp nào đảng trưởng “Mãng xà”
xuất hiện hoặc ra tay võ nghệ. Nhưng tiếng đồn trong nhóm thì lắm
huyền thoại. Nghe nói không những đảng trưởng cực kỳ lão luyện võ
nghệ mà còn có thuật biến hóa nữa. Không một sự phản bội nào trong
đảng mà thoát nổi khỏi sự trừng trị...
Đó là toàn bộ lời khai của tên tù binh bị đánh quá đau. So với lời
đồn đại lâu nay cũng có phần trùng khớp. Cả nhóm thủ lĩnh đảng “Đào
lưu” cứ ngẩn mặt ra, chẳng còn phân biệt thế nào là thật giả nữa.
Chỉ riêng Trương Sỏi là nghe một cách chăm chú. Rồi bất ngờ hai
trong mắt của vị đầu đảng ấy sáng hẳn lên. Sỏi vỗ đánh đét một cái
vào đùi ra vẻ khóai chí. Hắn ra lệnh thết đãi tên “tù binh” một bữa
ra trò, sau đó ban lệnh “ân xá”.
Sỏi tỏ vẻ vui thích bởi trước hết, trong câu chuyện về tổ chức đảng
cướp “Mãng xà” có cái gì đó cực kỳ hấp dẫn. Một đảng cướp không cù
bơ cù bất. Một tổ chức có vẻ bề thế mà giàu có. Nếu được thống lĩnh
một đảng cướp như vậy khác chi làm một ông chủ lớn. A ha, một ông
chủ lớn, giàu sụ. Sẽ chấm dứt những ngày tháng bụi đời. Đến lúc đó
ta sẽ ra lệnh không được móc túi nữa, không được trấn lột nữa, có
vốn rồi cứ thế làm ăn. Đứa nào còn lêu lổng ta thẳng tay trừng trị.
Có vốn! Phải nhanh chóng có vốn! Ý nghĩ ấy cuồn cuộn trào lên làm
đôi mắt Trương Sỏi long lanh như mèo nhìn thấy mỡ.
Thêm nữa, cái biệt danh “Mãng xà” và những giai thoại biến hóa của
tên đảng trưởng ấy, vô tình gợi lên trong trí nhớ Sỏi về bóng dáng
một hang ổ mà Sỏi đã từng trải qua. Từ ngày thống lĩnh đảng “Đào
lưu”, Trương Sỏi có thêm kinh nghiệm nhìn bọn cướp. Có thể lắm! Có
thể nó rồi, con Mãng xà ấy!...
Vị đầu đảng vui thích một mình trước con mắt ngơ ngác của Hậu lác và
Quản nhọn. Trương Sỏi sai rót rượu. Tự hắn cầm chén đưa lên trước,
chưa uống mà đã có bộ dáng thằng say:
- Thưa nhị vị đệ tử. Từ ngày mang sứ mệnh của Băng chủ Sơn Nam ra
đây, ta vẫn mong làm sao nhanh chóng thu phục được anh em, bốn cõi
thành một nhà. Nay thời cơ đã đến rồi, sự nghiệp sắp thành công. Sau
khi thu phục được đảng “Mãng xà”, ta sẽ tổ chức khai trương đảng
mới. Từ đó sự nghiệp làm ăn sẽ trao lại cho nhị vị, cố công chăm lo
cho anh em. Ta sẽ trở về với Băng chủ.
Giọng hắn bùi ngùi như kiểu sắp phải chia li đến nơi rồi. Hậu lác và
Quản nhọn cùng đứng lên, cúi lạy rồi đưa tay nhấc chén rượu. Hai con
ma đói mường tượng đến ngày được thống lĩnh một lực lượng lớn trong
tay, tha hồ tác oai tác quái. Chúng bỗng thấy cồn cào ruột gan.
- Ồ, anh Lãm!
Kim Chi kêu lên đầu tiên. Đúng là chỉ có Kim Chi mới nhận ra được
Lãm vì con người anh ta đã đổi khác ghê gớm. Lãm bận chiếc quần pho
màu tím than, chiếc áo sơ mi cộc tay và bó lưng. Đầu tóc được chải
bằng thứ sáp Nhật Bản thơm ngậy, Lãm bước vào ngôi nhà cũ một cách
ung dung, miệng và mắt túc trực một nét cười đầy hãnh diện.
Phù Ái cởi trần trùng trục, thả mình trên một chiếc ghế mây, mắt
sưng húp như bị ong đốt. Năm này ông chủ có vẻ mệt mỏi. Chắc chắn có
phần bởi gió lào, nhưng cũng có thể lão đã bước sang phần dốc của
cuộc đời. Phù Ái chào Lãm vẻ miễn cưỡng.
- Thằng nhỏ dạo ni coi bộ sang hè?
Lãm vẫn tủm tỉm cười và thản nhiên ngồi xuống ghế. Kim Chi rót một
cốc nước pha đá. Lãm thích thú chìa tay ra đón cốc nước. Mắt Kim Chi
có vẻ sáng hẳn ra khi liếc thấy một chiếc đồng hồ mặt đá treo xuệch
xoạc ở cổ tay và chiếc nhẫn vàng khá dày, chừng hai đồng cân, bó
chặt ngón tay Lãm.
- Ông anh bữa nay làm bự rồi hí?
Lãm lại mỉm cười vẻ khiêm tốn... Anh tránh không trả lời điều người
ta hỏi.
- Công việc nhà ra sao, Kim Chi?
- Bấn lắm anh nờ.
- Bấn gì, cô chỉ được cái ăn diện chứ làm chi mà kêu bấn.
Kim Chi nguýt dài:
- Hừ, ông anh coi thường em quá ta. Bữa ni cũng học làm thợ đây...
Lãm bật lên tiếng cười. Tiếng cười màu mỡ nhưng hà tiện.
- Còn ông anh?
- Cũng tạm thôi.
- Nghề chi?
- Cảnh sát.
- Hứ?
Kim Chi hơi sững ra một chút, nhưng lại cười toét ngay.
- Hung vậy? Cũng đi dẹp Việt Cộng à? Dạo ni Bắc Việt lấn vô dữ, đánh
tùm lum phía ngoài Trung Lương với lên Cam Lộ đó. Chắc ông anh lên
dẹp trên ấy hí?
Lãm khẽ nheo mắt.
- Cô ngây thơ quá. Đánh nhau kiểu đó đâu phải việc tụi này.
- À... à... – Kim Chi gật đầu có vẻ hiểu – Nghĩa là các anh làm tình
báo, đánh bí mật. Hỏi thiệt hí, đã úp được mẻ nào chưa?
- Úp ai?
- Việt cộng.
- A, - Lãm làm bộ như giờ mới hiểu hết được ý Kim Chi hỏi – tóm được
nhiều rồi chứ. Nhưng đó không phải là việc của tôi.
Kim Chi kêu lên:
- Ơ, rứa anh làm chi, dẹp xe trên lộ hí?
- Không, mình chuyên làm về hình sự.
- Hình sự là cái chi?
Lãm chép miệng vẻ bắt buộc phải tiếp chuyện.
- Kim Chi hỏi tẩn mẩn chuyện ấy làm gì. Toàn những chuyện lẩm cẩm
cả, mệt thấy mẹ.
Nhưng cô gái vốn bướng bỉnh ấy vẫn không kìm được sự tò mò.
- Việc chi mà lại là việc lẩm cẩm?
- Thí dụ như ám sát nhau, đánh đập nhau, cướp của giết người... Đấy,
hình sự là thế.
Mắt Kim Chi khẽ chớp mấy cái:
- Ghê hè, mà anh Lãm đã lập được công chưa?
- Sơ sơ thôi. Ở trong Huế tìm được mấy vụ tự tử vì tình yêu. Thật vớ
vẩn. Cũng có phá được một ổ cướp ở Kim Long. Định làm vụ nữa thì
thượng cấp điều ra đây...
Giọng Kim Chỉ nhỏ lại đột ngột:
- Ngoài ni cũng có chuyện đó à?
- Cả cái miền Nam này có đâu khỏi. Chỉ có điều ở đâu trầm trọng quá
thì cảnh sát mới phải tập trung để phá. Ở đây có một đảng cướp rất
nguy hiểm...
- Thế kia à?
- Ừ. Nhưng cảnh sát Đông Hà lại tư túi với bọn này nên thả lòng.
Chuyện đó đã đến tai Tổng nha. Trên điều bọn mình ra cũng chính vì
việc nó nghiêm trọng thế đấy.
Hơi thở Kim chi nghe khác đi. Nhưng miệng cô vẫn cười rất tươi.
- Chà, mệt dễ sợ hí. Nhưng một mình ông anh liệu có moi được không?
Lãm dướn mắt lên có vẻ ngạc nhiên.
- Một mình là thế nào? Lực lượng của bọn tôi ở đây không chừng còn
đông hơn cả bọn cướp ấy chứ.
- Thế kia à?
- Nhưng vấn đề đâu phải ở chỗ đông hay ít. Cơ bản là moi cho ra bọn
đầu têu. Chỉ cần trừng trị bọn cầm đầu là yên.
Mắt Kim Chi nhấp nháy nhanh hơn:
- Chắc là trừng trị nặng đấy hè?
- Bắn!
- Hứ? Cũng tử hình à?
- Chỉ thị của thượng cấp là với bọn cầm đầu các nhóm cướp thì sẽ bắn
hết. Nếu không thế không dẹp được tụi này.
Có một cảm giác ngưng lặng trong không gian. Cốc nước khẽ chao nhẹ
trên tay Kim Chi. Một lát, cô gái liếc qua Lãm, rồi lại cười cợt:
- Nhưng mà bắt được bọn ấy cũng khó đấy chớ?
- Nói chung là khó. Nhưng riêng ở đây, qua nghiên cứu sơ lược thì
lại thấy có phần dễ.
- Dễ à, chả dễ đâu...
- Cô bảo vì sao mà chả dễ?
Câu hỏi bất ngờ khiến Kim Chi tái mặt. Nhưng cô trấn tĩnh kịp.
- Nói chung em thấy bọn cướp nó lẩn như chuột ấy, cảnh sát đuổi mấy
lần ở chợ có bắt được đâu.
Lãm phì cười.
- Đấy là tụi cảnh sát ăn hại. Vấn đề đâu có phải đuổi bắt ở chợ.
- Anh thì nói phét thôi... anh hơn gì bọn đó.
- Hơn ở chỗ khôn ngoan và phải nắm chắc được tình hình. Theo điều
tra bước đầu, ở Đông Hà này trước đây có ba đảng cướp, nay còn hai.
Hai đảng này hoàn toàn khác nhau về hình thức tổ chức và hoạt động.
Bọn “Đào lưu” rất khó bị bắt vì chúng chẳng có nhà cửa gì cả, cứ
lang thang chỗ này sang chỗ khác. Nhưng bọn này rất dễ bị triệt phá.
Chỉ cần phong tỏa cho chặt các địa bàn là chúng nó chết đói thôi.
Còn đám “Mãng xà” thì khó bóp chết miếng ăn của tụi nó được. Vì bọn
này ngoài cướp bóc ra còn hoạt động kinh doanh nữa. Nhưng đảng “Mãng
xà” rất dễ bị bắt vì hầu hết chúng nó có gia đình, có chỗ ở chỉ cần
lục được một danh sách là tóm gọn được cả lũ.
Kim Chi chăm chú một cách đặc biệt. Thấy Lãm dừng lại, cô vờ rót
nước vào cốc, vừa như thăm dò:
- Anh nói có lí thiệt. Nhưng lục đâu được danh sách bọn ấy?
Lãm cười to:
- Thế mới phải có kế. Chính bọn cướp “Đào lưu” sẽ giúp tụi mình danh
sách này.
Kim Chi trợn mắt lên:
- Răng bọn “Đào lưu” lại chịu làm?
- Thứ nhất là tiền. Tiền cho chúng sẽ nhiều hơn tiền chúng cướp
được. Hai nữa là nếu nó nạp được danh sách “Mãng xà” thì mũi nhọn
của cảnh sát sẽ hướng vào đó. Chúng sẽ có cơ hội tẩu thoát.
Đôi má Kim Chi xám lại, cơ hàm giật giật. Có một nỗi căm giận âm ỉ
sôi từ bên trong. Bất ngờ cô ngẩng phắt dậy găm một cái nhìn như
chiếu tướng vào Lãm. Có thể nói, lần đầu tiên Lãm mới bắt gặp ánh
mắt này. Đích thị là Mãng xà! Lãm tự khẳng định thế. Bởi không ai có
nổi một tia mắt ác độc và dữ dội đến như vậy.
- Thế là ông anh cầm chắc chiếc bội tinh rồi đó!
Lãm cúi nhẹ đầu khẽ lắc lắc:
- Nếu kế hoạch thành công thì chắc sẽ được thưởng lớn. Nhưng cũng
phải đề phòng...
- Đề phòng gì?
- Nếu hai nhóm cướp này hợp tác lại một.
Ngừng lặng. Kim Chi nghĩ miên man một điều gì đó và bất giác nói
bằng một giọng chán nản.
- Cũng chẳng ăn thua đâu...
- Không, sẽ cực kì nguy hiểm. Bởi tôi biết, tên thủ lĩnh của đảng
“Mãng xà” là một kẻ đầy nham hiểm và mưu lược. Ngược lại tên đầu
đảng của “Đào lưu” là một võ sĩ đệ nhất vô song vùng này...
Kim Chi khẽ nhíu mày vẻ khó chịu:
- Đệ nhất vô song, làm chó gì có thứ đó?
- Thế ra cô ở Đông Hà mà chẳng hiểu biết gì bọn cướp cả?
- Chậc, thì con gái con lứa như bọn này biết làm đếch gì thứ đó.
- Còn chúng tôi lại hiểu rất kỹ. Tôi tìm hiểu tên đầu đảng này ngay
khi còn trong Huế kia. Nó mang biệt hiệu “Đệ nhị mải võ”, một cánh
tay đắc lực nhất của thằng bán thuốc Sơn Nam. Chính vì nó mà bọn
cướp “Hận đời” phải tan tác. Nếu cần đổi mạng thì có lẽ phải vài
chục cảnh sát mới đổi được mạng nó.
Kim Chi ngồi im lặng. Câu chuyện “Đệ nhị mải võ” sát phạt đảng “Hận
đời” đã truyền đến tai cô. Cô nửa tin, nửa ngờ. Hôm nay chính thức
mồm cảnh sát nói ra thì chắc là đúng. Chà, cái thằng thổ tả ấy ở đâu
chui ra rứa hè? Có lẽ dạo bọn Sơn Nam mải võ ra bán thuốc ở đây, sau
đó đã cài người lại.
Lãm liếc nhìn đồng hồ nhấp nhỏm đứng dậy.
- Anh định đi mô chứ?
- Phải về, lâu lắm mới trở ra đây, định đi thăm một vòng những nơi
quen biết. Kim Chi có biết chú Cống dạo này sống ra sao không?
Kim Chi lúng túng:
- Không... cũng lâu lâu rồi, em không đến đằng ấy... A, anh ở đây ăn
cơm...
- Cảm ơn, tôi đang vội.
Kim Chi mỉm cười gượng gạo:
- Dạo ni coi bộ cương quyết dữ hí?
Lãm cũng cười. Anh nắm tay Kim Chi và khẽ bóp. Có một sức gượng lại
khá mạnh của gân tay Kim Chi. Lãm hơi giật mình. Không thể coi
thường võ nghệ của con này được.
- Thôi, bai nhé! Ít bữa nữa sẽ gặp nhau thôi!
Lãm hẹn lại một câu băng quơ vậy và bước nhanh ra đường.
Trong thời gian chờ đợi đối thủ trả lời, nhóm thủ lĩnh đảng “Đào
lưu” đã dấn thêm một bước nữa. Chúng cố tâm điều được ba tên trấn
lột ở bến xe liền viết thư nặc danh lên quận cảnh sát Đông Hà. Ngay
đêm hôm ấy, cả ba tên bị gông cổ. Hôm sau lại một thư nữa tiết lộ họ
tên, địa chỉ bà làm krem ở phường Tây Trì có liên quan tàng trữ tiền
bạc của bọn cướp “Mãng xà”. Cảnh sát lại ập đến. Chúng vơ vét tất cả
tiền bạc trong nhà, tuy vậy cũng không tìm thấy chứng cứ gì để kết
luận việc tàng trữ của ăn cướp nên bà krem không bị bắt. Một không
khí đầy đe dọa trùm lên tinh thần bọn đầu đảng nhóm cướp này, rất
ứng với những lời Kim Chi đã nghe người tình cũ tiết lộ.
Sau hơn một tuần chờ đợi, bọn thủ lĩnh “Đào lưu” nhận được thư của
đám “Mãng xà”. Lá thư không viết theo ngôn ngữ bắt chước ngôn ngữ
trong sách chưởng mà bằng lời lẽ rất thực tế, chứng tỏ đảng cướp
“Mãng xà” là một tổ chức hiện đại và sự lo sợ của chúng cũng hết sức
thực thà.
“Gửi những người anh em “Đào lưu”
Bọn tôi rất buồn phiền khi biết rằng thủ lĩnh đảng “Đào lưu” đang
hiến máu của chúng tôi cho cảnh sát để bảo toàn mạng mình. Điều đó
có đáng mặt một đấng anh chị thời nay không? Hơn nữa, nếu đám chúng
tôi bị cảnh sát làm gỏi rồi, liệu người anh em bên ấy có thoát khỏi
vòng dao thớt không? Vả lại ngay lập tức chúng tôi có thể bắt tay
với cảnh sát Đông Hà và làm những việc y như “Đào lưu” đã làm với
mật vụ Tổng nha. Thế là nồi da xáo thịt, huynh đệ tương tàn! Nghe
đồn đại ca “Đệ nhị mải võ” là một đấng anh hùng, sao lại để cho bọn
mật vụ sai khiến làm điều thất đức đến như vậy?
Chi bằng là ôm chặt lấy nhau, hai bên kết thành một khối, “Đào lưu”
có vị đại ca võ lực vô song, “Mãng xà” có người thủ lĩnh mưu cao,
chước giỏi, nếu gặp nhau khác chi Gia Cát Lượng về với ba anh em họ
Lưu. Hơn nữa, vốn liếng “Mãng xà” khá lớn, còn anh em “Đào lưu” chỉ
được cái đông người. Nếu bị phong tỏa chỉ một sớm, một chiều là bị
chết đói. Tình cảnh này không dựa vào nhau mà sống thì còn kế gì hay
hơn?
Những lời trên thực là tâm huyết. Mong được giãi bày ở nhà ăn Bình
dân, phường Tây Trì, đêm hai mươi tám âm lịch.
Kính thư”
Bọn Hậu lác, Quản nhọn thì hoan hỉ ra mặt. Riêng Trương Sỏi chẳng
nói một câu gì. Hắn im lặng rót một chén rượu và uống một mình.
Trong lòng hắn đang bừng khởi một ngọn lửa. Sắp làm chủ cả Đông Hà
rồi! Bao nhiêu cay đắng, tủi cực sẽ được trả giá cho một cơ hội này.
Phải đạp đầu cả cái thị xã này xuống dưới chân. Trương Sỏi lại uống
thêm cốc nữa. Rồi đột ngột hắn vùng người dậy, đút hai tay vào túi
quần, đi thẳng ra đường 9. Hắn đi một mình, cố thoát khỏi cái chật
hẹp, chen chúc trong quán rượu. Hắn cố kìm nén những giục giã trong
lòng, bước những bước đi chậm rãi và lặng lẽ thả hồn lên không gian
bao la.
Lá thư của đảng “Đào lưu” trả lời “Mãng xà” như sau:
“Thân gởi những anh hùng “Mãng xà”!
Đệ nhị mải võ xin gửi đến anh em lời tôn kính. Tôi rất phiền lòng vì
những hiểu lầm đáng tiếc đã xảy ra. Tôi đã cho điều tra và thấy
rằng, đảng “Hận đời” đã mang lòng thù ghét tôi nên cố tình gây sự
chia rẽ giữa “Đào lưu” và “Mãng xà”. Những danh sách gửi tới cảnh
sát do anh em “Hận đời” tự ý làm lấy. Họ đã bắn một mũi tên nhằm
trúng hai đích.
Tôi cảm kích trước đề nghị hòa hảo của anh em và cũng mong mỏi có sự
hợp nhất với “Mãng xà”. Tuy vậy với đảng “Hận đời” tôi cũng không
thể ép buộc họ bằng vũ lực được. Vì vậy, cuộc đối thoại tối hai tám
tới đây tôi thấy nên mời thêm thủ lĩnh “Hận đời”. Đó là một việc làm
rất hay. Nếu cả ba đảng hợp tác với nhau một cách thực lòng thì sinh
mạng của chúng ta hoàn toàn yên ổn.
Chào người anh em!”
Một điều kiện mới đưa ra mà không có thì giờ để bàn bạc lại. Tối 28
âm lịch trong một ngõ tối phường Tây Trì, cuộc xáp mặt đã diễn ra.
Tàn tuần hương, đại diện cho đảng “Mãng xà”, Quản nhọn thay mặt chủ
soái Đệ nhị mải võ, và Hậu lác tự xưng đảng trưởng “Hận đời”. Cuộc
“hội đàm” đã diễn ra, như cách thường nói của giới ngoại giao chính
trị, trong bầu không khí hiểu biết. Cả ba phe sau một hồi công kích
nhau đã đi đến thỏa thuận sáp nhập. Tên đảng mới là “Mũ đen”. Thay
chữ “đảng” bằng “trại”. Sẽ có cuộc gặp gỡ ba thủ lĩnh để bầu chủ
trại, phó trại. Cuộc gặp gỡ ấy sẽ tổ chức vào tối chủ nhật tại vị
trí này.
Quả thật, sau cuộc gặp cấp “đại diện” ấy, tình hình có dịu đi. Cảnh
sát không lùng bắt thêm được ai nữa. Bốn ngày trôi qua, cả hai phe
đều cho người mình trinh sát vị trí họp. Hơn sáu giờ chiều chủ nhật,
tình hình vẫn an toàn. Chập tối, các vị đầu đảng có mặt.
Kim Chi bận chiếc áo hoa vằn đen, tóc búi gọn, mặc một chiếc quần bò
bó sát chân. Những bắp thịt hằn lên ngang sườn và bụng như những con
rắn đen quấn tròn. Vừa bước chân vào quán, cô đảo nhanh mắt nhìn hút
vào buồng trong. Hai người đàn ông đang hút thuốc. Kim Chi khẽ liếc
mắt qua cô chủ quán. Cô khẽ gật đầu Kim Chi đi thẳng vào bàn trong.
- Ai là đệ nhị mãi võ?
Quản nhọn đứng dậy lễ phép:
- Trình tiểu thư, thật là rủi ro, đại ca tôi sáng nay bị Băng chủ
Sơn Nam triệu vào gấp trong Huế. Chúng tôi định tìm cách báo với
tiểu thư hoãn cuộc họp, nhưng không bắt được liên lạc. Vì thế tôi
phải gánh thay trách nhiệm này...
Kim Chi hơi chau mày mộtt í rồi hỏi:
- Anh là ai?
- Dạ... Phùng Thế Quản, vốn là đảng trưởng “Đào lưu”.
- À, Quản nhọn. Vậy tôi đã biết tiếng anh. Còn...
Hậu lác đứng nhanh dậy, phanh áo ngực ra để lộ dòng chữ đen trên
xương mỏ ác:
- Tôi, Nguyễn Sĩ Hậu, đảng trưởng “Hận đời”.
Kim Chi nhếch mép cười:
- Hậu lác hí? Nghe nói Đệ nhị mải võ cho anh một đòn khá nghiêm
chỉnh phải không?
Hậu lác vờ lầu bầu chưởi tục. Nhưng Kim Chi giang hai tay khoác lên
vai hai người thủ lĩnh đàn ông, đè họ ngồi xuống.
- Ta bắt đầu đi hai anh!
Có tiếp xúc mới thấy con rắn “Mãng xà” này đầy bản lĩnh. Kim Chi
hòan toàn làm chủ cuộc họp. Cô cười, nói một cách thoải mái. Lại rót
rượu mời mọc. Đôi lúc đắc chí quá cô cười vắt vẻo cả người rồi ôm
choàng lấy một trong hai vị đàn ông kia. Cả tấm thân Kim Chi rừng
rực cái hơi gió Lào bốc lửa. Vì thế cuộc gặp mặt đã hoàn toàn mỹ mãn
và vui vẻ.
- Thôi, chừ tôi đề nghị thế này, anh em ta lấy chữ cùng cảnh ngộ để
hiểu biết nhau. Phải coi nhau như ruột thịt. Một trong ba chúng ta
ai làm chủ trại cũng được cả. Tuy vậy, tôi thấy nên mời đại ca Đệ
nhị mải võ gánh vác sứ mệnh này. Uy danh của đại ca sẽ làm cho anh
em mình được phần rạng rỡ? Không hiểu ý hai anh thấy thế nào?
Không ngờ Kim Chi lại đề xuất người chủ trại một cách thoải mái như
vậy. Hậu lác và Quản nhọn vội vàng nâng cốc lên:
- Chí lý, chí lý! Cô em thực sáng suốt.
Kim chi cũng tợp một tý rượu.
- Vì vậy, không cần bàn bạc chi nữa về địa vị chủ trại. Chừ anh em
mình tự bầu nhau chức phó trại.
Cả ba đột ngột im lặng. Rõ ràng Kim Chi đang đẩy cuộc họp vào một
thế cờ bắt buộc. Cô đã đích thân tiến cử chủ trại là người đứng đầu
đảng “Đào lưu” lẽ nào phía bên ấy lại không biết điều mà giành thêm
chức phó trại. Kim Chi biết thừa cái mưu “họp tay ba” của thủ lĩnh
“Đào lưu”. Làm chó gì còn cái đảng “Hận đời” nữa. Chẳng qua các cha
định lấy hai thắng một trong bầu bán. Kim Chi đã nhanh tay đẩy cương
vị chủ trại cho Đệ nhị mải võ. Đã chắc gì người đó có thật? Biết đâu
bọn “Đào lưu” chỉ bịa ra một cái tên như vậy? Trước đây khối thằng
vớ vẩn còn dám đội cả tên Sơn Nam mải võ nữa là. Hoặc nếu có thật
thì hắn là loại nay đây mai đó, ít khi nằm một chỗ. Thế là quyền
hành thực tế ở tay phó trại. Mà nếu đúng Kim chi làm phó trại, thì
dù “Đệ nhị” hay “Đệ nhất” cũng sẽ phục tùng cô thôi. Kim Chi có thừa
kinh nghiệm khuất phục con trai.
Lặng im một lúc, Quản nhọn đứng dậy nói lắp:
- Theo tôi... cái chức phó... phó trại, không ai xứng... xứng bằng
quý... quý công nương...
Kim Chi chụp luôn:
- Ý anh bầu tôi?
- Dạ
- Còn anh Hậu?
Hậu lác nháy nháy con mắt lác cười gượng gạo:
- Tôi cũng ưng...
- Thế thì kẻ liễu yếu đào tơ này không thể từ chối được. Từ hôm nay
chúng ta là một. Xin nâng cốc uống chén rượu thề.
Ba chén rượu được rót đầy. Phó trại nâng lên trước, hai vị đàn ông
cầm chén sau. Chạm cốc, rượu sóng sánh tràn ra ngoài. Hực!Hà... Hơi
men dâng râm ran trong cơ thể.
Giữa lúc đó có một bóng người bên ngoài bước vụt vào. Cô chủ quán
rượu đứng bật dậy định cản nhưng không kịp. Cả ba tên đang uống rượu
bất ngờ đứng sững ra. Quản nhọn và Hậu lác đồng thanh reo lên:
- Đại ca!
Kim Chi ngớ cả người, đôi gò má giật giật:
- Lãm!... thế này là... thế nào?
Trương Sỏi gạt nhẹ tay một cái rồi ngồi hẳn xuống ghế nói liền một
mạch:
- Tôi biết Kim Chi sẽ rất ngạc nhiên về chuyện này. Nhưng tình thế
buộc tôi phải làm như vậy. Việc cảnh sát đang phong tỏa chúng ta là
việc có thật. Nhưng tôi không có cách gì báo cho bên cô được nên
phải đóng kịch như vậy. Chính ngày hôm nay, Băng Chủ Sơn Nam cho gọi
tôi vào yết kiến là cũng để thông báo cho biết cụ thể một danh sách
anh em mình lọt vào tay cảnh sát. Sở dĩ Băng chủ biết được là nhờ
một cảnh sát hình sự vốn là học trò cưng của Băng chủ. Việc lớn nhất
của ta lúc này là đoàn kết bên nhau. Có vậy mới bảo toàn được tính
mạng. Đây, cô Kim Chi xem danh sách này có đúng không?
Trương Sỏi chìa ra một tờ giấy. Tờ giấy ghi độ hai mươi tên trong
đảng “Mãng xà”. Trong đó có tên Kim Chi được gạch đậm hai nét phía
dưới. Mặt cô ả tái mét. Trương Sỏi làm ra vẻ vội vã:
- Thế nào, cuộc hội đàm của các vị có tốt đẹp không?
Quản nhọn đứng lên:
- Thưa, rất tốt ạ. Chúng tôi nhất trí đặt tên chung Trại Mũ đen.
Chúng tôi cũng một lòng tôn đại ca lên làm chủ trại và quý công
nương đây làm phó trại.
Trương Sỏi khẽ nhíu mày:
- Tôi rất hay vắng mặt vì còn công việc của Băng chủ tôi giao. Hay
Kim Chi chịu khó thống lĩnh anh em giúp tôi?...
Kim Chi tỏ ra nũng nịu:
- Chịu. Ai dám ngồi trên “Đệ nhị mải võ”.
Hậu lác cười xu nịnh:
- Dạ, đã bầu rồi thì xin hai đại ca đừng đùn đẩy nữa. Thực ra nếu
Trương Đại ca đi vắng thì công nương nghiễm nhiên cáng đáng mọi
việc. Hai nhưng là một thế mới gọi là hợp nhất chứ. Hí, hí...
Rượu lại rót. Bốn đứa uống cật lực. Kim Chi say trước. Cô nằm vật ra
giường. Hậu lác và Quản nhọn nháy mắt nhau rút lui. Trương Sỏi bước
đến bên giường chống nạnh nhìn Kim Chi.
Trương Sỏi chồm người lên. Hắn muốn làm những động tác thật thô bạo
cho hả lòng căm tức. Hắn muốn Kim Chi phải vùng vẫy, gào thét, cắn
xé. Lúc đó hắn sẽ bấm huyệt khóa xương quai hàm con rắn độc lại. Và
sau tất cả mọi điều, hắn sẽ chìa má ra hỏi: “Có thích tát nữa
không?”
Nhưng Trương Sỏi đã không hề gặp một sự chống cự. Toàn bộ ý chí bừng
bừng của hắn phút chốc như chết đi trên khối người đồ sộ của Kim
Chi.
3
Tất cả những chuyện cảnh sát săn đuổi, cả cái danh sách mà Trương
Sỏi đưa cho Kim Chi kia đều là chuyện bịa đặt. Sỏi đã đi một nước cờ
khá sắc sảo. Tuy vậy, có một sự thật khác rất giống với điều bịa đặt
trên kia, thì chính Sỏi cũng không được biết.
