Chương 1: Hàng xóm. Những đại từ nhân xưng
Tôi xin bắt đầu câu chuyện có nhiều nhân vật chính, các nhân vật
chính lại quan hệ với nhau rất gần gũi (bốn trường hợp là quan hệ
máu mủ), cùng sống trong một không gian rất hẹp (người này có thể
nghe ra tiếng người kia nhai cơm rau hay cơm thịt hàng ngày), làm
việc hầu như cùng một chỗ, và cùng yêu một người đàn bà, bằng cách
giới thiệu sơ qua từng người để tránh rắc rối cho bạn đọc ngay từ
đầu.
Tôi lại phải nói luôn rằng, theo thiển ý của tôi, khi ta làm quen
với ai thì đương nhiên mặt mũi, áo quần, nghề nghiệp, xe cộ và chỗ ở
của người đó cho biết nhiều thông tin quan trọng, trên toàn thế giới
đều như thế, nhưng là người Việt thì xưng hô như thế nào có lẽ còn
tiết lộ nhiều hơn. Cho nên tôi lấy các đại từ nhân xưng làm đầu để
giới thiệu nhân vật của tôi với bạn đọc.
Người đàn bà tên là Sến. Sến xưng em với chúng tôi sáu thằng đàn
ông. Chắc chắn Sến cũng xưng em với sau trăm ngàn thàng đàn ông ở Hà
Nội.
Sáu thằng đàn ông là Đoài, Đủ, Hồng, Thân, Tân và Nguyên.
Đoài, hàng xóm sát vách tôi, gọi Sến là nàng. Là loại người mỗi ngày
ba lần đánh răng, khi anh chàng khà từng tràng từng tràng nàng nàng
nàng là Sến bay ra từ khoảng trống rộng rãi của âm “a” kéo dài hoan
hỉ, đượm mùi hoá chất nội địa, hiệu PS, giữa mười sáu chiếc răng
trên và mười sáu chiếc răng dưới. Trắng tuyệt đối trên một nền nâu
sạm đồng quê là cái mặt anh cán bộ thoát li, cái mặt tươm tất biết
điều, bao nhiêu sức khoẻ và tiền tiết kiệm đều lộ ra hết. Một cái
mặt rất trung bình rất phổ biến, không có bí mật, không đau đớn,
không thể dùng để doạ trẻ, nhưng dùng tốt để vay tín dụng. Tôi có
thể nghe Sến khúc khích. Trong cái không gian sặc mùi cán bộ cấp
trưởng phòng hành chính của anh chàng, điệu cười của nàng mới sang
trọng và phóng khoáng làm sao! Sang trọng và phóng khoáng là hai
tính ưu việt chưa từng đổ bộ vào đời Đoài trước Sến. Nàng cười chữ
đồng quê của tôi. Nàng bảo, khiếp, nhạc đồng quê, tranh đồng quê,
tiểu thuyết đồng quê, bây giờ đến cả anh hàng xóm cũng đồng quê,
khiếp mấy ông trí thức sính trường phái. Anh ấy đơn giản là nhà quê,
nghe chưa, không ai đời đi gọi anh đồng quê ơi, rởm lắm. Nàng nói
phải. Thế là rất rởm. Không đúng với một nước nông nghiệp lạc hậu.
Nàng đi guốc trong cái bụng nhiều chữ của tôi, đôi guốc bảy li nhọn
hoắt với đế nhựa đóng đinh với sơn mài mận chín và quai nhung vắt
chênh chếch. Cũng đôi guốc ấy, lắm khi nàng gõ lên đầu anh hàng xóm
đồng-nhà-quê của tôi cho anh chàng nhe hết ba mươi hai chiếc răng si
tình. Còn tôi đâu ngờ đời tôi có lúc tận tuỵ đo chân một người đàn
bà thậm chí không phải vợ mình để đi khắp phố Cầu Gỗ tìm mua đôi
guốc đẹp nhất. Số chín. Là kích thước cần thiết cho tung hoành.
Những nàng mi ni đi số năm số sáu, chân xinh như cá vàng, thuộc về
quá khứ mất rồi. Bàn chân bó chặt cho được dị hình, cỡ mười bốn nhân
sáu, từng là một nhục dục kích thích tố và một chứng chỉ của phong
lưu. Từ buổi biết nàng tôi mới vội vàng bê mình đặt đúng vào cuối
thế kỉ hai mươi. Là thời đàn bà cởi bung: miệng tan hoang, tóc sổ
lồng, ngực đi chơi lung tung, trái tim nhảy nhót, mông bành trướng
và đôi bàn chân rộng dài.
Hồng, hàng xóm xế bên trái tôi không có thời giờ tận hưởng từng nét
đê mê trầm đục, từng nét hoan hỉ dịu dàng, chậm, dài, cổ lỗ của đại
từ nàng. Y là người của thế kỉ hăm mốt lúc nào cũng bận. Y gọi Sến
là ả giữa hai hơi thuốc. Ả, phả ra, ả, phả ra, ngắn thôi, nhanh
thôi, tốc độ cao, y không chấp nhận những đại từ dài loằng ngoằng,
cứ theo y thì có thể lược đi hồn Việt trong chín mươi chín phần trăm
đại từ nhân xưng Việt, cho dân Việt được rảnh tâm mà thần tốc tới
văn minh. Y lấy chuẩn là tiếng Anh. Nhưng mẹ kiếp, xin lỗi bạn đọc,
she đếch phải là ả. Vậy là ả vọt ra giữa những vòng khói thơm, thơm
quá đáng theo khứu giác của tôi, thơm không lương thiện chút nào,
thơm bằng tất cả thu nhập gia đình tôi gộp lại. Cho nên tôi hình
dung ả, con điếm ấy, uốn éo rẻ tiền quá chừng trong điệu lắc các
vòng khói. Tiết mục mới của gánh xiếc Erotica. Khói vờn như lụa xanh
ngang hông ả, ả đánh sang trái, ả đánh sang phải, ả bật lên bật
xuống tanh tách như công tắc điện, cộng thêm hai tay học đòi vũ nữ
Chàm ngoe nguẩy. Rồi khói tuột đi, cái hình tam giác tươi thắm của ả
hiện nguyên hình tam giác quỷ, nhảy múa man di trong căn hộ văn minh
tiên tiến của thằng trẻ trai. Y lại phả ra. Bây giờ khói trườn như
rắn theo dốc cao khe sâu điên rồ nơi ngực ả, ả nâng vai trái, ả nâng
vai phải, ả rũ ra trước ra sau như con rối Thăng Long. Rồi khói lại
tuột đi, hai trái tròn hớn hở của ả dập dềnh khôn nguôi, cộng thêm
đôi núm chực làm sứ giả của Hồ Xuân Hương ngoáy thơ vào vũ trụ. Tôi
thấy ả khúc khích mơn trớn. Làm như y có thể ngưng hút, làm như ả có
thể từ đám vần vũ khói mây nhẹ đậu xuống chiếc sofa phơn phớt hoa
leo, đậu chính xác giữa y và vợ, một thiếu phụ miệng ngậm tăm, sống
lưng và cần cổ thẳng tắp bất động: kẻ thôi miên chẳng phải ai xa lạ,
là chiếc vô tuyến. Sony, 36 inch. Thứ đó ở nhà ả không có, lũ chúng
tôi còn lại không có. Nhưng y không ngưng hút, không bao giờ. Thứ đó
ở y bất li thân như hương phấn đàn bà. Y chìa những điếu thuốc ra
bắt tay người ta, một lúc có thể cả hai mươi ngón đắt tiền trắng
nuột thơm phức. Ai mà cưỡng nổi. Tôi cũng hút. Cả nước ta đàn ông
hút thuốc tràn cung mây, nicotine là niềm an ủi còn lại cho thằng
trai phong kiến xứ mình: chúng ta vẫn ở trên đàn bà một tầng khói.
Nhưng tôi và rất nhiều người khác không bắt tay thơm phức trắng nuột
như y. Tôi lại thấy ả thoắt gỡ điếu thuốc từ tay y, rồi kênh ngón út
và ngón áp út, chúm môi, thở phù phù như các nữ diễn viên miền Bắc
vào Sài Gòn đóng vai ăn chơi. Rõ là sành điệu. Rõ là vùng lên nam nữ
bình quyền cho đúng với xã hội tiến bộ. Vẫn môi chúm ấy, ả bĩu sang
tôi: nghe chưa, không ai đời đi ghen ăn tức ở, rởm lắm. Ả nói phải.
Ả không thôi khua đôi guốc cuối thế kỉ trong bụng tôi.
Thân, hàng xóm xế bên phải tôi, gọi Sến là cô ấy. Trọng tâm dồn về
phía sau, nên với ông, Sến chủ yếu là ấy. Nghe khách quan lắm, không
ai bắt bẻ được. Nghe mơ hồ lắm, không ai xác định được. Bao nhiêu
uyên bác và nghệ thuật sống ông gói vào một đại từ chỉ người đàn bà
lẽ ra không nên xuất hiện trong phần đời còn lại của ông. Ông già
này thuộc trường phái sống gián tiếp. Ông định nghĩa cuộc sống, rồi
sống những định nghĩa của ông về cuộc sống. Thường là những định
nghĩa phức tạp xen nhiều tiếng Tây, riêng các mệnh đề được nối vào
nhau như thế nào đã gây đủ ấn tượng lạ hoá. Đây là kiểu người ra vào
bách khoa thư nhiều hơn cửa nhà mình, chết nhiều cái chết hơn mức
chuẩn ở một người bình thường. Có lẽ ông cũng thám hiểm mặt trăng
thường xuyên hơn Mĩ và Liên Xô gộp lại và thuộc hơn bản thân các vị
Bồ Tát sự tích đức Thích Ca. Trường phái sống gián tiếp có những ưu
thế hiển nhiên, cho nên tôi quyết rằng sự uyên bác của ông trong vấn
đề đàn bà phải hơn đứt lũ trai lơ. Nhưng ông hàng xóm kì tài của tôi
không có cách nào xác định người đàn bà tầm thường, cụ thể, sờ mó
được, đo đếm được, lột truồng ra được, là Sến. Ông không thể khà ra
ấy như Đoài, không thể phả ra ấy như Hồng. Ông rên ra ấy. Ấy vừa
thoát ra khoải khuôn miệng ông đã vội lẩn vội hoà hút vào một đường
hầm ẩm, thấp, dài ngoẵng, đùng đục sáng. Là căn hộ được bao cấp của
ông. Tôi nói không ngoa. Mỗi tầng cầu thang có bốn căn hộ, được bao
cấp được chiếm đoạt xâu xé như nhau, quây thành hình hai cái thước
thợ như thế này:
Nguyên ----- Đoài
Thân ------- Hồng
cầu -------- thang
Tôi ở trong một cái hộp diêm méo mó, đồ đạc để thẳng mà nghiêng.
Đoài cũng trong một cái hộp diêm, nghiêng theo chiều ngược lại. Thân
trong một đường hầm. Hồng cũng trong một đường hầm, nhưng y đã phá
tung và vươn mạnh ra ánh sáng. Chúng tôi bán anh em xa mua lấy sự
gần gũi của nhau và rắp tâm ngủ với cùng một người đàn bà. Tình xóm
giềng quả có hơn tình ruột thịt.
Nhưng hãy quay lại với ấy trong cái ống dài ngoẵng phía bên phải
tôi. Người ta sẵn nghĩ, ở thành phố này người ta sẵn nghĩ, nhà tập
thể là một cái gì chồng đống, người xe chó lợn guốc dép và các thiếu
nữ của tờ lịch giẫm đạp lên nhau mà sinh tồn. Ứng vào hàng xóm xế
bên phải tôi thì bức tranh ồn ào đó có phần hơi quá sinh động. Nơi
ông ở chỉ có những hạt sáng đùng đục đè lên nhau bất động và âm
thầm, thỉnh thoảng một chiếc nón, hai ba cái túi vải khâu tay treo
thật ngăn nắp làm nên những đường gồ hiện thực. Đó là tất cả. Tôi
mạo muội nhắc bạn đọc tạm cất đi hình ảnh cố hữu, hễ trí thức lớn
như ông Thân là ngồi bên giá sách khổng lồ. Ở đây không như vậy. Có
trí thức lớn nhiều sách. Có trí thức lớn ít sách. Ở nước ta loại thứ
hai phổ biến hơn vì những lí do tôi nhường cho bạn đọc tự tìm hiểu,
chỉ xin mở ngoặc là một vài học giả người Việt ở nước ngoài có phần
nghi ngờ sự đọc của ông Thân, ở ông phần chú giải và sách dẫn xem ra
nghèo nàn chểnh mảng lắm. Nhưng quả thật, tác giả nào, nói ở sách
nào, trang bao nhiêu, dòng thứ bao nhiêu, xuất bản năm nào và ở đâu,
đối với một học giả suốt đời ngồi ở Hà Nội không mấy quan trọng. Bạn
đọc sẽ còn có dịp nghiệm ra những khiếm khuyết khác của một thiên
tài, trong mọi khiếm khuyết thì cứ theo thiển ý tôi việc bỏ sót vài
ngàn quyển sách được in trên toàn thế giới không đáng gọi là trầm
trọng. Trong ánh sáng bại liệt tâm thần nơi đây, tôi thấy Sến khẽ
khàng như hộ lí, ngón trỏ đặt lên môi, mắt trừng nghiêm khắc suỵt
tôi: nghe chưa, không ai đời đi thương hại, rởm lắm. Ấy lại nói
phải.
Tân, con trai ông Thân, gọi Sến là elle. Đủ, con trai Đoài gọi Sến
là bây bi, là con nhỏ. Tôi xin dành một chương sắp tới cho hai cậu
ấm này.
Tôi gọi Sến là Marie, Marie Sến. ( Ở cuối sách có lời giải thích
phần nào cho cái tên này. )
Sáu chúng tôi đều gọi Sến là em. Sến cũng xưng em. Đàn ông xưng anh
đàn bà xưng em là tính cách Việt. Sáu mảnh đàn bà nơi em đem về khu
tập thể này khâu thành một khối tình chung. Một khối tình chung xẻ
ra chia cho mỗi nhà, tôi một, thằng Hồng một, cha con Đoài hai, cha
con ông Thân hai, là sáu miếng. Chia làm sao cho đều? Ngay từ đầu
Sến đặt chúng tôi sáu thằng đàn ông đồng thời vào một cuộc chạy đua
giành phần nhiều hơn kẻ khác và một cuộc phấn đấu cho công bằng, thế
là chúng tôi được làm sáu thằng si tình tiến bộ nhất trong lịch sử.
Nhưng trước khi kể về tiến bộ và tai hoạ của tiến bộ, tôi phải thuật
lại việc Sến bỗng nhiên xuất hiện như thế nào.
Chương 2: Đồng nghiệp. Những cái tên
Năm thằng cùng câu cơm ở một Viện và thằng thứ sáu cũng suýt như
vậy.
Ở Viện mỗi người có một chỗ ngồi cố định các buổi sáng thứ hai và
sáng thứ năm. Phụ nữ ngồi thành một hàng ngay sát cửa ra vào thứ
nhất. Họ là những thực thể cong cong, không bao giờ thẳng người đi
qua đám đông, thẳng người chắc sợ đôi trái quý trên ngực treo chênh
vênh quá. Họ là những vũ trụ tà tà, không bao giờ đến sớm để ngồi
vào một chỗ tử tế, chỗ của họ tiện nhất là sát cửa. Mười lăm nữ đồng
nghiệp của tôi, áo sơ mi bỏ ngoài quần tây, tóc uốn lưng lửng, túi
Sài Gòn trên đùi rung rung, giày Trung Quốc hờ dưới chân, mười lăm
quả trứng của mẹ họ, Âu Cơ, giống nhau và huých nhau, mười lăm chị
em đầy triển vọng. Họ vừa nghe ông Viện trưởng vừa cắt móng tay cho
mình và cắt móng tay cho nhau, nếu không thì âu yếm ngả vào vai nhau
và khe khẽ rên rỉ bởi một chiếc dây chuyến chính hiệu Phượng Hoàng
và một quai nón lụa sáng thứ hai tuần trước sáng thứ năm tuần trước
chưa thấy xuất hiện. Một lúc nào đó thể nào ông Viện trưởng cũng
gắt: “Thôi không nói chuyện riêng!” Một lúc nào đó ông Viện trưởng
lại phát bẳn: “Ơ mấy cô này đã bảo!” Thỉnh thoảng một trong số mười
lăm chị em cũng đứng dậy, tôi xin có ý kiến, rồi thế nào đó lại em
có ý kiến, và gặp mắt ông Viện trưởng thì cháu có ý kiến. Ôi những
nàng tiên trí thức, tôi không thích họ đứng dậy có ý kiến chút nào.
Suốt hai chục năm, một ngàn hai chục sáng thứ hai, một ngàn hai chục
sáng thứ năm, không bỏ sáng nào, không nghỉ phép sáng nào, tôi chưa
từng nghe thủng một ý kiến của cái phái-sát-cửa đó. Cái giọng kim
của các tôi, các em, các cháu đó không ở yên một tình cảm, lúc thì
lí nhí quẩn quanh mãi không ra khỏi
tôi-cho-rằng-cái-vấn-đề-này-nói-chung-là-vậy-thì-chúng-tôi-cho-rằng-em-thấy-cháu-nghĩ,
lúc thì hùng hồn như hắt vào mặt người ta, cộng thêm ngón tay trỏ cứ
đâm cứ chọc về phía trước, mắt trợn, môi cong, răng tràn ra ngoài;
lúc lại kể lể dài dằng dặc toàn những chuyện không ai nhớ nổi, từ
thuở hàn vi Viện còn về Thái Bình mua lợn rẻ mổ chia nhau từng khấu
đuôi để cải thiện ô phiếu, đến thuở chiến tranh nhà cửa, đồng chí
này nhảy dù vào nhà đồng chí kia trong khi đồng chí Viện trưởng ở
nước ngoài chưa về còn đồng chí Viện phó bận thi minimom(1). Cứ như
thế. Không tài nào nghe thủng. Khi phái-sát-cửa đứng dậy có ý kiến,
đứng dậy đặt nón, để túi, vuốt tóc và cất lời, là tôi hoảng sợ. Họ
là những thực thể những vũ trụ quá riêng biệt, chẳng ra đực, chẳng
ra cái, giọng thì kim mà từ ve cổ sơ mi xuống tít gấu quần tây lại
thẳng đuỗn một mạch.