Những vụ trấn lột xung quanh thị xã, trên hai trục đường chủ yếu từ
Huế ra và Cam Lộ xuống ngày một gia tăng. Cú sát phạt nhóm “Hận đời”
ở lò gạch cũ trên đồi Vành Khuyên, rồi tiếp đến hợp nhất ba nhóm
cướp thành trại “Mũ đen” đã làm tiếng tăm “Trương đại ca” ngày một
nổi lên như sấm. Tiếng kêu khóc của dân chúng càng ngày càng thảm
thiết. Cả thị xã Đông Hà bước vào mùa thu trong sự nơm nớp, hãi
hùng. Những rối loạn trầm trọng ấy buộc cảnh sát Đông Hà không thể
bịt tai, nhắm mắt được.
Một buổi sáng, đại tá Jon – rít, cố vấn tư lệnh vùng chiến thuật Một
đi kiểm tra mặt trận Khe Sanh, trên đường về Huế đã dừng nghỉ ở Đông
Hà. Chiếc xe Jép dừng ở cổng chợ. Đại tá xuống xe mệt mỏi bước vào
trong chợ.
Vừa đi được mấy bước, bỗng từ bên trái vệ đường có hai cậu thiếu
niên gầy guộc đuổi đấm nhau chạy lao qua. Jôn – rít dừng vội lại
nhưng không kịp. Cậu thiếu niên chạy trước đã đâm sầm vào chân ngài
cố vấn. Nó ngã xoài xuống. Ngài Jôn – rít lỡ đà cũng cúi chồm theo.
Cậu thiếu niên thứ hai chạy đến nói một câu gì đó rất cáu kỉnh. Jôn
– rít thấy rất khó chịu nhưng không muốn dây dưa với đám trẻ mọi rợ
này, ngài túm tay đứa bé dưới đất kéo lên. Ồ, làm sao mà một đứa
thiếu niên gầy guộc như vậy lại nặng đến thế kia. Jôn – rít cố sức
kéo mạnh. Có cảm giác thằng bé phải nặng gần một tạ. Dĩ nhiên rồi nó
cũng dậy được. Nó chẳng biết cảm ơn. Nó nhìn thấy bóng thằng đuổi nó
đứng bên cạnh ngài Mỹ, liền bật người lao qua tống một quả đấm vào
mặt. Tên kia bỏ chạy, nó đuổi theo. Nhoáng một cái hai đứa biến vào
trong chợ.
Jôn – rít bực bõ rút chiếc khăn lau sạch hai bàn tay, rồi vẫn dáng
đi mệt mỏi ấy, ngài tiến thẳng vào chợ. Ở chợ Đông Hà, ngài thích
nhất loại cua nước ngọt. Jôn – rít bước về phía bãi sống, chỗ bày
hàng tôm cá. Nhưng khi Jôn – rít quờ tay ra túi quần sau, ngài bỗng
đứng sững người. Nắm giấy bạc Việt Nam cộng hòa nhét căng túi đã
không cánh mà bay. Một nhát rạch thẳng đứng từ trên nắp xuống đáy
túi. Một sự căm giận bừng bừng bốc cháy trong đầu ngài cố vấn. Jôn –
rít quay phắt trở lại. Ngài gieo mình xuống đệm ghế, hất đầu cho
người lái:
- Rẽ vào cảnh sát.
Quạch một nét ký rất dài lên tờ lệnh truy nã, thiếu tá Toại rít lên
một tiếng trong kẽ răng: “Bắn!”. Thiếu tá nói như vậy, nghĩa là
“phải tìm bắt cho bằng được tên Đệ nhị mải võ, sau đó sẽ đưa ra xử
bắn”.
Quận trưởng cảnh sát Đông Hà có một lối diễn đạt ngôn ngữ cực kỳ
ngắn. Đó là nét đối lập duy nhất trong con người ngài. Bởi ngài,
trước hết có một khổ người dài quá mức bình thường, một mét tám hai.
Hai cánh tay ngài cũng dài như tay vượn. Đương nhiên chân cũng thế.
Mặt dài, mũi dài, cằm dài... cả con người gọi cho người ta một cảm
giác lúc mới sinh có lẽ bà mụ đã lỡ tay kéo gằng cái đầu quá mạnh y
như chú bán kẹo kéo ngoài phố vậy.
Thôi thì tạo hóa sinh ra dài ngắn đành chịu. Nhưng oái oăm là những
kẻ độc mồm, ác miệng, thường là bọn khác phe cánh, lại phao lên
rằng, đàn ông mà dài như thế rất khó có con. Trời chu đất diệt chúng
nó đi! Thiếu tá thường chửi độc như vậy. Nhưng cái bọn khác phen
cánh lại không chết, mà hình như ngày một nhiều lên. Thời buổi này
đâu mà chẳng có phe cánh, đâu mà thoát khỏi cảnh đánh đấm nhau sứt
đầu, mẻ trán để chiếm chút thế quyền. Thì mặc xác nó. Chôn chết chó
cũng lè lưỡi.
Nhưng ác thay, những kẻ độc mồm kia lại nói đúng. Thiếu tá quá lận
đận về đường con cái. Mặc dầu ngài đã dốc toàn bộ sức lực của mình
vào việc ấy, nhưng đổi lại mụ vợ cứ trơ lì, béo phây phây, người cứ
to dần ra nhưng quyết không phải là có nghén.
Có một người tốt bụng mách với Toại một phương pháp khá hiệu nghiệm.
Phải chăm chút thắp hương lạy phật đêm rằm và ba mươi âm lịch! Toại
làm theo. Một tháng hai lần hướng lên Phật, còn hai mươi tám ngày
hướng vào bụng vợ. Quả là linh thiêng. Mụ vợ đến lúc buộc phải
nghén. Và ơn Phật, một cậu con trai ra đời.
Năm nay, cậu Nguyện đã hai tuổi. Chạy khỏe, ăn khỏe, đúng là giống
nòi cảnh sát. Cuộc đời thiếu tá thế là mỹ mãn.
Công việc của cảnh sát thì vô vàn phức tạp nhưng Toại có một lối ứng
xử rất hợp thời. Nóng tay bắt lỗ tai, thế thôi. Có hiện tượng biệt
động phá quấy thì ký lệnh truy nã Việt cộng. Sau đó chẳng cần kết
quả. Lệnh thượng cấp ban xuống rằng ở Đông Hà có ổ buôn nha phiến.
Ký lệnh truy tìm bọn buôn nha phiến. Hôm nay bị ngài Jôn – rít quát
cho một chập vào mặt, thế là Toại lý lệnh truy nã bọn cướp. Chiều
đến ngài quên ngay việc đó. Ngài chạy theo thằng con trai, tập cho
nó đưa khẩu súng nhựa lên mắt nhắm bắn “phằng”. Có lẽ ngài mong con
nối nghiệp. Bởi nói đáng tội, nghề này cũng kiếm ra ăn. Nhưng đám
cảnh sát thì không quên tờ lệnh truy nã. Bởi trong tất cả các mục
tiêu tiến công của cảnh sát thì đánh bọn oắt con này xem ra dễ lập
được công hơn. Chỉ cần mang thường phục trà trộn vào chợ hoặc bến xe
một ngày là phát hiện được. Mà nếu không nhìn thấy đích xác thì cứ
tóm bừa một thằng nào đó có vẻ ngông nghênh, thế cũng đã nên công
trạng rồi.
Lệnh truy nã tên đầu bọn “Đệ nhị mải võ” được dán khắp cổng chợ,
tường nhà. Xe cảnh sát rú còi lao ầm ầm như ra trận. Một ngày lùng
sục, chúng bắt hàng chục thanh niên, trói ghì cánh khỉ nhét lên xe.
Năm ngày bắt gần năm mươi tên. Tội nghiệp những cậu bé cầu bơ cầu
bất bị vạ oan vì đám cướp. Trong số đó, thực ra có tám đứa đích xác
là quân của Trương Sỏi.
Một buổi sáng, thiếu tá Toại đang gập người trước bản phúc trình dài
dằng dặc của phòng hình sự và toát mồ hôi vì ký quá nhiều lệnh tống
giam các tội phạm, thì đột ngột chị vú nuôi chạy vào thở hồng hộc,
mặt tái ngắt không còn tý máu. Linh tính nghề nghiệp đã nhổ bật
người thiếu tá dậy chồm ra hỏi:
- Chuyện chi?
- Dạ... cháu... cháu...
Toại hét lên như bị cắt cổ:
- Cháu làm răng?
- Dạ... mất... mất..
“Rầm” chiếc ghế đổ. Lọ mực lăn nghiêng, mực ào ra mặt bàn. Thiếu tá
lao đầu chạy như mất trí. Lát sau, mọi người lại thấy ngài tóc tai
rũ rượi, môi xám xịt, tròng mắt dại đờ, vừa chạy vừa khóc từ nhà
riêng đến trụ sở.
Xe Jép nổ máy. Xe hon đa rú ga. Xe Đốt bịt kín thùng hồng hộc lao ra
cổng. Lực lượng cảnh sát được báo động khẩn cấp. Cả thị xã nháo nhác
như cháy nhà.
Cũng chẳng mất nhiều công lắm, người ta đã phát hiện được cậu bé bên
bờ ao nước gần chiếc cầu tay vượn. Cả người cậu ướt sũng nước, mắt
đỏ quạch, cổ khản đặc vì khóc. Trên mái tóc còn vướng những lá bèo
thối.
Thiếu tá Toại bổ nhào đến, mồm mếu máo, nấc nghẹn:
- Con trai... tôi... con ơi!
Cả đám tay chân của ngài cũng xô đến. Mặt thằng bé tái xanh vì khiếp
đảm. Một tên thiếu úy hình sự đã không kìm được sự hãi hùng:
- Chu cha, nó dìm nước thằng bé...
Thiếu tá chết lặng người:
- Quân... vô... lương!
Ngài ôm xốc đứa con trai bên tay, bàn tay ngài chạm phải mảnh giấy
găm phía sau đũng quần thằng bé.
“Ông thiếu tá! liệu ông có thể sinh được mấy đứa con trai để nối
dòng? Hãy hủy bỏ lệnh truy nã tôi và thả tất cả những người bị bắt
ra. Tôi chờ ông trong ngày. Đệ nhị mải võ”.
- Quân... vô... hậu...!
Ngài thiếu tá lẩm bẩm chửi như cầu kinh. Một sự đe dọa u ám trùm
nặng trí óc ngài.
Ngay chiều hôm đó, những tờ giấy in lệnh truy nã dán ở cổng chợ và
nhiều tường nhà được gỡ sạch. Đêm đó gần năm chục thằng bé được thả.
Lạy Phật, cơn sốt cảnh sát thế là qua.
Anh đến gieo hạt nhớ
Nơi cây tôi nảy mầm
Mưa giữa mùa đến muộn
Khoảng trống này... mênh mông
Giang Huong Blog
nutacxinhxan
Xem hồ sơ
Gởi tin nhắn tới nutacxinhxan
Visit nutacxinhxan's homepage!
Tìm bài gởi bởi nutacxinhxan
(#6)
nutacxinhxan
Kẻ lữ hành cô độc Bài gởi: 3,365
Gia nhập: Sep 2006
Trả lời: Người không mang họ - Xuân Đức - 10-07-2007, 08:01 AM
Chương 5
1
Bây giờ xin kể sơ một chút về Khánh Hòa.
Trong những năm tháng Trương Sỏi lặn lội giữa đám bụi đời của thị xã
Đông Hà, bằng một ý chí điên dại, bằng cả sự man rợ gần như thú vật
để leo lên địa vị cầm đầu một tốp thanh niên hư hỏng, thì Khánh Hòa
cố tình cất giữ trọn vẹn trong tâm khảm mình hình bóng một con người
Nguyễn Viết Lãm cần cù, chịu khó, giàu nghị lực và bản lĩnh.
Lên rừng chưa tròn chín tháng, Khánh Hòa được chọn đi học một khóa
bổ túc cán bộ an ninh ngoài Sơn Tây. Lần đầu tiên cô ra với miền
Bắc, được sống những ngày thanh thản, ấm cúng trong sự đùm bọc của
một tập thể thân thương. Chưa bao giờ Khánh Hòa thấy tin cậy vào con
người, hy vọng vào xã hội bằng những ngày này, và thật là lạ, chưa
có lúc nào cô nhớ Lãm bằng những ngày ấy.
Năm 1973, Đông Hà Quảng Trị được giải phóng. Lúc này, Khánh Hòa đang
công tác ở ban B. Trong đoàn người háo hức trở về tiếp quản cái thị
xã nhỏ nhoi ấy. Khánh Hòa là một trong những người đầu tiên có mặt.
Vậy là thấm thoắt đã sáu năm bây giờ Khánh Hòa mới được trở lại căn
nhà lợp nứa. Căn nhà vẫn còn, cái ngõ hẻm vẫn đó, kỷ niệm xưa hầu
như vẫn phảng phất đâu đây. Nhưng người bố gầy guộc đã mất trong
cuộc chạy loạn. Bà mẹ với đứa em út chạy lọt vô Đà Nẵng rồi mắc kẹt
luôn trong đó. Nguyễn Viết Lãm cũng biệt vô âm tín. Khánh Hòa sống
chênh vênh trên những nỗi đau, nỗi nhớ thương da diết. Căn nhà lợp
nứa bỗng thành hoang tàn như chính cái thị xã phờ phạc vừa mới chui
ra khỏi mấy chục năm bụi bặm.
Kẻ thù đã chiếm lại được thành cổ Quảng Trị. Tiếng đại bác vẫn ầm ào
từ bên kia sông Thạch Hãn dội qua. Cũng như bao nhiêu người dân thị
xã Đông Hà. Khánh Hòa ngày ngày ngóng về phương Nam, lòng nặng trĩu
một nỗi chờ trông khắc khoải.
Cả một thị xã từ trong bụi bặm bước ra giữa ánh sáng mặt trời. Tất
cả gần như phải được lật giở lên hết để phơi phóng, để sửa chữa.
Những căn nhà, những đình chợ và những số phận cuộc đời. Công việc
ấy đặt lên vai các chiến sĩ anh ninh thị xã trách nhiệm vô cùng nặng
nề, phức tạp. Phải nắm lại từng hộ khẩu, lập lại hồ sơ từng con
người, đặc biệt cần phải biết tường tận các mối quan hệ hiện còn mắc
mứu giữa người đang sống ở thị xã với những ai hiện không có mặt.
Công việc chẳng có gì thú vị. Nhưng trách nhiệm là trách nhiệm.
Khánh Hòa cũng như các chiến sĩ an ninh không thể nào thóai thác
được.
Thế rồi đột nhiên, trong mớ hồ sơ lẫn lộn thu được ở quận cảnh sát
Đông Hà, có một cái tin rất thu hút sự chú ý của Khánh Hòa. Đó là
tên tướng cướp “bất khả xâm phạm” Đệ nhị mải võ.
Bắt đầu bằng hai tiếng “mải võ’... Trong trí nhớ Khánh Hòa bất giác
gợi về cái gánh thuốc “Sơn Nam mải võ” mà Lãm đã gửi cả cuộc đời vào
đấy. Có gì liên quan giữa Đệ nhị mải võ với Sơn Nam mải võ không? Có
gì liên quan giữa bọn giang hồ ấy với Lãm không?
Thực ra, những cái tên dở cổ dở kim ấy đầy rẫy trong xã hội miền Nam
khiến cho người ta chẳng mấy ai để ý. Nó cũng như vết rỗ còn lại
trên mặt người bị bệnh đậu mùa. Nhưng riêng Khánh Hòa thì tất cả
những gì gợi đến bóng dáng của Lãm, những gì gợi về được trong cô
những năm tháng tha thiết ấy, cô đều lặng lẽ thu nhận và cất giữ.
Tình yêu khiến người ta chú ý đến từng chi tiết nhỏ nhặt nhất của
nhau, có khi thực chất chỉ là sự bâng quơ vô tình cũng đều được suy
diễn thành tín hiệu trao thương đổi nhớ. Vì thế mà cái gánh thuốc
Sơn Nam đáng ra đã chết lụi trong trí nhớ của mọi người dân Đông Hà
trước bao sự biến động khủng khiếp của thời cuộc thì bỗng nhiên lại
lấp loáng thường xuyên trong giấc ngủ của Khánh Hòa. Lãm có còn ở đó
không? Anh theo chúng nó học võ để làm chi? Dù sao anh vẫn khác tất
cả. Đúng, anh không thể thành một kẻ đồ đệ của bọn ấy được. Đừng bao
giờ gắn thêm vào đời mình hai tiếng mải võ, nghe anh!
Mùa xuân 1975. Đồng thời với ngọn thác quân chủ lực ào ạt lướt dọc
theo chiều xuôi vào Nam truy kích kẻ thù, thì những dòng người trước
đây chạy tị nạn vào đằng trong nay nườm nượp kéo nhau trở lại quê
hương.
Khánh Hòa đã gặp lại mẹ và đứa em út. Cả ba đều khóc. Bao nhiêu nỗi
niềm nhớ thương, bao nhiêu uẩn khúc oan trái đổ òa ra như trận mưa
đầu mùa xối sạch những bụi bậm. Chỉ còn có một người chưa đoàn tụ.
Còn một nỗi thấp thỏm chờ trông. Khánh Hòa không thể tự dối lòng
mình. Người ấy chưa có mặt thì Đông Hà dưới con mắt của Khánh Hòa
vẫn chưa hoàn toàn hội ngộ.
Trong ngổn ngang cơ man những chuyện do người mẹ kể lại, Khánh Hòa
đặc biệt lưu ý đến sự kiện Lãm đã đánh tan tụi cướp để cứu thoát gia
đình. Câu chuyện làm cô hết sức cảm kích, xen lẫn chút tự hào, đồng
thời cũng thấp thỏm một nỗi lo âu không rõ rệt. Như vậy, Lãm đã “đắc
đạo” về võ nghệ. Sự thành đạt ấy bao giờ cũng ngấp nghé bên bờ của
một biên giới khắc nghiệt. Hoặc trở thành người hữu ích, hoặc trở
nên mối hiểm họa.
- Chao, mỗi lần nhớ lại cái đêm đó, tao cứ thấy hãi hùng...
Bà mẹ thở dài thườn thượt, quờ quờ tay xua muỗi rồi kể lại từng chi
tiết y như chuyện vừa xảy ra đêm qua.
- Tao như chết đi rồi sống lại khi nhận ra tiếng thằng Lãm. Nó kéo
chiếc ghế ngồi chỗ kia kìa... Thằng cướp máu me đầy mồm cúi lạy dưới
chân nó... Trời ơi, lúc đó mới thấy thằng Lãm nó oai vệ kinh khủng
chứ... Nó không to tiếng, không hò hét, giọng nó chỉ hơi rít lại một
tí thôi. À, nó bảo với thằng cướp thế này này. Từ nay trở đi hễ còn
đụng đến nhà này thì đừng trách tao độc ác. Dù tao ở nhà hay đi vắng
cũng thế. Tao là Trương Sỏi, cháu ruột của chú thím đây...
Khánh Hòa bật cười:
- Sao, anh ấy lại bịa ra được cái tên Trương Sỏi à?
Bà mẹ cũng lắc lắc cổ cười theo:
- Ừ. Nó còn bảo cái tên chi nữa kia... nghe xủng xoảng buồn cười
lắm. Thế mà tên cướp lại run lên như thằn lằn đứt đuôi... À, phải
rồi. Đệ nhị mải võ...
Khánh Hòa bật dậy như bị điện giật, cô chồm người về phía mẹ:
- Cái chi? Mạ vừa bảo tên chi?
- Thì thằng anh mày nó bịa lung tung ra cốt để dọa chúng nó thôi?
- Nhưng mà... có đúng mạ nghe anh ta tự xưng Đệ nhị mải võ không?
- Cả nhà cùng nghe chứ có riêng gì mình tao đâu. Nó còn bảo là cánh
tay đắc lực của băng chủ gì đó mải võ nữa...
Khánh Hòa bỗng thấy nghẹt thở như có bàn tay ai đó đang đè chặt lên
ngực. Cô vùng người chạy ra ngoài. Tiếng bà mẹ ơi ới gọi phía trong
buồng. Ngõ phố tối om. Khánh Hòa lao thẳng lên hướng phòng công an
thị xã. Sắp đặt chân lên mặt đường 9, cô bỗng bước chậm lại. Bình
tĩnh đã nào!... Thử lần lại mọi chi tiết xem sao... Đã chắc gì!
Nhưng yếu tố vô lý ở đâu? Không thấy ở đâu cả. Nhưng vẫn cứ vô lý.
Vô lý trong niềm tin chờ đời của cô. Lẽ nào lại thế?... ừ, có thể
là... có thể là... sau đó thằng cướp được tha sẽ vớ luôn cái danh
hiệu “Đệ nhị mải võ” để dọa nạt bọn đàn em. Có thể lắm. Lãm không
thể nào thành kẻ cướp được. Bởi vì ít ra đời anh đã có trên hai lần
là nạn nhân của bọn cướp. Anh căm thù nó, không đội chung trời với
đám bụi đời ấy...
Khánh Hòa dừng hẳn lại. Hy vọng lập lờ như vệt sáng đom đóm. Nhưng
cô không dám xua đuổi nó. Cô quay trở về nhà, bước thấp bước cao lật
đật, loạng choạng.
Dạo mới giải phóng Đông Hà, năm 1972, tình hình an ninh thị xã không
phức tạp như bữa nay. Hồi đó những phần tử thù địch chống đối lưu
manh xã hội đa số dạt theo đám di tản vào phía trong. Còn bây giờ cả
miền Nam đều được giải phóng, không còn “lãnh địa” riêng cho lực
lượng thù địch ẩn náu, chúng tản ra và vật vờ trên hầu khắp các địa
bàn. Đại thể kẻ nào vốn ở đâu lại quay về chỗ đó. Do khả năng thực
tế của lực lượng an ninh mà trong suốt năm 1973 qua nửa đầu 1976,
công tác lớn nhất, bao trùm mọi suy nghĩ của công an thị xã là nhiệm
vụ truy tìm bọn ác ôn nợ máu, những hang ổ tình báo Mỹ cài lại. Bọn
lưu manh xã hội vì choáng váng trước biến cố lớn của cách mạng nên
hầu hết nằm im. Tình hình cướp bóc rất ít xảy ra. Thỉnh thoảng lắm
mới có vài vụ móc túi. Vì tất cả những lẽ trên mà những tên tướng
cướp tạm thời chưa trở thành trọng điểm tấn công của cơ quan công an
thị xã, và cái tên “Đệ nhị mải võ” chưa gây sự chú ý lớn của mọi
người, trừ Khánh Hòa. Cô cũng không muốn ai xới móc vào việc ấy. Một
điều gì đó xâm lấn lòng cô trĩu nặng như một nỗi oan ức, một sự đổ
vỡ, mặc dù tất cả đều chưa rõ ràng. Và vẫn còn hy vọng. Thực lạ
lùng, nhưng cũng rất dễ hiểu, Khánh Hòa luôn luôn cố tìm ra sự vô lý
trong cách lập luận của mình. Rồi cô ao ước sẽ đến một lúc nào đó,
sự thật sẽ mở toang ra. Mọi nghi hoặc về Lãm sẽ được giải đáp. Sau
đó thế nào thì cô không dám nghĩ tiếp. Có thể chẳng thế nào cả,
nhưng chỉ cần thế thôi, cuộc đời của cô sẽ thanh thản, cởi mở biết
chừng nào!
Một buổi sáng chủ nhật đầu tháng tư năm 1976, Khánh Hòa vào ăn bún
giò trong một nhà quán không lấy gì làm đắt khách cho lắm ở một hẻm
phố phường nhỏ. Khánh Hòa vừa bê bát bún lên thì bất ngờ có một
người đàn ông tiến vào ngồi xuống sát bên cạnh. Như một phản ứng
nghề nghiệp, Khánh Hòa đặt ngay bát bún xuống. Mắt cô hoa lên trong
sự kinh ngạc:
- Anh Lãm!
Đúng là Lãm. Mặt hơi cúi xuống, đôi mắt khẽ chớp. Chao ôi, năm tháng
mới tàn ác làm sao, Lãm trông già đi rõ rệt. Mái tóc sém vàng và
quăn tít lại. Những vệt chàm sạm sịt trên gò má nhô cao. Hai con mắt
không còn rực sáng như xưa mà đang vằn lên từng tia đỏ như sắc trời
trước cơn lũ.
Khánh Hòa ngồi như chết lặng. Mọi cảm giác đều không rõ rệt. Cảm xúc
vừa trào lên đã lặng hẳn xuống. Nỗi lòng bàng hoàng xen lẫn sự hoang
mang. Tất cả mọi tưởng tượng của cô trước đây và giây phút gặp lại
Lãm đều bị hẫng. Có lẽ cái còn lại duy nhất là một sự mủi lòng...
Phải đến vài phút câm lặng cô mới lên tiếng được:
- Anh vừa về khi nào?
- Vừa ở Đà Nẵng ra chiều qua...
- Mấy năm nay anh ở Đà Nẵng à?
- Ở lung tung.
- Làm việc chi?
- Bán thuốc... diễn võ.
- À, Khánh Hòa nửa như mừng rỡ, nửa như ngạc nhiên – anh vẫn ở với
lão Sơn Nam ấy à?
- Ừ, Hòa còn nhớ ông ta ư?
Khánh Hòa khẽ khép mắt lại, gật nhẹ đầu. Bất giác cô xoay hẳn người
lại.
- Em nghe nói anh học võ giỏi lắm, được thầy Sơn Nam nhắc lên hạng
đệ nhị phải không?
“Nghĩa là cô ta đã lần được tung tích mình”. Một phản ứng tự vệ bất
ngờ xuất hiện làm cho Sỏi hơi co vai lại.
- Tôi học không đến nỗi xoàng, nhưng cái danh hiệu “đệ nhị” thì đã
từ lâu không có trong gánh thuốc tụi này nữa. Ở đó chỉ có đệ nhất
rồi đến đệ tam thôi.
Khánh Hòa khẽ chau mày.
- Sao thế?
- Là vì cái thằng cha được xếp ngôi “đệ nhị” bỏ thầy tôi từ lâu,
chuyện ấy trở thành bài học mỗi lần Sơn Nam dạy tụi này.
- Chuyện thế nào, anh? À, mà chủ hàng cho em xin bát bún nữa nghe.
Chị chủ quán bê ra thêm một bát bún nóng. Khánh Hòa đỡ tay chị đặt
ngay trước mặt Sỏi. Trương Sỏi khẽ thở dài. Có lẽ anh đang nhớ lại
quá khứ.
- Chuyện ấy bắt đầu rất vớ vẩn, trai gái bồ bịch nhau ấy mà. Đại để
là cả thầy Sơn Nam lẫn thằng Đệ nhị ấy cùng yêu một cô. Cô ấy hiện
vẫn còn, đó chính là Kiều Loan. Còn Sơn Nam với Đệ nhị thì phải tỉ
võ với nhau. Hôm đó anh em bọn tôi được bữa hết hồn...
Và rất khoan thai, bình tĩnh, Sỏi đã kể lại câu chuyện bi thảm ngày
trước của chính mình bằng cách gán nó cho một nhân vật khác. Câu
chuyện hấp dẫn Khánh Hòa một cách đặc biệt... Cô lắng nghe không bỏ
sót một chi tiết nào.
- Thế là nó bị đánh chết hả anh? Khánh Hòa mở tròn mắt hỏi vậy khi
nghe Sỏi kể đến đoạn kết thúc hiệp đầu.
- Chúng tôi đứa nào cũng nghĩ là nó chết. Mãi sau mấy tháng có dịp
ra diễn lại ở Huế mới hay tin thằng cha ấy trở thành một tên trấn
lột nổi tiếng. Có lần chính tôi với một cậu nữa bị một thằng vớ vẩn
nào đó đẩy ra chân đường ở chỗ cầu Phú Thứ, hắn tự xưng là Đệ nhị
mải võ. Đương nhiên hôm đó nó gặp rủi, thằng bạn tôi đã cho nó một
cú đá lăn xuống mố cầu. Buồn cười thật. Ai ngờ về sau chính tôi lại
có lần cũng mạo xưng Đệ nhị mải võ để dọa vía một bọn cướp. Càng
nghĩ càng buồn cười... à, Khánh Hòa về nhà có nghe bố mẹ kể chuyện
mất cướp không?
Khánh Hòa lặng lẽ gật đầu. Trong trí não cô đang diễn ra dồn dập
những lời đối thoại trái ngược nhau. Cái gì có lý cái gì không có
lý, lòng tin bản năng và ý thức nghề nghiệp liệu có lấn ép nhau
không?
- Anh có ý định về thăm nhà... không? (Khánh Hòa định nói thăm nhà
mình không, nhưng cô đã ghìm lại được).
- Thì mục đích anh là về thăm nhà mình đây chứ. Hơn nữa anh cũng
đoán chừng, nếu em còn sống chắc cũng về quê rồi...
Khánh Hòa bỗng thấy nghèn nghẹn.
- Ba mất rồi, anh biết không?
Sỏi đột ngột nhìn găm vào Khánh Hòa, miệng lắp bắp:
- Em nói chi vậy? Bác...
Cả hai bất giác cùng cúi mặt. Cả hai đều tự hiểu, trên mảnh đất này
với ngần ấy tháng năm dữ dội thì không một điều rủi ro nào mà không
có khả năng xẩy ra.
Giọng Sỏi trầm hẳn xuống như một người có lỗi:
- Sau khi em đi khoảng một năm thì vùng này chiến sự bỗng trở nên
căng thẳng. Thầy Sơn Nam thấy khó sống nên nhổ trại vào Phan Rang. Ở
Phan Rang một thời gian thầy lại lôi cả gánh vào Sài Gòn. Cứ đi, đi
miết thành chẳng có cách chi về quê được... Nhớ Đông Hà không kể
xiết...
Khánh Hòa đột ngột đứng dậy nhanh nhẩu khác thường:
- Rứa chừ ta về nhà, đi anh. Mạ cũng trông anh ghê lắm...
Sỏi hơi bị bất ngờ, hắn liếc vội lên đồng hồ rồi làm ra vẻ suy nghĩ.
- Khánh Hòa về trước đi. Sáng mai anh đến. Hôm nay anh lỡ hẹn với
một thằng bạn. Bố nó chết bệnh ở trong Đà Nẵng, nay đưa cốt về táng
ở làng. Anh đang phải giúp nó một tay.
Khánh Hòa chần chừ một tý rồi chớp chơp mắt nhìn Sỏi.
- Rứa mai anh đến hí, đừng để mạ chờ.
Đã gần bốn năm nay Trương Sỏi cố tâm xa lánh hẳn tội lỗi. Sự kiện
giải phóng Đông Hà, Quảng Trị 1972 như một cơn lũ cuốn sạch những
bụi bặm rác rưởi trên mảnh đất đầu cầu này. Sỏi cùng cả đảng cướp
chạy giạt vào Huế. Trong lúc cả bọn hoảng loạn, khiếp đảm vì áp lực
của Việt cộng thì thật kỳ lạ, từ sâu thẳm trong tâm thức Sỏi có một
nỗi tự hào cựa quậy trỗi lên. Miền Bắc đã ra tay! Miền Bắc đã cho
bọn trong này biết mặt! Mặc dầu không đủ dũng cảm – mà chẳng bao giờ
Sỏi có được sự dũng cảm ấy - ở lại sống với người miền Bắc, nhưng
bốn năm qua cái ý thức miền Bắc sống lại day dứt hơn bao giờ hết.
hắn tránh mặt tất cả bè đảng, âm thầm chôn vùi cái danh hiệu Trương
đại ca. Đệ nhị mải võ, cố gắng thực hiện hoài bão từ lâu cồn gào gan
ruột hắn. Bằng một số vốn dành dụm được, Trương Sỏi chuyển qua chạy
hàng. Sự nghiệp bắt đầu từ một chiếc máy khâu mua lại từ dưới Phú
Thứ chuyển lên chợ Đông Ba đã cho Sỏi một số tiền gấp rưỡi. Nó hào
hứng ra mặt. Cũng có đôi lần vớ bở. Nhiều lần thất bại. Nói chung ở
lĩnh vực này Sỏi không thể cạnh tranh nổi bọn chợ trời lão luyện.