Tôi thật không muốn bị coi là phản động trong vấn đề giải phóng phụ
nữ, không, tôi cũng ưa lắm những đàn bà đi lại tự tin trong cuộc
đời, vừa đi vừa đánh mông kiêu hãnh, nhưng tôi chẳng có lỗi gì khi
phát khiếp những cán bộ nhà nước vốn là giống cái. Họ bình quyền
bằng cách bán sạch những ưu điểm của đàn bà để mua về những khuyết
điểm của đàn ông; họ bình quyền bằng nhẹ dạ và ngu lâu; họ giúp cho
những thành kiến của chúng ta về đàn bà thọ dai hơn; và một lúc nào
đó khi ta đã quen sống với họ, thì thôi thôi, hết đường mơ về những
nàng tiên. Mười lăm triển vọng như thế bày sát cửa mỗi sáng thứ hai
và sáng thứ năm theo tôi là đủ nạo sạch âm tính của cả tuần. Cả tuần
đực rựa lười thối thây và phét lác. Mồm thối hoăng thuốc lào. Cả
tuần tâm hồn không động đậy, dương vật buồn thiu. Mỗi ngày teo đi
một ít giới tính. Tôi phải mạo muội dài dòng như vậy để bạn đọc hình
dung tốt, khi khối tính nữ đầm đìa là Sếp ập đến như mưa lớn thì hồn
chúng tôi mở toang ra hứng như thế nào.
Còn lại là đàn ông, năm mươi chiếc mũ nồi mùa đông, năm mươi đôi dép
lê mùa hè, bốn mươi điếu thuốc cùng một lúc, năm mươi chiếc gậy
chống của cha họ, Lạc Long. Tính tập thể lả một cái gì sâu xa hơn hệ
tư tưởng.
Sát cửa ra vào thứ hai là phái giáo sư và phó giáo sư, xin gọi chung
là giáo sư để các vị phó đỡ cảm thấy bị miệt thị. Chín giáo sư của
chúng tôi ngồi hơi chật trên chiếc ghế dài có từ thuở mới thành lập
Viện, vài ngày sau giải phóng thủ đô, là sản phẩm cuối cùng của một
hãng Cự Phát, Vĩnh Thịnh, Đại Sinh nào đó trước khi hãng ấy trở
thành Đoàn Kết, Nam Tiến, Toàn Thắng, trông nó nửa tràng kỉ Tàu, nửa
ghế băng Tây, không có chút gì của an toàn khu, nhưng tên nó là ghế
Việt Bắc. Những sáng lập viên đáng kính của Viện đã thai nghén cái
Viện này ở trong rừng, đã dìu dắt những bước đi đầu tiên của toàn bộ
nền khoa học xã hội trong toà biệt thự Tây này, đã mua sắm những đồ
gỗ đầu tiên theo khiếu thẩm mĩ của họ và theo túi tiền của nước cộng
hoà non trẻ. Họ đều đã khuất, nhưng những chiếc ghế Việt Bắc còn đó,
cùng với cái bàn tròn Liên Khu ở tầng hai và ở hành lang cái tủ
gương Sông Đuống mà tên thật nhưng không ai gọi là Bên Kia Sông
Đuống, bộ vật linh của Sử, Địa, Văn khai sinh ra Viện chúng tôi sau
này. Chúng còn đó, vượt qua mọi chiến dịch thanh lí tài sản công
cộng mà anh hàng xóm-đồng-nhà-quê của tôi chủ mưu. Hoá giá những mẩu
vật lịch sử vô thừa nhận là sở trường của chúng tôi, nhưng chúng tôi
không dại đụng vào lịch sử của một Viện viết sử. Anh cán bộ thoát li
Đoài, trưởng phòng hành chính, không có tính tiêu hoang. Ghế thì anh
ta mua loại bôi phẩm vàng rùng rợn ở đê La Thành. Tủ thì chọn những
chiếc mở ra không đóng vào được nữa. Vài năm một lần trong chương
trình “Xây dựng nhỏ, sửa chữa lớn” chúng lại được mang ra thanh lí
theo giá mềm. (Tôi mua tủ trong một chương trình như thế, trừ vào
lương. Sáng sáng tôi đứng trước gương xem Hâm Lét hỏi “Lấy tủ hay
không lấy tủ”). Cho nên ngồi ghế Việt Bắc là biểu thị một cái gì hơn
cả học vị học hàm, một cái gì được truyền thống phù phép vào hiện
tại. Ở đó, lưng ngả và đùi bắt chéo, phái giáo sư có cái vẻ ung dung
thư giãn không thể bắt chước của những người đang thoải mái thả hồn
đi chỗ khác. Họ không nói chuyện riêng như phái Âu Cơ. Không ai trao
đổi với ai điều gì vì đơn giản các vị biết nhau quá rõ. Giáo sư này
sẽ tử thủ với quan điểm có hình thái chiếm hữu nô lệ ở Việt Nam, ồ
không phải hiện tượng suông mà thôi, une formation, một hình thái,
chắc chắn là một hình thái, với mọi đặc điểm. Dẫn Mác. Giáo sư kia
thì kiên quyết phủ nhận, không, không phải hình thái, có thể một
phương thức thôi, un mode, một phương thức. Và dẫn một Mác khác, hẳn
là khác, Mác sờ, nghĩa là Mác bằng tiếng Tây. Giáo sư kia nữa sẽ
không ngừng hoài nghi, có hay không có? Chiếm hữu nô lệ hay không
chiếm hữu nô lệ? (Tôi xin nhắc bạn đọc là cho đến giờ phút này, mọi
nghiên cứu thuộc lãnh vực khoa học xã hội - gần đây có người bắt đầu
gọi tên mới là khoa học nhân văn - vẫn không ra khỏi năm hình thái
của Mác, cũng như mọi phép thần thông của Tôn Ngộ Không chẳng ra
khỏi năm ngón tay của Phật vậy). Có vua Hùng hay không vua Hùng? Tư
sản dân tộc có hay không là một giai cấp? Người Việt cổ có chữ viết
hay không? Mai Thúc Loan có vợ là nữ tướng hay không có? Những câu
hỏi “Có hay không” phủ lên khắp các công trình khoa học một sự hồi
hộp ghê gớm, chúng tôi gọi là sự kiện khoa học, còn trên bục hội
nghị thì chúng ngân vang, chúng buộc cử toạ phải chọn lựa cấp bách,
cứ như bị Hâm Lét hét vào lỗ nhĩ. Lấy tủ hay không lấy tủ!
Lưng ngả, đùi bắt chéo, nhưng mũ cầm trong tay, cặp ôm trước ngực,
lời xin lỗi trên môi, phút trước phút sau các giáo sư đã thuộc về
một cuộc họp khác, một cuộc gặp khác, mọi cuộc đều sáng thứ hai và
sáng thứ năm. Họ khuất nhanh sau cánh cửa khép hờ, mỗi lần ông Viện
trưởng bỏ kính xuống và đeo kính lên là một giáo sư của ông ra đi,
với vẻ đàng hoàng không thể bắt chước của những người có vô khối
việc quan trọng đang chờ. Khi bản độc thoại đầu tuần và giữa tuần
của ông Viện trưởng kết thúc, chiếc ghế Việt Bắc thường còn đó, ấm
hơi các giáo sư, nhưng các giáo sư thì đã không cánh mà bay. Hơn ở
bất kì đâu, nơi đây sự lặng lẽ biến mất của các nhà khoa học xã hội
bằng cách này hay cách kia đã thành thông lệ.
Giữa hai cửa là một khối chữ nhật khổng lồ xếp bởi ba chục chiếc bàn
lẻ gọi là bàn cá nhân. Gọi là hầm cá nhân cũng được, chúng là những
khối sắt sơn màu xanh lá cây có thể chịu đựng nhiều đợt bom tấn, mỗi
khối hở ra một hộc với vỏ cam, dép trẻ con, phất trần, đầu lọc thuốc
lá, túi nhựa Liên Xô, bơm xe đạp, chén uống trà và những mẩu giấy vo
tròn. Ba chục cá nhân chung lưng sát cạnh vào nhau, mấy tấm khăn
trải giường phủ ào lên mỗi năm ba lần: đại hội công nhân viên chức,
tổng kết cuối năm, và ngày sinh của Viện trưởng, thế là chúng tôi có
chiếc bàn khổng lồ của một tập thể vững mạnh. Ở khoảng giữa cạnh dài
của chiếc bàn ấy, chỗ một chiếc cột lớn lồi ra chia đôi gian phòng
là ông Viện trưởng, độc thoại, đầy nhiệt huyết, ho, gắt, e hèm, bỏ
kính xuống và đeo kính lên, gõ tay xuống mặt bàn, thỉnh thoảng cũng
cười, thỉnh thoảng như van các đồng chí, không có gì thuộc về con
người mà xa lạ với ông. Đối diện ông bên kia bàn, cũng một chiếc cột
lớn lồi ra là Viện phó trẻ trung lịch sự và thích nịnh đầm theo kiểu
trang nhã dí dỏm. Tuỳ thuộc vào chỗ đứng của Viện phó hay Viện
trưởng mà các nhóm còn lại có thể coi như cánh tả hay cánh hữu luân
phiên nhau. Hồng luôn ở cách Viện trưởng một sải tay. Ông Thân khuất
sau một trong hai chiếc cột. Đoài hộ tống viện phó. Thằng Tân con
ông Thân tháp tùng phái giáo sư. Tôi canh cửa sổ. Riêng thằng Đủ con
ông Đoài lúc này đang đi thăm chợ người, chuyện đó tôi sẽ kể sau.
Chúng tôi, khối quần chúng vừa tả vừa hữu, ngồi nghiêm như chim Bắc
cực trên những chiếc ghế gỗ vàng nhợt quanh bàn, bám vắt vẻo trên
thành cửa sổ như dơi, đứng dọc tường như bồi, bận rộn châm thuốc và
rót nước, chăm chú nhổ râu, lơ đãng lướt trên những dòng tin mật của
Việt Nam thông tấn xã, và liu riu ngủ để choàng dậy sau mỗi hồi
chuông điện thoại.
Chỗ của tôi sát cửa sổ, có thể nhìn rõ chiếc điện thoại duy nhất của
cả Viện đặt trong phòng hành chính ở dãy nhà ngang vốn dành cho
thằng bếp con sen thời chủ cũ. Nhà tiểu tiện nam và tiểu tiện nữ
nước dầm dề, cửa luôn mất móc ở ngay sát đó, có thể từ đấy cùng nghe
các cuộc điện thoại với lí do chính đáng. (Từ buổi có Sến trên đời
biết bao lần tôi uống căng một bụng nước trà để bước vào chỗ đó luôn
luôn. Tôi xả cái ghen ngầm mất dạy của tôi ra tồ tồ, rồi lại lùi lũi
như mê về phía quán nước).
Những sáng thứ hai và sáng thứ năm cái điện thoại tra tấn chúng tôi,
chúng tôi tra tấn nó, say sưa, đôi bên đều ngấm bạo dâm. Mỗi lần nó
réo, nếu bác lao công trực ban quá bộ leo nửa cầu thang đến tận
phòng họp thì ấy là điện cho một trong ba vị duy nhất ở Viện được
bác kính nể: Viện trưởng, Viện phó (là đương nhiên) và ông Thân (vì
biết rõ ông vốn là con quan tri phủ), lũ còn lại chỉ đáng thưởng
cách bác nhấc máy lên, quát một tiếng “Chờ !”, rồi quăng ống nghe
xuống mặt bàn, sải ba bước ra sân, chõ lên cửa sổ phòng họp gầm một
cái tên là hết. Lũ trí thức chúng tôi vừa sợ vừa nịnh bác lao công,
anh lái xe và đặc biệt là cô thủ quỹ hơn sợ và nịnh Viện trưởng.
Viện trưởng còn có thể bầu được, Viện trưởng cần chúng tôi theo một
nghĩa nào đó, và Viện trưởng có nhiều thứ để mất, trong khi họ,
những thần linh cáu kỉnh kia, những nhân dân kia – làm như chúng tôi
không là nhân dân! – hoàn toàn bất khả xâm phạm.
Từ cửa sổ tôi truyền cái thông tin bề trên cụt lủn của bác lao công
đi sao cho liên minh giữa trí thức và vô sản được tự nhiên hơn. Tôi
được cái thích thú vô tận dõi theo các cuộc điện thoại từ khoảng
cách mươi mét sân. Mấy cô tre trẻ thì nói rõ lâu, cái cục nhựa đen
sì như mọc thẳng ra từ tai, hoà vào mớ tóc đen hất lên hất xuống,
miệng như dán như hôn vào không nỡ rời ra nữa, các cô ừ các cô vâng
đứt quãng, người ta bảo các cô sống bằng tai là có lí. Mấy mợ nạ
giòng thì liến thoắng tao bảo này mày biết không, xoe xoé, cho tôi
nhẹ người rằng vợ tôi ở nhà không phải trường hợp cá biệt, rồi sau
trăm ngàn lần thôi nhé lại vẫn à tao bảo này, lại dài hàng thế kỉ.
Đàn ông ngắn gọn hơn. Thằng thì đùn ra một tràng dạ dạ vâng dạ vâng
vâng dạ rồi đặt máy. Thằng thì nghiệm trọng ghi chép cảm ơn tạm
biệt. Thằng nữa reo lên rồi hạ giọng quay lưng lại tôi. Có thể nhìn
chúng nó nói cười nhăn mặt và dạ vâng mà biết chắc đầu dây đằng kia
là cái gì.
Tôi tự hỏi đầu dây đằng kia là cái gì mà Đoài cứ cười tủm, xưng anh,
sau trăm ngàn lần thôi nhé vẫn ôm ghì mân mê cái cục nhựa đen sì một
sáng thứ hai rồi lại sáng thứ năm. Tuần đó vừa qua kì lương, hẳn
không là mấy cô ngân hàng mà Đoài vừa nịnh bằng hoa quả tươi và kẹo
Thái trích từ quỹ công vừa rủa sau lưng. Hắn nịnh nghe thối hơn cầu
tiêu công cộng Bờ Hồ. Thằng cha đồng-nhà-quê đơ như đũa này cũng
liếc con gái Hà Nội, nhưng tháng tháng nhảy xe về Tứ Kì, lúc lên vợ
giúi cho gạo mới, khoai tây, gà con, trứng tươi. Hậu phương vững
chắc của anh chàng cho tôi thấy mình là loại hiện sinh chông chênh,
ở thì chân không đạp đất đầu không chạm trời, ăn những thứ vô loài,
chết chẳng xuống cõi âm mà vào lò điện. Cứ theo thiển ý tôi thì đời
cán bộ thoát li như hắn là lí tưởng.
Tôi bèn đi tiểu. Bên ngoài giọng Đoài thậm chí ỏn ẻn: “Nắm núc cũng
buồn, ừ, nhưng biết nàm sao được, đời nà thế mà, ừ, thôi nhé, núc
nào gọi nại”. Mẹ kiếp, hắn còn triết lí nữa, triết lí bằng cái lưỡi
Tứ Kì của hắn. Tôi bước ra ngoài, kéo khoá quần lên. “Heèm, heèm.”
Đoài vẫn cười tủm một mình. “Em nào thế?” Đoài giật mình, cả cái nền
nâu sậm đồng-nhà-quê vụt đỏ tưng bừng: “Em đâu mà em cái ông này
ninh tinh!” Tôi cứ tưởng anh ta sẽ chối lấy lệ, rồi sẽ nhướng nhướng
lông mày cho tôi tự hiểu rằng, không chỉ lũ trí thức bụng đầy chữ
trái tim đầy éo le tụi bay mới biết ngoại tình. Vài năm trước Đoài
làm quen được với một gái công trường, đưa đi chơi đêm trên chiếc
Mifa mới sắm, cô nàng đánh rơi một chiếc dép để anh ngố ga lăng mò
xuống nhặt rồi tất nhiên cả bướm lẫn xe đều bay. Thời ấy Đoài còn
nằm giường tập thể, đêm ngủ tròng xích vào cổ chân một đầu và đầu
kia quấn mấy vòng khoá lấy cổ xe cho an toàn. Cả đồn công an cười
đểu, chẳng đồng chí nào buồn đi tìm cô Tấm đánh rơi hài. Những buổi
tán phét thời đổi mới, chúng tôi nhao nhao đánh đĩ mồm, thỉnh thoảng
Đoài cũng rặn ra dăm ba câu bày tỏ khí phách. Suông tình thế thôi.
Tinh lực bỏ ống đem về Tứ Kì cho u nó.
Tôi hỏi: “Ông làm sao thế?”
Đoài đáp: “Chẳng sao. Nắm núc dở hơi.”
“Này, núc nào gọi nại?”
“Mẹ cái thằng này.” Anh ta văng ra thế rồi đi. Vài ba năm trước,
chúng tôi nói năng lịch sự, tư cách người nào cũng hoàn hảo, cùng
gọi nhau là đồng chí. Bây giờ thì mày tao ông tôi con thằng nó chúng
nó anh em chú cháu, rồi lại cái mốt ngộ nỉ bắt đầu lấn mốt ma đam mơ
xuya nữa. Và văng tung toé. Trào lưu mới không chừa cả anh cán bộ
thoát li sợ nói tục như sợ chính cái nông thôn sinh ra mình. Đoài sẽ
mừng rơn nếu tôi tiết lộ rằng dân Hà Nội nói ngọng và chửi bậy nhất
nước Việt văn hiến. Chúng tôi xích lại gần cuộc sống hơn. Chúng tôi
đoạn tuyệt với gần bốn chục năm đạo đức giả. Chúng tôi trẻ hoá nền
khoa học xã hội xơ cứng. Chúng tôi trưởng thành. (Chưa bao giờ Sến
coi lũ chúng tôi, thằng Đoài thằng Đủ thằng Hồng thằng Nguyên thằng
Tân và thằng Thân là trưởng thành. Chúng tôi nói bậy, chúng tôi đánh
đĩ mồm thập phương, chúng tôi làm hết mọi khả năng, tất cả chúng tôi
gộp lại thì ghê gớm lắm, sao em vẫn chưa vừa lòng?)