Sỏi không bao giờ giành được đại vị anh chị. Tuy vậy hắn vẫn hy vọng
và tự an ủi rằng đây là một nghề lương thiện. Sỏi vốn hay nghĩ ngợi.
Có một lần thắng được một cú hàng gỗ khá to hắn đã uống rượu một
mình và mơ tưởng. Hắn mơ trở thành triệu phú. Hắn sẽ cho thuê tất cả
những người miền Bắc vì đủ mọi lí do đã chạy vào Nam, vào làm việc
trong nhà hắn. Hắn sẽ tổ chức thành một vương quốc riêng bất khả xâm
phạm. Rồi từ trong nhà hắn. Sỏi sẽ liên lạc với Việt Cộng, sẽ gửi
tiền, thuốc thang, gạo thóc cho quân đội Bắc Việt. Dần dần lâu dài
hắn sẽ là nơi tụ hội những cánh quân biệt động... rồi hắn sẽ chỉ huy
một cánh đánh thẳng vào lao Thừa Phủ, đánh vào dinh tỉnh trưởng vân
vân...
Nhưng Sỏi chưa kịp giàu thì miền Nam đã hoàn toàn giải phóng. Sự
kiện choáng ngập ấy đã ném bạt giấc mơ của hắn xuống thực tại. Bộ
đội miền Bắc tràn vào, cán bộ các ngành vào tiếp quản, người dân
thường cũng lũ lượt vào ra thăm viếng bà con hàng xóm. Mỗi một ngày
trôi qua. Sỏi lại càng cảm thấy bất ổn. Mỗi một sự nhích lại gần
trong quan hệ Nam – Bắc, chan hòa tình cảm ruột thịt quê hương càng
làm cho Sỏi thấy mình trơ trọi ra, cô độc lẻ loi hơn bao giờ hết.
Cũng có lần Sỏi chợt nẩy ra ý miến liều mạng ra thăm lại Vĩnh Hòa.
Nhưng hắn cương quyết dập tắt ý định ấy. Xung quanh hắn rất nhiều kẻ
liên lạc đã tìm lại được bà con. Có người chạy vào Nam theo “chúa”.
Có kẻ bỏ kháng chiến chiêu hồi. Lại có không ít người tay chân của
Pháp. Họ đã lần lượt tự lộ diện ra trước tình cảm quê hương thôi
thúc. Tất cả đều bình an vô sự. Thế mà riêng Sỏi vẫn không dám.
Chưa bao giờ Sỏi thèm khát một sự nương tựa như bây giờ. Ước chi có
được một tổ ấm... Thôi thì miền Nam hay miền Bắc cũng được miễn là
có một gia đình. Đã gần ba mươi tuổi rồi, ăn chơi trác táng cũng
chán chường rồi, giàu nghèo cũng nếm đủ mọi mùi món rồi, chừ thfi
cần có căn nhà của riêng mình, có một hộ khẩu tồn tại như bao nhiêu
con người khác. Sỏi tính đủ cách. Nhưng khốn thay không có một căn
nhà nào, một cặp vợ chồng nào lập ra mà khôgn cần đến một gốc gác.
Không có sự hiện diện nào mà lại bỗng dưng cả. Cái xã hội bỗng dưng
ấy qua rồi, vĩnh viễn qua rồi. Từ ngày cách mạng làm chủ đến nay,
mọi người trên mảnh đất này đều được ghi nhận lại, có trước có sau
như một sự tồn tại tất yếu. Thế cho nên chưa bao giờ Sỏi thấy hốt
hoảng, chới với như những ngày này. Hắn cuống quýt tìm kiếm cho mình
một gốc gác... Sự hốt hoảng đó đã xúi Sỏi nghĩ đến Khánh Hòa. Và mặc
dù còn chập chờn những tính toán nguy hiểm hắn vẫn liều mạng ra Đông
Hà. Hắn phát hiện được Khánh Hòa làm việc ở phòng Công an. Sỏi rùng
mình định tháo chạy. Nhưng rồi đột ngột hắn thay đổi ý định. Biết
đâu phòng Công an lại là nơi che chắn tốt nhất cho cuộc đời hắn. Thế
là Sỏi đánh liều xuất hiện.
Cuộc gặp gỡ trong quán bún giò đã diễn ra khôgn như trong tưởng
tượng của Sỏi. Khánh Hòa vẫn như xưa, vừa ratá thân thương vừa rất
xa lạ. Khánh Hòa hôm nay lại còn có vẻ điềm tĩnh hơn, lí trí hơn cô
gái hàng sắt ngày xưa mặc dù trên khóe mắt cô không che giấu được
nỗi xúc động bồng bột khi nhìn thấy Sỏi. Sỏi đọc được tất cả những
dấu hiệu ấy. Hắn đã từ chối không cùng về nhà với Khánh Hòa. Nhưng
hắn lại hẹn một cuộc đến thăm ngày mai. Tự trong thâm tâm hắn cũng
chưa có câu trả lời cuối cùng.
Sỏi đi lang thang một mình. Xưa nay hắn vẫn thích thế. Nhưng chiều
hôm nay, bước chân của hắn không thong thả, vẩn vơ như những lần đắc
chí trước đây mà lại bồn chồn, thấp thỏm. Sỏi vào quán cà phê uống
một chén rồi lại bước ra, lại vào một quán giải khát khác, định gọi
chai nước ngọt nhưng nghĩ thế nào lại thôi. Có lúc Sỏi đứng sững ra
giữa một ngã ba đường suýt nữa bị chiếc xích lô thúc vào đít. Một
câu chửi tục của người đạp xích lô khiến hắn giật bắn mình. Sỏi quay
đầu trở lại, lại đi về hướng cũ, lại rẽ vào một quán cà phê. hắn
quyết định ngồi yên một chỗ. Ngồi thật yên để ngẫm nghĩ, để tưởng
tượng. Hắn đang cố hình dung ra một tổ ấm... Những phút ái ân. Hắn
đi làm về, Khánh Hòa chạy ra dodns, theo sau là một cậu con trai...
Cả ba vào nhà, mâm cơm đã dọn sẵn. Tiếng đũa so lóc cóc trên mặt
mâm... Bỗng cánh cửa bị xô tung, một người công an xuất hiện... hắn
chưa kịp đối phó thì đột ngột vợ hắn chìa ra khẩu súng... Sỏi bật
người dậy vung nhanh một quả đấm...
Cốc cà phê chao hẳn trên tay Sỏi, đổ nhòe ra mặt bàn. Sỏi hốt hoảng
nhìn xung quanh. May quá không ai để ý.
Đêm hôm đó Sỏi bí mật đột nhập vào nhà Khánh Hòa. Làm thế, để làm
gì, hắn không giải thích được cho mình một cách rành rọt. Trong ý
nghĩ của hắn niềm hy vọng và sự ngờ vực hầu như cân bằng nhau. Hắn
cũng hơi thấy xấu hổ cho hành động vụng lén của mình, nhưng liền đó
lại tự bào chữa rằng nếu xác định được một cách chắc chắn Khánh Hòa
không nghi kỵ gì mình cả thì mình sẽ sống suốt đời chân thật với cô
ta.
Sỏi nép người vào sát tấm phên liếp nơi có kê chiếc giường của bà
mẹ. Còn giường của khánh Hòa trước đây cũng kê ở gian này nhưng sát
với phên liếp phía ngoài sân. Không có chỗ nấp nào thuận tiện ở gần
chiếc giường ấy cả. Nhà vẫn đỏ đèn, nhưng cả hai mẹ con đều đã lên
giường. Sỏi đứng như chết ở phía ngoài. Đã khá lâu vẫn không thấy ai
lên tiếng.
“Hay là không ai trong họ quan tâm đến sự có mặt của mình ở Đông Hà?
Nghĩa là Khánh Hòa không có nghi gì? Thế thì tốt. Nhưng còn tình cảm
thì sao? Chẳng lẽ cả hai người không có chút xốn xang nào về việc
gặp lại mình, về chuyện ngày mai mình đến thăm ư? Nghĩa là mình
không còn vị trí gì trong nhà này nữa. Mình như kẻ đã chết rồi, chết
rất lâu rồi...
Có tiếng trở mình, Sỏi nín thở. Tiếng loạc xoạc như xua muỗi. Rồi
một tiếng thở dài kín đáo. Thế nghĩa là thế nào?
- Con nên báo với các anh, thử bàn với họ coi ra răng...
Người Sỏi run lên, vừa căm uất, vừa tủi thân. Thế là hết. Trong đầu
hắn lởn vởn hiện lên khuôn mặt người mẹ ấy cái hôm cảnh sát đến khám
nhà... Hôm đó Sỏi đã nhìn sâu vào mắt bà và đọc được từ trong đáy
mắt ấy những ân tình vô hạn... Sao mà chóng đổi thay thế? Sao có thể
độc ác đến như vậy?
Đột ngột Khánh Hòa phì cười. Bây giờ Sỏi mới biết cô ngủ chung
giường với mẹ. Nhưng cười cái gì? Khoái chí với âm mưu của mẹ ư?
- Cái con này... cứ như con nít.
- Mạ chi lạ.
- Lạ răng? Tao nói vậy không trúng à?
- Trúng... (Sỏi hình dung thấy môi cô từa dài ra) người ta cười cho
méo mặt.
- Ơ hay, cười là cười thế nào? Chuyện trăm năm chớ có phải...
- Nhưng... anh ta đã nói chi với con đâu mà...
- Hừ, mi nói xuôi cũng được, ngược cũng xong. Khi nẫy thì nói, anh
ấy coi bộ thương con lắm...
Khánh Hòa lại rúc rích cười:
- Đó là con đoán bụng anh thôi.
- Thôi được rồi, ngày mai nó đến đây tao cứ hỏi thẳng.
Khánh Hòa chợt hét lên:
- Ôi, con cấm mạ nghe, ngượng thối mặt.
Bà mẹ cười khì khì. Sỏi đờ đẫn cả tay chân như một người mất trí,
Hắn loạng choạng bước ra ngõ. Tất cả thế gian với hắn lúc này đều
như là biển cả, như một rạp xiếc, như một cuộc rượu túy lúy ngả
nghiêng. Cái phản xạ căm uất lúc đầu tan biến đâu mất, nhường chỗ
cho cơn say đến ngột ngạt. Chao ôi là hạnh phúc! Lẽ nào lại thế? Có
thật là thế không?...
Sáng hôm sau khi Sỏi bước ra tới ngõ phố rẽ vào nhà Khánh Hòa mới
nhận ra rằng mình đến quá sớm. Người hai bên phố lúc ấy vừa thức
dậy. Tự ngượng với mình, hắn quay trở lại phía chợ. Cũng chưa có
quán cà phê nào mở cửa. Sỏi dõi mắt nhìn bao quát motọ vòng rồi nưh
rối trí, hắn quay ngược trở về ngõ phố Khánh Hòa. Đã đến trước cửa
nhưng Sỏi không dừng bước. Hắn liếc mắt vào phía trong nhưng hai
chân vẫn bước nhanh như sợ mẹ con Khánh Hòa trông thấy. Còn sớm quá,
chưa thể vào được. Đừng hạ thấp mình như vậy. sỏi tự lầm rầm trong
miệng và đi thẳng tới ngõ phố trước mặt.
Chợt Sỏi dừng sững lại. Trước mặt là một chiếc hố tròn. Trong thị xã
này những chiếc hố như vậy rất nhiều, người ta đào nó để tránh pháo
khích. Nhưng chiếc hố này, phải rồi, ở góc phố này, vào một đêm nào
đó Sỏi không thể nhớ kỹ, hắn chỉ nhớ nhắn đã nấp dưới đó và bất thần
nhào lên đá tung vào một cậu con trai lúc đó đang đẩy chiếc xe
Hon–đa từ trong ngõ sân nhà kia bước ra. Hắn không hề biết cậu con
trai kia sống chết thế nào vì sau khi giật được chiếc xe, hắn đã đẩy
chạy với tốc độ nhanh, rồi nhảy lên cài số, hắn phóng bạt tử trên
đường quốc lộ I. Sáng hôm sau chiếc xe được bán ở chợ Thành Cổ Quảng
Trị.
Có cảm giác như ai đó đang găm cái nhìn vào gáy mình, Soi không dám
ngoảnh lại, hắn cứ gằm mặt bước nhanh lên hướng đường Chính. Đang
băm bổ bước, Sỏi lại hốt hoảng dừng bặt chân lại như có người chặn
phía trước. Đấy là ngôi nhà hai tầng, nơi đầu tiên Sỏi hùng hổ lao
vào tội ác. Ngoài đó một chút là đường Chín, người đàn bà xấu số nào
đó đã bị hắn xô ngã. Tội ác mở đầu cho hàng ngàn tội ác về sau. Sỏi
vã mồ hôi trán. Hắn hớt hải rẽ ngoặt lối phố chui tọt vào một quán
cà phê.
Thực là lạ. Suốt mấy năm đầu vào con đường cướp bóc, Sỏi đã quá quen
với cảm giác mạnh, mỗi một ngày hắn càng trơ lì ra, mỗi một năm hắn
càng ít rung động. Đến nỗi về sau hắn không nhớ được cụ thể rằng
mình đã cướp ở đâu, lúc nào... Tất cả đều chồng chéo lên nhau, hỗn
độn và nháo nhác. Hắn sống như một đêm dài chồng chất ác mộng của
con bệnh tâm thần.
Thế mà sáng nay, trong cái chếnh choáng của hơi men hạnh phúc, trong
lối đi ngột ngạt niềm khao khát yêu đương, hắn bỗng gặp lại hình hài
tội ác hắn, rõ ràng từng điểm một, cặn kè từng sự việc y như tất cả
đều đang mai phục đâu đó chờ đợi hắn. Thế là thế nào tổ cha cái năm
tháng ấy!
Sỏi gục đầu xuống bàn. Một câu hỏi chập chờn hiện ra trước mắt.
“Liệu rồi có yên ổn không nếu ta định gửi gắm cuộc đời vào ngõ phố
này?” Nhấp một ngụm cà phê vào cho đầu óc tỉnh táo, hắn bắt đầu lần
gỡ từng mét một. Nào thử tưởng tượng xem cái gì sẽ xảy ra?
Sáng nay mình sẽ đến nhà, người ta sẽ đón mình rất cảm động. Được
rồi. Sau đó là hỏi han, cũng cho xong đi. Sau đó sẽ thổ lộ tình cảm.
Rồi. Tiếp đến là quyết định... Hãy khoan đã! Dứt khoát Khánh Hòa sẽ
hỏi ý kiến cơ quan cô ta... Người ta sẽ hỏi lí lịch của mình...
Khánh Hòa đương nhiên sẽ kể... người ta sẽ tìm gặp gánh thuốc Sơn
Nam để hỏi về tên Đệ nhị. Đến đó không ổn rồi. Sơn Nam và Kiều Loan
sẽ khai rằng tên Đệ nhị kia là Nguyễn Viết Lãm. Đ.mạ hắn, thế là
hỏng.
Xán một nắm đấm xuống mặt bàn, Sỏi đứng bật dậy bước ra ngòai. Lòng
hắn rệu rã một nỗi buồn tuyệt vọng. Xa xa đằng kia ngõ rẽ vào căn
nhà lợp nứa. Hắn biết chỗ đó mẹ con Khánh Hòa đang đợi hắn. Hạnh
phúc đang chờ hắn. Thôi, vĩnh biệt. Một cái gì đó trào lên chẹn cứng
cuống họng Sỏi. Hắn rất muốn nói thành lừoi mà không nói được. Vĩnh
biệt em! Em có biết anh khao khát tương lai biết chừng nào không? Em
có biết anh thù didchj với quá khứ đến mức nào không? Phải, anh thù
quá khứ nhưng không thể đối chất với quá khứ được. Anh không đủ dũng
cảm chịu trách nhiệm với những gì trong quá khứ. Vĩnh biệt!
2
Đoàn tàu chợ ì ạch rời ga Hà Thanh, trễ nải bò về phía Đông Hà. Trên
một toa xe ngổn ngang những bao bì, hòm xiểng. Người và hàng lẫn lộn
nhau, đề lên nhau. Một bóng đèn treo vật vờ phía trong cùng le lói
màu sáng tỏa lởn vởn những khuôn mặt đang ngủ li bì. Có lẽ sắp sáng
rồi. Gió lạnh ào ào tuồn qua cửa sổ. Hành khách ngủ như một đám đông
bị ngộ độc, những mái đầu cúi gục, những thân người vắt chéo lên
nhau, gác chân lên cổ nhau, mồm bá toang hoác. Vào giờ này hình như
tất cả đều bị cơn gió lạnh và cái tiết điệu xình xịch ê chề của con
tàu ru ngủ. Ai cẩn thận hơn một chút thì nằm đè lên hàng, có người
quàng túi xách vào cổ, ôm khư khư trước bụng. Nhưng đến khi ngủ rồi
thì tất cả đều trễ nải ra, xệch xoạc ra. Đó chính là thời điểm hành
động của toán cướp.
Chúng nó có tất cả năm đứa, đều rất trẻ và to xác. Nhưng năm đứa
ngồi và nằm ở năm vị trí khác nhau trong toa tàu, cũng ngủ gà ngủ
gật, cũng gác cằm, nghẻo cổ như bao hành khách khác. Chỉ có ai tinh
ý nhất mới thấy khi tàu lắc mạnh, đứa nào trong bọn ấy cũng mở nhanh
mắt ra, khóe mắt nhìn ráo hoảnh, long lanh sắc như dao chém. Rồi rất
nhanh những mi mắt ấy khép lại, cổ lắc lư theo nhịp tàu. Không ai
nhận ra nét khác nhau giữa chúng với khách hàng, cũng không ai hiểu
được rằng năm đứa con trai ngồi rất xa nhau ở trong một toa tàu kia
lại là một. Tàu chầm chậm vào ga Đông Hà. Trời lờ mờ sáng. Nhoáng
một cái năm tên thanh niên kia đã đùn lại ở cửa toa. Và cũng nhoáng
một cái, bọn đó biến mất. Vài phút sau tàu mới dừng bánh hẳn và tới
lúc đó mới bắt đầu nghe những tiếng kêu hớt hải trên tàu.
- Nó rạch cái túi của tôi rồ...ồi...
- Trời ơi là trời... Nó cắt mất cái bọc rồi...
- Cái đồng hồ... Trời ơi đồng hồ tôi đâu?...
Người trong tàu nhốn nháo hẳn lên. Ai cũng cuống quýt lục lại đồ đạc
của mình. Chỉ duy nhất có một người bình tâm hút thuốc. Mắt anh ta
nhìn găm qua cửa sổ, soi hút vào trong đám người nhộn nhạo trên sân
ga. Rồi anh ta đứng dậy và cũng chỉ trong vài giây sau đã biến mất
trong bụi bặm và tiếng rao hàng nháo nhác.
Hai giờ sau, một khung cảnh tương tự như vậy xảy ra ở bến xe khách
Đông Hà. Năm tên móc túi chèn vào chỗ người xếp hàng mua vé Huế. Đến
khi những người khách phát hiện thấy túi mình bị rạch thì cả bọn lưu
manh kia đã biến hút. Tuy vậy những sự việc trên vẫn không lọt khỏi
đôi mắt của cậu thanh niên bận chiếc áo sơ mi màu cứt ngựa, dáng
người thâm thấp, mặt lúc nào cũng cúi xuống. Cậu thanh niên lặng lẽ
rời phòng bán vé, hai tay đút túi quần, mặt vẫn cúi thấp, đi những
bước dài lách qua các đầu xe tiến ra mặt đường Một. Anh ta dừng lại
một tý như chờ để qua đường rồi đột ngột rẽ trái, xuôi xuống bờ đất
thấp, tiến thẳng tới mép ao cá. Ở đó năm tên lưu manh đang chụm đầu
chia tiền.
Nhoáng thấy có người sắp tới gần, cả năm đứa đều lập tức đứng bật
dậy. Tất cả tiền bạc và đồ vật cướp được đều biến mất vào trong các
túi quần thụng thịnh. Cả năm đứa đều găm thẳng luồng mắt vào người
thanh niên vừa xuất hiện. Có một thời gian câm lặng. Người thanh
niên đảo mắt một lượt qua các khuôn mặt. Đám trẻ này chắc chắn ở xa
đến. Từ phía nào? Căn cứ vào lối ăn mặc thì có thể bọn họ từ ngoài
Bắc vào.
- Anh em ở đâu đến đây?
Im lặng. Thằng đứng giữa nhếch nhẹ mép một cái gần như cười. Có lẽ
tên này là toán trưởng. Tóc nó hơi quăn, da thịt trắng như con gái.
Bốn đứa còn lại đều có vẻ dữ tợn. Có một đứa râu quai nón đen kịt
cằm.
- Này... các anh em giỏi lắm. Trên tàu đã khá... xuống bến xe còn
giỏi hơn... Được hên hí?
Vẫn im lặng. Những ánh mắt vằn lên. Mấy cơ hàm giật giật. Toán lưu
manh đã khẳng định được rằng kẻ đang đứng trước mặt là người đã phát
giác ra toàn bộ hành động của chúng nó. Tình thế dồn ép đến một sự
trả giá.
- Nhưng mà... tớ cũng đang đói... đói lắm. Các anh em cho tớ vay tạm
một ít... độ trăm đồng thôi... Rồi tớ sẽ tìm cách trả lại cho.
Người thanh niên mang áo màu cứt ngựa vừa nói vừa chìa bàn tay ra,
mặt vẫn hơi cúi xuống. Tên mặt trắng trợt bật cười. Hắn lấy cùi tay
hất nhẹ vào thằng râu quai nón bên cạnh. Thằng râu quai nón lừ lừ
tiến ra.
- Muốn gì?
- Tiền! Tớ vay thôi.
- Đây! Này...
“Úc” Một quả đấm phóng vụt tới. Người thanh niên mang áo màu cứt
ngựa không kịp đỡ, hoặc có vẻ như không muốn đỡ. Người anh ta hơi bị
đẩy ra một chút nhưng bàn tay ăn xin vẫn không nhụt lại.
- Đừng đánh nhau... Cho tớ vay một phần thôi mà...
Tên mặt trắng đột ngột bổ choàng tới. Một quả đấm móc bị trượt.
Thằng râu quai nón lập tức bổ vào. Rồi cả năm thằng đồng loạt nhảy
xổ đến. Thâm tâm chúng muốn cho kẻ thù gục nhanh để tẩu. Đấy là lối
công theo kiểu trâu bò bất kể luật lệ. Bất ngờ người thanh niên mang
áo cứt ngựa ngồi thụp xuống. Cả năm tên kia đều lỡ đà xô đẩy lên
nhau. Người thanh niên tung đầu lên đồng thời với cả hai tay phóng
hai cú đấm theo hình vòng cung đuổi nhau. Ở thế võ này, một quả đấm
được tính bằng hai vì cùng với nắm tay phía trước thì cùi tay phía
sau cũng tạo nên sức chấn thương mạnh cho đối thủ. Một lúc bốn tên
đều bị đánh đau, lùi hẳn lại. Tên mặt trắng co gọn người định thủ
thế thì gã thanh niên mang áo cứt ngựa đã bay đến đá bốp vào ngực
hắn. Hắn bổ ngửa nghe đánh “ực” một tiếng. Gã thanh niên chồm tới
đạp một chân lên ngực, giọng anh ra rít lên một cách tàn ác.
- Đ.mạ, bọn bay tới đất Đông Hà nầy phải nể mặt ông nội bay chứ. Đưa
hết tiền ra đây không tao đạp bét ngực thằng này. Mau lên! Cố nội
bay! Lần khác nhớ phải học lễ phép trước khi gặp tao nghe. Thôi cút!
Sự việc xảy ra đối với Trương Sỏi đáng buồn hơn là vui. Phải như
trước đây chắc Sỏi sẽ xưng danh xưng tước, sẽ phải bắt bọn kia quỳ
lạy bái phục. Nhưng giờ tất cả chuyện đó đều vô nghĩa.
Đã có một thời gian dài Sỏi cùng bè bạn sống lạc quan ngoài dòng
đời, tự tưởng tượng ra một vương quốc riêng, tự thiết lập một trật
tự kiểu như trong sách “chưởng”. Chừ nghĩ lại hắn chỉ thấy nực cười.
Trong lòng Sỏi giờ này trống rỗng một cách kỳ lạ, y như mới tỉnh dậy
sau cơn ốm thần kinh kéo dài, hoặc như phút rã rời chán chường, sau
cơn hoan lạc với kẻ làm tình không biết. Ước mơ có một tổ ấm đã tan
như bọt bèo. Nhưng nỗi thèm khát vẫn không chịu mất hẳn, cứ đọng lại
đôi giọt mật đủ làm cháy rát vết thương trong tâm khảm hắn. Một sự
thua thiệt với đời thường không gì so sánh nổi. Khác với những năm
trước hắn uất ức, quay cuồng, vật lộn để trèo lên đầu kẻ khác, giờ
đây hắn chán nản đến tuyệt vọng. Và lần đầu tiên trong đời Trương
Sỏi nghĩ đến cái chết.
Kể ra muốn có một cái chết đến thật nhanh đối với Sỏi không phải
chuyện khó. Trong cạp quần hắn lúc nào cũng dắt hai khẩu súng ngắn.
Một khẩu nhặt được của cảnh sát dạo nọ, một khẩu hắn giật từ tay của
một đại úy ngụy trong cuộc chạy loạn năm 1972. Trương Sỏi đã tập sử
dụng súng bằng cả hai tay một cách khá thành thạo. Tuy vậy hắn chưa
bao giờ dám gây án mạng.
Sỏi không đủ dũng cảm nhận cái chết từ chính tay mình. Hắn không thể
chĩa thẳng nòng súng vào số phận hắn cũng như không thể nào chĩa sự
ghê tởm của mình vào quá khứ của chính đời mình.
Sỏi lần mò ra ga tàu. Đêm bảng lảng một không gian vô giới hạn. Gió
Lào đầu mùa thổi xao xác. Hành khách ra vào ga lặng lẽ, cần mẫn. Ai
cũng có công việc của họ, ai cũng đang đuổi theo cuộc sống đầy ý
nghĩa với tất cả mọi lo toan thiết thực. Có lẽ chỉ có hắn thôi, chơ
vơ lạc lõng trong từng bước đi, từng hướng nhìn. Chỉ có hắn tự biết
tâm trạng hắn lúc này. Không ai thèm để ý đến hắn cả. Bất giác Sỏi
thở dài. Thôi được. Thôi được, ngày mai nhất định người đời sẽ buộc
phải quan tâm đến hắn. Một xác chết trên đường ray. Một tai nạn
khủng khiếp! Thử xem các người có lảng tránh ta được mãi không?
Sỏi bước nhanh lại phía đường tàu. Ý nghĩ mỗi lúc một dồn dập. Ngày
mai người ta sẽ chú ý. Cái câu chuyện vỉa hè sẽ tah hồ rộm rã. Đêm
qua một tai nạn đã xảy ra... Ai rứa? Hắn là... Sỏi chợt dừng chân
lại. Cái chết đó có khả năng làm hắn lộ nguyên hình. Ồ, tên đệ nhị
mải võ đã chết rồi! À, chắc là nó nhảy tàu ăn cướp chứ gì? Đáng đời
lắm, đáng kiếp lắm! Lẽ nào sự kết thúc lại như vậy!
Con tàu chợ ngược ra phía Bắc đã từ từ vào ga. Sỏi vẫn đứng nguyên
bên lề đường. Không thể chết ở đây được. Chết mà quá khứ vẫn bám
theo là không chấp nhận được. Chết mà để người đời kết tột là đáng
kiếp là không ổn. Chao, thế mới biết chết cũng khó lắm thay.
Sỏi đi một mình lang thang trong sân ga, cố tránh mặt tất cả mọi
hành khách đang vội vã lên xuống. Hắn vừa đi vừa lập luận cho phương
án chết của mình. Đúng là không thể chết chỗ này. Cần phải đi thật
xa khu vực Đông Hà đến một nơi nào đó... Ừ, ở đó người ta sẽ coi xác
chết của mình như là một hành khách xấu số gặp tai nạn. Người ta sẽ
than vãn đôi lời cho số kiếp. Rồi người ta chôn hắn đi. Mấy đời sau
không ai quan tâm đến nấm mồ vô chủ ấy, ở đâu đến không biết, vì sao
chết không hay... Đẹp quá. Đó mới thật là sự kết thúc dành sẵn cho
mình.
Đoàn tàu chợ từ từ rời ga. Hàng ngàn hành khách lại được dịp ngủ gà
ngủ gật. Vượt qua sông Đông Hà, đoàn tàu tiến ra cánh đồng bỏ hoang
lâu ngày bời bời cỏ dại. Đêm mung lung, thăm thẳm. Đầu tàu trút một
hồi còi dài như muốn báo cho nhà ga phía trước. Trương Sỏi cũng lặng
lẽ trút một hơi thở dài.
Anh đến gieo hạt nhớ
Nơi cây tôi nảy mầm
Mưa giữa mùa đến muộn
Khoảng trống này... mênh mông
Giang Huong Blog
nutacxinhxan
Xem hồ sơ
Gởi tin nhắn tới nutacxinhxan
Visit nutacxinhxan's homepage!
Tìm bài gởi bởi nutacxinhxan
(#7)
nutacxinhxan
Kẻ lữ hành cô độc Bài gởi: 3,365
Gia nhập: Sep 2006
Trả lời: Người không mang họ - Xuân Đức - 10-07-2007, 08:04 AM
Chương 6
1
Thành phố Vinh, vốn là một thị xã khá duyên dáng ẩn mình bên bức
tường thành Hồng Lĩnh nhấp nhô nhiều ngọn núi theo các dáng hình
khác nhau, và con sông Lam xanh ngăn ngắt, có một lưu lượng nước khá
lớn do hai nhánh sông hợp thành. Thành phố Vinh đang độ trai trẻ từ
thị xã vươn lên thành phố. cũng có một thời phồn hoa. Nhưng chiến
tranh phá hoại của giặc Mỹ ập đến. Tuổi trẻ của Vinh bước vào cuộc
chiến như một sự tự ý thức về giá trị tồn tại của mình. Trong những
năm tháng ấy, hầu như không còn vết tích thị thành trên mảnh đất
này. Vinh – Bến Thủy trở thành trận địa. Người bám trụ ở đây chủ yếu
là bộ đội tự vệ, giao thông, thanh niên xung phong. Khói đạn, máu đổ
và tiếng hát... Vinh đã tồn tại như vậy trên bản đồ Việt Nam, chứ
trên tựhc tế hầu như chỉ vài căn nhà gạch.