Vài tuần sau cú điện thoại khác thường, Đoài mời tôi sang nhà uống
một chén trà, anh ta không giấu nổi em trong lòng nữa, em phải hiện
ra, là nàng, là nàng, nàng của anh ta, n-à-à-n-g, giữa bốn bức tường
nghiêng theo chiều ngược lại tường nhà tôi. Khi đó tôi vẫn chưa biết
em là ai. Tôi chỉ nghĩ thầm, thị nào đi với thằng cha này nếu không
ế sưng thì cũng lại đánh rơi dép mà thôi. Nhưng tôi vẫn ngồi nghiêm,
nhấm nháp chén trà nóng bỏng và cái tâm sự sôi sùng sục của ông hàng
xóm. Sét ái tình đánh trúng anh ta ở chợ Bưởi:
“Nàng đi mua cây cảnh, ông ạ, nhà nàng có ban công. Nàng mua một bụi
nhài. Nàng hỏi đi hỏi nại con mụ bán hàng, nàng chưa trồng nhài bao
giờ, nàng sợ nó chết, nàng sợ nó không ra hoa, không hoa thì còn gì
nà nhài. Con mụ bán hàng thì một điều hai điều nhài của tôi nà nhất
chợ. Nàng mặc váy ông ạ. Cả chợ chỉ mình nàng mặc váy, thế mới nà
nhất chợ. Tôi can thiệp ngay. Ông biết rồi đấy, nhà tôi dưới quê gì
chứ nhài thì. Tôi chọn cho nàng một bụi, trông thì không ra gì nhưng
sẽ đầy hoa. Tôi giải thích cho nàng, vấn đề không phải nà cái hình
thức. Nàng nhìn vào túi đi chợ của tôi, có mớ rau với hai bìa đậu.
Nàng hỏi nhà tôi ăn ít thế à. Tôi bảo tôi có một mình. Nàng bảo
ngay, ông ạ, tôi thề, nàng bảo hôm nào nàng sẽ đến tôi chơi, chắc
nhà tôi nhiều cây cảnh lắm. Tôi cho nàng số điện thoại ở Viện.”
Tôi hỏi: “Thế thôi à?”
“Còn nhiều, hôm nọ nàng gọi điện, nàng nại muốn đi chợ Bưởi mua ngọc
nan ông ạ, ngọc nan nà cái giống khó trồng nắm, nàng hẹn tôi cùng
đi, xong về nhà nàng trồng, nàng bảo, anh nhiều kinh nghiệm, trồng
giúp em nhé, ông bảo có chết không!”
Tôi bảo, chết thế quái nào được và cảnh cáo anh ta rằng ngọc lan
trồng ban công là hỏng.
“Tôi cũng đã bảo nàng thế, nhưng bướng nắm cơ, bướng nắm.”
Tôi hỏi, thế tên là gì.
“Sến.”
“Cái gì?”
“Sến.”
Tôi bảo, tôi hiểu cả rồi, các vị đẹp đôi đấy.
“Thì tôi có cái ninh cảm.”
Tôi hỏi, ông có biết Marie Sến không? Anh ta nhăn mặt, lắc đầu. “Bên
Tây à?”
“Ừ, bên Tây.”
Bây giờ tôi lại mạo muội nhắc bạn đọc, là người Việt thì cái tên
quan trọng hơn cái chứng minh thư. Bao nhiêu tính người bao nhiêu
tình đời chúng ta đem chở cả vào tên. Là người Việt thì đeo tên nào
là chỗ để sống và chỗ để chết đều đánh dấu sẵn. Kẻ ngu thì tên là
Minh là Tuệ. Người sáng thì tên là Mặc là Ô. Một thời đại tên Đĩ tên
Cu tên Cột Kèo. Một thời đại tên Du tên Khiêm tên Quát. Một niên đại
tên Sinh, Vượng, Cự, Lộc. Một thế hệ tên Chiến, Thắng, Quang, Vinh.
Những người đàn ông đàn bà tên Hiệp Định, Hoà Bình bây giờ đã ngoại
tứ tuần. Những đứa trẻ tên Thống Nhất, Độc Lập bây giờ vừa đôi mươi.
Bạn sẽ làm gì với một nàng tên Mộng Điệp? Tôi chắc nàng ấy thường có
nhu cầu đi xi nê! Bạn sẽ làm gì với một nàng tên Tuyết Trinh? Nàng
ấy đẻ vô nhiễm thì bạn tha hồ mà huýt sáo cao thượng! Các nhà văn
của chúng ta đặt tên nhân vật mới cẩu thả làm sao. Các chính khách
của chúng ta mang những bí danh mới khôi hài làm sao. Chó mèo trong
nhà ta dạo này toàn tên Tây. Các nhà buôn thì xướng tên hãng tên
hàng như gió rít mệt qua vòm họng An Nam mỏng mảnh:
vi-na-ích-tờ-ếch-xờ-tờ-cô-ba-min-úc-nồiđồngnấuốcnồiđấtnấuếch-xờ-tờ.
Năm đứa con Đoài, bốn gái một trai, tên một lèo là Hạnh, Phúc, Thế,
Là, Đủ. Hồng đặt tên hai mụn con gái là Bội Lan và Bội Hoàn, y mê
mẩn tất cả những gì dậy mùi quý tộc, để trừ vào cái lỗi của lịch sử
không triều vua nào chịu vào xứ Nghệ đóng đô. Hai con gái tôi là Thị
Vân và Thị Kiều, tôi nghĩ gia tư mình còn thua xa thường thường bậc
trung nên bỏ phắt đi hai chữ Thuý. Ông Thân có một con trai duy
nhất, tên nó là đắng cay khổ sở, nhưng người ngoài có thể hiểu là
mới mẻ mừng vui, Tân, là vô vọng của ông, hoặc nếu muốn xin cứ hiểu
là hi vọng.
Tôi là Nguyên. Vợ Đoài tên Đông. Vợ Hồng tên Chuyên. Vợ Nguyên tên
Phần. Vợ Thân tên Mùi. Nghe đã thấy buộc vào nhau. Tân và Đủ chưa có
vợ.
Em là Nguyễn Thị Sến. Nếu Đoài tiết lộ một cái tên khác, Lan Hồng
Cúc Phượng…, có lẽ mọi chuyện tôi sắp kể sẽ không xảy ra. Ngồi bên
anh hàng xóm tôi lập tức thấy mình khịt mũi đánh hơi như con chó
cảnh sát, ngửi một cái tên rơi ở hiện trường. Sến. Mùi mẫn lắm, kiểu
mùi mẫn Nam Bộ hồn nhiên dậy màu U Tình Lục, không phải cái em chã
đỏng đảnh của dân Bắc. Còn Nguyễn là họ của người Việt đi Nam tiến,
nhưng từ em ngược đến Nguyễn Hoàng cũng xa chẳng kém từ tôi truy lên
một Mã Viện Nhân, chúng ta đơn thuần là người Việt trên đất Việt,
không quan hệ tới bài ca khai hoá và xâm lược. Tên ấy nói rằng cha
em không mở sách thánh hiền tìm cho em một quý danh, thầy cúng không
xin ý quỷ thần ban cho em một thuận lợi. Tên ấy rơi ra như em tọt từ
bụng mẹ. Tôi đoán tổng cộng mười giây, ngay trên đường tập kết ra
Bắc. Không công phu phiền nhiễu gì. Không thơm, không quý, không
mỏng manh yêu kiều. Hàng xóm của em chắc gọi em bằng tên chồng,
chồng chết gọi bằng tên con. Đàn bà như em chẳng là Linh Từ Quốc
Mẫu, sống trên đời đâu bằng tên mình mà dồn vào đấy quá nhiều ý
nghĩa. Cho nên tôi đánh hơi nơi tên em một câu đố, câu đố nào thoạt
nghe cũng giản đơn. Tôi chỉ thêm vào Marie. Với tôi em là Marie Sến.
Cho nên tôi phải đi chợ Bưởi để thấy cô nàng Marie Sến bên cạnh anh
hàng xóm của tôi, rối rít với ngọc lan, váy đỏ rực ôm một eo thiếu
phụ, tóc xoà thiếu nữ, ngực gái một con, giày học trò, túi vũ nữ,
cần cổ phu nhân, vai thợ thuyền, một tổng thể rất Việt, rất lung
tung, nhưng cũng vui mắt như các biệt thự Hồ Tây. Khi tôi lại gần,
chợ rất đông, tôi có thể xác định là Sến đẹp, còn hơn cả đẹp. Mắt,
má, môi, cằm rực rỡ. Mũi dịu dàng. Hai nốt ruồi ý nhị. Đoài bên em
như một thằng hầu. Tôi bên em có lẽ như một thằng hề. Sến ngước
thẳng lên nhìn tôi. Tôi lại xác định thêm rằng em đàng hoàng. Rồi em
cúi xuống với Đoài với ngọc lan. Rằng em tế nhị. Tôi vội bỏ đi.
Chừng ấy phẩm chất một lúc ở cái chợ ngoại thành mùa xuân này!
Từ đó tôi thường xuyên hỏi thăm Đoài, nhài ra sao rồi, ngọc nan ra
sao? Và đi tiểu thật kĩ sáng thứ hai và sáng thứ năm khi bác lao
công trực ban sải ba bước ra sân gầm lên: “Đoài!”
Chú thích:
(1) thi minimom: kì thi cơ sở bắt buộc (trên đại học), gồm triết
học, chính trị, lịch sử Đảng, và lĩnh vực chuyên môn, để sau đó được
phép làm luận án phó tiến sĩ.
Chương 3: Con cái. Hai thí dụ về nổi loạn
Hôm ấy tôi xác định Sến đẹp, còn hơn cả đẹp, nhưng tôi không phải
lòng em. Xin tự giới thiệu: tôi là thằng trai Hà Nội ngại rắc rối,
lười chuyển động, chóng chán, hay bất mãn, mau quên, nên không dễ
phải lòng. Loại trai như tôi vãi đầy đường, nếu thằng nào cũng nhanh
yêu thì chỉ giẫm lên các mối tình vương như vỏ chuối khắp nơi mà
ngã. Nếu thằng nào cũng dế bốc cháy thì Hà Nội là một thành phố
không an toàn. Hà Nội đã quen với đời trầm.
Có lẽ cái chợ ngoại thành hôm ấy và anh chàng Đoài trong bộ cánh tủ
mầu trứng sáo, tóc mới gội, răng mới đánh (tôi sẽ có dịp quay lại sự
sạch sẽ nhấn mạnh, sự sạch sẽ đầy mặc cảm ấy), và có lẽ cái nhàn tản
vô vi của đời cán bộ khoa học nhân văn chúng tôi làm em lộng lẫy hơn
em thật. Vì dăm ngày sau, một buổi trưa tôi đi đón vợ, lật đật xuống
cầu thang suýt đâm sầm vào em. Tôi không nhận ra ngay. Bây giờ Sến
giống hệt mười lăm quả trứng của mẹ Âu Cơ trong phòng họp Viện tôi.
Một cái mũ ni lông đen trắng gài nơ rất to, loại treo đầy ở đầu phố
Bà Triệu. Một món tóc quăn nhân tạo không khác gì tóc vợ tôi trước
và sau khi đến tiệm uốn tóc, trường phái trung niên này yêu nhất sự
bất biến. Một gương mặt nhan nhản trong thành phố, trên đó tôi nhận
ra bàn giấy bẩn, những kì lương hờ, sự tầm thường đội lốt đứng đắn
nghiêm trang, cái nghèo lấp ló sau phấn son khiên cưỡng, cái hèn rúc
sâu trong một tinh thần thoả mãn khó đăm đăm, cái ngu nhảy nhót
trong một vẻ cặm cụi tự tin đến là sốt ruột: gương mặt của công chức
thủ đô. Là gương mặt cũng của chính tôi nhưng tôi không tiện ngả mũ
chào mình luôn luôn, mỗi sáng một lần trong gương nhà là đủ lắm. Rồi
một trang phục thời đổi mới: quần bò Thái, áo thụng Trung Quốc với
những dải những nếp loạn xị ngậu. Cái lãng mạn ở đàn ông chúng tôi
ẩn sâu hơn: chúng tôi lãng mạn quân tử Tàu cả thiên niên kỉ, chúng
tôi lãng mạn Victor Hugo đầu thế kỉ, chúng tôi lãng mạn thị trường.
Chủ nghĩa lãng mạn của chúng tôi là một cái động cơ, một cái máy nổ
đổi nhiêu liệu xoành xoạch (ở cuối sách bạn đọc sẽ thấy kẻ uyên bác
nhất trong chúng tôi là ông Thân kết luận về chủ nghĩa lãng mạn sâu
sắc ấy như thế nào). Đàn bà các em nông nổi, có bao nhiêu mơ mộng
khoác cả vào tấm thân; thuở chiến tranh những năm sáu mươi, quần đen
của các em làm chúng tôi tối tăm mặt mũi, trời thì đạn đỏ, đất thì
lụa đen; thuở giải phóng những năm bảy mươi, các em tràn ra đường
trong bộ đồ Sài Gòn hoa hoa chấm chấm, đường phố thế là thành giường
ngủ, giường ngủ hoá quảng trường; những năm tám mươi bình yên các em
khệnh khạng trong áo lông Đức màu rêu, chỗ nào là eo chỗ nào là mông
chúng tôi hoàn toàn mất định hướng. Một thuở, một thuở, một thuở.
Nông nổi, ngu si, tuyệt vọng, và thực dụng, đàn bà các em giáo dục
thẩm mĩ cho dân tộc này nhiều hơn tất cả các cố gắng chuyên môn
nghiêm trọng của chúng tôi. Tôi không nói ngoa. Nếu vắng những nhu
cầu thất thường như thế của đàn bà thì mấy thập kỉ qua là những thập
kỉ chết. Bây giờ những năm chín mươi đổi mới, các em lại chú trọng
quấn thân hình vẫn rất mực Việt Nam của mình, vú vê sơ tán, bụng nở
chân teo, vào xống áo quốc tế. Quốc tế bây giờ là nhất. Quốc tế là
tất cả những gì không made in Vietnam. Made in Vietnam là bét. Nhất
bét nhất bét: các em, nông nổi, đua đòi, cải lương và phù phiếm, lộn
ngược các giá trị trên dải đất này quyết liệt hơn tất cả những
chương trình hành động đãi môi của chúng tôi. Tôi không nói ngoa. Có
ông giáo sư ở Viện khẳng định văn hoá Việt chọi lại văn hoá Hán bằng
cái tính nữ. Ông có lí lắm. Nước ta chưa bao giờ có nữ hoàng và đàn
bà không một mình vào quán rượu; Hồ Xuân Hương phận tỳ thiếp không
thể là thi hào dân tộc số một; trong truyện tình xưa để lại thì
người anh, người đàn ông, chủ động bỏ trốn loạn luân, còn nàng Tô
Thị, người đàn bà, có biết gì đâu nên cứ hoá đá chờ mòn mỏi. Tôi
nghĩ rằng hắn trốn sang Tàu đi buôn. Trách nhiệm của hắn là bỏ chạy.
Hắn nắm được sự thật. Sự thật ở về phía hắn, thằng đàn ông. Tính nữ
là tình yêu tội lỗi, bưng bít, khổ đau, chờ đợi, và được ca tụng.
Tất cả những điều ấy nói ra thật đáng buồn, và ông giáo-sư-tính-nữ
chắc chắn không đưa ra cái kết luận bùi tai của ông trên cơ sở những
cảm xúc thời trang như tôi. Tôi xin mạo muội nhắc bạn đọc rằng trong
giới hàn lâm thỉnh thoảng lại dậy lên một phong trào dùng từ mới.
Mỗi từ mới đương nhiên là có bối cảnh của nó. Chẳng hạn, tính nữ.
Khi tai chúng ta đã điếc dở vì nghe ù ù cạc cạc toàn những tính
đảng, tính dân tộc, tính thời đại, tính chiến đấu, tính công khai,
tính khách quan, tính giai cấp, tính phê bình, tính cảnh giác, tính
nhân loại, tính xã hội, tính nhân dân, tính tập thể, tính kỉ luật,
tính khái quát, tính phê phán…, thì một từ thường như tính nữ bỗng
vang lên như một cuộc cách mạng nhung, nó mở ra mọt con đường chưa
ai đi, nó gợi lên một cái gì cá nhân, riêng tư, thuộc về con người,
mười năm trước người ta gọi chung đấy là tiểu tư sản. Bạn đọc có thể
chắc chắn rằng học giả đầu tiên của chúng tôi dám dùng tính nữ đã tự
coi mình là một đại diện đáng kể của giới dissident. Ông ta có quyết
khoe rằng thư tín của mình bị kiểm tra và dĩ nhiên vụ tổ chức của cơ
quan sẽ phong toả mọi lời mời ông đi nước ngoài dự hội nghị. Bây giờ
thì tính nữ đã bớt nguy hiểm, nó chỉ còn làm nốt phận sự bình thường
của một con chữ. Nhưng sẽ có những phong trào chữ khác. Tôi lại thấy
Sến nguýt dài: khiếp mấy ông sính chữ!
Chính ở cầu thang tôi phải lòng em. Sến buông một câu chào anh nhẹ
như gió rồi thoăn thoắt guốc bảy phân dừng ngay sát cửa nhà tôi. Tôi
đờ người: thằng Đủ con trai Đoài hôm nay trấn ở đó. Tôi muốn gào
lên: Maria Sến, em có thể làm thân với anh chàng đồng-nhà quê, không
sao, anh ta chỉ là tay trưởng phòng đầy sĩ diện hão, cái sĩ diện của
anh ta hoàn toàn vô hại, nhưng đừng, kìa, giời ơi tôi xin, chớ có
giáp mặt thằng con khổng lồ của anh ta, nó sĩ diện hùng hổ, nó sĩ
diện xôi thịt, răng nó đen ngòm, áo quần chua như cứt mèo, đừng, em
đừng gõ cửa! Lâu lắm rồi tôi không bồn chồn lo cho ai như cho Sến
khi Sến đứng ngay trên đầu tôi, sát cửa nhà tôi. Tôi nghe tiếng mở
cửa, một giây, hai giây, ba giây, có lẽ Sến ngất, lần đầu tiên nhìn
thấy thằng Đủ tôi cũng suýt ngất. Tôi sắp lao lên, sắp quýnh quáng
tìm dầu con hổ và sẽ hô hấp nhân tạo cho em. Chưa bao giờ tôi được
bồng một đàn bà bất tỉnh. Không biết nặng hơn hay nhẹ hơn lúc
thường? Tôi sắp, thì nghe nó ha nô.
Ha nô! Với ai nó cũng chào như thế.
Tôi nghe Sến khúc khích ròn tan. Sến không ngất, không lùi lại lắp
bắp. Sến đã nhận ra cái lưỡi Tứ Kì và Sến cười thân thiện. Còn tôi
đợi cửa trên kia khép, rón rén trở về nhà mình, nghĩ sẵn một lời xin
lỗi vợ.
Thằng Đủ hai mươi tuổi, da cũng sạm nâu, lưỡi cũng níu nô, nó đúng
là con của bố nó. Đoài là kết quả của cuộc luân dân điên rồ đẩy hàng
trăm ngàn người Hà Nội đi miền núi và nông thôn, cho miền núi và
nông thôn về chiếm cái hộ khẩu quý trong một thành phố bỏ ngỏ. Đấy
là chính sách làm cho nông thôn và thành thị xích lại gần nhau của
chúng ta. Là ý thức công bằng. Nhưng bao nhiêu nỗ lực của anh cán bộ
thoát li cũng không đủ để thành phố coi anh ta là một thứ con nuôi
chứ không nói gì con đẻ. Bạn đọc chắc đã có nhiều dịp tiếp xúc với
những anh trưởng phòng hành chính, trưởng phòng bảo vệ, trưởng phòng
tổ chức… Họ đều là cán bộ thoát li, sử dụng quyền lực như sử dụng
vườn nhà mình: tuỳ tiện nhưng triệt để, không phí phạm mảnh nào,
nghi kỵ nhưng ba phải, và chắc chắn là tận tuỵ, sự tận tuỵ với sở
hữu của mình. Đấy là Đoài. Anh hàng xóm sát vách tôi sống ít nhiều
mặc cảm, ít nhiều hài lòng giữa Hà Nội với cái vườn bê từ Tứ Kì lên.
Còn thằng Đủ, nó tự phong là hiện thân của bùn lầy ngàn năm trộn
cùng cứt đái tươi sống, là cơn khùng man rợ của nông thôn bị giải
phóng dở dang trút xuống đầu những thành phố hư đốn. Cha nó mất một
nửa gốc nên nó đòi trở về nguồn. Nó chọn được một cái nguồn phun
thuốc nổ đủ đẩy lùi chúng ta về thời săn bắn hái lượm. Thằng Đủ
không chối cái tên quê mùa của nó, nó tự hào cóc cần thằng nào, vì
nó là Đủ, đủ lắm, rồi nó phóng cái tên ấy lên một gam, hai gam, ba
gam và cực đại: tạo Đú đây, tao Đù đây, tao Đụ đây, tao Địt đây -
một mình tao là Đủ! Tao cưỡi lên đầu chúng mày, quân thành thị lưu
manh, quân thành thị ton hót, quân thành thị hèn ươn thây, lười thối
thịt. Đứa nào đào ngũ? Thằng Hà Nội! Đứa nào trốn việc? Thằng Hà
Nội! Đứa nào vào làng ăn trộm gà? Thằng Hà Nội! Đứa nào làm hại đời
con gái nhà người ta rồi gút bai? Thằng Hà Nội! Đứa nào mua thủ
trưởng? Thằng Hà Nội! Đứa nào bán lựu đạn? Thằng Hà Nội! Đứa nào say
rượu triết lí thối cả đêm? Thằng Hà Nội! Đứa nào gọi tao bằng bố để
tao vác thêm cho vài khúc củi? Thằng Hà Nội! Ba năm quân dịch là rõ
trắng đen. Ba năm chúng mày lạy tao, chúng mày luồn háng tao, chúng
mày gọi tao là bố, chúng mày thấp như kiến dạng chân, chúng mày ẻo
lả đồi truỵ lưu manh, đéo mẹ bây giờ bố chúng mày cho chúng mày biết
thế nào là phải trái!
Vào thời điểm tôi đang kể, thằng Đủ hai mươi mốt tuổi, cao hai mét
mốt nặng tám chục kí, là khối thịnh nộ lừng lững nhất nước Nam. Nó
đã quyết định lớn vọt lên như thế trong vòng ba năm vác củi và ăn
tất uống xà phòng ở Vĩnh Phú, để có thể từ độ cao khủng khiếp ấy nhổ
nước bọt xuống lũ kiến dạng chân. Sang năm nó sẽ lên hai mét hai,
năm nữa hai mét ba, thêm một năm nữa nó sẽ thắng kỉ lục quốc tế
231,7 cm của hai ông Pakistan và một ông Mĩ, nó là Hậu Thánh Gióng.
Nếu bạn đọc đã từng mỏi cổ khi trò chuyện với một người ngoại quốc
thì với gã khổng lồ bản xứ này, tôi xin nói ngay là không thể có đối
thoại. Lời chúng ta bay cao đến đâu cũng dưới tầm thắt lưng của nó
và ắt là chui qua háng nó: một lời là một hạ nhục. Bên cạnh thằng
quý tử, Đoài như một dấu chấm nhỏ xíu lon ton, bẽ bàng, tái mét,
phân bua, hãnh diện, và cầu xin ân huệ.
Đây là thời của những cậu ấm cô chiêu. Thời chúng ta phụ huynh đường
đường một đấng, chỉ sau có thiên tử, qua rồi. Bây giờ chúng ta quần
quật trong vai đầu sai của con cái, bởi lẽ chúng ta thực sự chẳng có
việc gì quan trọng để làm; chúng ta mê mệt trong tình yêu chúng, lắm
khi là một tình yêu đơn phương, bởi lẽ chẳng có gì khác để ta say
mê; chúng ta sống chết bấu víu vào chúng bởi cái sự bấp bênh chới
với, nói cách hiện đại là thiếu điểm tựa, nó làm khổ ta nhiều hơn ta
tưởng; và chúng ta nuông chiều, cầu cạnh, nịnh nọt, làm đày tớ cho
chúng, làm trâu ngựa và tài xế, làm ví tiền, làm thày cãi, làm mặt
mo, làm hề, làm tất cả, chỉ bởi lẽ tất cả, vợ ta cũng thế, số phận
ta cũng thế, đều chẳng thuộc về ta. Duy nhất chúng nó, những cậu ấm
cô chiêu thời đại, là của ta, của ta mãi mãi. Không luật pháp nào
trên đời tước của ta quyền làm bố. Đây là thời của những cậu ấm cô
chiêu.
Cậu ấm khổng lồ của Đoài xuất quân tay trắng. Đoài bảo “đời mày còn
dài, vào trường kinh tế tài chính ngân hàng rồi bố no cho cái biên
chế.” Thằng Đủ đáp rằng: “Thày bé, bạn bé, bàn ghế nùn tìn tịt thế
kia học hành cái con buồi”. Căn hộ một phòng của bố nó lại càng bé.
Cửa 179 phân. Trần và sàn hôn nhau tùm lum. Ở buồng vệ sinh, bệ lại
đắp cao lên nửa mét, đi tiểu chắc thằng Đủ phải cúi lom khom về phía
trước, hứng đủ dòng phun cường tráng của chính nó và có thể mù mắt.
Thậm chí cuộc đời cũng không đủ rộng. Nó sẽ sớm ra khỏi cuộc đời quá
chật này, gửi lại một thân xác đã chặt ra làm nhiều mảnh cho vừa với
chiếc áo quan thông thường.
Nhưng chuyện còn dài. Bây giờ con quái vật khổng lồ, nguy hiểm, liều
lĩnh, cục súc, thông minh, biết cách chinh phục và chỉ huy kẻ khác
này còn chưa đi hết những kích thước siêu phàm của chính nó. Sáng
sáng, khi chúng tôi ngồi trong những cuộc họp hoặc trong những quán
nước thì thằng Đủ đến chợ người đầu đường Giảng Võ, đứng sừng sững,
hai mét mốt, ôn tồn rót bài giảng của nó xuống những cái miệng há
hốc của đám người nhà quê ngồi lom khom trên vỉa hè chờ việc. Bài
giảng của nó toàn những điều thực tiễn, nhiều sức thuyết phục, nó có
thể là thủ lĩnh công đoàn, là trùm găng-tơ, là tướng, là Bộ chính
trị. Nó giảng rằng: “Các người phải nàm việc nghiêm túc, nhưng một
khi quân Hà Nội giở thói mất dạy, bóc nột người nhà quê chất phác,
thì đái vào nồi nước phở, tương mùn cưa vào vữa xây tường, tung hê
xích nô, bóp vú bọn con đĩ thị thành mắt xanh mỏ đỏ, cứ nhằm những
con Đờ Rim Giấc Mộng Mê Ni mà chém, nếu cần thì cho tuốt một mồi nửa
nà xong. Tội vạ đâu thằng Đủ này chịu hết.» Nghe mà kinh hoàng. Nông
thôn của chúng ta dư sức lắm. Đánh giáp lá cà thì mỗi thằng Hà Nội
như tôi phải chết đúng hai mươi hai phẩy ba lần.
Một dọc chợ người, Giảng Võ-Láng-Ngã Tư Sở, chỗ nào cũng một đám
đông tăm tối mê cuồng, đầy khổ đau, đầy mong đợi, đầy khả năng tàn
phá, chỗ nào thằng Đủ cũng ôn tồn thuyết giáo, từ độ cao của nó, bài
thuyết giáo trên núi, một dọc chợ người thấm nhuần tinh thần đoàn
kết nông thôn bao vây thành thị. Từ năm cửa ô, những đội quân đói
rách, u sầu, giận dữ, nhẫn nhục, cả tin và bạo loạn của nông thôn
mênh mông của chúng ta rồi sẽ tràn vào, năm ngón tay đen sì siết
chặt vòm họng Hà Nội trắng phau, ôi cái thành phố của tôi, thành phố
phè phỡn vô lo chỉ mải ngắm những hiệu vàng, cô nương xứ Bắc yêu
kiều!
Thằng Đủ đánh bạn duy nhất với thằng Tân. Đến đây tôi phải xin lỗi
bạn đọc vì không tìm được lời giải thích chính xác cho mối kết giao
lạ lùng này. Một đứa trẻ nhà quê khổng lồ, một đứa trẻ thị thành
bệnh hoạn, đúng hệt cái sơ đồ nhàm của một tiểu thuyết xoàng. Tất cả
những gì đứa này căm ghét đều hiện thân trọn vẹn ở đứa kia. Vậy mà
khi chúng nhìn thấy nhau lần đầu thì hồn thằng Đủ bỏ thằng Đủ để đậu
vào thằng Tân, và hồn thằng Tân bỏ thằng Tân nhập vào thằng Đủ. Đấy
là điềm báo cho cuộc đổi chác chết người sau này, hồn Trương Ba da
hàng thịt. Bây giờ tôi xin làm nốt phận sự giới thiệu ấm Tân với bạn
đọc.
Theo tôi thằng Tân là một cái giẻ rách hạng bét đầy hoang tưởng. Nó
ra đời khi ông Thân đã đi kéo xe bò ở trại cải tạo, nhưng ấm Tân làm
như chính nó mới là kẻ lằn vai, chính nó mang vác trên lưng nỗi đau
địa ngục của một thế hệ trí thức bị đày ải. Thực ra khổ đau cũng là
một gia tài lớn có thể để lại cho con cháu, cũng là một thứ ngai cha
truyền con nối, tôi chẳng có gì để phản đối, khổ đau đáng giữ gìn
đôi khi hơn cả vinh quang, nhưng ở trường hợp thằng Tân thì khổ đau
bị chiếm dụng, bị nẫng tay trên, bị vầy vò chán chê và cuối cùng bị
nhục mạ và quẳng vào hố xí giật nước cho trôi hết. Tôi không nói
ngoa. Nếu chỉ nhai lại những khổ đau của người khác thì thằng Tân
đơn giản là hiến thêm cho thành phố này một thằng nói phét nữa mà
thôi. Những thằng nói phét của Hà Nội thực ra cũng hữu ích. Chúng
gần giống hệ thống cấp thoát của thành phố do Pháp để lại, bao nhiêu
rác rưởi, máu mủ, tinh trùng thừa ra trong kế hoạch dân số, sự kiện,
tin vịt, đời tư, mơ mộng, nước mắt, hồ sơ mật, vân vân, chỗ này thải
ra chỗ kia hăng hái hút vào, không có chúng thì Hà Nội này chán
ngắt, Hà Nội này còn đáng gì là thủ đô. Nhưng thằng Tân quá nhiều
tham vọng để chỉ dừng ở một thằng nói phét. Cái xe bò đời bố nó kéo
biến thành cây thập tự trên vai nó. Nó lê bước, nó rỏ máu đều đặn
hàng tháng như đàn bà hành kinh, nó yêu cầu nước mắt não nùng của
đám đông. Nhưng đám đông của chúng ta đã quen không nghe thấy gì
hết, không nhìn thấy gì hết, không biết gì hết. Cho nên khinh đám
đông như ruồi, nó chết một cái chết élite, rồi nó hồi sinh, và bây
giờ, khủng khỉnh nhíu mày nhếch mép, tóc bay trong gió, nó phán xét,
bằng một thứ tiếng Việt hồ đồ trộn với một thứ tiếng Pháp ham hố, về
khổ đau và sự vô nghĩa của khổ đau. Xem ra nó đã chán ngấy trò maso
và đang luyện trò sado (hai từ này trước đây được giới trí thức
thượng lưu Hà Nội dùng trộm, bây giờ dùng loạn, nên tôi cũng mạo
muội dùng thử). Mọi so sánh tóm lại đều chênh vênh nhưng tôi cho
rằng bạn đọc hoàn toàn có quyền xem cậu ấm này tiêu dùng cái gia tài
khổ đau đồ sộ của ông bố như chơi điếm kinh niên, có nghiện mà không
có lòng, vừa bùm vừa tởm, sướng xong thì chối ngay tại chỗ và càng
ngày càng bệnh hoạn hơn.
Hai cậu ấm của chúng ta nổi loạn. Làm cách mạng. Vượt qua những ông
bố. Vượt qua cách man rợ bạo liệt của thằng Đủ. Vượt qua cách khổ
đau rỗng tuếch như thằng Tân. Mà thế nào đó cả bố lẫn con đều chung
một quỹ đạo. Vẫn là câu chuyện ngàn năm của nông thôn cùng khổ mê
cuồng, vùng lên cho một vài tíc tắc của lịch sử, rồi gục xuống, nhẫn
nhục, ngoan lành, rồi lại vùng lên, phủi đít quần ngồi tót ghế trên
sỗ sàng, giương luật làng thành luật nước, rồi lại gục xuống… Vẫn là
câu chuyện truyền kiếp của sĩ phu vật vã lực bất tòng tâm, lúc áo
gấm xênh xang, lúc nhiệt thành kiến nghị, lúc thơ ở ẩn, lúc cáo bình
Ngô, lúc tru di tam tộc, và lúc nào cũng vùng vằng trong những bi
kịch chính thống… Cứ theo thiển ý tôi thì khủng hoảng thế hệ của
chúng ta có chăng như sấm đầu hè, ai đó gào lên một tiếng, ngắn
thôi, không rền rĩ, rồi mưa trời ào xuống hả hê vài tiếng đồng hồ,
và nắng lại bừng lên, như không xảy ra chuyện gì hết.
Hai cậu quý tử ấy họp nhau lại, sự chán chường huỷ diệt của thằng
Tân trong sức vóc điên rồ của thằng Đủ, nỗi căm hờn thiêu đốt của
thằng Đủ trong bộ dạng khủng khỉnh triết gia của thằng Tân. Ôi,
chúng ta đã yêu đương đàn bà thế nào, đã ăn uống và hít thở thế nào,
đã ăn uống và hít thở thế nào, đã bí mật mơ những giấc mơ gì mà sinh
ra lũ quái thai khiếp đảm này?
Cho nên tôi lại phải quay về câu đố tên là Marie Sến. Em là ai, phù
thuỷ hay nàng tiên, em có tuổi hay không có tuổi, mái tóc em là
chông hay suối, thịt da em là sắt hay bông?(1) Em là ai mà em yêu
chúng và chúng yêu em?
Vợ tôi về đúng lúc Sến bước ra. Chúng tôi đứng tay bốn trong khoảnh
hành lang một chiều hai mét chiều kia một mét, thằng Đủ tựa cửa bên
kia, tôi tựa cửa bên này, hai người đàn bà giáp mặt nhau ở giữa. Mỗi
khi vợ tôi kinh ngạc, trông cô ấy méo xệch như vỏ Coca Cola bị đập.
Thằng Đủ vẫn chào ha nô. Sến chào chị, chào anh, rồi guốc bảy phân
thoăn thoắt đi xuống. Như không xảy ra chuyện gì hết.
Đêm ấy tôi trút vào chiếc vỏ Coca Cola tội nghiệp không ngớt hỏi
“thế là thế nào hở anh” của tôi bao nhiêu là tình thương. Trong một
căn hộ mười bốn mét, tường tự tiện nghiêng, quạt tầng dưới rung nền
và nước thải tầng trên vẽ lên trần những đám mây ố vàng lãng đãng,
bao nhiêu tình thương cũng là không đủ.
Chú thích:
(1) Em là ai…sắt hay bông: phỏng thơ Tố Hữu.
Chương 4: Sự nghiệp. Những xứ tuyết
Bao nhiêu tình thương cũng là không đủ, tôi vẫn ngậm ngùi rằng thế.
Tôi không sao biết mang quà gì cho khỏi bẽ mỗi dịp Tết ngồi giữa bố
mẹ anh chị em dâu rể nhà vợ, nên thường đến tay không và huy động
kho tiếu lâm trợ lực, lâu dần người ta thôi chờ đợi quà cáp ở tôi.