Bây giờ thì thành phố này đang bước qua một khúc ngoạt mới. Những
ngôi nhà cao tầng mọc lên. Những công trường lao động rầm rộ hiện ra
đồng thời với chợ trời, những khách lang thang, cả đĩ điếm nữa cũng
ùa về. Sự thay đổi này có thể tính được từ khi có những chuyến xe
hàng từ trong các đô thị miền Nam chở ra với giá cả rẻ rúng đến mức
không ai tưởng tượng nổi. Búp bê, mì chính, áo len, khăn voan...
toàn những hàng sặc sỡ. Liền theo đó là tuyến xe từ biên giới Lào –
Việt được khơi thông. Vinh lại trở thành một ngã ba cực kỳ nhộn nhịp
của vùng đất Nghệ - Tĩnh. Ở đâu trên mặt đất có những ngã ba thì ở
đó lập tức xuất hiện sự lựa chọn. Và thế là, trên trục đường chính
nườm nượp người đi, không thể nào không có kẻ lại chọn cho mình lối
rẽ ngang, rẽ ngửa. Buôn gian bán lận hình thành. Chợ trời đột xuất
nhóm họp. Từ “ngã sáu” chạy lên bến xe vòng qua ga tàu, trở về “ngã
tư”, xuôi lên cầu Đước, những lớp người sống theo kiểu “giật” hàng
đầu này “buộc” lại đầu bên kia ngày mỗi nhiều ra. Tất cả tình trạng
ấy đặt lên vai công an thành Vinh và công an tỉnh Nghệ Tĩnh một gánh
nặng thường trực.
Những báo cáo đầu tiên của đội hình sự cho trưởng công an thành phố
về tình hình bọn trấn lột xuất hiện trong địa bàn có thể tóm tắt như
sau:
Hiện tại có một nhóm thanh niên hư hỏng đang làm nghề trộm cắp và
cướp giật. Chúng nó có khoảng từ sáu đến mười đứa. Tên đầu đảng là
một lưu manh chuyên nghiệp có biệt danh là Mèo trắng. Tên thật là
Nguyễn Vu, trước đây sinh hoạt trong nhóm nhạc vàng ở Hải Phòng. Hắn
đã trốn khỏi sự bủa vây của công an Hải Phòng – Hà Nội, vào đây lúc
nào không rõ. Một tên khác cũng quan trọng là Tấn Xồm, quê ở Cẩm
Xuyên, Hà Tĩnh, đã từng bị xử một năm tù vì tội ăn cắp xe đạp. Còn
ba tên nữa là Mộc sún đã từng can tội hiếp dâm. Vượng răng vàng dân
công giáo và Lãi xoăn bộ đội đào ngũ. Cả năm thằng này họp nhau
thành hội, tự xưng là “ngũ hổ”, chỉ huy một nhóm đàn em cướp giật
khắp các ngõ tối, nơi bến xe, trên các tuyến tàu hỏa.
Đội hình sự đã tiến hành phong tỏa địa bàn, bám sát các mục tiêu.
Gần đây các hoạt động trộm cắp có thưa đi và ít gây tác hại. Rõ ràng
bọn lưu manh đã bị đánh động và có chủ trương đề phòng.
Sau cuộc họp giao ban ở Ty công an về, trưởng công an Thành phố
triệu tập đội hình sự họp. Một kế hoạch tác chiến mới được bàn bạc
dân chủ và nhanh chóng triển khai.
Cơn mưa rào bất ngờ ập xuống xối xả làm cho hành khách trên sân ga
cuống quýt chạy dạt ra bốn phía. Trẻ con chui xuống gầm những toa xe
hỏng. Người lớn chen nhau trên hè nhà đợi, nhà kho, trước cửa hàng
ăn uống. Giữa cảnh nhốn nháo ấy, có một thanh niên mặt trắng bủng
như mắc bệnh nghiện đang cố len lỏi từ đám người này sang đám người
khác. Đấy chính là Mèo trắng. Hắn đang đói. Gần một tuần nay không
móc được đồng nào. Bè đảng giãn ra mỗi đứa một nơi tự kiếm lấy sống.
Sự phong tỏa của công an rất có hiệu lực. Tình thế đang đặt đám lưu
manh vào cảnh khốn cùng, tan rã.
Mèo trắng chen vào đám học sinh mới xuống tàu. Hai thanh niên đang
cúi xuống mua thuốc lá. Xung quanh họ người đứng dày đặc. Một lưỡi
dao bào lấp loáng trong kẽ tay Mèo trắng. Ai đó chen ở phía ngoài.
Có sự xô đẩy giạt tới. Đấy là thời cơ thuận lợi nhất. Mèo trắng khẽ
lay động cổ tay. Một nhát rạch ngọt xớt. Mèo trắng không dám cúi
xuống. Hắn móc nhanh chiếc ví rồi lách chéo người sang một bên. Độ
vài phút sau Mèo trắng đã chuyển vị trí về một thềm nhà khác cách
chỗ cũ gần ba trăm mét. Hắn chen vào hàng thuốc là cúi xuống và điềm
tĩnh đưa chiếc ví ra. Thật khốn nạn, trong ví chỉ còn đúng ba tờ
giấy một đồng. Mèo trắng đứng dậy lách ra ngoài. Hắn buột mồm chửi
đổng: “Đ.mẹ! Toàn lũ kiết xác cả!”.
Bỗng một bàn tay đặt nhẹ nhưng rất chắc lên vai Mèo trắng. Mèo trắng
đứng nguyên tư thế. Kinh nghiệm nghề nghiệp dạ hắn không nên quay
vội vã rất dễ bị một quả móc vào hàm dưới. Một giọng nói khàn khàn
sát vào tai hắn:
- Chào người anh em... Răng mà ỉu xìu vậy?
Bây giờ Mèo trắng mới từ từ quay lại và bất thần trố mắt ra. Đứng
trước hắn là một người đàn ông khoảng ba mươi tuổi, khổ người nhỏ và
thấp, chiếc áo sưo mi màu cứt ngựa lấm láp đất bụi. Suýt nữa Mèo
trắng kêu to lên. Sự hiện diện của người này trùm lên ý nghĩ của Mèo
trắng một nỗi kinh hoàng hơn cả bóng áo công an trên nhà ga.
- Ngạc nhiên hí? Hay quên nhau rồi?
Trương Sỏi cất tiếng cười rất sởi lởi. Rồi hắn chủ động choàng cả
cánh tay lên vai Mèo trắng. Hai đứa cứ vậy xép người đi dọc các hiên
nhà tiến dần ra phía cổng ngoài. Rồi cả hai buông vai nắm tay nhau
cùng chạy lên đường rải nhựa. Mưa đã thưa hạt. Người trong ga không
ai để ý đến sự việc kể trên mà nếu có ai đó vô tình trông thấy thì
cũng nghĩ rằng họ là đôi bạn cùng đi một chuyến tàu về ga.
Hai đứa chui vào quán cơm. Trương Sỏi gọi hai suất cơ, chả rán, giò
nạc, tôm kho và hai chén rượu. Hắn chủ động cầm chén.
- Nào, xin mời. Có thể gọi nhau thế nào nhỉ?
Mèo trắng vẫn không trả lời. Đầu óc hắn hoang mang cực độ. Hắn biết
chắc chắn kẻ ngồi trước mặt không phải là Mo (*), bởi nếu là Mo thì
hôm chạm trán ở Đông Hà cả bọn Mèo trắng bị tóm cổ rồi. Vậy thằng
này là ai? Hắn là một tay anh chị? Nó đã trắng trợn trấn lột lại bọn
Mèo trắng giữa đất Đông Hà. Cái hận ấy muôn đời không rửa được. Hôm
ấy cả bọn đinh săn thằng này đánh phục thù, nhưng tính đi tính lại
chúng tự thấy khó làm gì được. Thằng ấy võ nghệ cao cường quá. Mà
lại ở giữa đất của nó thì tay chân của nó có thể rất đông. Đụng vào
biết đâu lại mua phải cái chết, thế là cả bọn giã từ Đông Hà trở ra
Vinh.
Bây giờ tự nhiên thằng cha này lại xuất hiện ở đây, mà có vẻ săn
đuổi từng dấu vết của bọn Mèo trắng. Bất ổn rồi. Phải tìm kế khử
ngay!
Mặc dầu đầu óc ngổn ngan rất nhiều tính toán, nhưng Mèo trắng vẫn
không ngừng nhai bởi suốt ngày hôm nay hắn chưa có gì lót bụng. Chén
rượu làm người hắn bừng bừng khí phách. Mèo trắng găm một cái nhìn
vào mặt Trương Sỏi.
- Chỗ này bọn mình là chủ, người anh em là khách, ni lại bắt chủ
giới thiệu trước, nghe không lọt.
Giọng miền Bắc pha đôi từ bụi đời miền trong nghe rất bùi tai.
Trương sỏi cười lục khục trong cổ.
- Tứ hải giai huynh đệ, người anh em không nghe nói vậy sao? Đời bọn
mình thì tối đâu là nhà, ngả lưng đâu là giường, làm chi có chuyện
khách chủ...
Mèo trắng trợn mắt lên:
- Người anh em nói vậy, sao hôm nọ đang tâm hớt miếng ăn của anh em?
- À, tại vì đằng ấy keo kiệt quá. Mà tớ thì đang đói. Nếu người anh
em biết được hôm đó tớ đói khát đến mức nào... Giang hồ có lúc lỡ
vận. Thế nên phải mượn tạm một ít. Đây, tớ xin trả lại đằng ấy.
Vừa nói Trương Sỏi vừa kéo chiếc ghế xích lại gần Mèo trắng. Hắn móc
một nắm tiền nhét qua đùi Mèo trắng. Mèo trắng chìa tay chộp lấy vội
vã như sợ đối phương giật lại. Hắn nuốt ực cục cơm xuống cổ rồi cất
giọng run run:
- Được... Đằng ấy chơi đúng luật... chừ thì giới thiệu đi...
Trương Sỏi nhấp thêm ngụm rượu nữa. Hắn đã đủ thì giờ để tính
toán... Cần nhất lúc này là có chỗ để nương thân.
- Tớ cũng sống như đằng ấy. Nhưng hiện nay thất thế, chiến hữu tan
tác cả. Tớ tìm ra đây xin nương náu anh em một thời gian không biết
có được không?
- Quý danh là gì?
- Tớ họ Thái tên là Lưỡng...
- Không có bí danh à?
- Có. Thái đen.
Mèo trắng lim dim mắt ngẫm nghĩ. Một lát hắn đứng dậy, bằng một
giọng rất trịnh thượng, nói sát vào tai Trương Sỏi:
- Ta sẽ bàn bạc với bọn chúng nó. Đêm hôm nay mày hãy đến chỗ cây
bông gạo sát cầu Đước. Còn suốt ngày nay cấm không được bám theo
tao. Nhập gia tùy tục, nhớ đấy!
- Nhớ.
Có trời mà hiểu vì sao Sỏi đã không tự tử trên đường ray. Lý do đầu
tiên có lẽ vì con tàu đêm đó! Một đêm kỳ lạ. Con tàu cứ băng băng
xuyên dọc những dãy đồi bạt ngàn. Gió phóng khoáng lùa tràn lan vào
khắp các cửa, Trương sỏi lúc ấy lại quá mệt mỏi, thần kinh như chùn
hẳn xuống sau những ngày dằn vặt, tuyệt vọng. Hắn đi tìm cái chết
nhưng lại không vội vã. Việc gì mà vội. Càng đi xa càng thích. Thế
nên Sỏi ngả người ra thành ghế, nhắm mát lại cứ mặc kệ con tàu băng
băng xé gió. Thế rồi hắn bỗng cảm thấy con tàu không phải chạy trên
đường ray mà lại lướt gió bay lên không trung bập bềnh theo mây
khói. Thế càng thích. Con tàu vẫn bồng bềnh trôi trong mung lung sâu
thăm thẳm. Đột ngột có sức nóng xối vào gáy Sỏi. Nó mở choàng mắt
dậy. Ánh nắng tràn ngập toa tàu. Bây giờ thì Sỏi đã tỉnh hẳn. Thế là
qua mất một đêm rồi. Hắn đã ngủ quá say cho nên bỏ qua những cơ hội
có thể tự tử được.
Để có thể tạm thời sống qua ngày hôm đó, Trương Sỏi đã bắt buộc cắt
túi một bà nhà quê lúc chen xuống tàu. Món tiền thu được quá lớn,
tám trăm đồng. Sỏi xuống ga và chen chân vào trong đám hành khách lố
nhố. Ở đó, bằng con mắt lõi đời, hẵn đã nhận ra bọn cướp Mèo trắng.
Bây giờ thì hắn chờ đợi một cuộc chạm chán mới.
Khoảng tám giờ tối Trương sỏi lần ra hướng cầu Đước. Từ xa hắn đã
nhận ra cây bông gạo. Chỗ đó rất tối. Cây bông gạo đứng sát lề đường
nhựa. Phía dưới sâu, gần sát mép nước có một ngôi nhà lá. Có thể chỗ
đó là hang ổ của bọn cướp. Trương Sỏi tính toán một chút rồi rẽ
ngoắt vào một quán nước chè cách cây bông chừng năm mươi thước. Hắn
gọi một chén rượu và một túi lạng rang. Hắn nhai lạc chậm rãi như cố
tình kéo dài thời gian. Mắt Trương Sỏi không hề rời khoảng tối dưới
gốc cây bông.
Hắn ngồi như vậy khá lâu. Khoảng tối dưới gốc cây bông gạo vẫn im
lìm. Thỉnh thoảng những chiếc ô tô lướt qua quét đèn pha sáng rực cả
khu vực đầu cầu giúp Sỏi nhận rõ dáng hình căn nhà lụp xụp phía dưới
bờ sông. Không hề thấy bóng dáng một đứa nào lai vãng. Sỏi chợt nảy
ra ý định tập kích bí mật vào căn nhà kia xem thử có bọn ấy không,
và nếu có thì thử coi chúng nó đang tính toán điều gì.
Sỏi lấy tiền trả cho cô bán quán. Đang hí húi cho tiền vào túi thì
bất ngờ có bàn tay ai đó đặt lên vai. Linh tính báo cho Sỏi biết bọn
địch thủ đang ở sát mình. Hắn tự nhủ, kể ra bọn này cũng ghê gớm,
không coi thường được.
Sỏi vẫn vờ như không để ý. Hắn trả tiền, đếm cẩn thận từng đồng phụ.
Rồi không thèm quay lại nhìn kẻ ở sau lưng mình, Sỏi cúi đầu bước ra
khỏi quán. Có hai người choàng tay lên vai Sỏi đi sát hai bên. Sỏi
định bước lại chỗ cây bông nhưng thằng đi cạnh đã dí sát vào tai hắn
ra lệnh: “Lại đằng này”.
Sỏi không ngờ bọn chúng thủ đoạn với mình cả đến địa điểm gặp. Cả ba
đứa lụi cụi đi ngược về hướng thành phố, đến chỗ ngã ba thì rẽ trái.
Sỏi bị ép bước xuống một tấm ruộng khô, đạp tắt bờ cỏ rồi chui xuống
một mảnh vườn rậm. Đi sâu thêm đoạn nữa thì gặp một mái nhà lợp nứa.
Cả ba tên không vào lối cửa mà vòng ra phía sau hè nhà. Ở đó có lối
đi dẫn vào nhà bếp. Sỏi bước vào và nhận ra ba đứa ngồi sẵn bên ngọn
đèn dầu lờ mờ. Không có tiếng chào nhau. Hai đứa kèm Sỏi ngồi xuống.
Ngọn đèn được vặn bấc thêm một chút. Trong màu sáng vàng đục sỏi
nhận ra hai bộ mặt quen thuộc, tên mặt trắng và tên râu quai nón.
Còn ba đứa nữa đều coi bộ hung dữ. Chúng nhìn Sỏi chằm chằm. Trong
lần chạm nhau ở Đông Hà không có ba đứa ấy.
Một không gian im lặng đến gai người. Trương Sỏi tự chửi thầm trong
bụng “Đ.mạ chúng mày sức mấy mà ra oai làm bộ!”. Nhưng hắn không nói
ra, không hề tỏ thái độ gì cả. Sỏi lôi từ trong túi áo ra một gói
thuốc “Du lich” đặt ra giữa chiếu, giọng dịu dàng:
- Chẳng có chi làm quà cả. Mời anh em điếu thuốc...
Sỏi tự tay bóc thuốc xỉa ra mời từng đứa. Tên mặt trăng quờ tay phía
sau lôi ra một chai rượu trắng. Tên râu quai nón cũng quờ tay một
cái đặt ra sáu cái cốc. À, ra chngs mày cũng chuẩn bị chu đáo đó
chứ! Sỏi cười thầm như vậy.
Rượu được rót ra. Thằng mặt trắng cầm chén lên trước.
- Người anh em. Tôi đã thay mặt người anh em trình bày lại nguyện
vọng muốn nhập trại của đằng ấy với các anh hùng “Ngũ hổ”. Anh em
tôi đây với ngưỡng vọng người tài, sẵn sàng rải chiếu đón anh hùng
tứ xứ. Nhưng ngặt vì chưa hiểu hết nhau nên rất khó phân định ngôi
thứ... Luật nhà võ chắc người anh em hiểu rồi. Cho nên đêm nay, ý
muốn của anh em Ngũ hổ chúng tôi muốn được đằng ấy dạy dỗ cho vài
thế võ. Nếu được toại nguyện thì xin quỳ xuống sát gối mà tôn bậc
đại ca...
Trương Sỏi cầm chén rượu lên gật gù đáp lại:
- Các anh dạy thế nào thì Lưỡng tôi xin chịu vậy. Trong lúc lỡ bước
thế này mà được các đại ca cho nương nhờ là quí lắm rồi. Còn chuyện
võ nghệ thì bậc đàn em lượng sức mình không dám múa rìu qua mắt thợ.
Chỉ xin góp vài trò vui tiêu khiển cho các đại ca đỡ buồn...
Sáu chén rượu được nốc cạn. Chén lại đặt xuống và tuần rượu lại được
rót ra.
Rượu lại được rót tiếp. Chỉ còn vỏ chai không Sỏi với tay ra cầm lấy
cổ chai. Hắn làm bộ say, hua chai lên phía trước:
- Thế nào, các đại ca có chừng ấy rượu thôi ư? Chà, rượu hết thì giữ
chai làm gì nữa...
Nói rồi Sỏi bất ngờ vung chai lên đánh “bốp” vào giữa trán mình. Cả
bọn hãi hùng trợn tròn mắt. Choang! Mảnh chai vỡ tung tóe.
Tên mặt trắng run rẩy đứng dậy:
- Lạy đại ca!... Bọn em thật có mắt như mù... Từ hôm nay bọn em xin
làm kẻ tôi tớ cho đại ca...
2
Nhật ký trong tháng của Đội trưởng hình sự Công an thành phố vinh có
những sự việc liên quan đến đám cướp, xin được lược trích mấy đoạn.
“Ngày 16
Khoảng 4 giờ sáng vợ chồng anh T.M đèo nhau bằng xe đạp từ Nam Đàn
xuống bến xe. Đến cầu bất ngờ có một tên cướp nhảy từ mép cỏ bên
trái đường qua xe đạp đổ. Người vợ ngã xoài ra phía sau. Anh T.M cố
gượng dậy thì bất ngờ bị một cú đá vào mạng sườn. Kẻ cướp đã lấy xe
đạp cùng với túi du lịch. Trong túi có 6 bộ áo quần, hai chai rượu,
một cân lạc nhân, chiếc màn tuyn và 1000 đồng.
... Theo lời khai của anh T.M, kẻ cướp người nhỏ, thấp, không rõ độ
tuổi...”.
“Ngày 19...
8h 10 phút đêm. Một đôi thanh niên nam nữ đang đứng tâm sự dưới gốc
tre hóp, trước cổng trường cấp III. Anh thanh niên là V.C, trong lúc
nói chuyện, đã bật lửa hút thuốc. Một người đi đến tay vân vê điếu
thuóc, chào rất lịch sự và xin châm nhờ lửa. Anh thanh niên vui vẻ
bật lửa. Ngay lập tức người khách giật mạnh chiếc đồng hồ và lao
chạy. Hai anh chị hốt hoảng la hét đuổi theo nhưng vô hiệu.
Anh thanh niên khai rằng, kẻ cướp có dáng người thấp, nói tiếng miền
trung có pha tạp...”.
...
“Ngày 23...
“Nhà chị P, khu phố H, bị kẻ cướp đào ngạch vào, khuân đi một quạt
SANYO, một bàn là điện, một va li váo quần và chiếc đồng hồ bàn.
Hiện trường cho thấy, tham gia vào vụ trộm này có ba tên. Tất cả đều
đi chân đất...
“Ngày 27...
Khoảng 11 giờ 30 phút, tại nàh đợi ga Vinh, một tên cướp đã giật
chiếc túi xách trên tay một phụ nữ. Chị ta hô hoán lên. Tên cướp
chạy ra hướng hàng rào. Bộ đội và nhiều thanh niên đuổi theo. Tên
cướp biến mất. Khi những người đuổi quay lại thì ba lô, đồ đạc của
họ không còn nữa. Tổng cộng mất 6 ba lô, 1 hòm gỗ đựng quần áo. Tổng
số tài sản mất khoảng 8 ngàn đồng”.
Tình hình trộm cướp tăng lên một cách bất thường, nghiêm trọng đã
trùm lên người dânt hành phố Vinh một nỗi lo sợ thấp thỏm. Chưa tối
các nhà đã đóng cửa. Người ra đường lấm lét nhìn nhau. Những gia
đình neo đơn, thiếu đàn ông khỏe mạnh ở nhà, lúc nào cũng nơm nớp lo
âu. Một tiếng kêu to ở đâu đó cũng đủ gây nên sự nhớ nhác, hớt hải
của khu phố.
Một cuộc họp liên tịch giữa phòng hình sự Công an tỉnh Nghệ Tĩnh với
phó công an thành phố và đội hình sự của thành được triệu tập. Trong
số những người dự cuộc họp này, có thượng úy trinh sát hình sự Lê
Hoài Nam vừa được điều từ địa bàn Kỳ Anh ra. Lê Hoài Nam là con
người được mệnh danh “kỷ lục phá an”. Sự tăng cường anh vào địa bàn
này đủ biết Công an tỉnh đã xác định tính cấp bách phá án ở thành
phố Vinh khẩn thiết đến mức nào.
Sau khi nghiên cứu tỉ mỉ những báo cáo của các nhóm trinh sát hình
sự, thiếu tá Phùng Lân, Phó công thành phố phát biểu có tính chất
tổng kết. Rõ ràng nhóm cướp Ngũ hổ đã được tăng cường một lực lượng
mới, lực lượng này có những nhân vật khá sắc sảo. Hoạt động của bọn
cướp đã tung vào ba khu vực. Từ cửa Nam lên Cầu Miếu. Từ chợ Vinh
xuống Bến Thủy, từ bến ô tô ra bến tàu. Trong ba khu vực trên thì
đáng chú ý nhất là tên cướp “người thấp nhỏ”, “nói tiếng miền trung
có pha tạp” hay xuất hiện ở địa bà từ cửa Nam lên Cầu Miếu đột kích
vào mũi này. Một nhóm trinh sát được giao đặc trách truy tìm tên
cướp nói trên. Thượng úy Lê Hoài Nam nhận nhiệm vụ ở mũi ấy.
Lê Hoài Nam có một dáng người thon thả, cân đối như một diễn viên
múa. Những lần anh luyện võ đồng đội thường gọi đùa anh là Triệu Tử
Long. Nhưng trong các tình huống, gay cấn của vụ án thì Nam được
mệnh danh là quân sư Gia Cát Lượng. quê anh ở Quỳnh Lưu. Năm 1965,
Nam nhập ngũ. Anh được bổ sung vào đơn vị Đặc hải, từng tham gia
đánh tàu ở Cửa Việt. Năm 1973, Nam xin chuyển ngành về công an Nghệ
An, chủ yếu là để được gần gia đình. Không ngờ do yêu cầu của ngành
anh được bố trí học đại học công an. Mới ra trường chỉ hơn một năm
nay mà Lê Hoài Nam dã tham gia phá 11 vụ án. Đây là vụ án thứ 12 anh
được tham gai.
Đêm thứ nhất Lê Hoài Nam ăn mặc như một thanh niên Sài Gòn, vai đeo
túi du lịch màu đỏ căng phồng, chân đi đôi dép “tông” mới. Chờ cho
đoàn tàu Thống Nhất thành phố Hồ Chí Minh đi Hà Nội vào ga Vinh, một
số hành khách xuống tàu, Lê Hoài Nam lặc lè chiếc túi trên vai đi
ngược chiều đoàn tàu về phái cửa Nam. Anh như một người khách trốn
vé, tìm đường vào hướng chợ. Dọc theo đường tàu dài hơn hai cây số
lại rẽ xuống chợ gần một cây nữa. Lê Hoài Nam không gặp một sự cố
nào.
Đêm thứ hai Nam đóng vai một học sinh từ nước ngoài về, tay xách
chiếc va li giả da có tích kê gửi máy bay treo lủng lẳng. Anh đi từ
trong phố lên dọc theo đường Nam Đàn. Vẫn không gặp bọn cướp. Ngày
ấy Lê Hoài Nam ở lại chơi với một anh bạn trên công an huyện Nam
Đàn, đêm ngủ lại đấy, khoảng ba giờ sáng xe chở anh về gần Cầu Miếu.
Lê Hòai Nam trong bộ quân phục bộ đội, vai đeo chiếc ba lô to bè đi
ngật ngưỡng. Trời chưa sáng, đường vắng lặng, thỉnh thoảng mới có
vài chiếc xe đạp lướt qua.
Cách chợ Phủ khoảng một ki – lô – mét, có một đoạn đường tối như mực
vì hai bên phi lao trồng dày thành bãi lớn. Ở những đoạn tối như
vậy, Hoài Nam thường hết sức đề phòng. Đang đi đột ngột anh quay vụt
lại. Linh tính rất nhạy của anh báo động. Ba bóng đen không hiểu từ
chỗ nào trong khoảng đêm đã đứng vây lấy anh.
- Ông anh cho xin cái ba – lô.
Thằng đứng trước mặt nói, giọng nó lơ lớ như dân Nghi Lộc, người có
vẻ dong dỏng cao. Nam làm bộ khó nhọc khi cởi chiếc ba lô. Thằng
đứng bên trái rít vào tai anh:
- Mau lên, muốn ăn dao à?
Giọng thằng này the thé, hính như dân Quảng Nam – Đà Nẵng. Cũng chưa
phải “tên ấy”. Nam cúi người vờ đặt chiếc ba lô xuống đất, đầu khẽ
nghiêng lại. Bên phải anh là một thằng thâm thấp, hai tay khoanh
trước ngực, không nói không rằng. Thằng này rồi! Nam nghĩ nhanh vậy,
rồi rút tay ra khỏi quai ba lô. Anh vờ lên tiếng run rẩy:
- Lạy các... anh...
Đột ngột Nam xoay vèo người, giáng một quả đấm vào mạng sườn tên
thâm thấp bên phải. Miếng võ này được bạn bè đánh giá như phát đạn
B40. Ở tư thế cong người dưới thấp đánh lên, quả đấm có khả năng
chọc trúng vào vùng gan đối phương, gây một sự choáng nặng. Nhưng
thật không ngờ tên thấp bé kia lại lạch nhẹ người tránh được. Cú đấm
mất đà bắn lên vùng bộ hạ. Nam cảm nhận được ngay nhưng không có
cách gì tránh kịp. Anh chỉ còn cách gạt mạnh tay phải xuống dưới.
Hai tổng lực đập vào nhau nghe đánh “rắc” một tiếng, cứ ngỡ như cả
tay Nam lẫn chân tên cướp đều gãy lìa. Cả hai đều choáng váng. Từ
đằng sau một cú đấm phóng tới. Nam ngả nhanh xuống đường lăn hai
vòng ra ngoài. Anh rút khẩu súng ngắn từ trong cạp quần ra bắn liền
hai phát. Tiếng nổ như muốn xé rách không gian. Nam định bật người
dậy. Nhưng ngay lập tức một cú đá bay vèo qua mang tai. Cổ tay anh
tê dại. Khẩu súng văng qua bên bờ ruộng. Vừa lúc đó có ánh đèn pha ô
tô từ xa quét tơi. Ba tên cướp giật vội chiếc ba lô lao sầm xuống
bãi phi lao. Nam chồm người lên đứng chắn giữa đường. Chiếc xe tải
dừng lại, Nam đề nghị lái xe bật đèn giúp anh tìm khẩu súng. May
quá, khẩu súng gác ngay dưới gốc mẹ.
Trong thời gian đó một tên móc túi ở ga Vinh đã bị tổ công an công
tác ở ga bắt được. Tên nó là Thọ, biệt danh là Thọ rỗ. Trưởng phòng
hình sự Công an tỉnh trực tiếp hỏi cung.
Hắn khai rằng, trước đây nhóm cướp của hắn thuộc quyền chỉ huy Ngũ
hổ. Cách đây ba tháng có một “đại ca” từ Đông Hà ra, tên là Lưỡng,
họ là Thái, gọi là Thái đen. Hiện nay mọi quyền hành nằm trong tay
đại ca này. Nhưng chính lũ đàn em như Thỏ thì chưa một lần nào được
trông thấy Thái Lưỡng cả. Chỉ được chuyền tai rằng đại ca này võ
nghệ vô song, từ Bắc vào Nam ít ai địch nổi.
Sau khi lấy cung tên lưu manh xong, trưởng phòng hình sự đã gặp
thượng úy Lê Hoài Nam trao đổi.
Mặc dù cú chạm mặt thất bại, nhưng trong trí nhớ Lê Hoài Nam vẫn hằn
rõ vóc dáng thằng tướng cướp này. Chỉ tiếc một điều không có cách gì
nhìn kỹ được mặt hắn, và cũng không hề nghe hắn nói được một câu.
Tuy vậy cuộc chạm trán không hoàn toàn vô ích. Những đường võ tuyệt
vời của tên cướp gợi ý cho Lê Hoài Nam nghĩ đến lối quyền Tàu có pha
đôi miếng khinh công của Ấn Độ. Đặc biệt những cú đá gây nên tiếng
giớ vèo vèo, quyết không phải chỉ bởi tốc độ và lực đá mà rõ ràng
tên cướp đã khá lão luyện khinh công. Như vậy, cái thằng thâm thấp
tròn tròn kia nhất định là sản phẩm của một môn phái võ rất cổ...
Thấy Lê Hòai Nam ngồi bất động ở góc bàn, mặt ngẩn ra như đang theo
đuổi một suy tư vô định hướng, thiếu tá trưởng phòng hình sự chợt
phì cười:
- Sao đấy, tiếc rẻ con mồi lắm hả?
Hoài Nam cũng lắc đầu cười trừ:
- Quả thật thằng ấy giỏi. Tôi chưa từng gặp một đối tượng nào cao
thủ như hắn. Có điều không biết hắn thuộc môn phái nào?
Trưởng phòng hình sự bắt nhận ngay ý nghĩ của người trinh sát, anh
nắm chặt bàn tay lại, giọng nói rắn chắc:
- Đúng rồi. Phải tìm cho ra gốc gác của hắn. Thằng này chắc chắn là
một lưu manh chuyên nghiệp. Về võ nghệ, hắn là con nhà nòi. Nếu cứ
săn đuổi kiểu một chọi một thì không ổn. Hơn nữa sau vụ chạm trán
vừa rồi, nhất là khi bọn chúng mở ba lô cướp được ra thấy toàn gạch
với rẻ rách, chúng biết là đã bị săn đuổi. Hoặc chúng sẽ phải nằm
im, hoặc chúng thay đổi địa bàn. Vấn đề lúc này là phải nhận cho ra
mặt hắn, sau đó bám sát hang ổ của bọ chúng. Theo tôi đồng chí cần
đi xa một chút.
Lê Hoài Nam đứng bật dậy:
- Hình như thủ trưởng muốn tôi vào Đông Hà?
Trưởng phòng hình sự lặng lẽ gật đầu. Anh không quen dùng những lời
khen nhạt nhẽo đối với cấp dưới. Nhưng ánh mắt anh lộ vẻ xúc động
trước sự thông minh sắc bén của người chiến sĩ trinh sát từng nổi
tiếng trong các vụ phá án.