Tôi không chở cô ấy chiều thứ bảy đi vòng Bờ Hồ xem người ta ăn kem,
không ngược Hồ Tây xem người ta hôn nhau bạt ngàn. Tôi không đưa Vân
và Kiều đi tảo mộ, đi công viên ngồi đờ trong hoa cười của ông thợ
ảnh. Tôi không để tóc râu mắt nhìn sáng quắc cho vợ con tôi được ru
trong hào quang một nhân vật lớn. Không mời các tên tuổi ngân vang
về nhà uống rượu. Không chửi nát thiên hạ để vợ tôi sướng tai. Không
kể chuyện giang hồ để các con tôi tròn xoe mắt. Không có gì hấp dẫn
ở tôi hết. Thậm chí tôi không có nổi một bức ảnh chụp ở nước ngoài
để treo lên bốn bức tường nghiêng: tôi không có sự nghiệp.
Ba phần tư cán bộ khoa học Viện tôi có sự nghiệp. Có ảnh chụp ở
những xứ tuyết. Ảnh nào cũng cho thấy họ cười trong công viên và
trên quảng trường, với măng tô thật dài trên nền trắng xoá. Người
Việt chúng ta không thích sự độc đáo. Người Việt chúng ta thích
giống nhau. Xe đạp thì màu xanh lơ, xe máy thì cùng Giấc Mơ Tím; nhà
một thời cùng vuông vức mái bằng như trại lính, bây giờ cùng trổ
tháp Alibabạ; giường cùng kiểu Đức gỗ lát, ấm chén cùng Trung Quốc
hoa leo; thết người sống cùng sáu đĩa bốn bát, đãi người chết cùng
vòng hoa ni lông cho được bền; đàn bà cùng slip Bông Hồng Thái Lan,
đàn ông cùng ba con năm, ba con ba, và trẻ em cùng Đô Rê Môn. Người
đã vậy, thần linh trong đền chùa miếu mạo và trên điện thờ ở nhà
chúng ta cùng hình thù giống nhau, đứng ngồi giống nhau, tiêu cùng
một loại tiền và lắng nghe cùng một bài cầu xin in sẵn của chúng
sinh đệ tử. Tính tập thể là một cái gì cao hơn lí trí.
(Khi Sến hỏi chuyện nước ngoài, tôi ngượng ngùng bảo mình chưa bao
giờ đặt chân ra ngoài biên giới. Tôi thuộc một phần tư còn lại ở
Viện, một phần tư nội địa, gồm: bác lao công, anh lái xe, cô thủ
quỹ, cô văn thư, cô tiếp tân, cô thủ thư, chị đánh mày, chị chữa mô
rát, ba tập sự, Đoài, ông Thân, và hai đồng nghiệp nữ. Không biết
hai cô này là chuyên gia về vấn đề gì mà cứ đến Viện là sà ngay vào
chiếc bàn Liên Khu đọc tất cả các loại báo tiếng Việt. Đọc một tờ,
ngồi lên những tờ khác đúng như nghĩa của từ xí chỗ, giằng được tờ
báo dưới mông hai cô ấy ra là có thể mắc tội cưỡng dâm.
Cho nên Sến nói, trông anh nội địa lắm, nghe chưa. Cho nên Sến khoe,
ngoài đường khối người tưởng em là Việt kiều, trẻ con chạy theo từng
đàn, chắp tay xin ma đam thương như tế sao. Sến lại nài, mình đi
chụp ảnh thông tấn xã đi anh, có tháp Ép Phanh nghiêm chỉnh. Tôi đã
lấy cớ Paris không mấy khi có tuyết để đánh bài chuồn. Hôm ấy ở Hà
Nội là ba mươi chín độ trong bóng râm, bốn mươi ba độ dưới nắng,
lòng nào em khoác chiếc măng-tô muôn thuở của studio, giẫm lên tuyết
mượn, ngả đầu vào tháp Effel vay! Hôm ấy tôi gọi thẳng em là Marie
Sến. Em cười ngặt nghẽo. Em thích cái Marie. Tên Pháp hở anh? Ừ, tên
Pháp. Ừ, bên Tây. Em yêu sự uyên bác đểu giả của tôi. Mắt em đã lại
ngời lên rồi, hai cánh mũi phập phồng như cánh bướm. Em có hiểu gì
đâu, rác người ta nhặt còn bán lại được, những kiến thức vụn tôi mót
chỗ này chỗ kia chẳng dùng vào chỗ nào, nay được dùng vào em là phúc
lớn. Em có hiểu gì đâu, lời tôi mơ hồ, hồn tôi đi lung tung, chân
tay tôi thừa ế như thịt phản chợ chiều.
Một mảnh thôi, một mảnh rởm made in Tây, đặc biệt là Tây Pháp, cũng
đủ khua rộn rã những giấc mơ Việt. Tôi trách Sến làm sao được. Chính
tôi cũng thế, nước Pháp không nghe tôi nói giọng mũi học lỏm entre
nous soit dit, c’est-à-dire, quant à moi, il me semble, alors,
voilà, peu à peu, ensuite, vous avez raison, oui, c’est ca, nhưng
ngồi ở Hà Nội ít ra tôi cũng cảm thấy đương kim mình thuộc giới quý
tộc Nga thế kỉ mười chín.
Rồi Sến xuất hiện lần thứ hai ở cầu thang chúng tôi. Vẫn mắt, má,
môi, cằm rực rỡ ấy, vẫn hai nốt ruồi, nhưng tất cả nống lên như bánh
ga tô ba tầng ở phố Thợ Nhuộm, tôi không nói ngoa, một lớp kem ba li
trắng nhoét làm nền, vô số hoạ tiết xanh đỏ tím, tôi ngỡ một mợ cất
công đi mở phủ, và chất ngất ngự trên tất cả là cái kì quan tóc, một
búi mấy vòng dăm bảy lọn hững hờ buông, với cặp chùm lược xíu lại
còn trâm. Sến có phép gì mà tóc dài qua đem, tóc duỗi tóc co, mỗi
lần gặp em một tóc?
Tôi nghe thoảng tiếng gió chào anh dọn đường cho một cơn bão nước
hoa ào ạt kéo qua và rớt lại đáng kể. Hoặc là cái mũi của tôi nội
địa mũi ngồi đáy giếng, hoặc Sến cho rằng phải khử mùi cho môi
trường quanh em bằng thứ thuốc phun nồng độ ghê gớm đến thế. Tôi tự
hỏi vì sao hôm trước tôi có thể phải lòng mợ nạ giòng sùng sục này.
Dù chỉ để dâm ô chớp nhoáng thì bới đào qua lớp kem vữa trát ngoài
đến được thịt da mùi vị thật của mợ ấy cũng khó khăn mệt mỏi còn
thiết gì nữa.
Trên đầu tôi chuông đã bính boong, duy nhất hàng xóm xế bên trái tôi
dùng chuông cửa, nhà tôi chẳng hạn thường mở toang hoác cho đủ ô xy
bình quân mỗi đầu người. Sến đã ỏn ẻn “nghe anh Đoài giới thiệu anh
sắp đi”, và thằng Hồng đã trọ trẹ “vâng mời chị vào” lịch sự phát
tởm. Thế là từ Đoài sang nhà tôi, từ Đoài sang Đủ, từ Đoài sang
Hồng, bố con ông Thân cũng sắp đến lượt, ở Hà Nội quả là không ai
giữ được gì lâu cho riêng mình. Sến xuất hiện giữa chúng tôi sáu
thằng đàn ông tuổi từ sáu chục đến hăm mốt, những ông bố cùng những
ông con, những hàng xóm và đồng nghiệp, những địch thủ và chiến hữu.
Bao nhiêu tầng quan hệ cá nhân và xã hội chồng lên, kiếp nhân sinh
bẹp gí của chúng tôi bây giờ được cái bơm ái tình bơm lại cho phồng
và sẽ nổ tung vì quá áp. Anh cán bộ thoát li không biết rằng mình đã
mời cơn bão tên là Marie Sến đến hoành hành ở khu cầu thang tập thể
bốn hộ chúng tôi Làm sao anh ta biết nổi! Chẳng có gì trong cái lí
lịch nhạt phèo phèo của anh ta báo trước tình yêu không hẹn này.
Chẳng có gì trong cuộc sống hờ của chúng tôi báo hiệu một cơn đại
bùng nổ… Nhưng chuyện còn dài, bây giờ hãy quay về với Sến trước cửa
nhà hàng xóm xế bên trái tôi.
Nếu biết Sến đến gặp y, tôi đã mách em cách gây ấn tượng. Thằng trẻ
trai ấy thuộc lớp cán bộ nòng cốt của tương lai. Y không dí dỏm như
Viện phó, mẫu của y là gentleman lạnh lùng. Thằng ăng-lê xứ Nghệ này
đánh giá cao những tảng băng, cứ nhìn vợ y là rõ. Từ những xứ tuyết,
y tậu về một tinh thần văn minh sang trọng. Cái sang của y không
giống cái sang của đám thanh niên đi Đức gặp may trở về, đám ấy
huỳnh huỵch xây nhà hai tầng có ban công treo những bóng điện li ti
rồi trang hoàng phòng khách bằng xa lông đệm mút và tủ tường bày ra
muôn ngàn vật dụng có giá, thế thôi, đám ấy có một cơ hội giàu sang
duy nhất quá ngắn ngủi trong đời, chưa kịp sang cho thoả, chưa ngấm
máu sang đã rơi trở về ngày thường Hà Nội. Cái sang của y cũng khác
của ông Viện trưởng. Ông Viện trưởng nhà ở phố lớn, trên lầu cao,
đến được với ông phải men theo giường ngủ của một gia đình tầng
dưới, nhảy qua vô khối thùng nước gạo và chậu rác ở sân trong, sờ
soạng một cầu thang xoắn, băng qua mâm cơm của một gia đình tầng hai
và sờ soạng tiếp một cầu thanh xoắn. Đến nơi, khách đơn sẽ ngồi vào
một trong hai chiếc ghế bành màu ghi còn nguyên lớp ni lông bọc
ngoài, ghế kia phần chủ; khách đông sẽ dùng ghế nhựa trắng muốt mua
ở phố Hàm Long kê sát tường. Khách sẽ uống trà trong sứ Trung Quốc,
uống rượu trong thuỷ tinh Tiệp Khắc và gạt tàn trong nhãn hiệu
Métropole Hotel, sẽ thỉnh thoảng nhìn trộm mình trong chiếc gương
bầu dục Hồng Kông và nhân tiện kiểm tra ngày tháng trên tờ lịch có
bức Van Gogh tự hoạ, sẽ ngưỡng mộ cái sập gụ nằm ềnh ra giữa nhà và
hỏi thăm chiếc tủ lim ba cánh sừng sững như ba ông hộ pháp, sẽ đưa
tay khẽ đụng vào đầu Gandhi đặt cạnh chân Nữ thần Tự do, hai thần
tượng này đội một con Matrjoshka cực lớn. Khách sẽ được nhắc nhở bởi
một chiếc đồng hồ Gimiko mạ vàng có hai con ngựa phi nước đại, và
sau khi từ biệt ông Viện trưởng bằng xương thịt có thể quay ra chào
ông Viện trưởng khổ mười tám hăm bốn trên tường, măng tô thật dài,
đăm chiêu bên một dòng sông xứ tuyết.
Ông Viện trưởng có thể tiếp khách trong quần pijama phía dưới, áo
len phía trên, mà không thấy gì bất tiện. Ông là một người Việt điển
hình, nhặt nhạnh khắp nơi trên thế giới và sống chen chúc với những
vật dụng tuỳ tiện của mình, nhà ông giống một cửa hàng bán đồ lưu
niệm đông tây kim cổ. Dân thường chúng tôi nhặt chỗ này một tí chỗ
kia một tí, miễn là dùng được, không vứt đi đâu cái gì. Nhà chúng
tôi lủng củng tạm bợ. Dân sang các ông cũng nhặt chỗ này một tí chỗ
kia một tí, miễn là bày được, không vứt đi đâu cái gì. Nhà các ông
hỗn độn và cũng tạm bợ chẳng kém. Hồng khác chúng tôi và các ông. Y
không tha những mẩu xú-vơ-nia từ mọi xó xỉnh về làm tổ. Y thích sang
trọng một lèo, tôi đánh cuộc là quần áo lót của y cũng không phá
cách, triệt để tận nơi chót cùng như thế thì không còn là người
Việt.
Quả thật tôi ngỡ vừa thoát địa phận Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam một hôm được mời sang chơi nhà anh hàng xóm xế bên trái. Tôi ngọ
ngoạy di chuyển như cục bụi khổng lồ duy nhất trong căn hộ tuyệt vô
trùng, mi li mét nào cũng ngời tinh thần khai sáng của y. Tôi quay
sang trái, tôi quay sang phải, tôi dán mắt lên trần gục mặt xuống
chân, có thể thấy là tôi đã rất cố gắng tự trọng bằng nụ cười tỉnh
bơ, chủ nhà cũng tỉnh bơ, thằng đểu, nhưng tôi biết khí phách thày
đồ của mình trong suốt cuộc viếng thăm đã theo cái máy thông khí
trong nhà bếp của y mà bay đi mất. Tôi có thể gọi tên gần đúng một
nửa đồ vật trong nhà y, vì chí ít thì y cũng là một con người tương
tự tôi, cũng nằm giường ngồi ghế soi gương và ăn uống bằng cốc chén
bát đũa. Nhưng một nửa còn lại, trong đó có cái máy thông khí tôi
nhìn đầy lo ngại, cũng như tập hợp đồ make up của Marie Sến, tôi
biết đại loại chúng là những vũ khí tối tân yểm trợ cho người ta
vững tin ở mình, nhưng từng thứ một dùng vào việc cụ thể gì thì tôi
xin chịu. Trong khi đợi cà phê máy espresso, y không dùng phin như
lũ chúng ta, Hồng cho tôi biết tên cái máy thông khí bằng tiếng Anh,
như thế mỗi lần quạt chả vợ y không phải ra cầu thang làm mất vệ
sinh chung. Tôi bảo, thảo nào nhà ông Tuất ở trên đầu y cứ thơm lừng
mùi thịt nướng, ông ấy đã phá băng ống thông khói để có chỗ cho một
cái chạn. Hồng đáp, ông ấy phải tự chịu trách nhiệm cho việc làm của
mình. Con gái lớn của Hồng, Bội Lan, bình luận: “Càng tốt. Nhà ông
ấy làm gì có chả nướng mà ăn.” Hôm ấy Hồng và tôi ngồi uống cà phê
trong căn phòng y trổ thêm ra ba mét từ ban công. Tôi bảo, ai cũng
vươn ra thế này thì cái nhà đổ kềnh. Y đáp, vấn đề là ở chỗ không
phải ai cũng có thể vươn ra như thế, thằng đê tiện, câu cú của y bao
giờ cũng đầy đủ, ngữ pháp đứng đắn, y nói tiếng Việt không như người
Việt. Trọ trẹ và lịch sự phát tởm. Y còn vươn tiếp trên mái hiên che
lối vào mỗi cầu thang làm phòng cho hai cô con gái, nếp văn minh của
y không chấp nhận vợ chồng con cái khách khứa và tổ tiên chung đụng
gần gũi nhau. Ăn ở lộn bậy như lũ một phòng chúng ta hẳn là vô luân
lắm.
Nếu biết Sến đến gặp y tôi đã chuẩn bị cho em cách để nguyên guốc mà
gõ lên bốn chục mét vuông thảm len và trước đó nhất thiết em nên lội
qua ngõ chợ Khâm Thiên hoặc phố rác Triệu Quốc Đạt, hãy tương cả cái
thành phố bẩn thỉu người và phân người đuổi nhau từ trong nhà ra
ngoài đường này lên lớp lót chân êm ru của y, hãy cho y biết những
chú chuột cống ngạt thở trong nước cống có thể lắc lư vui mắt thế
nào và thế nào là những hạt sạn xinh xinh trong bát bún rong mà
chúng ta vẫn lùa vào họng ngay trên hè phố. Như thế mới xứng là
người Hà Nội cuối thế kỉ. Như thế thằng trẻ trai trưởng giả đó mới
lưu ý đến em. Hoặc em phải đứng đầu danh sách chị em thượng lưu,
nghĩa là giống hệt một nữ tiếp viên hàng không quốc tế hay nữ thư kí
nhà băng Pháp đóng tại Hà Nội. Thế thôi. Giới thượng lưu của chúng
ta dừng ở đấy, mỗi tháng từ năm đến mười vé, cũng là xa vời với cánh
chân đất chúng tôi. Nhưng Sến sẽ chẳng nghe đâu, em bướng nắm, bướng
nắm, em sẽ bỏ lời tôi xót xa ngoài tai, sẽ hăng hái rong ruổi làm
con thoi tự nguyện nối một nhúm giàu sang với đám đông cùng khổ của
xứ sở này, sẽ là hạt giống hiếm hoi của nếp trung lưu tương lai, sẽ
là hi vọng của chúng ta, chúng ta cần một nếp trung lưu cố chấp,
thiển cận, tầm thường và ham làm trưởng giả. Nếu không, đám dân đen
bên dưới trong đó có tôi biết lấy đâu làm đích vươn lên? Nếu biết
Sến đến gặp y tôi đã khuyên… Nhưng em sẽ chẳng nghe đâu, tôi lại
thấy em bĩu dài: nghe chưa, ai đời đi ghen ăn tức ở, rởm lắm. Sến sẽ
vặn hỏi, sao anh không tự đi mà làm? Vì em biết rõ, tôi không làm gì
hết, nhổ một cái lông chân mà lợi thiên hạ tôi cũng không, tôi là
một thằng trai Hà Nội trung niên bô lô nhếch yêu nhất cái nhàn, tôi
đại diện tới cùng triết lí nhân sinh thong thả của phương Đông; tôi
thà no một nửa dạ dày, nửa kia thổi lên khâu lại, phết màu, thả lên
trời làm bóng bay cho sướng mắt còn hơn bận rộn cũng chỉ vì mưu
sinh.