Lê Hòai Nam lại ngồi xuống. Hai tay anh nắm lại đập đập lên giữa
trán. Đấy là tác phong thường thấy mỗi lần anh tự lập phương án tác
chiến trong đầu.
Hai ngày sau, Hoài Nam đã có mặt ở Công an thị xã Đông Hà. Nghe anh
trình bày yêu cầu phá án của công an Nghệ Tĩnh, đồng chí Trưởng công
an thị xã đã cho mời toàn bộ đội hình sự đến họp.
Theo yêu cầu của Hoài Nam, đội hình sự đã nhiệt tình cung cấp tất cả
hồ sơ còn lưu trữ được về những tên lưu manh khét tiếng ở địa bàn
này. Không có một đứa nào tên là Lưỡng. Cũng chẳng có biệt danh nào
là Thái đen. Tuy vậy, có một hồ sơ làm cho Hoài Nam chú ý.
- Này, cái thằng Đệ nhị mải võ này là thế nào nhỉ?
Đội trưởng hình sự lắc lắc đầu:
- Những đứa chúng tôi đã bắt cải tạo không có ai là Đệ nhị mải võ.
Chúng tôi chẳng biết gì hơn ngoài mấy trang viết rất sơ sài của Quân
cảnh sát ngụy để lại. Nó là thằng học trò đứng ngôi thứ nhì của tên
bán thuốc Sơn Nam. Ngoài biệt danh Đệ nhị mải võ ra, hắn còn có tên
là Trương đại ca. Căn cứ vào lối xưng hô lố lăng của bọn cướp trước
đây, ta có thể đoán hắn họ Trương. Nhưng từ sau ngày Đông Hà giải
phóng đến nay, thằng này biệt tăm mất tích. Không chừng nó chết rồi
cũng nên.
Lê Hòai Nam tỏ vẻ không thỏa mãn lắm với kết luận của đội trưởng
hình sự. Anh lầm rầm như nói một mình.
- Có thiệt là hắn chết rồi không?
- Nếu không chết thì sao không gây án?
- Nhưng nếu nó gây án dưới một tên mới?
Đội trưởng hình sự phì cười:
- Cũng có thể. Tuy vậy chẳng có bằng cứ gì...
Lê Hoài Nam khẽ thở dài. Rõ ràng anh cũng có phần đuối lý.
- Tất nhiên là chưa thể kết luận được gì cả. Có điều cái thằng Thái
Lưỡng chỗ tôi có những miếng võ lạ lắm. Chẳng hiểu sao hắn là họ
Thái?
Đội trưởng hình sự chợt nhớ ra điều gì, anh vỗ mạnh xuống mặt bàn:
- À, hay để tôi gọi đồng chí Khánh Hòa về gặp anh nghe.
Lê Hoài Nam ngẩng nhanh dậy:
- Khánh Hòa là ai?
- Một trinh sát của chúng tôi nằm vùng dưới địa bàn... Có một lần cô
ta trao đổi với tôi một giả thiết. Giả thiết ấy rất vu vơ về chuyện
họ Trương của tên Đệ nhị mải võ. Nhưng dầu sao đồng chí cũng nên
nghe.
Hoài Nam mong manh hy vọng:
- Tốt. Xin cho được nghe điều vu vơ kia ngay đi! Đội trưởng hình sự
mỉm cười một cách ưu ái:
- Cứ bình tĩnh đã nào. Ngày mai cô ấy mới có mặt ở đây được.
Chẳng còn cách nào khác, Hòai Nam đành phải đợi. Suốt chiều hôm đó
anh lang thang ở chợ Đông Hà. Chẳng có gì giúp cho đầu óc anh thảnh
thơi. Mấy cái tên quái đản trong tập hồ sơ do bọn ngụy để lại cứ lởn
vởn trong óc Nam. “Hậu lác – đảng trưởng Hận đời”, “Phùng Thế Quản –
tức Quảng nhọ - đảng trưởng Đào lưu”. “Mãng xà”, không rõ tên thật –
Đảng trưởng Mãng xà... không hiểu sao ở đất này lại để ra lắm cái
tên nghe nửa người, nửa quỉ như thế?
Khánh Hòa hơi rùng mình khi nghe Lê Hoài Nam mô tả lại dáng vẻ bên
ngoài của tên tướng cướp Thái Lưỡng. Cái điều cô không dám tin bấy
lâu nay bỗng lù lù hiện ra. Lẽ nào lại khủng khiếp đến như vậy? cô
nói, mắt không dám nhìn thẳng vào người đồng nghiệp, giọng như lạc
hẳn đi:
- Có thể... có thể... Người tôi quen trước đây, học võ với Sơn Nam.
Nhưng chính anh ta đã kể với tôi về một tên Đệ nhị khác... Anh ta
cũng nói rằng, có lần đã tự xưng Đệ nhị mải võ để dọa bọn cướp. Đó
là lần kẻ cướp xông vào nhà tôi. Mẹ tôi kể rằng chính anh ấy đã đánh
gục bọn cướp, tự xưng là Trương Sỏi, cháu ruột bố tôi. Sau này ở
Đông Hà có nổi lên một tên cướp là Trương đại ca, Đệ nhị mải võ...
Chuyện đó cách đây bảy tám năm rồi.
Lê Hòai Nam lắng nghe từng chi tiết một. Hai tay anh nắm lại gõ gõ
lên đầu. Một hồi lâu anh nói bằng giọng tự tin:
- Có thể là người cô quen không phải là Đệ nhị. Có một tên cướp Đệ
nhị thật và người quen của cô đã mượn tên ấy để dọa bọn cướp. Giả
thiết này có một chỗ vô lý. Tại sao tên Đệ nhị thật lại có thể trùng
họ với cô? Và nếu người cô quen không biết gì về bọn cướp lại dám tự
xưng là Đệ nhị, nếu lỡ ra bọn cướp kia là tay chân của Đệ nhị thì
sao?
Lê Hoài Nam ngừng lại nheo mắt nhìn Khánh Hòa:
- Bây giờ thử nói đến giả thiết thứ hai. Người cô quen chính là Đệ
nhị. Còn cái tên Trương Sỏi chính là sự bột phát hắn nghĩ ra lúc ở
gia đình cô. Sau đó bọn cướp tôn hắn lên thành Trương đại ca. Rồi
đến khi gặp lại cô, có thể hắn đoán rằng cô đã nghe kể về tên cướp
ấy và bà mẹ cũng đã kể với cô về lần anh tự xưng danh trước gia
đình, cho nên hắn đã chủ động bịa ra câu chuyện trên...
KHánh Hòa khẽ nhắm mắt lại. Cái đáp số đã hiện dần ra chập chờn, ám
ảnh. Nhưng cô không thể nào trả lời được.
- Tôi cho rằng... Ta có thể tìm gặp tên Sơn Nam mải võ...
- Nhưng đã lâu có nghe tung tích gì bọn này đâu. Có thể chúng nó
giải nghệ.
- Tôi vẫn nhớ mặt thằng ấy. Nếu cất công tìm biết đâu...
- Ồ, Hòai Nam lắc lắc đầu, tự nhiên lại quàng thêm một ẩn số nữa...
Nếu đã chịu khó đi nhận mặt thì tốt nhất tìm luôn tên Đệ nhị có hơn
không?
Khánh Hòa nhíu mày nhìn Lê Hoài Nam:
- Nhưng nếu thằng đó không phải là người tôi quen mặt thì sao?
- Thì phương án của tôi coi như thất bại. Còn cô lại thành công. Bởi
sua cú nhận mặt ấy cô sẽ hoàn toàn yên tâm. Chuyện đó chẳng có gì
ngạc nhiên. Tôi đã gặp hắn một lần, bị hắn đá cho một cú tưởng lìa
cả cổ tay đây này.
Anh ngừng lại, hai nắm tay chống lên trán, đầu hơi cúi xuống:
- Tôi đã thất bại một lần. Tôi có thể thất bại lần thứ hai, thứ ba,
thậm chí thứ tư nữa. Mà biết đâu tôi sẽ bỏ mạng vì hắn. Nhưng chắc
chắn chúng ta sẽ chiến thắng. Thằng này và những kẻ như hắn chỉ có
thể lăng loàn với bọn cảnh sát ngụy chứ làm sao trụ nổi với cuộc
sống hôm nay.
Hoài Nam ngẩng thẳng mặt nhìn Khánh Hòa. Rõ ràng anh đọc được khá
rành rọt tâm trạng người bạn đồng nghiệp mới quen biết. Nam đứng dậy
cho tay vào túi quần, cả khuôn người thon thả của anh như muốn vươn
cao hơn nữa:
- Chúng mình sẽ thắng nó vì không ai trong chúng mình vương vấn chút
riêng tư gì, kể cả hy sinh tính mạng trước kẻ thù của nhân dân, phải
thế không bạn?
Hoài Nam đột ngột đổi cách xưng hô. Khánh Hòa giật mình. Cô tự hỏi,
người bạn đồng nghiệp vừa giảng giải cái bài chính trị kia với mình
đề làm gì. Hay là anh ta đã đọc được tâm trạng mình? Thế thì đáng sợ
quá. Trách gì đội trưởng sáng nay đã giới thiệu riêng với cô: “Này,
cô sẽ gặp một Gia Cát Lượng ở ngoài Nghệ Tĩnh vào đấy. Tranh thủ
trao đổi, học tập thêm kinh nghiệm nghe”.
Khánh Hòa vuốt nhẹ mái tóc. Lê Hòai Nam không bỏ sót một chi tiết
nào. Anh thầm nghĩ, con gái dù là chiến sĩ công an chăng nữa vẫn có
cái nét duyên dáng riêng của họ. Khánh Hòa trước hết là một cô gái
thực duyên dáng.
- Em hiểu ý anh rồi... Em sẽ đề nghị với đơn vị để được ra ngoài ấy
một chuyến. Dù sao – Giọng cô chợt nhỏ lại – đó cũng là điều rủi ro
cho em.
Lê Hòai Nam khẽ chớp mắt. Anh nhìn Khánh Hòa bằng ánh mắt vừa cảm
mến vừa biết ơn.
- Nếu đơn vị đồng ý thì tuyệt quá. Ngày mai ta sẽ đón xe ra luôn.
Khánh Hòa có vẻ lưỡng lự:
- Theo em, ta nên đi tàu một chuyến. Mà nên đi tàu chợ. Anh có ngại
không?
- Không. Nhưng như thế để làm gì?
- Không biết nữa. Nhưng em cứ nghĩ là... biết đâu trên tàu sẽ có
điều gì đó bổ ích cho ta.
Đề nghị của Khánh Hòa được chấp nhận. Trước lúc chia tay, Lê Hoài
Nam đã nắm rất chặt tay đội trưởng hình sự lắc lắc:
- Các ông có một nữ trinh sát cực kỳ thông minh đấy!
Ở sát góc trong cùng của một toa hành khách có một người đàn bà và
một gã đàn ông ngồi sát nhau, cùng choàng chung tấm vải dù. Gió lạnh
lùa qua cửa, thổi thông thống vào giữa toa khiến hành khách ai cũng
co ro cúm dúm. Người đàn bà vừa nói trên có khuôn mặt bầu bầu, da
hơi sạm, khổ người to lớn nhưng rắn rỏi. Quầng mắt ả xám lại vẻ mệt
mỏi, nhưng thỉnh thoảng từ trong hố mắt ấy quét chéo những tia nhìn
rất ma mãnh vào những người đi lại trên toa. Gã đàn ông trông có vẻ
hốc hác hơn, chiếc cằm nhọn thòi xuống và hơi chìa ra trước khiến
khuôn mặt hắn gần giống chiếc bay thợ nề. Hắn đội chiếc mũ có mũi
nhọn che gần khuất nửa mặt. Cả hai trông có vẻ như cặp bạn buôn, già
nhân ngãi non vợ chồng.
Qua khỏi ga Thuận lý thì trời sáng. Trong toa nhiều người đã tỉnh
dậy. Một số vẫn còn đè lên nhau ngủ. Gã đàn ông cằm nhọn ngoẹo đầu
vào vai ả đàn bà, bọt mép sùi ra. Dáng ngủ của hắn gần giống một xác
chết vì treo cổ.
Đột ngột ả đàn bà đặt tay lên đùi gã đàn ông véo mạnh. Gã cằm nhọn
choàng dậy hớt hải. Ả đàn bà ghé sát vào tai hắn thì thào:
- Coi kìa!... Ở góc đằng ấy có một cặp... thấy chưa?
Gã đàn ông nhìn lơ láo:
- Ừ, mà sao?
- Chú Quản không thấy con bé ấy bao giờ à?
Gã cằm nhọn nhếch nhếch hàng ria mép:
- Đàn bà thì nhớ sao xuể...
Ả đàn bà bỗng hừ một tiếng, răng nghiến lại.
- Con bé kia... đã một thời cặp bồ với Đệ nhị....
- Hả?
- Tôi biét cả nhà nó. Bữa ni hắn làm “mo” đấy.
Gã nhọn cằm kéo chiếc mũ sập xuống, giọng lầu bầu:
- Mặc mạ nó chớ.
Cả hai cùng im lặng. Một lúc sau người đàn bà lại thì thào:
- Con ấy là “mo” thị xã. Hắn ra ngoài ni làm chi hè?
- Chậc, thiếu đếch gì việc. Thăm bồ chẳng hạn...
Đột ngột ả đàn bà nắm chặt tay gã đàn ông:
- Này, tin đồn về Thái đại ca có đáng tin không?
Gã đàn ông xoay hẳn người lại:
- Ba thằng về kể với tôi rằng chính mắt chúng nó trông thấy. Mà chị
thử nghĩ xem, nếu không phải Đệ nhị thì còn ai võ nghệ cao cường đến
vậy.
Người đàn bà bỗng hự lên một tiếng, rồi bất ngờ chửi đổng:
- Đ.mạ hắn chớ. Đồ vô hâu!
Gã đàn ông ngơ ngác:
- Ai?
- Thằng Đệ nhị chứ ai. Hắn đã bỏ mặc anh em mình trốn mất mặt. Trong
lúc bị bắt cải tạo, tôi đã cắn răng chịu đựng không khai một tý gì
về nó. Không ngờ trong lúc ấy hắn lại ung dung hưởng sung sướng một
mình.
Gã nhòn cằm cúi thấp đầu xuống, rên rỉ:
- Dù sao... hai đứa mình cũng may mắn trốn thoát được. Còn bao nhiêu
anh em nữa giờ này phải còng lưng lao động trên cái trại cải tạo
khốn nạn ấy. Lần này gặp Đệ nhị...
- Xuỵt! – Người đàn bà vờ úp mặt xuống tấm vải dù. Giọng hắn nhỏ hẳn
lại – Không chắc đã yên đâu. Tôi hơi nghi ngờ con bé kia...
- Làm sao?
- Tiếng tăm Thái Lưỡng đại ca đã đến tận tai những người như chú, lẽ
nào bọn “mo” trong này lại không nghe?
- Nhưng... chẳng lẽ con bé kia lại là địch thủ của Đệ nhị?
- Ít ra nó cũng có thể nhận được mặt.
Đến lúc này gã đàn ông mới thật sự hiểu ra nỗi bận tâm của ả đàn bà.
Hắn bỗng thấy ớn sợ:
- Nếu thế... ta có nên... ra chỗ đại ca nữa không?
Giọng người đàn bà rít lại:
- Hèn thế Quản nhọn! Những lúc như thế này phải biết cứu nhau chứ.
Cần báo ngay cho Đệ nhị biết để đối phó. Cần nhớ mặt con bé kia, nhớ
cả mặt thằng đàn ông bên cạnh đó nữa. “Mo” cả đấy.
- Nhưng...
- Không nhưng chi hết. Luật giang hồ không dung thứ những kẻ phản
bội. Chú nên nhớ, chưa ai tuyên bố giải tán trại Mũ đen cả. Đệ nhị
vẫn còn, tôi vẫn còn. Chú phải nhớ bổn phận mình...
(*) Tiếng lóng bọn cướp chỉ công an.
Anh đến gieo hạt nhớ
Nơi cây tôi nảy mầm
Mưa giữa mùa đến muộn
Khoảng trống này... mênh mông
Giang Huong Blog
nutacxinhxan
Xem hồ sơ
Gởi tin nhắn tới nutacxinhxan
Visit nutacxinhxan's homepage!
Tìm bài gởi bởi nutacxinhxan
(#8)
nutacxinhxan
Kẻ lữ hành cô độc Bài gởi: 3,365
Gia nhập: Sep 2006
Trả lời: Người không mang họ - Xuân Đức - 10-07-2007, 08:15 AM
Chương 7
1
Hai thằng cùng sau nằm vắt vẻo lên nhau. Một thằng khóc hu hu, một
thằng cười sằng sặc. Thà một cô gái hoặc một kẻ gầy guộc, ốm yếu mà
khóc thì còn có thể chịu được, đằng này Tấn xồm là một kẻ lực lưỡng,
hai vai bành ra như chiếc bừa hai răng, cặp mắt màu đồng thau lồi
như hai con ốc dính vào mặt, bộ râu quai nón luộm thuộm bò khắp cổ,
cằm và má. Mặt nó gợi cho người ta nghĩ đến một tấm ruộng bỏ hoang
lâu ngày đầy cỏ rác và chua mặn. Thế mà nó lại còn khóc, khóc thảm
thiết như vừa chết vợ, thử hỏi có ai chịu được. Còn thằng Vu mèo
trắng thì cười, cười nhạt nhẽo như miếng bánh đúc rệu ra giữa trời
mưa. Cái mặt bủng của nó cứ bợt ra, xanh xám, tóc cong queo như ổ
quạ, răng đỏ quạch như màu nước dưa ủng. Nó cười chán rồi lại hát.
Giọng khản và run rẩy. Mắt cứ khép lim dim. Thỉnh thoảng câu hát lại
nấc lên như bị mắc nghẹn. “Mưa ơi... mưa triền miên trên đồi, hức...
cho lòng ta thương nhớ khôn nguôi...”.
Thái Lưỡng – từ nay lại xin cảm phiền mọi người làm quen với cái tên
mới này của hắn – ngồi gục đầu vào mép bàn, hai tay run rẩy, quờ
quạng như kẻ mù lòa tìm chiếc kim khâu trên đống rác. Khói thuốc
phiện chưa tan hết trong đầu hắn. Cái mùi khăm khắm từ bàn đèn và
cần hút xông lên khiến hắn muốn lộn mửa. Nhưng không mửa được. Chẳng
có cái gì để mửa, kể cả nỗi buồn. Đầu hắn trống rỗng một cách kỳ lạ.
Hắn như bay, như chim, lại như trôi...
Từ ngày ra nhập hội với bọn Ngũ hổ, Thái Lưỡng đã sống trong những
cơn điên dại nhưng trống rỗng của khói thuốc phiện. Không còn những
phút hằn học, những cơn căm giận, những lúc đắc chí, giờ đây hắn
hành động như một kẻ mất trí, một con thú vật. Cuộc sống của hắn
mang dấu hiệu của sự tàn tạ đi đến tắt thở. Hắn không bận tâm đến
ngày giờ, không dằn vặt chút nào trước tội lỗi. Hắn chỉ còn sự tỉnh
táo duy nhất là giấu bặt lai lịch và tránh khỏi ánh sáng ban ngày.
Hắn thật sự trở thành con quỷ đêm ở Thành Vinh.
Nhóm Ngũ hổ từ ngày có thêm Thái Lưỡng đã thành “Lục hổ”. Mộc sún,
Vượng răng vàng và Lãi xoắn cai trị một nhóm, chiếm lĩnh địa bàn từ
rạp chiếu bóng 12 – 9 ra bến xe, bến tàu hỏa. Thái Lưỡng, Vu mèo
trắng và Tấn xồm hoành hành vùng Bến Thủy, chợ vinh lên cầu Đước,
cầu Miếu.
Vu mèo trắng không có tài cán về mặt võ nghệ nhưng lại rất lanh lợi
xảo quyệt trong các động tác móc túi! Tấn xồm thì ngược lại, là thứ
“hữu dũng vô mưu”, chỉ biết đào ngạch đục tường và nếu bí đường thì
đâm bừa những nhát dao rồi bỏ chạy.
Thái Lưỡng mặc dầu được cả bọn tôn thờ làm đại ca nhưng khác với
trước đây, hắn không thiết chỉ huy ai, không cần ai cung phụng. Suốt
ngày ngập mình trên bàn đèn thuốc phiện, tối đến hắn cứ một mình lùi
lũi ra đường. Tự làm ăn. Khi nào gặp được món to, hắn quẳng cho lũ
đàn em một ít. Không một đứa nào trong đám tay chân được biết mặt
hắn, trừ Ngũ hổ. Căn nhà chứa chấp bọn đầu đảng này là một sào huyệt
bị mật cả đối với bọn đàn em. Chủ nhà tên là Cật, có tật nói ngọng
nên gọi là Cật ngọng. Trước đây Cật ngọng cũng là công nhân nhà
nước. Hắn nghỉ mất sức đã ba năm nay và trở thành ổ chứa hàng bất
hợp pháp. Cũng có đôi lần, thấy bọn đàn em làm ăn quá lộ liễu và ngờ
nghệch, Thái Lưỡng buộc phải viết một “sắc lệnh” bắt Vu mèo trắng
đưa cho một nhóm nào đó. Ví dụ: “Tao cấm chúng mày lởn vởn đến chỗ
cửa hàng bách hóa trong ba ngày...” hoặc “Thằng Thọ rỗ đã bị bắt,
đứa nào quen mặt hắn thì nhanh chóng tản đi”. Dưới các mệnh lệnh ấy
hắn ký lung tung. Có khi là “Thái đại ca Hổ xám”, có lúc lại là
“Trưởng đảng Lục hổ Beo vằn”. Vân vân... Thế nên trong đám bụi đời ở
Vinh xuất hiện một loạt các tên dữ tợn àm thực chất chỉ có một
người. Con người ấy không những làm cho dân lành nơm nớp lo âu mà
đến bọn lâu la một hội một phường cũng chập chờn sợ hãi.
Đêm nay, không hiểu trời xui đất khiến thế nào mà Thái Lưỡng lại
không lần ra hướng cầu Đước như mọi bận. Hắn đút tay vào túi quần,
đầu cúi thấp, lùi lũi đi dọc theo đường Quang Trung ra bến ô tô.
Trong đầu hắn chợt nảy ra một ý muốn thử xem chúng nó có tôn thờ
mình thật không? Hắn viết sẵn một mệnh lệnh bỏ trong túi áo. Hắn tự
nghĩ ra trong đầu một kiểu trừng trị nếu phát hiện được thằng nào
dám coi thường lệnh hắn.
Thái Lưỡng nhảy lên xe ngựa, chờ cho xe ra quá bến ô tô một đoạn hắn
nhảy xuống. Hắn đi thẳng vào lum tre bên kia đường giả vờ tiểu tiện
để xem xem có ai theo dõi hắn không. Rồi quay ngoắt trở lại, hắn
biến nhanh vào trong bến xe.
Chỉ cần chen chân một lúc vào giữa đám hành khách nằm ngổn ngang
trong nhà đợi, Thái Lưỡng đã phát hiện ra hai tên móc túi lởn vởn
trước mặt. Thái Lưỡng cau mày lại. Nguyên việc dễ dàng nhận ra chúng
nó đã làm cho vị đại ca khó chịu. Bọn này làm ăn ngu ngơ hết chỗ
nói. Thái Lưỡng bước lại gần, rút ra một điếu thuốc, giả giọng miền
Bắc:
- Ông anh có lửa không cho châm nhờ tí?
Hai tên lưu manh giật mình đứng sững ra một lúc. Một tên nghiêng
người qua thì thầm:
- May quá, còn đúng một que diêm.
- Cám ơn. Tôi cũng chỉ còn đúng một điếu thuốc nên không mời hai
anh...
Đó là những lời nói lóng được quy định trước. Thái Lưỡng châm lửa
xong đi thẳng ra sân. Hai tên kia bám theo. Đến một chỗ vắng phái
ngoài cổng, cả ba dừng lại.
- Thái đại ca có lệnh...
Nói rồi hắn đưa mảnh giấy cho một tên. Que diêm được quệt lên, hai
tên chụm đầu như thắp thuốc. Trong giấy ghi: “Hãy rời khỏi bến xe
ngay đêm nay”.
- Có chuyện chi hè?
- Không biết. Chắc là bọn “mo” đang săn...
Thằng cầm giấy bỗng xoay hẳn người lại:
- Mày trông thấy Thái đại ca rồi à?
Thái Lưỡng gật đầu.
- Người thế nào?
- To con, tóc xoăn, lưng hơi gù.
- Chắc mặt đen lắm phải không?
- Ừ.
- Nghe nói đại có có thuật tàng hình đúng không?
- Tao cũng chỉ nghe nói thế thôi...
Hai tên lưu manh chép miệng như nuối tiếc một điều gì đó. Rồi cũng
chẳng nói chẳng rằng, cả hai cúi đầu đi nhanh về phía nàh ga.
Thái Lưỡng cảm thấy vui thích. Hắn nhìn theo hai tên đàn em cho tới
khi bóng chúng chìm hẳn vào màn đêm mới quay trở vào bến xe. Hắn đi
một vòng cố để mắt xem có ai theo bóng hắn không, rồi chui tọt vào
một quán trà. Hắn gọi một ấm trà đặc, một điếu thuốc và uống nước
một mình.
Mặc dầu cáo già như vậy, ahứn vẫn không lọt qua được hai cặp mắt đã
phát hiện ra hắn từ lúc xin diêm ở nàh đợi rồi sau đó cùng hai tên
lưu manh chụm đầu ở ngoài cổng. Hai cặp mắt bám riết theo hắn. Bây
giờ, một trong hai người bí mật ấy ngồi lại, thu mình trong bóng tối
của thềm nhà đợi để quan sát, còn người đàn bà thì lễ mễ xách chiếc
túi như một hành khách đi nghỉ phép, lẹ làng vòng qua quán nước lách
người vào đằng sau Thái Lưỡng rồi bất ngờ ngồi sát xuống bên hắn.
- Chị cho em xin cốc nước chanh!
Thái Lưỡng giật bắn mình nhưng hắn không vội vã quay lại. Hắn vờ áp
chén nước nóng lên trán, đẩy mắt nhìn lén qua người đàn bà vừa nói.
Suýt nữa Thái Lưỡng kêu lên. Mọt nỗi hoảng hốt cuộn dậy bồn chồn
trong ngực hắn. Thái Lưỡng cắn cắn vành môi, cố bình tĩnh để xét
đoán tình hình. Rồi lặng lẽ móc túi lấy tiền trả cho nhà hàng, Thái
Lưỡng định tìm cách chuồn.
Một giọng nói phả sát vào tai hắn:
- Trương đại ca không nhận ra em sao?
Bắt buộc Thái Lưỡng phải đưa chén nước lên che miệng, nói lúng búng:
- Tôi biết rồi... Đi theo tôi...
Thái Lưỡng trả tiền xong đứng dậy đi ra. Nửa phút sau, người đàn bà
uống nước chanh kia cũng trả tiền rời quán. Trong bóng tối của thềm
nhà đợi, gã đàn ông cũng đứng lên. Mỗi đứa đi cách nhau khoảng chục
bước chân. Ra đến đường Một, Thái Lưỡng dừng lại có vẻ đắn đo một
chút rồi rẽ về đường Quang Trung. Kinh nghiệm cho thấy không nên lởn
vởn trong bóng tối trừ những lúc cần hành động. Cứ đi ra chỗ sáng
sủa lại ít bị theo dõi hơn.
Thái Lưỡng dừng lại chờ, người đàn bà đã tiến kịp. Lưỡng khẽ nheo
mắt về phía sau hỏi:
- Thằng nào đang theo rứa?
- Quản nhọn đó.
Gò má Thái Lưỡng giật giật. Có thể hắn cảm động, mà cũng có thể là
bực bội, Quản nhọn tiến nhanh đến, giọng lắp bắp:
- Đại... đại ca... bình bình yên... chớ?
- Suỵt, khẽ thôi. Chú mày sống ra sao?
- Dạ gần... ch...ết!
- Cho điếu thuốc đây. Sẽ tâm sự sau. Chừ chú phải đi cách ta hai
chục bước nghe!
- Dạ...
Thái Lưỡng quay người lại khoác tay Kim Chi, hai đứa bước thẳng về
phía đường Quang Trung. Trông họ như một cặp tình nhân nhà rỗi.
- Ở đâu tới đây?
- Tụi em ở Đông Hà ra.
- Bấy lâu vẫn ở đó à?
- Hừ, ông anh có biết gì đâu. Bọn này bị bắt đi cải tạo... cực vô
cùng.
- Những ai bị bắt?
- Tất cả, trừ anh – Kim Chi bỗng sụt sùi – Cực lắm anh nờ. Suốt ngày
phải cuốc đất trồng sắn, vãi lúa... Rồi còn đọc báo, tự kiểm điểm...
- Thế làm sao lại ra được?
- Em và Quản nhọn trốn. Bọn kia mắc kẹt hết.
- Người ta có dò hỏi về tôi không?
- Có. Nhưng không một đứa nào khai. Tất nhiên... là có khai trước
đây cùng ở với nhau, rồi sau biến “bảy hai” thì không còn gặp nhau
nữa...
Thái Lưỡng chợt dừng lại.
- Nhưng tại sao Kim chi lại ra đây?
- Tụi em nghe đồn đại ca ở đây, cho nên...
- Ai đồn?
- Xì, mồm thiên hạ chứ còn ai.
- Nhưng bữa ni tôi là...
- Biết rồi, là Thái đại ca Beo vằn, Hổ xám gì đó... Nhưng tụi này
biết thừa.
Thái Lưỡng khẽ cau mày:
- Thế định ra đây có việc gì?
Kim Chi nín lặng. Một sự căm giận ói lên. À ra thế! Hắn chẳng tỏ ra
một chút mừng rỡ nào, hắn cố tình dứt bỏ hết quá khứ, định phủi sạch
tay với nhau chăng?
Con rắn độc bất ngờ cười khẩy:
- Định không ra. Nhưng biết ông anh đang bị đe dọa nên cũng lo
lắng...
- Tôi bị đe dọa?
- Hừ, chắc ông anh yên trí với cái vỏ bọc Thái cứt ỉa gì đó lắm hí?
Ngây thơ lắm... Bọn Mo đã lập xong hồ sơ rồi đó.
Thái Lưỡng trìa môi ra tỏ vẻ coi thường.
- Lập thì lập, sợ đếch gì.
- Đừng nói dóc, cha nội. Thử hỏi đêm nay nếu con này mà là mo thì có
phải ông anh đã bị gô rồi không?
- Không thể thế được.Tại vì cô biết mặt tôi còn bọn mo...
- Bọn mo cũng biết.
- Dóc.
- Có một người đang săn ông anh để nhận mặt đấy.
- Ai?
- Người tình cũ của anh, nàng K.H.
Thái Lưỡng xoay hẳn người lại nhưng Kim chi đã ghì mạnh cánh tay hắn
vào ngực rồi rảo bước nhanh hơn.
- Chính vì việc ấy mà bọn này phải tất bật ra đây. Tôi và Quản nhọn
cùng đi một tàu, ngồi một toa với K.H. Cùng đi trên tàu với con bé
ấy có một thằng rất đẹp trai, dĩ nhiên là hấp dẫn ăn đứt ông anh của
tôi rồi. Hai đứa ôm nhau ngồi ở một góc toa. Tất nhiên việc đó ông
anh có tức tối đến nổ ruột cũng chẳng làm gì. Điều quan trọng là
thằng ấy cũng là mo. Tôi vừa gặp hắn với K.H, sáng nay dưới chợ.
Có một trạng thái rất khó gọi tên và cũng cực kỳ rối rắm đang sùng
sục chuyển động trong tâm khảm Thái Lưỡng. Nỗi sợ hãi, lòng căm uất,
lại có cả chút xao xuyến nữa. A, Khánh Hòa, em săn ta ư? Em giết ta
ư? Thái Lưỡng bỗng bật cười. Rồi đột ngột câm bặt. Hắn nghiến chặt
răng lại, giật tay khỏi vòng tay Kim Chi. Hắn nhổ toẹt một bãi nước
bọt xuống đường, rồi bất giác chửi đổng:
- Đ.mạ đời!
Một cuộc “đại hội” bất thường của bọ đầu đảng được triệu tập. Cật
ngọng được giao nhiệm vụ ngồi ở cửa nhà trước cảnh giới. Dưới ngọn
đèn dầu lờ mờ của sân nhà bếp phía sau, tám khuôn mặt hốc hác, xương
xẩu và dữ tợn quây thành một vòng tròn. Một chai rượu trắng, một
đống lạc rang, tám chiếc chén. Thái Lưỡng cầm chén lên trước, vừa
nói hắn vừa đưa mắt thăm dò thái độ từng đứa:
- Thưa tất cả anh em!... Hôm nay tôi mời các anh hùng của Lục hổ lại
để xin được giới thiệu với anh em hai vị hảo hán mới. Đây là những
chiến hữu tin cậy đã từng sống chết với tôi trước đây. Cô này là
Tuyết Nhung, từng đứng đầu một đảng, anh này là Phượng Hòa, cũng là
một thủ lĩnh nổi tiếng. Giờ đây nghe danh anh em mình lừng lẫy ở
đây, nhị vị hảo hán này đã băng đàng chỉ sá lặn lội ra xin tụ nghĩa.
Thực là bốn cõi một nhà. Chúng ta chẳng khác chi các anh hùng Lương
Sơn Bạc...
Trên các khuôn mặt của Ngũ hổ không hề lộ chút vui sướng nào. Trong
thâm tâm đứa nào cũng cảm thấy miếng ăn của chúng đang bị chặn bớt.
Cái thằng Thái đen này đang âm mưu kéo bè kéo cánh. Rồi tí lâu nữa,
hắn lại kéo thêm vài đứa nữa, “Lục hổ” thành “Bát hổ” rồi “Thập
hổ”... Đến lúc đó chắc chắn bọn đó sẽ trở mặt.
Vu mèo trắng nhấp một tí rượu, giọng lè nhè:
- Nhớ ngày Thái đại ca mới về đây, bơ vơ không nơi nương tựa. Anh em
Ngũ hổ chúng tôi cảm nghĩa, phục tài mà nhường chỗ cho đại ca. Cũng
vì muốn đại ca có đất vẫy vùng mà một nửa trong chúng tôi phải chia
tay nhau, nhóm ra ngoài ga, nhóm về Bến Thủy. Vẫn biết đất lành thì
chim đâu, nhưng luật giang hồ xưa nay ở đâu có chủ đó, người này
sống thì kẻ khác chết. Nay nhị vị hảo hán đã có cả vùng đất Đông Hà
rộng lớn rồi, sao không ngồi trong đó làm chủ soái cho sướng đời lại
còn chen chân ra chỗ chật chội này làm chi cho khổ cả hai bên.
Cả bọn Ngũ hổ gật gật đầu tỏ vẻ đồng tình. Thái Lưỡng bắt đầu thấy
ngứa ngáy:
- Tôi nghĩ cái phận bụi đời như bọn ta, lấy nghĩa giang hồ làm
trọng. Càng những lúc hiểm nghèo nhất càng phải biết tựa vào nhau.
Nay ta đang bị bọn mo bủa lưới, chăng bẫy, mạng sống thoi thóp từng
ngày. Nhị vị đây là kẻ sa cơ mới cầu ta giúp đỡ. Chứ như trước đây,
cái thời còn cảnh sát ngụy, anh em chúng tôi như cá giữa biển, như
chim trên rừng, cần chi phải chen chúc.
Tấn xồm bỗng đặt mạnh chén rượu xuống, giọng hắn khê đặc như kẻ ngái
ngủ:
- Dóc tổ quá trời. Tôi đây từ khi dấn thân vào nghề này cũng đã từng
gặp dăm bảy anh em bụi đời của Đông Hà ra, chuyện trò với nhau cũng
nhiều mà chẳng nghe ai nhắc đến tên các vị cả. Phượng Hòa ư? Ô hô..
nghe như truyện cổ tích ấy. Lại còn Tuyết Nhung nữa, hình như ở một
đoàn văn công nào đó thì phải – Tấn xồm cười nhăn nhó – Nói xin lỗi
các vị, thời buổi này chó con cũng có thể tự xưng hổ báo. Rác tai
lắm rồi. Ở Đông Hà trước đây, chỉ có đàng Mãng xà, đảng Đào lưu,
đảng Hận đời. Rồi sau đó tất cả hợp chung lại trong một trại Mũ đen,
dưới quyền một đại ca kêu bằng Đệ nhị mải võ. Chính bản thân tôi,
trước ngày giải phóng Đông hà, tôi không hề có ham muốn làm cái việc
nguy hiểm này. Tôi bắt đầu vào nghề như thế nào các vị có hiểu
không? Đầu tiên là tôi ham mê mấy chiếc quần vải “tẹc” và áo mút từ
Đông hà ra bán ở Vinh. Tôi mua được một quần đem về mặc. Nhưng có
một thằng mua lại tôi với một giá rất cao. Tôi bán và được một món
tiền gần gấp đôi. Sau đó tôi lại hộc tốc lao ra vinh, giành nhau với
đmá con buôn mua được một bộ áo mút. Lại mang về quê bán. Thế rồi,
đồng tiền lãi đã giục giã tôi bỏ nhà mò vào tận Đông hà để mua cho
được hàng rẻ. Tôi làm được hai chuyến tương đối khá, đến cú thư ba
thì bị bọn bụi đời rạch túi lấy mất tiền. Tôi thù hằn Đông hà từ đó.
Tôi bơ vơ, không có tiền ăn, tiền trở ra nữa. Căm quá mà cũng bí
quá, tôi liều mạng xách một chiếc ba lô của một chú bộ đội... Hà,
con đường giang hồ của thằng Tấn này bắt đầu từ đó. Và cũng từ đó,
tôi có dịp làm quen với các “anh chị” trong ấy. Những cái tên Đệ nhị
mải võ, Kim nương Mãng xà, Quản nhọn, Hậu lác đã kích thích tôi.
Chẳng hiểu các vị đây đã có lần nào nghe tên những hảo hán ấy không?
Đương nhiên chừ thì họ tan tác cả rồi. Còn các vị đây, Phượng Hoàng
ư, Tuyết Nhung ư, chẳng hay các vị là hảo hán thời nào, bọn nhãi
nhép chúng tôi không được rõ?
Thái Lưỡng bật cười khanh khách:
- Chà chú Tấn cũng thông hiểu Đông Hà ghê gớm hè. Trách chi dạo nọ
dám cùng Mèo trắng xông pha vào đó, định sát phạt đảng Mũ đen chăng?
Nhưng thôi, trăm nghe không bằng một thấy, luật giang hồ ở đâu cũng
vậy, tôi đề nghị anh em Ngũ hổ bàn lại lần nữa xem có thể kết nạp
nhị vị hảo hán này không?
Mèo trắng hiu hiu mắt:
- Giả sử tụi tôi thấy sức mình không kham nổi, phận hèn không dám
kết thân với nhị vị hảo hán lừng danh này, thì đại ca tính sao?
Thái Lưỡng cười nửa mép:
- Nếu vậy thì Lưỡng tôi buộc phải xin chia tay anh em để được cùng
hai chiến hữu của mình chia bùi sẻ ngọt...
Đám Ngũ hổ bỗng ồn lên:
- Ồ, nghĩa là các người định lập hội riêng?
- Chúng mày định chiếm đất này hứ?
- Thực là nuôi ong tay áo...
Tấn xồm đứng phắt dậy, khạc khạc mấy tiếng rồi vung tay ra:
- Đã nói đến luạt thì cứ xin phải xử theo luật. Nhị vị hảo hán đã
xuất hiện ở đây thì chỉ có thể chọn một trong hai con đường. Hoặc
trở thành anh hùng Bát hổ, hoặc bỏ xác luôn đây. Tôi là kẻ kém tài
nhất trong Lục hổ cũng xin được tiếp kiến nhị vị.
Đã đến nước này thì không thể nhũn nhặn được nữa, Thái Lưỡng đưa mắt
cho Kim Chi. Người đàn bà có nước da xám ngắt áy bỗng xì ra một
tiếng cười rất hiểm độc. Ả uể oải đứng dậy. Cả bọn Ngũ hổ dán mắt
nhìn theo. Tấn xồm có vẻ như không muốn tỉ võ với con gái, hắn hất
đầu cho Quản nhọn:
- Ông anh là Phượng Hoàng mà không tiếp kiến thay cho bà chị được à?
Quản nhọn đứng bật dậy:
- Sẵn sàng!
Nói xong Quản xông vào ngay. Tấn xồm cúi thấp xuống húc thẳng đầu
vào, Quản nhọn nhảy sang một bên để tránh. Tấn lại húc, Quản lại
tránh. Nhìn cặp này đấu võ, người ta nghĩ ngay đến cặp gà chọi đã
xác xơ trong hiệp cuối, con nọ cứ rúc đầu vào cánh con kia. Thái
Lưỡng bật cười khùng khục.
Nhưng chỉ sau vài cú đấm, hắn biết ngay sự vụng dại của một kẻ to
xác nhưng bé đầu. Quản tránh liền mấy cứ làm cho cả con người to lớn
của Tấn gần như chảy mỡ trong mệt mỏi và tức giận. Lừa cho Tấn vào
đúng tầm tay, Quản bất ngờ phóng ra một cú móc. Đó là thế võ hắn học
được của Đệ nhị. Cả khuôn mặt rậm rịt râu của Tấn xồm như lệch hẳn
qua một bên. Hắn loạng choạng chực ngã. Lập tức có tiếng hét:
- Không được sát hại!
Vượng răng vàng vừa hét vừa nhảy phắt dậy. Vượng có dáng người cao,
hai tay dài như tay vượn. Hắn nhào thẳng vào Quản nhọn. Quản xoay
người lại định dùng tay trái đánh chéo một quả nhưng Vượng răng vàng
đã tránh được. Lối đánh của Vượng trông rất thong thả nhưng lợi hại
vô cùng. Bàn tay Vượng duỗi ra gạt chéo một phát trúng ngay vào thái
dương Quản. Quản lùi vội lại. Lập tức một cú đá thẳng băng lên bộ
hạ. Quản kịp né người nhưng vì chân Vượng quá dài nên Quản không sao
tránh kịp. Hắn đau xỉu người ngồi bệt xuống. Vượng nhảy bổ tới đá
bồi thêm một phát không thương tiếc vào mặt Quản nhọn. Nhưng ngay
lập tức, một cú đá khác phạt ngang vào giữa đường đá của Vượng khiến
chân hắn văng ra, cả người Vượng lảo đảo suýt ngã. Cú cản phá nhanh
đến mức cả bọn ngồi ngoài trừ Thái Lưỡng ra, không đứa nào kịp phát
hiện. Vượng xoay người lại, trố hai mắt nhìn kẻ vừa đá mình. Hóa ra
đó là con đàn bà có cái tên như ca sĩ: Tuyết Nhung. Vượng đỏ bừng cả
mặt. Sự sĩ diện khiến hắn không kịp đắn đo gì nữa, lao bừa đến. Hai
cánh tay dài như tay vượn phóng vun vút những quả đấm vào mặt Tuyết
Nhung. Nhưng ả đã khép hai tay lên, nghiêng đầu như làm duyên để
tránh. Cả bọn Ngũ hổ trợn tròn mắt lên vì kinh ngạc. Đột ngột Tuyết
Nhung co dúm người lại như một con mèo rồi “hực” một cái, cả tấm
thân đồ sộ cả ả tung lên, cả hai chân cùgn đá đánh “tách” một cái
sắc gọn như nhát kéo. Vượng răng vàng đổ xỉa xuống, quằn quại như
con bệnh sắp vỡ ruột thừa. Cả bọn Ngũ hổ cùng đứng dậy một lúc. Sự
nhục nhã làm cho chúng quên mất luật thi đấu. Cả Lãi xoăn, Vu mèo
trắng và Mộc sún đều xông vào. Chúng muốn ngay lập tức xé xác con
đàn bà kia ra để rửa mối nhục cho cả hội. Nhưng Tuyết Nhung vẫn trụ
vững hai chân, tay ả cứ gạt trái, gạt phải nhanh như diễn viên xiếc
làm trò tung hứng. Ba thằng đàn ông cáu tiết lăn xả vào. Tuyết Nhung
lùi dần lùi dần vào bậc cửa nhà bếp. Đột ngột ả chồm người ra,
nhoáng cái đã túm được tóc tên Lãi xoăn. Bằng một động tác ngoáy tay
như vặn nút chai, ả lẳng tên tóc quăn này văng chéo ra một góc. Vu
mèo trắng và Mộc sún hết hồn đứng trơ ra. Tuyết Nhung đưa tay lên
vén lại mớ tóc. Trong màu sáng vàng đục của ngọn đèn dầu, cặp amứt ả
vằn lên dữ tợn và bộ ngực dập dồn cuộn lên những hơi thở như sóng
xô. Biết chắc là địch thủ đã mệt, hai thằng đàn ông liều mạng xông
vào hòng gỡ lại sự nhục nhã. Mộc sún thấp người và ngắn tay. Trước
đây hắn đã từng đập vợ đến trụy thai rồi bỏ luôn nhà cửa mà đi. Hắn
không có chút thương tiếc, nương tay trước phụ nữ. Mộc chùng hẳn
người xuống, đầu chỉ ngang bụng Tuyết Nhung. Ở thế thấp này hắn vừa
tránh được những cú công của đối phương vừa có thể lựa thế đánh được
vào chỗ hiểm. Còn Vu mèo trắng, vốn không giỏi võ nghệ nhưng là một
tên lưu manh nổi tiếng về mưu mẹo đê tiện và bẩn thỉu. Hắn nhìn
chòng chọc vào tấm thân Tuyết Nhung và đầu hắn chợt lóe lên một mẹo
đánh. Mèo trắng đột ngột bổ sập người xuống đất, lăn ào đến sát chân
Tuyết Nhung. Trong lúc ả lo đối phó với Mộc sún và chưa co chân để
đá hất Vu ra thì hai tay thằng đàn ông dưới đất đã quờ lên kéo tụt
chiếc quần Tuyết Nhung xuống. Mèo trắng tính thầm rằng nhất định con
đàn bà này vì xấu hổ sẽ luống cuống chụp chiếc quần kéo lên. Đó là
thời cơ duy nhất để Mộc sún công thẳng vào chỗ hiểm yếu. Nhưng kẻ
đốn mạt và trơ trẽn ấy đã lầm to. Hắn không biết rằng, ả giang hồ
này lại là bậc thầy của hắn về bộ môn trơ trẽn. Tuyết Nhung giật
chân ra khỏi ống quần và đạp bừa lên mặt Vu mèo trắng. Rồi như để hả
cơn cuồng loạn trong người, ả giật bung cả hai vạt áo để lộ cả một
tấm thân vặn vẹo gồ ghề. Mộc sún ngẩn mặt ra nhìn. Đó chính là thời
điểm tự sát của thằng cướp hám gái. “Vút”. Một cú đánh như đá xán
đập thẳng vào con mắt đang trố ra của Mộc sún. Hắn ôm mặt lảo đảo
ngã ra. “Vèo”, một cú đá thẳng vào mạng bụng hắn. Mộc sún đổ sụp như
cây chuối bị phạt gốc.
- Thôi, được rồi đó... Tuyết Nhung ngừng tay!
Thái Lưỡng đã đứng lên. Ả đàn bà quay lại và làm bộ ngượng ngập
trước Lưỡng. Ả quờ tay tìm chiếc quần, vội vã mặc vào và lặng lẽ
ngồi xuống chiếu một cách ngoan ngoãn. Đám Ngũ hổ vẫn quằn quại rên
rỉ trong những cơn đau thể xác và sự khiếp đảm về tinh thần. Chúng
nó không thể tưởng tượng nổi võ nghệ của con đàn bà kia lại cao
cường đến thế. Mà cũng lạ, không hiểu sao những kẻ cao thủ như vậy
đứng trước Lưỡng lại ngoan ngoãn và lễ độ quá mức?
Hình như Thái Lưỡng đọc được ý nghĩ của bọn này, hắn lặng lẽ rót
rượu ra chén tự tay đưa đến cho từng đứa. Cả bọn đã ngồi dậy hết
lượt. Bây giờ Lưỡng mới nói chậm rãi:
- Cuộc thi tài này chẳng hay ho chút nào. Nhưng thôi, thế cũng tốt.
Đáng ra tôi không nên nói điều này, những trước chuyện đã lỡ đành
phải nói. Tất cả chúng ta hiện đang nằm trong thòng lọng bọn mo. Tôi
đã có nguy cơ bị lộ. Chính hai người này cất công từ Đông Hà ra đây
cốt để báo cho tôi điều đó. Đã đến nước này thiết tưởng không nên
giấu nhau điều gì, nói toạc ra để hiểu nhau, hiểu nhau rồi để vì
nhau mà sống chết...
Hắn ngừng lại một tí, cầm chén rượu đưa lênc ao, đỏa mắt một lượt
qua đám Ngũ hổ, đoạn ánh mắt hắn dừng lại chỗ Quản nhọn:
- Xin trân trọng giới thiệu với các anh hùng Ngũ hổ, người này thực
ra không phải là Phượng Hoàng mà tên là Phùng Thế Quản. Trời cho anh
ta cái cằm nhọn kia nên gọi là Quản nhọn, nguyên là đảng trưởng đảng
Đào lưu.
Cả mấy cặp mắt cùng một lúc đổ dồn về phía Quản. Lập tức Quản hếch
mũi lên khịt khịt liền mấy cái.
- Còn đây, một trang nữ kiệt lừng danh đất Đông hà, tên nàng là Kim
Chi, đảng trưởng đảng Mãng xà, về sau này lại trại phó trại Mũ đen.
Đám đàn ông ồ lên kinh ngạc, Vu mèo trắng há hốc miệng ra nửa như
cười, nửa như mếu. Kim Chi trìa chiếc môi dài và đáp lại, rồi ả quay
mặt sang Thái Lưỡng vẻ nũng nịu:
- Còn đại ca nữa, sao không tự giới thiệu luôn. Hay ho chi cái tên
Thái đen ấy mà giữ mãi. Thưa các vị, các vị đang ngồi trước một đấng
anh hùng đệ nhất vô song mà không hay biết. Đại ca tôi đây chính là
Trương Sỏi, Đệ nhị mải võ, cánh tay đắc lực của Băng chủ Sơn Nam và
là chủ soái của trại Mũ đen...
Một lô xích xông những danh hiệu được xướng lên nghe xủng xoảng như
xích sắt. Cả năm thằng trong nhóm Ngũ hổ gần như cùng một lúc lồm
cồm bò dậy, khom rạp mình xuống lạy như tế sao.
Trương Sỏi – bây giờ thì xin mọi người gọi trở lại tên cũ của hắn –
đặt chén rượu xuống, nói dằn từng tiếng:
- Chừ các người đã biết thật tên ta. Vậy có ai muốn cùng ta thi võ
để xác minh thực hư không?
Những cái đầu dập rối rít xuống đất, những bàn tay chấp lại vái
cuống quýt.
- Nếu không thì tất cả hãy ngồi thẳng dậy nghe ta nói đây. Từ hôm
nay ta tuyên bố khai trương trở lại đảng Mũ đen. Ta thâu nộp anh em
Ngũ hổ và đảng này. Ta là đảng trưởng, Kim chi là đệ nhất phó đảng.
Quản nhọn là đệ nhị phó đảng. Còn Ngũ hổ là năm tướng cận vệ. Đừng
kèn cựa vô ích. Biết điều thì tuân theo lệnh ta. Ai mang lòng phản
nghịch thì Sỏi này sẽ xuống chưởng nghiêm trị.
Cả bọn Ngũ hổ ngồi sững người. Cái điều chúng ngờ vực nay đã thành
sự thật. Trương Sỏi cũng đoán được phản ứng này, mắt hắn vằn lên dữ
tợn.
- Sao các anh im như thóc thế? Không chịu hí? Vậy thì cả năm anh hãy
cùng đấu với ta. Nào, ta chấp cả năm vị một lúc.
Nói rồi Trương Sỏi đứng bật dậy. Hắn quờ tay qua góc sân cầm lên một
viên gạch. Trương Sỏi cầm gạch bằng tay trái giơ cao rồi đập đánh
bốp vào cánh tay phải. Viên gạch gãy đôi. Hắn lại quờ tay phải cầm
lên một viên gạch khác đập bốp vào tay trái. Viên gạch cũng gãy. Tên
Vu mèo trắng mặt nhợt nhạt như kẻ chết đuối, mồm rít lại nói không
thành câu:
- Lạy... lạy Đệ nhị... Chúng em xin hầu... hầu hạ Đệ nhị cùng Kim
công nương...
Đêm đó cặp tình nhân đã quằn quại với nhau trong niềm say ngất
ngưởng của địa vị chủ soái vừa giành được và cũng là sự bù lại sau
bao năm xa cách thiếu thốn.
Nhưng sau giây phút hoan lạc đó, Trương Sỏi bỗng thấy rã rời sàn
tay. Hắn nằm bất động như một khúc gỗ mục. Nỗi chán chường ngán ngẩm
đã đục khoét, hủy hoại trí não hắn.
Sỏi không thể nào tự giải thích được vì sao hắn lại huênh hoang xưng
danh xưng tước với bọn này? Đã mấy năm nay, hắn cố tình chôn vùi
tiếng tăm cũ. Hắn đã sống như một kẻ mất hết ham muốn. Tại soa đêm
nay hắn lại bùng cháy cái ý chí bá chủ, cai trị kẻ khác đến thế? Cái
gì đã kích thích hắn, phải chăng là sự xuất hiện của Kim Chi?
Sỏi nằm rất lâu ở một tư thế rồi đột ngột ngồi vọt dậy. Kim Chi đã
ngủ như chết. Bất giác Sỏi thấy buồn nôn. Hắn lồm cồm bò dậy. Đám
Ngũ hổ cũng đã ngủ say. Chúng nó ngủ trong nhục nhã và tủi hổ. Chúng
nằm giữa đất đủ các kiểu co quắp, lép kẹp trông thật thảm hại. Một
mùi hôi đâu đó cứ bốc lên, lờm lợm và khăn khẳn. Cái mùi hôi có thể
sánh được với những khoang tàu chợ ẩm ướt, chật người. Sỏi lấy tay
chẹn lấy cuống họng. Hình như men rượu đang bò lên cổ. Cả sự hoan
lạc quá đáng lúc nãy cũng bò lên cổ. Cả cái mùi tanh tưởi và khăm
khắm xung quanh cũng chọc chọc vào cổ. Sỏi nhào vội người ra bậc
thềm. Hợ... ọe... Hắn nôn thật lực. Tất cả những gì có trong bụng
hắn đều cuồn cuộn trào ra. Sạch sành sanh. Chẳng còn gì để nôn nữa.
Một mùi chua xông lên hừng hực. Sỏi lảo đảo bước ra đường. Giá như
lúc này gặp một đứa trẻ con xông vào đánh chắc Sỏi cũng đổ nhào
ngay. Bởi chẳng còn chút sinh lực nào nữa, kể cả võ nghệ cao cường
của thầy Sơn Nam truyền dạy hắn cũng đã nôn mửa ra hết rồi.
2
Gần một tuần sau cái đêm điên dại đó, Trương Sỏi vẫn như một người
mới ốm dậy, bước đi chếnh choáng, đầu óc mụ lại, ánh mắt trở nên lờ
đờ. Hắn chẳng buồn nghĩ đến cướp giật, móc túi. Hắn cũng chẳng bận
tâm gì đến Kim Chi, Quản nhọn hoặc đám Ngũ hổ. Sỏi đi vật vờ dọc
đường, có khi ngồi thừ suotó cả buổi ở một quán nước. Thế rồi đáng
lẽ ra ban ngày hắn không nên xuất hiện ở chỗ đông người thì sáng nay
tự dưng Sỏi lại lững thững đi ra chợ Vinh.
Phiên chợ chật ních người. Người đông đặc phía trong nhà lớn. Người
bất ngát cả một vùng sân. Sỏi cứ thẫn thờ lượn ngang, lượn dọc, chỗ
nào có thể chen chân được là hắn chen vào. hắn đi không mục đích
không định hướng, trong lòng không vướng vất chút sợ hãi, lo âu.
Đột ngột hắn dừng vội lại. Dù sao cái bản lĩnh lưu manh tích lũy gần
chục năm trời chưa mất hẳn trong con người hắn. Trương Sỏi linh tính
thấy rằng hình như có người đang bám theo mình. Hắn lách nhanh qua
trái. Đúng rồi, có những bóng người đang nhào đến chỗ hắn. Sỏi co
chân nhảu qua đầu bà hàng gạo. Một tiếng hết ném sau lưng hắn:
- Nguyễn Viết Lãm, đứng lại!
Sỏi không kịp quay lại. hắn nhào ra phía cổng. Nhưng bất ngờ có hai
bóng công an xuất hiện ở cổng. Sỏi chỉ kịp thấy loáng thoáng như vậy
đã vút quay trở lại. Hắn vọt qua phía trái. Cả sân chợ bỗng náo động
ồn ào. Tiếng la hét ầm ĩ:
- Bắt lấy nó!... Thằng ấy...
- Hắn đó.. Tên đang chạy kia...
Gần chục người cầm đòn gánh chặn phía trước, có cả những bộ quân
phục bộ đội. Trương Sỏi hốt hoảng nhào lui. Hắn vung tay đấm bốp vào
một người phía trước, rồi đạp ào lên quang gánh chạy bừa vào phía
trong nhà. Hàng trăm người đuổi theo. Nhưng chính sự đông đúc ấy đã
cản trở người đuổi. Công an bị tắc đường. Còi thổi chát chúa. Sỏi
lao vào tận trong cùng chợ. Bí quá, hắn chạy bừa lên cầu thang. Đến
đó hắn mới chợt nhớ ra trong người còn có hai khẩu súng.
Những thanh niên cầm đòn gánh sầm sập chạy tới. Họ đã nhìn thấy tên
cướp nổi tiếng người thâm thấp, mặt xanh đen đang đứng ở bậc thang
trên cùng. Cả đám đông reo hò ủa lên. “Pằng... Pằng”. Đám đông sững
lại. Tiếng nổ trong vòm nhà nghe càng dữ dội. Vài người hốt hoảng xô
nhào trở lui. Phía sau công an cố chen lên. Trương Sỏi nép mình vào
thành cầu thang, hai tay hai súng ngắn. Một chiến sĩ công an đã lao
lên được phía trước, hét lớn:
- Lãm! Hạ vũ khí xuống!
“Pằng... xíu”. Đường đạn của Trương Sỏi xoẹt qua đầu nhiều người.
“Đoàng”. Công an nổ súng. Trương Sỏi bắn hai phát một lúc. Cả đám
đông nằm dẹp xuống. Bất ngờ từ sau lưng Sỏi, một cán bộ quản lý chợ
ở phòng làm việc trên gác hai lao ra ôm ghì lấy tên cướp. Sỏi co
bụng lại và bằng một cái vặn lưng nhanh như xé vải, hắn đã quẳng
người cán bộ quản lý chợ lăn xoài xuống cầu thang. Bốn chiến sĩ công
an đồng loạt xông lên. Trương Sỏi lùi dần vào một căn phòng nhỏ.
Công an lập tức vọt thẳng đến đạp tung cửa. “Xoảng”. Cả người Trương
Sỏi bắn qua cửa kính như một phát đạn đại bác. Kính rơi loảng xoảng
theo người hắn. Vừa rạp mình xuống đất, Sỏi đã lao vù đi. Công an
quay trở ra không kịp. Những chiếc đòn gánh của dân chợ ném theo đều
vô hiệu quả. Trương Sỏi chạy ra đường, lao về hướng Bến Thủy.
Gần bốn giờ sáng, Sỏi mới lò dò về đến nhà Cật ngọng. Tất cả bọn
tướng cướp bổ choàng dậy vây lấy hắn. Quản nhọn nói lập bập như bị
động kinh.
- Hãi hùng quá... đại ca ơi... Lúc đó em cũng ở giữa chợ... May quá,
đúng là đại ca võ lực vô song...
Bọn Ngũ hổ cũng thì thào nịnh hót:
- Thiệt như Tôn Ngộ Không đại náo thiên cung...
- Y như Triệu Tử Long ở cầu Tràng Bản....
- Ghê gớm quá...
- Tuyệt vời... Tuyệt đỉnh... Tuyệt tuyệt...
Nhưng Trương Sỏi không hề đáp lại những lời tâng bốc nhạt nhẽo ấy.
Phải như ngày xưa, chắc chắn hắn đã cười ha hả, nằm xoài xuống cho
bọn đàn em đấm bóp, mắt khép lim dim để tận hưởng phút vinh quang
của một iêng hùng thoát nạn. Trương Sỏi ngồi bệt xuống thềm ủ rũ như
con gà dịch. Đâu có phải đây là lần đầu hắn bị săn đuổi. Ngày trước
cảnh sát ngụy đuổi hắn, hắn chỉ coi như một trò đùa. Cũng có lần ban
đêm suýt nữa bị gông cổ, thì hắn đã lặn ngụp xuống ao, ngửa người
chỉ để hai lỗ mũi thở. Sau lần đó hắn được lũ đàn em đồn đại là Đệ
nhị mải võ có phép tàng hình... Những trò đuổi bắt, trước đây chỉ
càng kích thích hắn. Hắn khoái lạc trong trạng thái ú tim như vậy.
Bao nhiêu năm nay, hắn sống vất vưởng và ngạo mạn với những cái tên
quái dị: “Đệ nhị”, “Trương Sỏi”, “Thái Lưỡng”.... vân vân. Nhưng hôm
nay, không hiểu sao khi cái tên “Nguyễn Viết Lãm” bị hét lên thì hắn
cảm thấy bải hoải tinh thần. Một sự gục đổ về ý chí, rã rời về sức
lực. Cái viễn ảnh của sự trừng phạt chập chờn trước mắt hắn...
“Có thể lắm!... Sự kết thúc sẽ tại đây...”. Trương Sỏi lầm rầm một
mình như con chiên xưng tội. Sự phản bội đã đến ngày phán xử. Nhưng
tại sao lại thế nhỉ? Ai xui ta từ bỏ đất này mà đi? Rồi ai xui ta mò
mặt trở lại...
Kim chi đi lại sát sỏi, vẻ mặt ả không vui. Ả không nói những lời
tâng bốc như bọn kia. Ả ngồi xuống, nhìn Trương sỏi một cách nghiêm
nghị:
- Tại sao anh lại mò ra chợ ban ngày?
Sỏi thở dài đầu vẫn cúi gục xuống.
- Chẳng biết nữa. Có lẽ số kiếp nó xui vậy.