Muộn mất rồi, bây giờ thì Sến cũng đang ngọ nguậy di chuyển, con
giống Trung Thu sặc sỡ vụng về và có lẽ hơi béo, chân trần rón rén,
bảng màu chói chang phô nhất trong căn hộ tuyệt hài hoà không mi li
mét nào phản lại mi li mét nào của y. Chắc chắn Sến đang đờ đẫn ngắm
tuyết xịn trong những công viên những quảng trường. Chắc chắn y đã
mở máy thông khí. Nhà ông Tuất tầng trên hôm nay thơm lừng mùi nước
hoa rẻ tiền Marie Sến.
Sến còn đến bính boong ở xế bên trái nhà tôi nhiều lần nữa, em luôn
sẵn thư cần gửi đến những xứ tuyết. Tôi tin đấy là lí do chính đáng,
người Việt chúng ta ai cũng sẵn ít nhất một người bạn một người thân
ở ngoài biên giới. Sến chọn thằng Hồng là phải. Bộ dạng, câu cú và
cái mặt tròn sáng sủa của y đại diện tốt cho một nền khoa học xã hội
Việt Nam mang tầm vóc quốc tế thời mở cửa. Số lần đi nước ngoài mỗi
năm ở y nhiều hơn số lần ngủ với vợ. Với Sến y là một chuyên gia
lớn. Một sự nghiệp lẫy lừng. Tôi bảo, thằng đó không kể nổi tên các
triều đại Việt Nam theo đúng thứ tự. Sến cười hơ hớ: “Cần gì, ông
Tây nào sang đây kể lộn tùng phèo các triều vua Tây em cũng gật
tuốt”. Tôi lại bảo, thằng đó thời trước lảm nhảm về phong trào công
nhân, bây giờ tí toét văn hoá dân gian, mẹ kiếp, loại người gì mà
thời nào cũng trúng! Sến lại cười: “Chứ sao, không linh động không
đi di năng thì chết!” Ôi, em là cán bộ, em là nhân dân, Marie Sến,
lí lẽ của em sáng tỏ giản đơn, tôi lại biết phải lòng em là hợp lẽ.
Cuối cùng tôi bảo: “Cứ nghe nó thời trước thì có bao nhiêu niềm tin
dốc cả vào giai cấp vô sản, cứ nghe nó bây giờ thì có bao nhiêu tiền
đầu tư sạch vào quan họ Bắc Ninh. Thằng đê tiện ấy có mỗi món võ
phương pháp luận, thời trước nó bảo phải đặt lại vấn đề một cách hệ
thống và toàn diện, bây giờ nó bảo phải đặt lại vấn đề một cách toàn
diện và hệ thống, ngày xưa chống duy tâm, bây giờ chống duy ý chí,
tiên sư khỉ, món phương pháp luận với mớ tiếng Anh là đi khắp thế
giới.”
Sến đáp: “Ai chẳng thích đi khắp thế giới, phương pháp luận thì lo
gì, có giỏi í à, có giỏi thì nói tiếng Anh đi, nói đi, ai lớp viu,
ai lớp viu, ai lớp…”
Chương 5: Ngoại ngữ. Apocalypse Now
I love you, hẳn rồi, nhưng tôi không dám xướng câu ấy lên như Sến,
không dám đèo câu ấy sau lưng địu câu ấy trước ngực như trẻ con và
thanh niên Hà Nội bây giờ. Thành phố này hăm hở tìm đường đến tương
lai bằng Streamline. Vân và Kiều của tôi cong lưỡi I am Mary từ
trường về nhà. Hai đứa đi qua những cửa hiệu Come In Please và
Warmly Welcome sáng choang, còn trong những tủ kính bé xíu xỉn bụi
bầy lổn nhổn trên vỉa hè, chen chúc giữa thuốc đánh răng PS, dầu gội
đầu Hollywood, là băng vệ sinh phụ nữ vật nài đòi Kiss Me và bao cao
su đàn ông Happy,tên Việt là Túi Phong Lưu, năm trăm một chiếc bán
lẻ.
Những ông giáo sư đầy vẻ uyên thâm thì đội mũ Mickey Mouse. Những
nhà văn uống bia với cựu chiến binh Mĩ. Trí thức tầm tầm như lũ
chúng tôi thì ngốn Stephen King, Harold Robbins, Danielle Steel và
Jackie Collins. Phố Hàng Buồm thì bán bột nở Mĩ. Phố Đồng Xuân thì
bán thuốc kích dâm Hoa Kì. Báo Tiền Phong thông tin người tình mới
nhất của Madonna. Truyền hình Hà Nội chiếu rặt điện ảnh u ét xì a.
Ôi, nước Mĩ! Người Việt chúng ta yêu biết mấy những kẻ thù bại trận.
Tôi đã nói về tình yêu nước Pháp. Là tình già. Theo tinh thần “thấy
Paris một lần rồi chết”. Tình yêu nước Mĩ đến muộn hơn, đại chúng
hơn, và giàu sinh lực hơn. Một cái tình già, một cái tình trẻ, hai
bàn tay mãi vỗ về tâm hồn cực vọng ngoại và tha thiết hướng nội của
dân Việt.
Cho nên hoạt động tinh thần nghiêm túc nhất của chúng ta hiện nay là
học ngoại ngữ. Tôi biết Sến thuộc loại không bao giờ phát âm nổi
những st, thr, ld, ps, ism! Từ miệng em Shakespeare không khác gì
xách bia và khi em nói về lơ mông tôi có ngay liên tưởng dâm đãng
chứ không biết em đang gọi tên thế giới. Sến phàn nàn, bên Tây người
ta chia thời gian, chia động từ, chia tuốt. Sao thế nhỉ? Ăn thì ăn,
ngủ thì ngủ, hôm nay là hôm nay, ngày mai là ngày mai, rõ ràng như
thế sao bên Tây người ta làm rắc rối. Cứ như chúng ta thì quá khứ,
hiện tại, tương lai trộn làm một vào nhau, làm gì có cái phức tạp mà
ông Hegel gọi là lịch sử! Còn những tư tưởng liên hoàn của Sến trong
một liều tiếng Việt thuần khiết “khiếp đùa đâu chết anh giờ em thì
dơ đùa đâu chết giờ” khi em chở tôi sau xe máy (tôi không biết đi xe
máy) và tôi vòng tay qua chiếc eo thiếu phụ rồi vục sâu xuống chỗ
hõm để vào động tiên thì người bên Tây có lẽ diễn đạt rõ ràng hơn.
Thế mà chiều chiều tối tối Sến vẫn e rờ xít tờ ép cu mãi mãi cua A ở
những trung tâm ngoại ngữ Hà Thành, những tổ chim xì xồ và véo von
giọng mũi. Ôi Marie Sến, con chim không mỏi của tôi, hơi béo, hơi
già và hót sai, nhưng đầy tinh thần cất cánh.
Quả thật cơ hội của Sến nhỏ lắm bên cạnh các cô gái tuổi từ mười tám
đến hăm nhăm. Các cô ấy ngoại hình cân đối, nói tiếng Anh thật khẽ,
rải khắp Hà Nội như tờ rơi, em làm sao địch nổi! Đây là thời của các
cô gái tuổi từ mười tám đến hăm nhăm biết nói tiếng Anh. Các cô ấy
uể oải ngồi cậy móng tay sau quầy; các cô ấy lượn lờ như mây Thiên
Thai trong sảnh lớn những toà biệt thự tân trang; các cô ấy lăm lăm
giấy bút nhún nhảy tiến đến bàn chúng ta, khiến chúng ta buộc lòng
gọi một thực đơn dài; và cũng nhún nhảy như thế trong bộ đồ tắm trên
sân khấu, các cô ấy lần luột trở thành hoa hậu, á hậu thứ nhất và á
hậu thứ hai để sau đó lần lượt sánh vai với những người đàn ông lạ
hoắc không phải trong số chúng ta; và như đã biết, các cô ấy cười nụ
trên tờ lịch, trên lá vé xổ số, trên màn ảnh nhỏ, trên trang nhất
tất cả các báo, trên áp phích đầu đường, trên lụa gallery, các cô ấy
mãi cười trên sự yếm thế não nề của chúng ta; tôi chỉ thắc mắc sao
các cô ấy không giành nốt chỗ cười trọng yếu trên giấy bạc, như thế
tôi được biết mỗi thàng tôi đáng hưởng bao nhiêu nụ cười.
Cơ hội của Sến là bằng không bên cạnh những thí sinh Harvard. Cha mẹ
Sến chỉ mong con được phận con sen thoát kiếp chân lấm tay bùn (tôi
hình dung thế từ chữ Sến), chứ đâu được như những ông lớn nhìn thấu
tương lai, lo gửi cháu con vào cái Harvard như thời trước từng
Lomonossov. Cũng không phải Sến hi vọng một học bổng, một chuyến
tham quan Thái Lan, Ấn Độ đóng gói mỳ tôm mang theo để mang về một
cái xe Cúp. Trí thức thủ đô chúng ta mơ mộng, phấn đấu, xếp hàng,
bới móc mồ mả tổ tiên nhau và bút chiến đại loại cũng chỉ vì thế mà
thôi. Chúng ta đã băng qua một chặng đường dài ấu trĩ. Chúng ta bỏ
quá khứ khiêm tốn sau lưng, cái thuở một chiếc xe máy Đông Đức
Simpson, dăm ba nồi áp suất, chục bàn là, trăm dây mai-so… đã là cả
một thiên đường. Thời ấy mỗi lần có phái đoàn công cán xứ tuyết trở
về, những Viện sĩ ngồi nhà mỗi người thường được một manh xơ lam
hoặc một mù xoa tuỳ giới tính. Tôi hay đổi manh xơ lam của tôi lấy
mù xoa của một nữ đồng nghiệp có chống râu xồm, trong khi vợ tôi mau
nước mắt hơn chị ấy. Trí thức chúng ta không đi ra ngoài để mang về
những kiến thức trước sau cũng trở thành vô dụng. Tấm gương là cụ
Phan Thanh Giản, sang tận Ba Lê, đích thân vừa khâm phục vừa kinh sợ
những chiếc đèn lộn ngược mà về nước vua sáng Tự Đức vẫn không tin
là sự thật. Những chuyện như thế có thể làm thằng Hồng ngượng chín.
Y không dây với những đồng nghiệp làm nhục quốc thể. Y là người Việt
duy nhất không giống người Việt ở nước ngoài, tôi chắc y tự xưng là
người Nhật. Ở trong nước y cũng chẳng giống ai. Bi kịch của y rất
lớn.
Sến cũng không tấp tểnh kiếm chút xì xồ để ngồi cô đơn một bàn lộ
liễu trong câu lạc bộ quốc tế gần lăng Bác hoặc trong khách sạn
Thắng Lợi hồ Tây đêm Giáng Sinh và Tết dương lịch. Ở đó tôi từng
chứng kiến một nàng cải trang Di-gan ném không nhụt chí vỏ bia
Heineken vào Tây lớn Tây bé, mỗi lần ném một how are you, kết cục
cũng có một Tây ghi nhận trận oanh tạc và đền đáp nàng bằng một điệu
nhảy say mèm. Nàng ấy bây giờ đã vững chân ở một nơi cũng tuyết. Chỉ
vì cái thứ nước kết trắng toát lạnh hơn thần chết ấy mà quốc thể của
thằng Hồng và những nàng đẹp xinh can đảm nhất của chúng ta biến mất
như thể bốc hơi, ừ, trong cái nắng nhiệt đới bốn mươi ba độ đấy là
một hành động phù hợp. Tuyết là thứ duy nhất chúng ta không thể làm
rởm bán điêu.
Tôi còn có thể kể thêm rằng Sến không tự hành hạ vòm họng An Nam
mỏng mảnh của em e rờ xít tờ ép cu để về hưu non mở hãng dạy trẻ ca
ba. Vân và Kiều của tôi học I am Mary ca mậu dịch buổi sáng, Yes I
am Mary ca hai hợp tác xã buổi chiều, thế là tháng lương của tôi rơi
một phần ba; hai đứa đi học ca ba tư nhân buổi tối, No I am not
Mary, hai phần ba còn lại của tháng lương tôi hoàn thiện tương lai
Vân-Kiều, miếng đắt nhất trong môn võ Anh ngữ chỉ truyền ở trường tư
là miếng phủ định.
Từ buổi biết Sến tôi thường đạp xe chiều chiều qua các trung tâm
ngoại ngữ, năm giờ, giờ cao điểm. Tôi tà tà ngắm trai thanh gái lịch
thủ đô tự nguyện xếp hàng gửi xe ào ào vào tổ. Nếu thay bó hương vào
chỗ Streamline Intercode vo tròn dưới nách các vị ấy thì chúng ta có
ngay Chùa Hương và Phủ Tây Hồ thời đổi mới, như nước, như nêm, như
vô đạo. Chắc thỉnh thoảng cũng có dăm kẻ thành tâm nào đó, nhưng một
đám đông thời thượng rỗi việc thèm giải trí và một đám đông khác
cuống cuồng sợ lỡ cơ may đã nuốt đi rồi. Sến có học gì đâu! Sến ngồi
bàn sát cửa – ôi vĩnh viễn phái sát cửa các em - mặt tròn như đĩa
Hoa Sen hướng ra cổng trường. Thằng Đoài, thằng Đủ, thằng Hồng,
thằng Thân, thằng Nguyên, thằng Tân và trước đó hẳn là những thằng
khác, đĩa em đều tóm được hết.
Mỗi thằng đánh một tín hiệu. Đoài dựa xe đã khoá vào tường rồi ra
đứng đực giữa cổng, hàm răng PS si tình của anh chàng chiếu sáng loá
vào Sến, sau lưng anh chàng Hà Nội cũng lên đèn. Trong tất cả chúng
tôi, Đoài bày tỏ tình yêu của mình thắm thiết và công khai nhất. Hắn
có quyền của kẻ đến trước, Sến nâng chúng tôi lên khỏi mặt đất, ai
cũng được chới với, nhưng với Đoài thì đấy là nhấc bổng, là bay. Và
rơi từ độ cao thích hợp.
Nhưng ở đoạn đầu câu chuyện tình tay bảy thậm vô lí này, thần kinh
anh chàng cán bộ thoát li còn khoẻ như cái dạ dày của anh ta. Đoài
luôn mời Sến đi ăn phở. Với anh chàng phở là món sang nhất, và trong
mọi loại phở thì phở tái lăn Thìn đầu phố Lò Đúc là thượng hảo hạng.
Tôi có thể nghe Đoài đĩnh đạc gọi “Hai suất năm một trứng” ở quầy,
nghĩa là hai bát, mỗi bát năm nghìn, trong đó một bát thêm quả trứng
đập, hẳn là cho em, trứng gà làm đẹp da phụ nữ, nghĩa là anh hàng
xóm sát vách tôi chơi đẹp, ở đây người ta thường ăn phở ba nghìn,
nghĩa là anh ta rất tâm ní với phụ nữ. Tôi có thể thấy Sến vui vẻ,
như bản tính thường trực nơi em, lùa mớ thịt bò lẫn trâu váng mỡ mà
thằng Đoài hâm mộ, thằng cha đó hâm mộ prô-tít, vào giữa hai môi như
hai trái ớt bóng nhẫy, trông mà nhức mắt. Ăn như thế, Sến vốn hơi
béo sẽ phì ra mất, từ ba năm nay tôi nhận thấy Hà Nội đầy những
người béo hãnh diện dắt bụng đi phố, bức tranh bất hủ bảy Việt cộng
đánh đu tàu đu đủ thế là lạc hậu lắm rồi.
Thằng Đủ thì cưỡi xích lô. Nó là một quả núi không thể lẫn trong đám
đông trên phố. Nó sẽ mời Sến đi xem ca nhạc Sài Gòn ở Cung văn hoá
hữu nghị Việt Xô, món ấy cùng đẳng cấp với phở Thìn, nó vẫn là con
của bố nó không chệch. Tôi có thể hình dung Sến và nó thoả mãn ra
sao sau cú tẩm quất văn hoá đã đời ấy. Nó thì giơ nách cho các cây
hài rẻ tiền phương nam cù rồi cười sằng sặc. Sến thì biếu không tai
mắt và óc nhạy cảm luôn làm tôi sửng sốt nơi em cho những nàng ca sĩ
rũ rượi đấm ngực nhảy chồm chồm, tôi biết thời đổi mới này không cho
phép ai không cho phép cái gì đứng yên tại chỗ, đầu các nàng ấy phải
lắc lư như phù thuỷ như búp bê, lông mi phải chớp chớp, hai tay phải
thay phiên nhau dâng lên hạ xuống như thuỷ triều vội vã, bộ mông
hình trái tim phải dập dềnh dập dềnh. Ăn như thế, nghe nhìn như thế,
Sến sẽ béo ị và mùi mẫn, sẽ là một mợ đáng kết giao, những thằng
khẳng khiu tính khí khó khăn như tôi sẽ có chỗ lí tưởng để đặt phịch
bộ xương của mình và xoa dịu vị đắng không dứt trên môi, em gối mềm,
em xi rô, em Sến.
Hai bố con thằng Đoài thằng Đủ chưa học được phép tế nhị của đám dân
thành thị và thành thị hoá chúng tôi: Hồng, Nguyên, Thân. Chúng tôi
đánh tín hiệu từ bên kia đường.