- Hừ, số với kiếp. – Con rắn Mãng xà chìa chiếc môi dày ra – Anh coi
chừng đấy, sự bạc nhược chỉ có thể nhanh chóng xiềng cổ anh vào nhà
đá thôi... Ngày xưa anh ngang tàng là thế, sao chừ lại hèn mạt vậy?
Sỏi hất đầu lên nhìn Kim Chi gằm gằm:
- Còn không à! Anh như một người mất hồn, như một kẻ đã chết rồi
ấy... Anh định bỏ cuộc chăng? Nhưng người ta đâu có bỏ cuộc. Người
ta vẫn chạy thi với anh đó...
- Người ta nào?
- Bọn mo. Chỉ có điều trong cuộc chạy đua này, kẻ thua cuộc không
phải được nhận giải nhì đâu... mà là cái chết.
Bị chọc đúng tim đen, Sỏi khịt khịt mũi liền mấy cái:
- Chết được thằng này còn khó.
- Thôi đừng làm phách nữa cha. Hễ chạm lần nữa coi, đầu hàng liền.
Sỏi đứng bật dậy chống tay vào nách:
- Này, nói nữa liệu hồn.
Kim Chi cười khanh khách:
- Đại ca tưởng tôi sợ đó a! Không đâu. Con Khánh Hòa nó còn không sợ
thì làm sao tôi sợ được...
- Câm!
Trương Sỏi nhào đến chụp tay lên tóc Kim Chi. Hắn định lẳng một cái
cho con rắn độc kia chết tươi tại chỗ, không hiểu sao tay hắn lại
run lên như bị sốt cấp tính. Kim Chi vẫn chìa môi ra, giễu cợt:
- Buông ra đại ca, không đánh được tôi đâu mà... Ngồi xuống, ngồi
xuống nào. Để tôi nói cho mà nghe. Trước đây tôi sợ đại ca vì cái
chất hằn học, cái chí đạp đầu thiên hạ của đại ca... Còn chừ đại ca
tuy võ nghệ vẫn chưa phai lạt nhưng chí khí thì nguội lạnh hết
rồi... Đại ca không dám đương đầu với ai nữa, đại ca chạy, con Khánh
Hòa lại đuổi, đại ca lại chạy... May mà hôm qua còn có cửa kính cho
đại ca phi thân qua, chứ lần khác húc phải tường thì đại ca trốn vào
đâu.
Trương Sỏi buông thõng tất cả cơ bắp ngồi phịch xuống như một chiếc
bao tải. Đúng là trong tất cả đám bụi đời ở đây, chỉ có con rắn độc
Kim chi là rỉa rói được vào tận ruột gan hắn. Trương Sỏi bỗng nhiên
ứa nước mắt, giọng hắn nghẹn lại, lí nhí:
- Làm thế nào được, em?
- Em chịu. Hay là ta trói nhau lại rồi ra đầu thú.
Trương Sỏi choàng dậy:
- Cái chi? Đầu thú à? Rồi sẽ thế nào?
- Nhận án tử hình.
- Đ.mạ mi.
- Tốt thôi. Như vậy đỡ vất vả...
- Kim Chi?
Trương Sỏi kêu lên bằng một sự tuyệt vọng. Hắn biết con rắn độc vẫn
đang xỉa xói hắn, nhưng rõ ràng hắn bất lực.
- Đừng trêu chọc anh nữa... Em nói đi... Bằng cách nào?
Kim Chi ngồi thẳng dậy, gò má ả bỗng giật giật một cách dữ tợn.
- Nếu không muốn chết thì đại ca phải ra tay. Phải bắt kẻ khác đền
mạng thay cho mình...
Sỏi nhìn Kim Chi ngơ ngác:
- Ai?
- Con Khánh Hòa!
Bốn con mắt nhìn nhau trừng trừng. Răng Kim Chi nghiến lại ken két:
- Chính mắt tôi sáng nay trông thấy con Khánh Hòa ở chợ. Hắn đã chỉ
điểm cho bọn mo. Hắn cũng lao theo đám người đuổi đại ca... Thậm chí
hắn cũng rút súng ra nhắm vào đại ca... Nếu không có hắn làm sao bọn
kia biết mặt đại ca. Nếu con này không bị trừ khử thì không những
mối hận của đảng Mũ đen không được rửa sạch mà ngay tính mạng đại ca
cũng khó lòng bảo toàn.
Sỏi nhắm nghiền mắt lại. Trong óc hắn lởn vởn hiện lên một loạt
những kỷ niệm không rõ dáng hình, không đầu không cuối. Ngọn đèn
dầu... Căn nhà lợp nứa... Những bì tải sắt... chiếc áo màu xanh
lục... Phải giết! Phải giết hết những kỷ niệm ấy đi! Giết!... Trong
óc hắn rên lên những câu như vậy. Nhưng rồi bất ngờ từ trong sâu
thẳm của ký ức lại hiện lên một xác người giãy giụa, quằng quại,
rồi... tắt thở... Ai đó?... Đấy là món nợ đầu tiên trong đời mà Sỏi
chưa trả được. Đấy là người đầu tiên chết dưới bàn tay Sỏi, đã trút
lại chổi cả dòng họ Nguyễn Viết, và cái tên Lãm đã cùng Sỏi lặn lội,
hì hục trong suốt những năm tháng cúi đầu làm thuê...
Phải giết!... Giết con người thứ hai này... người mà đã san sẻ cả họ
của mình cho Sỏi để lẩn tránh sự săn tìm của cảnh sát. Trương Sỏi!
Cái họ Trương ấy có nghĩa lý gì đâu nếu không trĩu nặng nghĩa ân với
cái nhà lợp nứa ấy?
Giết đi! Giết chính cái họ của hắn đi. Mà nào có phải họ hắn. Hắn
đâu phải là Trương Sỏi, đâu phải là Nguyễn Viết Lãm... Hắn là Lạng
kia mà... Hoàng Lạng! Cũng không phải. Giết hết mẹ chúng nó đi!
Trương Sỏi bỗng thét lên một tiếng: “Giết”. Hai tay ôm ghì lấy đầu,
hắn ngã khuỵu xuống nền đất ẩm ướt.
Đột ngột có một tiếng hét vang lên đanh thép khiến cả bọn cướp ngồi
như chết lặng.
- Ngồi im. Đứa nào chạy sẽ bị bắn chết!
Ngay lập tức Cật ngọng bị khóa tay. Cùng một lcú năm sáu bóng công
an lao ra sân sau. Đám Ngũ hổ như thể bị tê liệt hẳn thần kinh, ngồi
đực ra chờ chết. Bất ngờ Trương Sỏi hét lớn:
- Chạy!
Tiếng hét của tên đầu đảng có một sức mạnh kỳ lạ, đập mạnh vào những
bộ não đã tê liệt vì khiếp đảm. Cả bọn đột ngột lao dậy. Sỏi phóng
một cú đấm “thôi sơn” vào một chiến sĩ công an lúc anh ta vừa chồm
người tới. Chiến sĩ công an tránh được, nhưng liền lúc đấy Kim Chi
nhảy bổ đến cong người đá vút một phát. Chiến sĩ công an xỉu người
xuống. Sỏi băng ra phía hàng rào. Kim Chi quay người theo. Đột ngột
có một cô gái nhảy phốc đến. Trong một tích tắc Kim Chi nhận ra. A,
con Khánh Hòa. Nỗi căm tức sùng sục trào lên trong người con rắn
độc. Kim Chi xoay vụt lại. Hắn nghiến răng giáng một cú đánh móc
Khánh Hòa né mình tránh rồi gần như một lcú, một bàn chân đạp lên
chân Kim Chi, tay Khánh Hòa chộp luôn cổ tay Kim Chi dặc mạnh cả tấm
thân Kim chi bổ sập xuống. Đấy là một thế võ chuyển thủ thành công
của võ thuật tay không. Thấy đối thủ ngã, Khánh Hòa xoay hẳn người
lại, quỳ thẳng đứng xuống lưng Kim Chi, đầu gối tì lên đốt sống thứ
ba của con rắn độc. Đấy là thế bắt người trong lcú chưa khóa được
tay địch thủ... Kim Chi duỗi thẳng tay ra. Khánh Hòa chộp luôn cổ
tay ả, xoay mạnh. Không ngờ con rắn Mãng xà đã lừa được thế. Hắn đột
ngột lật người. Khánh Hòa ngã xoài ra. Phía bên một chiến sĩ công an
nhảy đến. Kim Chi không ham đánh. Hắn quay lại giáng luôn một cú đấm
vào bóng người vừa lao tới. Trong lúc ấy, Trương Sỏi với một lối
đánh xảo quyệt đã hạ gục hai công an trẻ. Một bóng người dong dỏng
cao lao đến. Đó chính là Lê Hoài Nam. Từ lúc nhảy vào sân đến giờ,
Lê Hoài Nam đã đánh gục hai thằng, khóa tay một thằng khác. Trong
bóng tối lờ mờ, anh không thể xác định được đâu là tên Trương Sỏi.
Khi Nam nghe tiếng đánh huỳnh huỵch ở phía hàng rào, anh chạy ra thì
hai đồng nghiệp đã bị thương nặng. Biết đây là địch thủ, anh công
luôn. Vèo! Hực! Một bên đánh, một bên đỡ. “Rắc”. Hai cánh tay chém
lên nhau. Cả hai cùng lùi lại: Cú chạm nhau tổng lực khiến cả hai
đều nhớ lại lần gặp trên đường. Trương Sỏi cũng linh cảm thấy như
vậy. Hắn giẫm mạnh chân phải xuống đất kêu “xịch” một cái rồi dùng
chân ấy làm trụ, hắn đá bốp chân trái lên bộ hạ đối phương. Lê Hòai
Nam đã đón được thế võ ấy ngay từ cú giẫm chân phải. Anh lập tức
chụp luôn cổ chân trái của Sỏi. Nhưng Hoài Nam không thể ngờ rằng
anh đã bị Sỏi lừa. Trong lúc chân trái hắn bị Nam túm chặt đột ngột
cả người Sỏi bay lên và dùng chân phải đá bung một quả vào vùng gan
của Nam. Tay Nam buông ra, hai chân Sỏi rơi xuống đất một lúc. Nam
cong người lại vì đau đớn. Sỏi nhảy phốc qua hàng rào. Từ trong sân
Kim Chi cũng lao ra, nhảy vù theo Sỏi. Tiếng súng nổ chát chúa, đạn
vút xiu xíu. Khánh Hòa cong người chạy qua hàng rào đuổi theo. Lê
Hòai Nam cùng ba chiến sĩ công an khác cũng đuổi theo. Hai người nữa
ở lại giải quyết bọn đã bị trói.
Ra khỏi xóm nhà cây cối kín mít ấy, họ mới nhận ra rằng trời đã lờ
mờ sáng. Sỏi và Kim chi nhảy băng qua một con mương, lội ào qua đám
ruộng nước chạy thục mạng về phía một nhà chùa. Ở đó có một sư nữ và
một bà già giúp việc. Cả hai người đàn bà tu hành ấy khiếp đảm trốn
bặt vào một góc chùa. Sỏi và Kim chi chiếm lấy một góc tường cố thủ.
Từ ngoài ruộng, công an nhảy vào. Khánh Hòa chạy trước. Kim chi
nghiến răng ken két:
- Thấy chưa?... Hắn đó... Bắn đi đại ca! Bắn!...
Không hiểu sao Sỏi cứ run như bị sốt. Hắn chĩa cả hai họng súng về
phía Khánh Hòa. Trước mắt hắn, cô gái hàng sắt bỗng chập chờn hiện
ra như không phải đang đuổi theo hắn, mà đang bên ngọn đèn dầu hỏa,
đang ngồi tựa cửa bên đống bản lề, đang chạy từ cửa xe đò và lại chỗ
hắn với nét mặt mừng rỡ, xúc động mỗi lần đi lấy hàng từ Huế ra...
- Bắn đi!... Nhanh lên...
Kim Chi trợn mắt giục rối rít. Sỏi nổ súng. Hai họng súng cùng chớp
lửa một lúc. Nhưng Khánh Hòa vẫn lao vào. “Pằng... Pằng”. Hai phát
nữa. Nhưng đạn vẫn lạc đi đâu đâu... Sỏi run bắn người, Kim Chi chửi
to một tiếng “Đ.mạ” rồi vọt chạy ra sau chùa. Trương Sỏi luống cuống
định lao theo. Nhưng không kịp. Khánh Hòa đã nhảy ào vào.
Có một giây thời gian như ngừng hẳn lại. Bốn con mắt nhìn găm vào
nhau. Mặc dù cả hai đều đã đuổi săn nhau gần một tiếng đồng hồ, mặc
dầu tất cả đã rõ như ban ngày, nhưng trong cái phút đó cả hai đều
sửng sốt. Có một cảm xúc không thể nào diễn tả được ứa trào lên khóe
mắt cô gái Đông Hà. Đôi môi cô giật giật như sắp khóc. Nhưng rồi
Khánh Hòa nghiến răng lại lao thẳng đến. Một cú đấm phóng ra, táng
thẳng vào cằm Sỏi.
Đối với tên Đệ nhị mải võ này, thì cú đấm vừa rồi chẳng có gì hiểm
ác cả. Sỏi thừa sức đỡ. Nhưng hắn cứ trơ ra như kẻ đã chết. “Bốp”.
Khánh Hòa không đấm nữa mà tát. “Bốp”. Lại một tát nữa. Những cái
tát như uất ức, như giận dỗi, nưh trút bỏ bao nhiêu thất vọng, dằn
vặt và trong đó còn len lỏi cả sự ghen tuông...
- Con kia đâu?... Nói đi! Con kia đâu?...
Mắt Trương Sỏi cứ trố ra, dại đi như bị ngộ độc. Nhưng đến khi Lê
Hoài Nam nhảy vào cùng một chiến sĩ công an khác nữa thì hắn chợt
tỉnh ra. Hắn xoay người lại dùng thế đánh bằng cùi tay sát hại Nam.
Cú đánh này là thế võ rất độc mà “Đệ nhất Kiều tiểu muội” đã dạy cho
hắn, và hắn đã từng cho thầy Sơn Nam choáng váng. Nhưng không hiểu
sao lần này hắn đánh chẳng còn chút sinh lực nào. Hơn nữa, sau hai
lần thất bại, Lê Hoài Nam đã nhanh chóng đúc rút kinh nghiệm. Anh bổ
nhanh người theo chiều xoay của cùi tay Sỏi. Rồi lợi dụng luôn thế
võ của tên cướp, anh xoay ngược chiều lại, đánh một cùi tay vào mạng
sườn Sỏi. Đến lần này thì tên Đệ nhị mải võ mới chịu gục. Hắn xỉu
người xuống. Lập tức Lê Hoài nam khóa trái tay hắn ra sau. Mấy chiến
sĩ công an nhảy tới dùng dây trói giật cổ tay hắn lại. (Những chiếc
khóa số tám đã dùng khóa tay bọn trong sân Cật ngọng hết rồi).
Trong thời điểm diễn ra cuộc đọ sức cuối cùng với tên cướp đầu đảng
ở góc tường bên trái nàh chùa thì vị sư nữ đã hớt hải chạy ra phía
cổng trong bộ áo nâu dài lụng thụng. Không ai để ý đến. Tới khi trói
xong Trương Sỏi, Lê Hoài Nam và Khánh Hòa mới chạy sục vào bên trong
tìm Kim Chi. Họ nghe thấy tiếng cầu kinh thảng thốt ở góc nhà chùa
liền chạy vội đến. Bà già giúp việc nằm chết giấc ở giữa nền nhà.
Người sự nữ bị lột hết áo ngoài, vừa cầu kinh vừa run như thạch sùng
đứt đuôi. Khánh hòa giẫm chân thình thịch xuống đất, kêu to:
- Nó thoát rồi!... Nó thoát mất rồi... Cái con khốn kiếp!...
Các chiến sĩ công an giải Trương Sỏi ra đường đi trở lại phía nhà
Cật ngọng. Ở đó Cật ngọng, Tân xồm, Mộc sún và Vượng răng vàng đã bị
khóa tay. Như vậy, ngoài Kim Chi ra, tên Vu mèo trắng, Quản nhọn và
Lãi xoăn cũng đã chui lọt khỏi lưới công an lúc nào không ai rõ.
Lê Hoài Nam chặn một chiếc xe tải không mui từ phía Nam Đàn về. Anh
yêu cầu lái xe giúp đỡ chở năm tên lưu manh về nhà tạm giam của Công
an thành phố. Cả năm thằng nằm bẹp trên thùng xe như năm con lợn.
Bảy chiến sĩ công an ngồi thành hai hàng mắt không rời bọn cướp.
Khánh Hòa cố tình không nhìn Trương Sỏi, mặc dù đến giờ phút này
trong lòng cô đã không còn chút vương vấn gì hình bóng con người
Nguyễn Viết Lãm ngày ấy. Trương Sỏi cũng không nhìn Khánh Hòa. Hắn
nhăn nhó như vị đau quá không thể chịu nổi. Rồi hắn co chân nhấc
người ngồi dậy, mặt ngoảnh về phía sau. Đường xấu và hẹp. Chiếc xe
cứ lắc lư, dằn vặt. Trên thùng xe thỉnh thoảng lại bật lên một tiếng
rên khe khẽ.
Chiếc xe bỗng chạy chậm lại. Phía trước có một chiếc xe ben chở cát
chạy ngược lên. hai xe tránh nhau ở ngay đầu một chiếc cầu nhỏ,
đường thắt lại rất bé mà chiếc xe ban vẫn không hề giảm tốc độ.
Người lái xe buộc phải phanh hẳn xe mình lại, chờ cho chiếc ben lướt
qua khỏi mới đấm số, nhấn ga, đánh tay lái vào lòng đường. Đột ngột
trên thùng xe có tiếng la ơi ới. Súng nổ ầm ầm. Có tiếng đập dồn dập
lên anứp ca bin. Xe tải dừng hẳn lại. Người lái xe hốt hoảng xô cửa
ca bin, nhoi người lên hỏi Lê Hoài Nam cuống quít giục:
- Quay xe, nhanh lên! Quay xe đuổi theo chiếc ben...
Người lái dướn mắt nhìn trở lại. Có một tên cướp đang nằm khoanh
tròn trên ben cát. Anh vội vã đánh tay lái, thụt xe. Nhưng đường quá
hẹp, xe phải thụt tiến nhiều lần mới quay được. Đến khi quay đầu trở
lại đã thấy mất hút chiếc xe ben. Người lái nhán ga, bấm còi liên
tục. Công an đứng trên thùng, khoát tay dẹp đường. Xe phóng ào ào,
người đi đường hốt hoảng giạt ra. Chạy vần mười lăm cây số, sát cửa
hàng Kim Liên thfi mới trông thấy chiếc xe ben phía trước. Nhưng
trên ben chỉ còn có cát. Lê Hoài Nam xán nắm tay lên chính đùi mình,
gầm một tiếng tức tối:
- Thua!... Thua nó rồi... Uất quá!
Thế là sau một đợt đột phá, lực lượng công an tỉnh và thành phố đã
đánh một đòn thẳng cánh vào tận hang ổ bọn cướp, bắt bốn tên trong
số tám đứa đầu đảng. Ngoài ra còn tóm được năm tên móc túi loại đàn
em khác.
Tình hình trôm cắp lắng xuống một cách đột ngột. Thành phố trở lại
bình yên gần như tuyệt đối. Nửa tháng trôi qua, từ ga tàu, bến xe,
chợ búa, không còn một bóng dáng móc túi nào lai vãng. Nhân dân
thành phố Vinh hoan hỉ và cảm động trước sự nỗ lực lớn lao của công
an. Trong lúc đó, phòng hình sự lại tiến hành một cuộc kiểm điểm
nghiêm khắc. Thượng úy Lê Hoài nam đã tự phên phán mình trước hội
nghị và xin nhận kỷ luật. Thiếu tá trưởng phòng hình sự nói:
- Chúng tôi sẽ chấp nhận lời đề nghị của đồng chí. Nhưng tên Đệ nhị
mải võ vẫn còn ẩn nấp đâu đó... Chúng tôi chờ đợi. Chính thằng ấy sẽ
xóa kỷ luật cho đồng chí.
Khánh Hòa được phép trở về Đông Hà. Công an tỉnh Nghệ Tĩnh đã gửi
một công văn vào cho Công an thị xã, cảm ơn và biểu dương công lao
của người nữ trinh sát trẻ tuổi. Tất cả cái đó cũng làm cho Khánh
Hòa vui lên chút ít. Nhưng hình như trong lòng cô vẫn man mác một
nỗi buồn không ai hiểu thấu. Cô không sao quên được ánh mắt Lãm khi
hai người chạm mặt nhau. Phải, ánh mắt đó là Nguyễn Viết Lãm chứ
không phải của tên cướp Đệ nhị... Thật là kỳ lạ! Làm sao con người
lại có sự thay đổi ghê gớm đến thế.
Mình sẽ kể cho mẹ chuyện gì đây? Mẹ vẫn tin vào con người đó... Lòng
tin của mẹ sẽ bị tổn thương... Cũng như vết thương của chính mình.
Chao ôi, con người có những khả năng ghê gớm, có thể trở nên vĩ nhân
và cũng có thể trở thành dã thú... Một câu hỏi bất ngờ hiện lên
trong đầu Khánh Hòa: “Giả sử ngày đó mình đưa Lãm lên rừng thì rồi
sẽ ra sao?”... Bất giác cô thở dài. Thôi, với những con người đang
tồn tại một cách cụ thể thì đừng nên giả sử một điều gì.
Anh đến gieo hạt nhớ
Nơi cây tôi nảy mầm
Mưa giữa mùa đến muộn
Khoảng trống này... mênh mông
Giang Huong Blog
nutacxinhxan
Xem hồ sơ
Gởi tin nhắn tới nutacxinhxan
Visit nutacxinhxan's homepage!
Tìm bài gởi bởi nutacxinhxan
(#9)
nutacxinhxan
Kẻ lữ hành cô độc Bài gởi: 3,365
Gia nhập: Sep 2006
Trả lời: Người không mang họ - Xuân Đức - 10-07-2007, 08:16 AM
Chương 8
1
Bến xe Đô Lương. Lúc này khoảng tám giờ tối. Những hành khách không
mua được vé đi các tuyến đang tản ra tìm chỗ ngồi nghỉ qua đêm. Ở
một góc nàh đợi, có một cô gái đang ôm mặt khóc thút thít. Thỉnh
thoảng tiếng khóc bật to lên nghe oan ức và thơ dại. Nhiều người xúm
lại hỏi chuyện. Qua lời kể lể đứt quãng trong tiếng khóc, người ta
biết cô ta tên là Phan, người dân tộc Thanh, nhà ở trên thị trấn Lạt
huyện Tân Kỳ. Phan vừa học xong lớp sơ cấp nuôi dạy trẻ. Từ Vinh
lên, cô không mua được vé đi Lạt nên phải đi xe Đô Lương. Lúc chiều,
khi chen chân mua vé từ Đô Lương đi Lạt chuyến cuối cùng trong ngày,
cô đã bị kẻ cắp móc túi. Ngoài tiền của mình ra, còn có 500 đồng của
một người thợ ảnh trên thị trấn Lạt gửi nhờ cô mua phim nhưng không
mua được. Làm sao có được số tiền ấy để trả cho người ta? Lại còn
làm sao để có tiền vé về nhà?
Cô gái vừa khóc vừa kể. Ai cũng thương cảm. Nhưng chẳng ai có cách
gì giúp đỡ được. Người nghe cứ lảng dần ra, thở dài, chậc lưỡi. Rồi
cuối cùng chỉ còn mình cô gái. Cô ngồi thụp xuống một góc tối, ôm
gối gục đầu tầm tức khóc một mình.
Bỗng có một thanh niên dáng người thâm thấp bước lại. Anh cất tiếng
hỏi khá to, khiến những người gần đều có thể nghe thấy:
- Làm sao mà thút thít vậy em? Bị mất cắp à?
Cô gái ngẩng dậy. Trước mặt cô là một người đàn ông tuy chưa phải đã
già nhưng cũng không còn trẻ nữa. Hai tay anh đút túi quần, đầu cúi
thấp xuống nhìn cô chằm chằm.
- Mất cắp à? – Anh ta nhắc lại.
- Dạ...
- Nhiều không?
- Dạ... của em có 60 đồng. Của người ta gửi là 500...
Thế là cô gái thật thà kia lại được dịp kể lể... Những người ở gần
đấy lảng đi xa hơn bởi người ta đã nghe điệp khúc quá nhiều lần nỗi
bất hạnh ấy mà lại không có cách gì giúp đỡ được. Mỗi lần nghe cô
gái kể họ tự thấy xấu hổ cho mình.
- Chà, quân khốn nạn! – Người thanh niên chửi đổng một câu rồi ngồi
nhẹ xuống bên cô gái – À này, em ở trên Lạt có biết đơn vị “hai –
bảy – sáu” không?
- 276 là chi?
- Đơn vị bộ đội làm đường ấy mà?
- A – Phan kêu to lên – Biết! Họ ở phía đường lớn kia. Nhưng mà...
họ đi rồi.
Đến lượt người thanh niên kêu to lên:
- Sao, đi rồi à? Đi đâu?
- Biết đâu được. Cách đây mười hôm, khi em bắt đầu xuống trường nhận
giấy tốt nghiệp thì họ đi mà.
Người thanh niên làm vẻ buồn:
- Thật à? Vậy tức là em mới ở nhà xuống xuôi mười hôm nay thôi ư?
- Dạ. em thi xong được nghỉ nửa tháng rồi quay lại trường nhận giấy
tốt nghiệp.
- Nhà em có ở gần đơn vị anh không, đơn vị 276 ấy?
- A, rứa anh là bộ đội làm đường hí? Từ trong nhà em ra chỗ các anh
chừng bốn cây số. Nhưng là trên đường xuôi.
Người thanh niên lặng lẽ gật đầu. Anh ta xích lại gần cô gái một
chút, giọng đầy băn khoăn:
- Khổ thật. Anh bị sốt rét, xuống viện hơn một tháng nay. Giờ đơn vị
chuỷen đi rồi, biết đường nào mà tìm.
Cô gái ngước mắt nhìn người thanh niên. Cô như quên mất nỗi bất hạnh
của mình, lòng chợt phân vân vì hoàn cảnh éo le của người đang tâm
sự.
- Hay là... anh cứ trở về nhà đã... à, mà nhà anh ở đâu?
- Xa lắm. Trong Vĩnh Linh kia.
- Ô, Vĩnh Linh! Xã nào?
- Vĩnh Hòa.
Người thanh niên chợt nín lặng. Quái thật, chẳng hiểu ai xui khiến
mà anh đã buột mồm nói ra điều đó. Nhưng cô gái lại tỏ ra mừng rỡ:
- Nhà em hồi trước có một người Vĩnh Linh ra sơ tán đó. Chị ta kêu
bằng chị Hạnh, quê ở xã Vĩnh Thủy anh có biết không? Vĩnh Thủy với
Vĩnh Hòa có xa nhau không?
Người thanh niên bất giác thở dài:
- Xa. Chừng sáu cây số.
- Người Vĩnh Linh tốt lắm. Chị Hạnh cứ rủ em vào chơi mà em chưa khi
nào đi được. Nhưng rồi thế nào em cũng đi.
- Thế gia đình em có còn đông người không?
- Chỉ còn có ba người. Em, mẹ với thằng em út. Chị gái em lấy chồng
bên Nghĩa Đàn. Chồng chị là công nhân nông trường. Mẹ em chờ em về,
nhà nghèo lắm anh à. – Chợt cô gái lại thút thít – Giờ về mà mắc nợ
người ta biết lấy gì để trả. Rồi mẹ em buồn mà chết mất...
Cô gái nấc lên thành tiếng. Nỗi đau buồn của người nghèo chỉ có
người nghèo mới hiểu thấu. Người thanh niên bất ngờ chìa ra một nắm
giấy bạc:
- Anh chẳng có nhiều nhưng cũng đủ cho em trả nợ. Em cầm lấy...
Cô gái ngớ cả người. Lẽ nào sự may mắn lại đến đột ngột như vậy. Cô
không đủ dũng cảm đón nhận món tiền lớn ấy, nhưng cũng không đủ dũng
cảm từ chối. Bởi vì cô cần tiền quá. Món nợ lớn đã làm cô bải hoải
cả tinh thần. Bàn tay cô thập thò, lưỡng lự, miệng cứ há tròn ra.
Người thanh niên ấn nắm giấy bạc vào tay cô rồi thở dài:
- Đừng để mẹ em buồn. Về nhà em đừng nói chuyện mất mát gì cả...
Ngày mai anh sẽ mua vé cho mà lên nhà. Anh cũng lên đó, may ra đơn
vị còn có bộ phận nào ở lại.
Cô gái gần như run lên, tiếng nói lấp trong tiếng thở:
- Lỡ ra... lên đó mà không còn có ai thì... anh làm sao?
Người thanh niên cúi đầu nín lặng. Có vẻ như đó là tình huống bi đát
nhất mà anh ta chưa lường được. Nhưng đột ngột giọng cô gái vui hẳn
lên:
- Thế này nghe. Ngày mai hai anh em mình cùng xuống chỗ đơn vị anh.
Nếu không còn có ai thì cùng về nàh em. Được chưa?
Người thanh niên không tỏ ra hào hứng cho lắm.
- Thôi, cứ để đến mai hẵng hay...
Trương Sỏi cảm tạ trời phật cùng một lúc đã cho hắn liền ba điều may
mắn. Một là gặp được người bệnh binh của đơn vị 276, và trong câu
chuyện của anh ta với một người bạn, Sỏi đã biết có một đơn vị làm
đường phía trên thị trấn Lạt vừa mới chuyển vào tuyến trong. Lúc mới
nghe câu chuyện ấy, Sỏi hoàn toàn dửng dưng. Nhưng đến khi gặp cô
gái dân tộc bị mất cắp thì một ý định bất ngờ lóe lên trong đầu hắn.
Đấy chính là điều may mắn thứ hai. Sau đó, Sỏi đã cùng Phan đi về
nhà. Thật là may mắn biết bao khi Sỏi lại có được một vốn hiểu biết
khá phong phú về Vĩnh Linh, cái nơi mà chỉ cần nhắc đến cũng đã làm
cho bà mẹ và cô gái dân tộc này rưng rưng cảm động.
Nhưng tất cả những cái đó để làm gì?
Cho đến lúc đã ăn nghỉ yên ổn trong gia đình Phan rồi, Sỏi vẫn không
hiểu được mục đích của mình lên chỗ này để làm gì! Cái đêm ở bến xe
Đô Lương, ý muốn làm quen với Phan lóe lên rất ngẫu nhiên, gần như
là kẻ sắp chết đuối vớ được tấm ván thì dựa hẳn người vào, chưa cần
biết sẽ trôi về đâu. Về đến nhà Phan, Sỏi cũng không xác định được
rồi sẽ phải làm những việc gì. Điều hắn thấy rõ được là dù sao ở đây
cũng yên tĩnh hơn, hãy tạm làm con thuyền neo lại nơi bãi kín tránh
bão giông ít ngày rồi sẽ liệu.
Phan đã không giấu mẹ chuyện mất cắp bởi vì cả đời cô chưa hề biết
giấu mẹ điều gì. Cô đã khoe với mẹ số tiền “anh bộ đội ấy” cho. Thế
nên ngoài tình cảm với con người Vĩnh Linh ra, gia đình Phan còn coi
Sỏi là ân nhân cứu tế.
Về phía Sỏi, để khỏi đau đầu nghĩ ra một tên mới, hắn đã lấy lại cái
tên cũ mà hắn yên trí ở đây không có một ai biết đến: Hoàng Lạng.
Lạng đã ở lại nhà Phan hơn nửa tháng. Mấy ngày đầu hắn nằm thừ trong
buồng. Một phần hắn sợ ánh sáng ban ngày. Phần nữa, sự thất bại và
chán nản đã làm cho thân thể hắn rã rời không muốn cử động. Hơn nữa
đã bao nhiêu năm nay không lao động, Lạng quen với kiểu nằm dài
hưởng lạc rồi. Trong lúc đó bà mẹ Phan lại nghĩ rằng Lạng mới ra
việnc, còn mệt. Thế nên còn mấy đồng dính túi, bà đã sai con ra chợ
mua mớ cá sông về nấu chào rồi ép Lạng ăn. Cực chẳng đã, Lạng phải
gắng mà nuốt.
Nằm yên được vài ngày, Lãng đã bắt đầu loay hoay với những ý nghĩ
bất ổn. Mình định làm gì đây? Sẽ ở nhà này bao lâu? Rồi sau đó đi
đâu và làm gì? Có thể nào ẩn nấp được lâu dài như trước đây ở gia
đình chú Trương Phú chăng? Nhưng cái xã hội nhộn nhạo ấy qua rồi. Ở
cái đất này, trong cái xã hội này bất kỳ sự tồn tại nào cũng cần
được giải thích một cách rõ ràng minh bạch. Điều đó Lạng biết từ
ngày chưa vượt tuyến kia. hay định lợi dùng lòng thương mến của gia
đình để rồi đánh một “quả lừa”? Lạng khẽ thở dài. Hắn không còn đủ
dũng cảm làm việc ấy. Hơn nữa với gia đình này, quả thật chẳng có gì
đáng để mà lừa.
Cũng có lúc cái ý muốn gắn bó với gia đình này suốt đời chợt chơi
vơi hiện ra như kẻ đắm thuyền giữa biển mơ hồ nhìn thấy vệt khói
huyện hoặc phía bờ bãi. Nhưng rồi làn khói mỏng mảnh ấy phút chốc
tan ngay và lậpt ức sóng gió của sự bất an lại ùn ùn xô vào tâm thức
Lạng. Hắn bồn chồn ngồi lên nằm xuống, cố ngủ mà không ngủ được, lại
cố thức cho thật tỉnh táo để may ra có thể nghĩ được một điều gì đó
cho rạch ròi cũng không xong. Lạng trăn trở đủ mọi kiểu nằm vẫn
không sao thấy êm thấm. Hắn chợt thấy khát nước. Hắn chồm dậy dốc
chiếc ấm tích. Nhưng rồi Lạng lại nhận ra không phải khát nước mà là
khát rượu. Hình như còn thèm ăn một cái gì đó nữa. Từ ngày về nhà
Phan, mặc dù là thượng khách nhưng với Lạng còn quá hơn ngồi tù. Cái
sự ăn xài đã thành nghiện rồi. Mà còn nhớ thuốc phiện nữa... ừ, sao
mà đời hắn lại lắm nỗi khát thèm đến thế!
Lạng tung người dậy đút tay vào túi quần vội vã bước ra đường cái.
Cơn thèm khát đã làm hắn toát cả mồi hôi.
Bây giờ là cuối thu. Sương chiều buông la đà mờ mịt các tán cây, lèn
đá, lốm đốm những mảng lá vàng hiện rõ trong cái nền mơ hồ của sương
khói. Một cơn gió đâu đó ùa đến, rừng cây bất giác trở mình, những
đốm vàng kia đột ngột di động xuôi xuống phía những khe sâu. Lạng
chợt nghĩ vẩn vơ và thấy lòng buồn rười rượi. Rừng càng bát ngát
trập trùng, Lạng càng thấy mình cô đơn, héo hắt. Giá như biến được
thành con chim hay thành một phiến đá, xa lánh hẳn con người mà nhập
vào với cái màu xanh hun hút kia thì hạnh phúc biết bao!
Lạng vừa đi vừa tự huyễn hoặc mình. Chẳng cần biết đi đâu khi trời
đã gần tối, hắn cứ lẩm nhẩm như đọc thần chú để biến thành lá cây và
bước chân mỗi lúc một gấp trên con đường đất núi len lỏi vào khoảng
rừng bất tận đầy khói sương.
Bỗng Lạng dừng lại. Phía trước, gần một ngầm nước chảy băng qua
đường có ba chiếc xe tải bạt che kín thùng đang đỗ sát nhau, một tốp
người chụm đầu nhóm lửa. Ngọn khói cuộn len phả tràn vào rừng cây
nhòa lẫn với sương. Lạng quay người đi ngược trở lại. Hắn không muốn
chạm mặt với bất kỳ ai lúc này. Hơn nữa trời cũng đã nhá nhem tối.
Cái không gian âm u lành lạnh của rừng khiến Lạng bỗng thấy ớn sợ.
Có lẽ nên trở lại với Phan. Nhưng để làm gì? Bước chân Lạng chần
chừ, láng cháng.
Đột ngột cả khu rừng vang lên tiếng la hét, Lạng giật mình lao chạy
thục mạng lên phía trước. Chạy độ mươi bước Lạng mới đủ bình tĩnh
nhận ra tiếng la còn ở phía sau xa. Hắn dừng lại, lẩn vào phía trong
gốc cây hương ở một lối rẽ nhỏ, cố định thần để phán đoán tình hình.
Có cả tiếng súng nổ, tiếng bước chân sầm sập đuổi nhau. Chắc chắn là
ở chỗ có ba chiếc xe đỗ bên ngầm nước. Chuyện gì nhỉ? Hay là có băng
nào đang trấn? Băng nào?
Trống ngực Lạng đập thình thịch. Hắn chợt nhận thấy nguy hiểm. Tiếng
kêu la và cả tiếng súng nữa chắc chắn sẽ vọng đi xa. Nếu mình chạy
lúc này biết đâu lại chạm trán với những kẻ từ phía trong thị trấn
chạy ra. Không dưng lại đút đầu vào thòng lọng. Còn nếu cứ lẩn theo
lối nhỏ xíu này thì chẳn biết sẽ vào tới đâu, không chừng lại làm
mồi cho cọp beo rắn rết...
Lạng đã không nhầm. Từ phía trên thị trấn có tiếng gọi nhau ơi ới.
Tiếng kêu ngày một gần lại. Rõ ràng đã có người xuống tiếp ứng. lạng
đang luống cuống chưa biết xử lí thế nào thì đột ngột từ phía ngoài
trục đường một bóng đen lao sầm vào lối rẽ. Lạng co người lại chuẩn
bị phóng ra một quả đấm. Nhưng bỗng hắn khựng cả ngowif, suýt nữa
kêu to lên. Kim Chi!
Không, không phải suýt nữa mà chính hắn đã kêu rồi. Kim chi cũng
đứng sững ra như trời trồng trong giấy lát. Trong màn tối lờ mờ, hai
tên tướng cướp đã nhận ra nhau. Nhưng chúng chưa kịp ôm nhau tủi
mừng thì từ phía ngoài, hai bóng đen lao vào.
- Nó đây rồi! Đưa tay lên!...
“Đoàng”. Một phát đạn xoẹt ngay trên đầu Kim Chi và Lạng. Một người
lao đến. Kim chi kịp xoay lại dùng cùi tay đánh ực một phát. Người
thanh niên kia ngã sấp xuống. Kim Chi lao vụt chạy. Người đi sau
luống cuống giật khẩu súng từ tay bạn định đưa lên bắn. Trong một
giây, Lạng nghĩ nhanh đến mọi hậu quả. Sự việc đã đến nước này hắn
không thể thoát ra ngoài cuộc được. Kim Chi đã biết Lạng ở đây. Nếu
Kim chi bị bắt tất nhiên sẽ khai ra. Lạng nghiến răng nhảy chồm tới.
Một tay chụp khẩu súng giật mạnh xuống, tay kia hắn đánh chéo một
quả vào mạng sườn người đuổi, anh này đổ sập lên người anh lúc nãy.
Lạng cũng nhắm theo hướng Kim Chi mà lao thục mạng.
Đêm giữa rừng mới khủng khiếp làm sao! Cảm giác đầu tiên của Lạng là
không thể nào gửi gắm đời mình vào với rừng như ước mơ ban chiều
được. Cần phải tránh xa cái không gian ghê rợn này càng sớm càng
tốt. Trong màn tối mù mịt. Lạng có cảm giác như tất cả xung quanh
đang cựa quậy. Côn trùng bò lạc rạc. Cây trở mình răng rắc. Gió lào
xào len lỏi. Mọi vật đang đi vòng quanh, đang tiến lại gần, đang bàn
định trăm mưu nghìn kế để sát phạt Lạng. Mà có thể thế thật! “Rạc”.
Lạng giật bắn người xoay lại. Một cành củi mục như từ trên trời rơi
xuống sát ngay lưng hắn.
- Đại ca làm sao thế
- Không...
Tiếng Lạng run run. Hắn không dám ngồi gần Kim Chi. Bởi vì cái giọng
con đàn bà này đêm nay cũng lạ hẳn đi. Hình như đã đến phút nó sắp
lột xác người để hiện lại nguyên hình rắn độc! Có cái gì đụng đậy
vào mạng sườn của Lạng. Hắn chưa kịp phản ứng thì một vòng tròn đã
quấn chặt lấy cơ bụng hắn. Lạng thét lên: “Ôi”.
- Đại ca! Làm sao lại run lên thế?
Kim Chi ôm choàng lấy Lạng, cố ghì người hắn vào. Bấy giờ Lạng mới
nhận ra vòng tay của người tình. Tuy vậy hắn vẫn chưa hết run.
- Phải bình tĩnh anh yêu ạ. Những lúc như thế này càng phải bình
tình mới toan tính mọi việc được. Mà tại sao anh lại run sợ kia chứ?
Ngày xưa anh bản lĩnh dễ sợ kia mà.
Lạng thì thào như kẻ sắp chết:
- Đừng... đừng nhắc chuyện ngày xưa nữa...
Kim Chi buông tay ra khỏi lưng Lạng, vớ một cành khô trước mặt bẻ
răng rắc.
- Đã đến nước này, hai đứa mình phải gắn bó với nhau, đừng xa nhau
một bước. Bọn oắt con kia vô dụng lắm, đèo bòng thêm chúng nó chỉ tổ
nặng nợ. Theo em, ngày mai ta xuống đồng bằng, tập họp bọn tay chân
lại đánh một cú thật đậm. Sau đó hai đứa mình tìm đường xuôi thẳng
vào Nam. Đi càng xa càng tốt. Ý anh thế nào?
Lạng nín lặng không đáp. Kim Chi đột ngột đứng bật dậy nhúnnhún hai
đầu gối như sắp luyện võ.
- Trông bộ ông anh rầu đời thấy mồ. Việc đếch gì mà rầu rĩ kia chứ!
Đã dấn thân vào canh bạc thì được ăn cả, ngã về không. Người ta ai
cũng chỉ chết có một lần, việc chi mà dằn vặt. Lần này vô thẳng Sài
Gòn, liệu thời thế rồi hốt một cú cho khá. Sau đó tếch luôn.
Lạng ngẩng lên ngơ ngác hỏi:
- Tếch đi đâu?
- Ca–na–đa. Bây giờ bọn chúng nó vượt khối. Toàn lũ vô tích sự cả.
Cái lũ ấy mà cũng đi được huống chi bọn mình.
Lạng thở dài. Giọng hắn đã bình tĩnh trở lại nhưng vẫn còn não nuột.
- Tôi không thể đi được nữa Kim Chi ạ. Tất cả những gì tôi làm, tôi
sống bấy lâu này đều được bắt đầu từ một bước ra đi lầm lỡ... Điều
dó bao nhiêu năm nay tôi không hé răng kể với ai. Nhưng chừ... không
hiểu sao tôi muốn kể cho Kim Chi nghe. Có lẽ... cái chết sắp đến với
tôi rồi...
Kim Chi bật lên một tiếng cười khô khốc:
- Nghe mùi mẫn như ca “sáu câu” vậy ông anh!
- Không. Kim Chi phải để cho tôi kể dã. Tôi không phải là dân Đông
Hà như em tưởng đâu. Tôi cũng không phải là Trương Sỏi, càng không
phải là Nguyễn Viết lãm như Chi vẫn gọi hồi đầu. Tôi là thằng thanh
niên sinh ra ở Vĩnh Linh. Tôi họ Hoàng. Mà thực ra cũng không phải
họ Hoàng. Có lẽ đó là lý do khởi đầu đã ám ảnh suốt đời tôi, đã xúi
giục tôi vượt tuyến...
Câu chuyện xem ra có vẻ hấp dẫn. Kim Chi bắt đầu chú ý. Còn Lạng thì
lầu bầu kể, tỉ mỉ không sót một chi tiết nào. Nó kể như một sự sám
hối. Hóa ra nó vẫn chưa hề quên một sự việc nào mặc dù từ lâu nó vẫn
cố tình nhấn chìm mọi quá khứ. Nhưng quá khứ như một chất kế tủa
lắng cặn vào tâm thức Lạng và bất kể lúc nào cũng có thể trào dậy
sùng sục tuôi chảy thành dòng.
Và cũng thật là kỳ lạ. Sau khi dốc bầu tâm sự với người tình. Lạng
bỗng thấy nhẹ nhõm hẳn trong người. Hắn đứng bật dậy, vươn vai, vặn
lưng, dáng bộ coi rất linh hoạt. Kim Chi nhận được ngay điều đó!
- Tốt lắm! Đại ca thấy không, bấy lâu nay sai lầm lớn nhất của đại
ca là cố tính bưng bít quá khứ. Làm như vậy có lợi chi? Chẳng ích
lợi mẹ gì hết. Đại ca đã tự lựa chọn cho mình một con đường thì cứ
thế mà đi, dù có muốn quay lui cũng chẳng được nữa. Quá khứ là cái
đếch gì? Chẳng là gì sất! Nó chỉ là cái bao tải trĩu nặng sau đít
người ta khién không ai cất mình lên được. Cái tồn tại hiện hữu là
cái có trước. Còn nữa là phi lí tất. Ai đẻ ra mình, mình có lựa chọn
được đâu. Xã hội nào nuôi dưỡng mình, mình cũng không chọn lựa được.
Vậy thfi việc chó gì mà mang sầu đeo cảm? Như đại ca chẳng hạn, từ
họ Hoàng, họ Nguyễn đến họ Trương họ Thái, tất cả đều ngẫu nhiên.
Nhưng đại ca có chết đâu. Thế thì họ đếch gì mà chẳng được, không
càn họ cũng chẳng sao. Đời này là thế đấy!
Lạng ngồi ngẩn mặt ra mà nghe Kim Chi giảng đạo. Hắn không thể giấu
nổi sự kinh ngạc:
- Kim chi học hết lớp mấy rồi?
- Em chả học lớp nào cả.
- Không đúng. Vậy những điều cao cả vừa nói đấy, em học ở đâu?
Kim Chi phì ra một tiếng cười trịnh thượng:
- Ở đời, ngoài chợ búa, nơi bến xe, chỗ ga tàu... đâu đâu người ta
cũng nói chuyện đó.
Im lặng một tí rồi Lạng lại thầm thì:
- Nếu lần này có lập lại đảng Mũ đen, tôi đề nghị Kim Chi làm đảng
trưởng...
Kim Chi xoay hẳn người lại chụp lấy tóc Lạng kéo ngược lên.
- Không được. Đại ca không được thụt lùi. Bất kỳ lúc nào cũng không
được thụt lùi. Đã thụt một bước là thụt mãi, thụt hoài, rồi sẽ thụt
luôn vào còng số tám đó.
- Vậy tôi phải làm chi lúc này?
- Ngủ. Ôm em mà ngủ. Sáng ngày mai xuống đồng bằng. Nghe chưa?
Lạng gục đầu vào ngực người tình cười khùng khục:
- Nghe rồi, nghe rồi! Thế mà em không phải đảng trưởng thì còn là gì
nữa. Xin tuân lệnh!
2
Tin tức về toán cướp trấn lột đoàn xe quá cảnh trên thị trấn Lạt
được báo cáo tường tận về Công an tỉnh. Thượng úy Lê Hoài nam lập
tức đi suốt đêm lên nghiên cứu hiện trường. Hai lái xe bị đánh trọng
thương được đưa vào cấp cứu trong bệnh viện Lạt. Chưa lấy được lời
khai của hai người, nhưng chỉ mới xem qua hai vết thương ở mạng
sườn, Hòai Nam dã nhận ra ngay miếng đánh hiểm. Anh lẩm bẩm một
mình: “Đúng con quỷ ấy rồi!”.
Lê Hoài Nam trao đổi với đội hình sự thị trấn đề nghị một mặt phong
tỏa địa bàn, một mặt chờ cho hai nạn nhân tỉnh táo phải lấy ngay lời
khai báo cáo về Tỉnh. Sau đó Hoài Nam lập tức trở về.
Sau đấy một tuần, trinh sát hình sự huyện Diễn Châu gửi một báo cáo
về Công an tỉnh cho biết có dấu hiệu bọn cướp trinh sát Tổng kho
thương nghiệp. Lê Hoài Nam lại lặn lội ra Diễn Châu. Sau khi tổng
hợp mọi tình hình, phòng hình sự Công an tỉnh đi đến kết luận, tên
“Đệ nhị mải võ” đã trở lại hoạt động và có ý đồ đột kích lớn vào
Tổng kho Diễn Châu.
Thiếu tá trưởng phòng hình sự nhìn Lê Hoài nam như tìm một sự đồng
tình, sau đó anh lướt mắt nhìn lại các cán bộ khác:
- Có một điều làm chúng ta lưu ý. Tại sao tên “Đệ nhị” vẫn lọt qua
một cuộc săn đuổi ráo riết, lại vừa bị lộ mặt trong vụ cướp hụt đoàn
xe quá cảnh, thế mà bọn chúng lại không chọn phương thức ẩn dật,
phân tán nhỏ lẻ, lại định tổ chức một cú cướp lớn?
Hoài Nam đứng ngay dậy:
- Báo cáo thủ trưởng, theo tôi trước hết đây là một đòn phục hồi uy
tín để nhằm tập hợp lực lượng. Tuy vậy cũng cần tính đến khả năng
bọn này có ý định chuồn xa.
- Đúng. – Thiếu tá trưởng phòng buôn nắm đấm xuống bàn – Bọn chúng
sẽ chuồn xa. Vì vậy trận đánh này không cho phép chúng ta mắc lại
sai lầm cũ. Bởi vì thời gian sẽ không còn chờ đợi chúng ta sửa chữa
khuyết điểm đâu.
Một kế hoạch tác chiến được thông qua. Toàn bộ lực lượng chuyên án
tập trung về Diễn Châu. Đội hình sự công an huyện được triệu tập về
nhận nhiệm vụ. Một trung đội bộ đội của Ban chỉ huy quân sự huyện và
hai trung đội dân quân được điều động phối hợp với chiến đấu.
Bấy giờ là những ngày đầu mùa đông. Cơn rét đầu tiên mang theo màn
mưa dầm dề mờ mịt. Đường đất trong thị trấn nhão nhoẹt bùn lầy. Đèn
điện lờ mờ trong mưa, lay lắt khi tắt khi đỏ. Cơn rét kéo dài. Lực
lượng phục kích cũng đẫm mình trong mưa, cơ hàm cứng lại vì rét, áo
quần cũng nước, da trắng bợt. Đã bốn đêm trôi qua. Một số chiến sĩ
bị cảm lạnh. Nhưng khôn ai chịu lui về nghỉ. Thời gian đã trở thành
một canh bạc, hoặc là được cả, hoặc là mất trắng. Thời gian vẫn kéo
lê thê như một trò đùa ác nghiệp.
Đêm thứ năm. Khoảng hai giờ sáng. Thoạt đầu có một bóng đen xuất
hiện ở hồi bên trái ngôi nhà lớn. Bóng đen ngồi sát xuống đất nhìn
đảo một vòng, sau đó hắn vòng ra hè phía sau. Lặng im đè nặng lên
khu kho. Tiếng mưa rơi nghe to như gõ mõ. Gần mười phút trôi qua.
Bỗng có tiếng cú kêu. Lê Hoài nam nhỏm cả người khỏi bờ mương để
quan sát. Từ phía tao tàu hỏng lăn nghiêng bên đường sắt, năm bóng
đen lao vào. Trong lúc đó tổ công an phía đông cũng nhìn rõ năm bóng
đen khác vượt đường quốc lộ I tiếng sang. Không cần đợi chúng phá
kho, Lê Hoài Nam nổ súng lệnh.
Từ bốn phía công an, bộ đội, dân quân ập vào. Bọn cướp nổ súng
trước. Chúng có ba khẩu súng. Hỏa lực như vậy là không đáng kể.
Nhưng vấn đề đặt ra là phải cố gắng bắt sống. Mệnh lệnh đó đã được
các lực lượng quán triệt từ trước. Bất chấp những luồng đạn bắn ra
loạn xạ, vòng vây vẫn ào ào khép lại. Tiếng loa vang lên rành rọt:
“Các anh đã bị vây chặt. Công an và bộ đội có thừa sức bắn gục tất
cả trong giây lát. Nhưng chúng tôi không bắn. Chúng tôi hy vọng các
anh tự đầu hàng. Đừng nghe lời xúi giục của tên Đệ nhị mải võ”.
“Nguyễn Viết Lãm hãy nghe đây! Dù mày có trốn tránh vào tận hang
cùng ngõ hẻm, dù mày có đội lốt hàng trăm tên họ khác nhau cũng
không thể nào lẩn tránh được tội ác của mày. Ngày phán xử đã đến.
Đừng điên cuồng vô ích. Hãy đầu hàng đi!”.
Lê Hoài Nam lao lên đến thềm nhà kho. Một phát đạn xoẹt qua trán
anh. Hoài Nam ép nhanh người vào bờ tường, bắn chỉ thiên một phát.
Từ trong góc tối một bóng đen lao ra như tên bắn. Hoài Nam phóng vèo
một quả đấm. Tên cướp rạp người xuống tránh được quả đấm rồi bay vụt
ra ngoài. Hoài nam xoay người lại định đuổi theo. Ngay tức khắc, một
quả đấm từ phía sau phóng tới nghe xoẹt một tiếng. Hoài Nam ngồi
thụp xuống. Quả đấm trượt và tên vừa đấm bổ sấp lên lưng Nam. Được
thế Nam bật người lên, dùng lưng Nam nhào xa ra phía trước, Hoài nam
chồm tới. Bóng đen kia bật dậy chạy. Ra tới chỗ sáng, Hoài nam nhìn
rõ cả hai tên phía trước. Đấy chính là “Đệ nhị mải võ” và Kim Chi.
Anh hét to:
- Trương Sỏi, Kim Chi đứng lại!
Trả lời anh là một chớp lửa lóa ra trước mặt. Viên đạn xoẹt qua mang
tai. Hoài nam điên tiết đưa súng lên ngang tầm, bóp cò. Tiếng nổ xé
toạc màn đêm. Con đàn bà bổ sấp xuống. Nam cùng với một chiến sĩ
công an nữa lao đến. Kim Chi quằn quại một tí rồi bất động.
Lạng đứng sững người. Hai tay hắn vẫn nắm chặt hai khẩu súng. Nhưng
tất cả nhuệ khí của hắn đã cạn sạch. Lạng đứng đờ ra bên cạnh xác
Kim Chi. Thêm hai chiến sĩ công an nữa lao đến. Chiếc khóa số tám
đóng sập lại. Mưa vẫn mịt mờ đan dày trước mặt Lạng.
Trong thời gian tên Lạng và đồng bọn còn bị tạm giam để lập hồ sơ
thì một hôm Khánh Hòa trở ra Vinh cùng với một cán bộ quân đội mang
quân hàm đại úy. Gặp lại Khánh Hòa, Lê Hoài Nam tỏ ra mừng rỡ thật
sự. Anh reo lên:
- Bạn biết không, tên “Đệ nhị mải võ” đã bị kẹp vào còng số tám rồi.
Con quỷ ấy hết thời rồi.
Mắt Khánh Hòa sáng lên. Nhưng cô không nói gì, lẳng lặng ngoảnh lại
phía người cán bộ quân đội:
- Anh Nam có cảm thấy quen đồng chí này không?
Hoài Nam ngơ ngác nhìn người khách. anh đưa tay ra bắt trong sự bỡ
ngỡ có phần ngượng ngùng:
- Xin lỗi... có thể tôi quên chăng...
Người cán bộ quân đội mỉm cười:
- Đồng chí cố nhớ thử xem?
Lê Hòai nam càu mày... ừ đúng, người này có vẻ cũng quen quen thực.
Gặp ở đâu nhỉ? Ồ mà quen thật, quen ghê quá... Nam càng nhìn càng
thấy quen. Chợt anh sững ra...
Phải rồi! Sao lại thế này? Người đại úy trước mặt có dáng người thâm
thấp, quai hàm bạnh to, cặp môi dày... Rõ ràng anh có nét rất giống
tên cướp “Đệ nhị mải võ”. Nam định hỏi nhưng vội kìm lại.
Khánh Hòa chủ động ngồi xuống ghế:
- Chắc anh Nam đã đoán ra phải không? Đây là đồng chí Ngô Sĩ Hợp quê
ở Vĩnh Linh. Cách đây một tuần, anh Hợp ở biên giới Tây – Nam về
phép đã ghé vào chơi Đông Hà, tới chỗ chúng tôi nhờ tìm kiếm một
người thân... Qua lời kể của anh Hợp chúng tôi đoán người đó chính
là Nguyễn Viết Lãm. Nhưng theo anh Hợp thì người cần tìm tên là
Lạng.
Nam kêu to lên:
- Trước lúc bị bắt, tên “Đệ nhị” đã ở trong một gia đình trên thị
trấn Lạt và mang tên là Hoàng Lạng...
Đến lượt người đại úy quân đội kêu lên:
- Thế thì đúng rồi. Hắn họ Hoàng – giọng anh nhỏ hẳn lại – Thực ra
hắn cũng không phải họ Hoàng. Hắn cùng dòng máu với tôi. Giá như
trước đây gia đình Hoàng Ất không vì cái sĩ diện cường hào và giáo
lý ích kỷ của phong kiến thì Lạng đã mang họ Ngô Sĩ như tôi rồi...
Ngô Sĩ Hợp đã kể lại vắn tắt lai lịch của Lạng. Lê Hòai Nam nghe rất
chăm chú. Cuối cùng đại úy Hợp kết luận:
- Có lẽ tất cả những điều tôi kể chẳng liên quan gì đến vụ án của
các anh. Kể cả sự có mặt của tôi cũng vậy. Nhưng không hiểu sao, khi
nghe chị Khánh Hòa kể về vụ án tôi bỗng thấy nôn nao gan ruột muốn
ra ngay đây. Chẳng biết có ích gì cho các đồng chí không?
Lê Hoài Nam vươn cao người dậy:
- Có chứ, rất cần. Như vậy tên Lạng không những can tội hình sự mà
còn cả tội phản bội Tổ quốc, phản lại cả họ hàng mình nữa. Nhưng vấn
đề quan trọng ở chỗ là, với sự bộc lộ toàn bộ quá khứ, hắn sẽ hết
sạch những khoảng tối ẩn nấp. Con người ta, hễ còn một khoảng tối
nào là có thể lẩn tránh vào đó. Mục đích của việc lập các hồ sơ là
chỗ đó.
Hoài Nam dừng lại một tí rồi ngước nhìn người đại úy quân đội với vẻ
mặt tư lự:
- Tuy vậy... câu chuyện của đồng chí làm tôi buồn quá. Chẳng hiểu vì
sao nữa. Nhưng mà buồn, thực thế! Bởi vì trước khi làm con quỷ hoành
hành trong bóng tối, Nguyễn Viết Lãm đã có một quãng làm Người. Đáng
tiếc biết bao!
THAY CHO CHƯƠNG KẾT
Toàn bộ những gì tôi vừa kể ở trên là tổng hợp từ trên hai chục bản
lấy cung của vụ án tên “Đệ nhị mải võ”. Có một phần câu chuyện lại
do chính Trung úy Khánh Hòa kể lại.
Tôi gặp Khánh Hòa lần cuối cùng bên ngôi mộ của tên tướng cướp. Thú
thực, tôi tới chỗ này không có mục đích gì khác ngoài tính tò mò.
Còn Khánh Hòa đến làm gì thì tôi không rõ và cũng không tiện hỏi.
Lúc đó khoảng năm giờ chiều. Nắng đã rất nhạt và gió cũng khẽ khàng.
Trước khu nghĩa địa này là một con sông lớn, nước vẫn chảy vô hồi
như dòng thời gian của tạo hóa. Nghĩa là nắm đất kia đã nằm hài hòa
trong thiên nhiên như vốn nó vẫn thế, nghĩa là không có gì thật đặc
biệt, thật ghê gớm cả. Chẳng ai có ý nghĩ gì khác khi đi qua chỗ
này.
Khánh Hòa đứng cạnh ngôi mộ, nhưng quay lưng lại với nắm đất, quay
mặt ra hướng con sông lớn. Cô có vẻ như đi ngắm cảnh. Tuy vậy tôi
vẫn bước lại gần cô một cách dè dặt.
Chúng tôi chào nhau bằng những cái gật đầu thông cảm. Rồi như đã
chuẩn bị sẵn, người nữ trinh sát ấy nói bằng một giọng em ái, tư lự:
- Tôi đã được hònh ngành trinh sát hình sự. Cứ tưởng đấy chỉ là công
việc thăm dò các sự kiện. Bây giờ tôi mới nhận ra, việc của chúng
tôi còn phải thăm dò những cuộc đời... Hình như nhà văn các anh cũng
làm việc đó, phải không?
Khánh Hòa quay lại nhìn tôi mỉm cười:
- Anh biết không, mỗi khi giải đáp ra một sự kiện nào đó dù éo le
gay cấn đến mấy chúng tôi cũng không hề tỏ ra kinh ngạc. Thế mà khi
khám phá ra dù chỉ là một chi tiết nhỏ nhưng lại là sự oái oăm trong
một con người thì thú thực tôi vô cùng ngỡ ngàng. Có khi còn ngơ
ngác nữa. Ví dụ như vụ án tên “Đệ nhị” này chẳng hạn, anh có biết
tôi sửng sốt đến mức nào không?
Tôi ý tứ hỏi lại:
- Chị sửng sốt về điều gì?
Khánh Hòa khẽ cúi đầu xuống im lặng một lúc rồi gần như thì thầm:
- Điều ấy chính anh Lê Hòai Nam đã có nói một lần rồi. Tôi cũng buồn
như anh ấy.
Tôi lơ mơ cảm nhận chút tâm trạng phụ nữ của Khánh Hòa. Tôi định hỏi
thêm một câu, nhưng cô gái đã quay hẳn người lại, một tay vén cao
mái tóc, giọng nói cứng rắn hơn.
- Thế là chấm dứt cuộc đời một con quỷ. Nó nằm đó... Thực là khủng
khiếp! Tuy vậy, như anh Nam nói trước lúc làm quỷ hắn đã có một thời
gian làm người. Và bây giờ... hắn lại trở về với đất đai... Thôi,
thế cũng gọi là ổn phải không anh?
Chúng tôi cùng bước sóng đôi ra đường cái. Gió từ mặt sông tràn lên
ngọt ngào. Những chuyến ô tô nối nhau qua phà náo nức. Thành phố lên
đèn. Màu sáng bình yên và hăm hở. Chẳng ai đi qua mảnh đất này lại
có thể có những ý nghĩ không yên lành.
Vinh tháng 4-1983
Hà nội tháng 8 – 1983
Vĩnh Linh tháng 12 – 1983