Ông Thân tế nhị nhất. Tôi lại phải xin lỗi bạn đọc vì không biết
chính xác tình tiết gặp gỡ đầu tiên giữa ông Thân và Sến. Tôi đoán
mò rằng từ thằng Đủ chắc chắn sang thằng Tân, bọn trai thời đại này
chuyển gái cho nhau như hút nhờ một hơi thuốc không hơn, rồi từ
thằng con lây sang ông bố, ổ bệnh yêu là Sến có đủ vi trùng cung cấp
cho nhiều thế hệ đồng thời. Ông Thân đến đón Sến một lần duy nhất,
hôm ấy ông có vé xem phim Người tình chiếu không kiểm duyệt. Con
người bị tinh thần chính thống hắt hủi này suốt đời khát khao chính
thống, cho nên cuộc đón đưa chưa kiểm duyệt làm ông hoảng sợ (tôi
xin mạo muội nhận xét rằng nói chung những nhân vật được coi là dũng
cảm về phương diện chính trị xã hội thường xuyên hoảng sợ hơn chúng
ta, và nhu cầu an toàn của họ mấp mé ở mức bệnh hoạn, nhưng đấy rất
có thể là do chúng ta điếc không sợ súng mà thôi), nếu Sến không giữ
chắt ghi đông chắc ông đã lắp bắp xin lỗi nhảy vội lên xe xé tan hai
vé hiếm hoi. Tôi có thể hình dung ông không dám nhìn Sến khi tan
buổi chiếu. Phòng chiếu của Hội điện ảnh thấp và hẹp lắm, chỉ nghe
tiếng quạt vù vù, mồ hôi nhớp chúa trong phim rỏ tong tong xuống
trán người ngồi cạnh, thịt da phóng lớn nảy lửa bật tung màn ảnh
chạy rần rật điên rồ giữa những hàng ghế, nếu Sến không giữ tay ông
thì hàng xóm xế bên phải tôi đã bỏ chạy khi nang Duras mến yêu dấn
thân vào Chợ Lớn. Sến thì bình luận, phim thế mới là phim chứ! Sến
nói phải. Phim của chúng ta cũng có thịt hở cũng có ngủ lang hôn
hít, nhưng thứ văn minh ái tình ấy chỉ lặp lại trên giường tinh thần
khải hoàn bất diệt của văn minh bắn súng ngoài chiến trường ở màn
ảnh của chúng ta những năm trước, súng chưa bắn địch đã ngã rồi.
Thằng Hồng thì ngồi nguyên trên đệm xe, xuống ga, về số, máy để than
thở, chỉ có những chiếc xe hạng nhất mới có kiểu than thở âm thầm
bất tận như thế, chân trái nhẹ chống xuống lòng đường, chân phải vẫn
mớm mớm phanh, nghiêng người, làm như y chỉ vô tình tạt vỉa hè hỏi
thăm một địa chỉ. Một giây sau Sến đã ngự chất ngất trên nửa đệm xe
còn lại, trong khoảnh khắc ấy tình yêu cuộc sống nơi em phụt ra như
đại bác, bao nhiêu nền nã ý nhị em vo tròn vào Streamline kẹp nách.
Thế là cậu mợ vụt đi. Một y, một ả. Hà Nội của tôi là vắng Sến.
Y sẽ ngồi đốt thuốc và nhâm nhi rượu chát (mẹ kiếp rượu chát, tôi
nghe bọn sành đời gọi thế thì cũng liều gọi thế) trong khi đợi
phó-mát ở Lotus. Y chỉ đến Lotus, chỉ dùng phó-mát, mỗi hôm một
loại. Chắc hôm đầu ả cũng đàng hoàng xử sự với món phó-mát chết
tiệt, như thể cả đời ả không được dinh dưỡng bằng thứ gì khác hơn
phó-mát. Ả cắn một miếng thật khoái, như cắn bánh bao, rồi phun phì
phì như rắn. Cái thứ sặc mùi xà phòng ấy làm sao y có thể ngưỡng mộ!
Công cuộc khai hoá cái dạ dày là một công cuộc bền lâu. Cứ đeo lấy
thằng trẻ trai ấy một lúc nào đó Sến sẽ được tởm thói An Nam chóp
cha chóp chép chấm chấm mút mút xì xà xì xụp toàn những vị chua cay
những mùi nồng khẳn những gân cùng móng những môi má và phao câu.
Sến sẽ lập cập nuốt thuốc an thần khi chúng tôi man di toét cười đỏ
loét bên bát tiết canh, sẽ bịt tai lạy chúa đi qua mẹt ốc chúng tôi
ngồi mút chùn chụt. Tôi biết thằng ấy muốn gì. Y muốn lùa cái lưỡi
trọ trẹ của y vào một cái miệng thơm tho không mắm tôm hành tỏi.
Miệng Sến thắm thiết, môi phồng như bánh đa, răng như mãnh thú cắn
cắn nhả nhả làm sáu lít máu đông cứng như tuyết đỏ trong huyết mạch
y lưu thông trở lại. Hoá ra gentleman băng giá cũng bén lửa phương
nam. Y phải chiếm được miệng môi răng ấy sau khi tẩy mùi kĩ lưỡng.
Bằng xà phòng. Tôi chẳng dám hình dung thêm y sẽ rửa ráy Sến, sẽ lộn
trái em ra kì cọ, biến em khúc dồi An Nam thành thỏi xúc xích văn
minh để mà nhai mà ngậm và mân mê như thế nào. Công phu lắm. Bước ra
từ Lotus, Sến là một me không thể kết giao. Me nhón chân đi trên
đường phố của chúng ta như sợ đặt cả bàn chân thì Hà Nội này sẽ túm
được me và kéo tuột me xuống đáy. Lotus nằm trên ba tầng hội hoạ
hiện đại. Tây lớn Tây bé đôi khi cũng khai vị hoặc đét-xe trước hoặc
sau Lotus bằng vài bước dạo quanh nền mĩ thuật của chúng ta. Các hoạ
sĩ ngồi như câu cá, mẹ kiếp, chúng nó tiết kiệm một bữa ăn trên đó
vào đây thì nghệ thuật của mình lên hương!
Sến biết khối tên hoạ sĩ. Thằng Hồng cũng đủ lệ bộ khai vị đét-xe.
Ngoài ra Sến còn biết hầu hết các nhân vật lỗi lạc của Hà Nội. Bay
cùng tóc thằng Tân trong gió, trí tò mò phù phiếm bất diệt của em
bận rộn lang thang trong những số phận lớn, những cuộc độc thoại hun
hút dài, những cô đơn tập thể và những kí ức uất hận. Thằng Tân
không cần đứng đường. Lớp tiếng Pháp của nó cạnh lớp tiếng Anh của
Sến. Sến là bây bi, là con nhỏ mà thằng Đủ từng khoe, hai cậu ấm của
cầu thang chúng tôi trao đổi kinh nghiệm về đàn bà nghe cứ như
chuyện một tay đồ tể với một tay lang trọc, đứa này đâm, chọc, mông,
lườn, đứa kia âm, dương, khí, huyết.
Thằng Tân chỉ cần lượn qua cửa lớp, nơi mặt Sến tròn vành vạnh phập
phồng hứng đợi, thế là một đôi chim bay khỏi tổ. Nó không mời Sến đi
ăn. Sự ghê tởm thực phẩm toát ra từ nắm xương rệu rạo trong áo quần
rộng rủ như cờ buồn là nó khiến Sến cũng muốn thoát tục, quên đi cái
đói thường trực, cái đói di sản của dân tộc, cái đói tưng bừng hám
sống, Sến vốn là thứ đàn bà ăn quà luôn miệng. Tôi thực ra rất hoài
nghi những nàng ăn uống rón rén như sợ hạt cơm phật ý. Những nàng ấy
thường kêu chóng mặt và thỉnh thoảng lại ngất. Cho nên tôi yêu lắm
cái tính ăn của Sến. Sến ăn hết mình, không giữ lại một góc dạ dày
có giáo dục hão nào. Sến ăn cho mình và cho người khác cùng ngon,
cho một nền văn minh ẩm thực, cho dân tộc, tính ăn của em là phẩm
hạnh lớn. Đi theo thằng oắt hoang tưởng đó, phẩm hạnh của em tan
tành đường ruột của em rối loạn. Tôi hình dung Sến ghé ngồi bên câu
chuyện trầm mặc của các bậc đại trí thức. Đề tài của họ không bao
giờ thay đổi. Họ chỉ nói về những cú đánh khiếp đảm của bạo lực và
ngu xuẩn giáng xuống trí tuệ và lòng lành; họ chỉ nói về nghệ thuật
tránh đòn, bao nhiêu tinh hoa tài cán của các bậc hiền giả của chúng
ta là ở nghệ thuật tránh đòn; họ chỉ nói về những chiến công nho nhỏ
của nhân cách, em sẽ được thấy nhân cách hiếm hoi như thế nào, và
một chút nhân cách thôi, một chút không nhiều lắm cũng đủ làm thành
một nhân sĩ. Sến ngồi tê hết chân này sang chân kia, lòng mênh mang
như đứa trẻ nghe thần thoại. Thỉnh thoảng Sến liếc trộm thằng Tân,
nó nghiễm nhiên là một nhân vật thần thoại nên Sến bèn hạ mị thật
thấp cho những kích thước kì vĩ của cuộc đời lặng lẽ lẻn vào phòng.
Các nhà thơ đọc cho Sến nghe những vần sâu kín nhất, thế là em đã
thành độc giả của ngày mai không đến. Các nhà báo cho Sến biết những
sự thật bên trên mọi sự thật, thế là em bừng sáng như ngọn đuốc đêm
trường. Sến đồng loã với những mưu đồ xa lông của các chính khách.
Sến phụ hoạ nỗi bất mãn xó nhà của các học giả. Họ, những nhân vật
lỗi lạc ấy mỗi người mang nặng một chính kiến cô đơn, không ai chia
sẻ cùng ai. Sến âu yếm nhặt nhạnh tất cả, Sến thấy ai cũng có lí.
Sến đến bụng đói nhẹ tênh, Sến đi no nê lặc lè chính kiến.
Chính kiến của đàn ông. Thằng Tân đẩy em vào thế giới đàn ông cao
siêu mà nó khinh bỉ. Nó ngửi ra mùi thất bại của cái thế giới đó từ
chăn tã nhà nó trước khi biết tởm mùi phân người. Ngồi nghịch dép
dưới gầm bàn, nó thuộc những từ đề mô cờ ra xi, li bẹc tê và cun
tuya trước khi phải đấnh vần a a a quả na ơ huyền ờ lá cờ ở trường,
sau này hễ nghe ai tha thiết phát âm mấy từ sang trọng đó nó chỉ
nhếch cười, nhớ bạn bố nó tan cuộc bàn luận chính trị xã hội đứng
lên, dép ông dép tôi loạn xạ, rồi thể nào cũng có một ông lật đật
trở lại xin lỗi không phải dép tôi, à cái bài báo hôm nọ ông nhớ đòi
về. Đúng thế, sau này nó bảo, vâng, các cụ tài giỏi thật, mỗi tội xỏ
nhầm dép! Các cụ, những tên tuổi lừng lẫy của đời sống tinh thần thủ
đô ta, vui vẻ quỳ xuống làm ngựa cho thằng con trai duy nhất của ông
bạn bất hạnh. Các cụ than: đời mình thế là hết, đời chúng nó sẽ khá.
Nhưng lịch sử Việt Nam chưa bao giờ đếm xỉa đến những hi vọng kiểu
ấy. Sự thất bại của một thế hệ không tác động gì đến vòng bĩ cực
thái lai. Thằng Tân không khá được. Nó bảo các cụ giống hệt những
cái chăn cũ vừa hôi vừa bẩn bày bán ở phố Nam Bộ chả ai buồn dùng,
nhưng đích thân nó cứ mãi trùm chăn ấy, thở đi thở lại cái sinh lực
mệt mỏi và cảm động của thế hệ cha chú. Nó là một thằng sợ hãi không
khí thật của cuộc đời. Tròn ba chục tuổi, thằng Tân là một cụ non
choẹt lấc cấc, có đầy đủ cái lẩn thẩn thương tâm của bố nó và bạn bố
nó. Nhưng các cụ lãng mạn và đầy lòng thành, còn nó cynique và hoang
tưởng. Các cụ lạc quan như những thiên thần vô tâm, nó đăm đăm bi
đát như thượng đế tự ái. Ôi tuyệt thực như thế, nghe chuyện thần
thoại trong chăn như thế, Sến sẽ là một mợ mụ mị lắp bắp các chính
kiến không phải của mình. Sến vốn láu táu sẽ thành súng liên thanh
nổ đoành đoành trên phố, nguy hiểm lắm. Sến sẽ chẳng có một ý kiến
hấp dẫn nào cho riêng em, vì bao nhiêu thông thái sâu sắc người khác
đã vọt ra đằng miệng cả rồi, em chỉ lặp lại như vẹt. Trong khi đó
thì em tưởng mình là Trưng Trắc Trưng Nhị đang đi từ từ vào lịch sử.
Cho nên tôi có nhiệm vụ đứng chờ bên kia đường, cạnh một gốc si, để
sau đó kéo tuột Sến vào quán cà phê Apocalypse Now. Quán này do hai
cậu lao nô Đông Đức dựng nên, mái nhựa ghế nhựa cốc chén nhựa, nhạc
điên rồ, áp phích trên tường bạo liệt, vi đê ô và ka ra ô kê, chủ
nhân một đứa đầu trọc đeo khuyên tai, một đứa tóc bỏ đuôi gà quấn
dải băng đen sì ngang trán, trông rõ là hai nhà cách mạng. Tôi thích
hai đứa này. Chúng nó cho tôi là nhà văn nên thường đem rượu thật
ngon đến đãi, “uống đi anh, uống đi rồi bọn em kể chuyện đời lao nô
anh nghe, đáng mấy cái tiểu thuyết! Uống đi anh, uống đi nhà văn các
anh rách bỏ mẹ!” Tôi nợ hai đứa mấy cái tiểu thuyết và khiêng đến
một thiên tình sử viết dở. Toàn những nợ đời. Sau lưng Sến, hai
thằng ranh con giơ ngón tay cái tán thưởng gu thẩm mĩ của tôi rồi ý
tứ bỏ đi.
Tôi ngồi khòng khòng, đầu gối mọc thẳng ra từ tai, tránh không chạm
luồng hơi thở và những sợi tóc tung tăng của Sến, để Sến được thấy
thằng đàn ông tôi vô hại nhu nhược không đáng đề phòng. Dĩ nhiên Sến
bắt đầu ríu rít liếng thoắng. Miệng tươi roi rói, đường xẻ ở cằm báo
hiệu cực kì tế nhị một đường xẻ mãnh liệt khác sâu phía dưới. Rất
nhiều khi tôi muốn vùng dậy thọc tay xuống đó, lôi phắt ra một trong
hai trái vú mà tôi biết chắc là đẹp lắm, để ngắm một lát rồi sẽ cất
vào. Nhưng làm như thế chương trình giáo dục của tôi đi tong. Cho
nên tôi lim rim ngồi nguyên khòng khòng. Trong khi Sến tiếp tục líu
lo tường thuật những biến cố liên miên của đời em, cuộc đời sôi động
nhất thế kỉ, tôi mải nghĩ những thằng khác làm gì với cái đường xẻ
tội lỗi ấy, chúng nó đều không mù, mà Sến thì ngồi chỗ nào cũng đặt
ngực lên bàn.
Tôi kiểm lại từng thằng. Ông Thân tôi cho qua đầu tiên, tôi sẽ ghen
với ông ấy một dịp khác, khi tình yêu và tình thương bắt đầu quyện
vào nhau như men và bột. Thằng Tân cũng có thể cho qua mặc dù tôi
ngờ rằng nắm xương rệu rạo trong áo quần rộng rủ như cờ buồn là nó
đôi khi cũng có thể lên một cơn dâm đãng cào cấu, đối tượng là đàn
bà hơi thừa những đường cong như Sến. Nhưng thằng ngu ấy sẽ chui vội
vào chăn mà đọc Freud qua một bản dịch tiếng Việt sai bét, bản dịch
tiếng Việt nào mà chả sai bét, chim nó sẽ thư giãn theo yoga và cuối
cùng lặn tịt vào trong. Theo tôi biết thằng này đang mê trường phái
khinh thân.
Còn lại bố con thằng Đoài thằng Đủ, và thằng Hồng. Thằng Đoài làm
tôi bắt đầu ngọ ngoạy trong ghế. Tôi tự nhủ chớ coi thường thằng nhà
quê này. Bây giờ hắn mới chỉ rủ nàng đi phở, hiệu phở không phải là
chỗ chơi gái, vả lại mối tình của hắn còn đang ở đoạn trong trắng,
cứ như mối tình đầu, hắn ngưỡng mộ nàng của hắn như một giấc mơ hơn
là một người đàn bà đầy tính dục, bây giờ thì chưa đáng ngại. Nhưng
cái khối tình si thộn tò te ấy dễ mủi lòng đàn bà lắm. Ai chứ Sến
chắc không thể không thưởng cho anh chàng tí chút, nàng hào phóng
lắm, mà một khi đã vào cuộc là thằng cha mất lí trí này sẽ quên hết
mọi giới hạn, những thằng nhà quê ra tỉnh ăn chơi thường gồng lên
rất man rợ.
Đến lượt thằng Đủ tôi phải nghiến răng. Vừa ghen vừa thảng thốt.
Thằng khổng lồ ấy khẽ động cựa là nát hoa nhàu bướm như chơi. Cục
báu của nó có thể xuyên Sến từ bên này sang bên kia như xuyên chả
nướng. Nó thuộc một thế hệ nóng nảy và sốt ruột, thế hệ mì ăn liền.
Tôi vuốt ve bằng mắt cái đường xẻ hoàn mĩ của Sến và có thể lấy thế
làm hạnh phúc lắm rồi, tình yêu của tôi là một tình yêu cổ điển đã
nhúng đi nhúng lại trong rất nhiều dung dịch văn hoá, tôi thưởng
thức cơn khát thèm nghẹn ngào dâng lên rồi rút đi tê tái, tôi ngợi
ca ơn huệ của nòi giống đàn bà, tôi vẫy chào cuộc sống ở cao điểm
Apocalypse Now, tình yêu của tôi như hòn đảo cần những chiếc cầu nối
bờ nọ bờ kia, tình yêu của tôi đi những đường vòng lịch sự. Nhưng
thế hệ thằng Đủ lớn lên khi văn hoá, đạo đức, lễ nghi, thuần phong
mĩ tục của nước Việt đã đi tong. Nó sẽ không lịch sự là một, sẽ
không thèm nâng niu cái đường xẻ của Sến là hai, sẽ không mất thời
giờ vô ích là ba. Nó sẽ đi ngay vào nội dung chính. Sến ưng thuận ư?
Thì nó lột nghiến em ra, con nhộng năm mươi kí, rồi cái miệng chua
như cứt mèo của nó sẽ để lại trên em những nốt chủng to như bóng
điện. Gác trọ cạnh ga của nó không có vòi nước, em sẽ bước ra từ đó
nhơ nhớp như con đĩ hồ Thiền Quang. Sến chống cự ư? Hãm hiếp đàn bà
với nó là một thành tích nam nhi, nếu không đời sống thời bình này
nhạt nhẽo. Tôi vùng dậy vung một quả đấm. Sến im thin thít. Nếu đánh
nhau với thằng Đủ tôi sẽ thua. Nó chỉ gảy một ngón tay út là tôi
chuyển hộ khẩu xuống âm phủ. Tôi phải dùng Sến làm quả đấm của tôi.
Chương trình giáo dục mà tôi rắp tâm phải giống như một khoá luyện
võ Nam Hồng Sơn. Nguyên tắc là một đòn ăn ngay, như mọi ngón võ dành
cho hạng thấp bé như tôi. Tôi lại ngồi xuống. Vận lực truyền từ từ
sang Sến.
Còn một thằng nguy hiểm nhất trong danh sách. Thằng Hồng. Có một cục
lớn xuất phát từ tận đáy tôi len dần qua hành lang bốn mét rưỡi ruột
non ruột già, vọt qua dạ dày, cái hội trường lộn xộn, rồi tiếp tục
nhích lên thực quản. Tôi nuốt nước bọt, nước bọt không đủ lượng. Tôi
nuốt khan, không khí không đủ nặng để chặn đứng cục lớn đó. Một phần
hai giây nữa là nó sẽ bóp cổ tôi, tôi giật tách cà phê chưa uống của
Sến, trút thẳng xuống, nghe cái cục bỏng rát đó kêu xèo xèo. Bây giờ
nó nằm im, đè lạnh toát lên hai lá phổi đen sì. Sến hỏi, anh ốm à.
Có bao giờ em ghen để biết rằng ghen là đau, đau ấy Quan Vân Trường
cũng không chịu nổi! Sến thuộc nòi bướm. Bướm thì không ghen.
Tôi từ từ thả hai đầu gối xuống. Khi bài giảng của tôi kết thúc, tôi
sẽ đạt tới toàn bộ chiều cao của một anh giáo trong mắt em học trò
bé nhỏ. Đầu tiên tôi nói bâng quơ về tình hình thời sự trong nước,
bỏ cấm vận, Đông Âu, đường dây 500 kv, vấn đề đê Yên Phụ, biên giới
Việt-Trung, giá vàng và đô là, sự thông thái của tôi bao giờ cũng
gieo trong Sến một hi vọng mơ hồ. Đợi khi hai cánh mũi Sến bắt đầu
phập phồng tôi chuyển sang nhận xét rằng trông em hôm nay có vẻ lên
cân, tôi trích dẫn nguyên một câu trong cuốn sách vừa đọc: “lý tưởng
thẩm mĩ của em là béo tôi có thể hiểu được”. Rồi cứ thế xoáy tiếp,
tôi buộc Sến phải khai hết các món ẩm thực trong tuần. Sến không
biết nói dối. Tính thật thà của Sến có thể giết người. Phở Thìn cũng
được liệt kê. Tôi nhẹ nhàng dạy Sến cái tinh tế của những bát phở mà
tôi được nếm ở Nguyễn Tuân và Vũ Bằng. Sến hỏi, ơ, hai phố ấy chỗ
nào sao em không biết. Nhanh như trộm tôi móc bát phở vào dãy tinh
hoa dân tộc. Vì Sến, chỉ vì Sến, tôi nói năng như một tay dân tộc
chủ nghĩa bốc mùi, một thằng hoài cổ ngu xuẩn, cái gì của chúng ta
cũng nhất, đả đảo ngoại lai, hoan hô truyền thống. Tôi nói về các
loại mắm, hàng nghìn loại, ăn đứt vài trăm kiểu phó-mát của người
Tây, Sến ngồi tần ngần thế kia, tôi chẳng sợ em hỏi về hũ mắm của cô
Tấm. Tôi nói về âm nhạc, là đạo, là lễ, là rường cột xã hội, quyết
không thể là đú đởn dơ dáng như ngoáy mông gân cổ ở Cung Việt Xô…
Sến bỗng vươn hai tay để trần, lo âu nhìn vào mắt tôi: “Đừng anh
đừng nên đừng”. Tôi quát: “Thôi cái đừng của cô! Toàn quân lừa đảo!
Chúng nó đưa đón mời mọc cô không công chắc! Cô biết thừa chúng nó
muốn gì. Tôi biết đằng nào thì chúng nó cũng ngủ với cô. Tôi cấm làm
sao được. Tôi cấm cô đấy. Tôi van. Xin em. Đằng nào thì em cũng…”
Đầu tôi lọt vào một chiếc gông thơm mềm. Lướt dọc hai dải tay em tôi
nhìn thấy hai nách không cạo đúng như ước muốn của tôi về nách đàn
bà. Tôi dịu dàng luồn tay vào đó rồi xuôi xuống rồi vuốt ngược lên,
chậm nhẹ nâng niu. Tôi hỏi: “Anh là người duy nhất ghen phải không?”
Sến đáp: “Người nào cũng thế.” Tôi hỏi: “Anh là người duy nhất được
như thế này phải không?” Sến đáp: “Vâng”. Tôi hỏi: “Vì sao?” Sến
đáp: “Vì mình giống nhau. Thế này này, anh không vừa lòng với mọi
thứ, nhưng chả chịu làm gì. Em làm mọi thứ, nhưng chả chịu vừa
lòng.” Tôi nói: “Thế là khác nhau chứ.” Sến đáp: “Thế này này, là
đều làm khổ mình.” Hai đầu vú Sến đã căng cứng như hai hòn đạn không
đuợc bắn khỏi nòng. Chúng tôi ngồi như thế ở Apocalypse Now, làm
sướng nhau, làm khổ nhau như mọi cặp tình nhân trên đời.
Một chiều, tất cả chúng tôi đều gặp nhau trong cái tổi chim xì xồ và
véo von giọng mũi ấy, chim mới chim cũ, chim già chim trẻ, trước cửa
lớp Sến. Chúng tôi hót vào tai nhau điệu thăm hỏi phân trần bày tỏ
chúc tụng vô duyên rồi mỗi thằng vù vào một lớp.
Chương 6: Hành động. Những cường quốc
Mỗi thằng một lớp.
Tôi học Hán Nôm. Ông Thân học tiếng Đức. Hồng học tiếng Nhật. Đoài
học tiếng Trung. Đủ học tiếng Anh. Tân học tiếng Pháp.
Chúng tôi, sáu thằng đàn ông và một người đàn bà, trò chuyện giờ ra
chơi trên sân trường như những cường quốc. Pháp, Mĩ, Anh, Đức, Nhật,
Hán, Tàu. Tôi là cường quốc chết. Ngôn ngữ chết của tôi nghe du
dương, dễ đoán và an lòng hơn cả. Những sinh ngữ kia mỗi thứ hứa một
tương lai. Sau tương lai và một dĩ vãng chen nhau trên một mảnh sân
trường Hà Nội thì lắm chuyện, nên tôi thường chi hồ giả dã mỗi khi
câu chuyện tay bảy lâm vào thế bí.
Sổ hẹn của Sến thế là kín tuần: thứ hai Nhật, thứ ba Mĩ, thứ tư Đức,
thứ năm Trung Quốc, thứ sáu Hán Nôm, thứ bảy Pháp, như thời gian
biểu của nữ điệp viên Anh quốc sáu mang hoạt động trên đất Việt. Sến
không xếp những thằng có vợ gần vào thứ bảy, thằng có vợ xa cũng
được tránh ngày đầu tuần và hai bố con thì không bao giờ liên tiếp
nhau.
Chúng tôi nịnh nhau xỏ nhau hận nhau xót nhau, chúng tôi canh chừng
nhau thúc nhau cùng tiến, cuộc chiến của phe Đồng Minh, những thằng
bé mặc quần thủng đít dùng ngôn ngữ nước lớn. Đều theo xếp đặt của
em, Marie Sến.
Chương 7: Đổi mới. Những hội nghị
Cho nên tôi không mấy ngạc nhiên khi Sến xuất hiện trong một hội
nghị ở Viện. Ông hàng xóm xế bên phải tôi hôm ấy đọc một tham luận
sau ba chục năm im lặng. Sến đến, áo dài tóc buông bước chân lịch
duyệt, một người nữ quá hoàn hảo để có mặt giữa chúng tôi, trận mạc
này không có cao bồi bắn súng hai tay, buồn tẻ lắm.
Trận mạc này bày binh như sau:
Sát bàn chủ toạ là thượng đẳng khách, toàn những ông mặt mũi béo tốt
hết sức vui tính, cười hề hề vào camera, tự nhiên như ở nhà mình.
Nếu ngồi chỗ ấy chắc tôi cũng không làm gì khác hơn là vui tính. Ông
Viện trưởng Viện Lớn, ông giám đốc Học viện Nguyễn Ái Quốc, ông Viện
trưởng Viện Mác-Lê, ông thượng tướng Giám đốc Học viện quân sự, hai
ông trung tướng, ông phó Ban Tư tưởng Văn hoá trực thuộc trung ương
Đảng, ông phó Ban Khoa giáo trực thuộc trung ương Đảng, ông phó Ban
tuyên giáo trực thuộc trung ương Đảng, ông đại diện Thành uỷ, ông
đại diện Văn phòng Hội đồng chính phủ, ông đại diện Văn phòng tổng
bí thư, ông đại diện Văn phòng cố vấn chính phủ, ông phó Ban Tôn
giáo chính phủ, ông Giám đốc nhà xuất bản Sự Thật, và một ông đại
diện cho Bộ nội vụ không xưng chức. Viện trưởng của chúng tôi thấp
thỏm đứng lên ngồi xuống giữa họ, ông bị lây sự vui tính của họ,
thậm chí ông còn đánh bạo châm một điếu thuốc cầm tay và đánh rơi
tàn vào áo ông Bộ nội vụ. Thế là họ cười ầm cả lên và vỗ vai nhau.
Hội nghị sẽ thành công tốt đẹp.
Kế đó là trung đẳng khách: giáo sư đầu ngành, chuyên viên cao cấp,
nhà báo lão thành, cán bộ tuyên huấn tỉnh xa, chánh văn phòng Viện
Lớn, đại diện các Viện nhỏ trong Viện Lớn, trông họ nghiêm trang hơn
các vị ở tuyến trên nên Viện phó của chúng tôi và một vị giáo sư đội
nhà lượn tà tà như trực thăng bà già để tăng cường không khí. Viện
phó mặc quần bò và để râu con kiến, vị giáo sư đội nhà thì nhún nhảy
rất hề, môi chúm chím một câu pha trò cực đắt như chủ hôn đám cưới
làng. Hai vị ấy là chuyên gia cứu nguy. Xác suất tai nạn trận này dự
tính là lớn, nên cả hai phải rất sẵn sàng.
Kế nữa là hạ đẳng khách: nghiên cứu viên các Viện nhỏ, đại diện Công
đoàn, đại diện phụ nữ, đại diện thanh niên và đại diện phòng an ninh
của Viện Lớn, biên tập viên một hai tạp chí… Xin bạn đọc đừng ngạc
nhiên, khoa học của chúng tôi luôn là một Mặt Trận, nguyên tắc tối
cao là không được thiếu tuyến quân nào.
Sến khoan thai tiến vào, tài sắc vẹn toàn đội thêm vương miện quyền
uy, Ngọc Hân chăng? Ỷ Lan chăng? Kìa Viện phó của chúng tôi đã bỏ
rơi các giáo sư, bay vù đậu xuống bên em, trời ơi anh ta sắp nhấc em
lên, đặt cạnh lẵng hoa khổng lồ trên bàn chủ toạ, và hội trường sẽ
vỗ tay nhiệt liệt. Ôi, mĩ nhân, mĩ nhân vô danh, em cần gì đâu một
giấy mời, một danh thiếp, em quả là thứ duy nhất chúng tôi không trù
bị nổi. Nửa năm trời, ba mươi sáng thứ hai cộng ba mươi mốt sáng thứ
năm là sáu mươi mốt cuộc ngồi, chúng tôi không làm gì khác, chỉ tính
toán và lo âu vấn đề nhân sự của hội nghị. Phái Ấu Cơ đầu này không
được nói chuyện riêng và phái Việt Bắc đầu kia không được tự tiện
lẻn ra ngoài, chúng tôi tả hữu ở giữa cố mà nhớ những thông tin khẩn
mật về danh sách khách dự hội nghị: Một vị không được mời thì chửi
vung lên. Một vị để tán phét cho vui. Một vị chắc chắn sẽ phá thối
nhưng không ăn thua. Một vị hơi cực đoan nhưng như thế mới dân chủ.
Một vị chuyên tung ra các vấn đề mà không chịu giải quyết, nhưng
không sao, hội nghị này chính là để đặt ra các vấn đề càng nhiều
càng tốt. Một vị nhạt thếch nhưng điềm đạm nho nhã, vả lại hội nghị
nào cũng mời chẳng lẽ hội nghị này không? Khảo cổ đâu rồi? Vị khảo
cổ này hay quên lắm đấy, thỉnh thoảng phải thúc. Môi sinh ở ta tay
nào khá? Chết rồi, tay này đang ở nước ngoài, có khi tếch hẳn cũng
nên! Văn hoá dân gian mời hai hay một nhỉ, bên ấy những hai phe? Thư
viện quốc gia cho qua, dạo này thư viện ăn mày! Huế hết sức quan
trọng, xin nhắc lại Huế hết sức quan trọng, có thể họ mời ta cố vấn
cho cái festival sang năm có Liên Hợp Quốc tài trợ…
Thế đấy, xin bạn đọc đừng ngạc nhiên, chuyên môn hoá không phải là
sở trường của người Việt, mỗi khi có dịp hội họp là chúng ta tập hợp
anh tài như khai trương một siêu thị đủ mặt hàng. Hội- nghị-siêu-thị
nào cũng giống nhau. Chúng tôi lục tung kho người của nền khoa học
quốc gia, nhặt cho đủ quân số để xếp một đội danh dự thổi kèn thật
to vào công cuộc đổi mới. Người nào đứng chỗ nào, phùng mang trợn
mắt ra sao đã phân cảnh ổn thoả. Bỗng dưng Sến tiến vào!
Từ đám tào lao đứng ngồi lộn xộn tranh thủ hút thuốc của công dọc
tường tôi khâm phục Sến và cũng nể ông hàng xóm xế bên phải: mĩ nhân
cứ khoan thai nhẹ bước tới chiếc ghế để trống bên ông. Trong bộ com
lê của ba mươi năm trước và chín nhừ vì xúc động, suýt nữa thì ông
lảng đi, không dám nghĩ phần mình trong cái vinh dự thơm ngát đang
mỉm cười sát lại. Ông còn nhìn trộm ra sau để quyết rằng Sến nhắm
vào ai khác chứ không phải mình. Cái tích tắc ấy tổng kết chớp
nhoáng thói quen nhún phận của ba mươi năm khiến tôi nổi gai khắp
người. Bao giờ cũng là kẻ khác được may chứ không phải mình. Mặc cảm
về bất hạnh cũng bóp chết tâm hồn như mọi mặc cảm. Ở người trí thức
Việt, kèm theo đó là mặc cảm bị theo dõi và kiểm duyệt, và ảo tưởng
về trọng lượng xã hội của cá nhân mình. Ông sẽ chỉ là chiếc quan tài
chưa đóng nắp nếu quả thực có một cuộc đời tốt hơn mở ra. Vinh quang
của ông hẳn là đủ hắt lờ mờ khi xung quanh đen ngòm, nhưng vô nghĩa
trong ánh sáng của một ngày bình thường. Ôi các cụ, những ngôi sao
cuối mùa chỉ nhấp nháy trong đêm ba mươi!
Nhưng tôi đã hồ đồ. Có lẽ ông Thân đã đưa vội mắt tìm thằng con
trai, hi vọng của ông, vô vọng của ông, lúc này đơn giản chỉ là con
trai ông, nó đang hầu chuyện một giáo sư ăn mặc sặc sỡ. Thằng nghịch
tử đó, đồng nghiệp trẻ tuổi của ông đó, muốn độn thổ nên đánh rơi
bật lửa. Khi nó ngẩng lên thì vấn đề cha con không còn thời sự nữa.
Cũng trong một chớp mắt, ông Thân lấy lại toàn bộ phong độ nổi tiếng
của ông ba mươi năm trước: phong độ của một trí thức Tây học xuất
thân Nho gia quý tộc và phải lòng cuộc cách mạng của Việt Minh, một
kết hợp lịch sử độc đáo tài tình. Thời ấy, những người như ông nổi
bật giữa đám đông. Họ có cái cốt cách điềm nhiên tự tại mà lớp trí
thức tân kì nguồn gốc tạp nham không thể có: hai ngàn năm sách thánh
hiền cổ kính và mũ cao áo rộng kết thúc ở họ. Họ có cái tinh thần
học giả tinh vi thuần khiết mà chúng tôi công chức của một nền khoa
học vờ vịt nhố nhăng không thể có: tám mươi năm văn minh Pháp thuộc
và Viễn Đông Bác Cổ cũng đến họ là hết. Họ có cái khí phách lãng mạn
kiêu hùng của thuở ban đầu, tráng sĩ một đi nào có mong chi đâu ngày
trở về, tráng sĩ hôn lên ý trung nhân của chàng là cuộc cách mạng
còn vô cùng trinh tiết cái hôn mù quáng say lòng, hôn rồi chết cũng
xong. Cho nên tất cả những người được văn hoá, lịch sử, tiến bộ, và
tình yêu ùa vào cắt rốn như ông, sau này dù mỗi kẻ một lí tưởng một
phương trời, cũng dễ cảm thông nhau hơn là lứa chúng tôi. Đến lứa
chúng tôi thì việc khoác ba lô lên đường đã thành nếp, thành luật và
lệnh, cái hôn của mối tình đầu đã thành cuộc chung chạ quá lâu ngày,
chúng tôi và cách mạng, đôi bên đều nhẵn mặt nhau. Đến lượt những
cậu ấm Tân ấm Đủ thì nàng cách mạng rực rỡ thuở nào chỉ còn là một
mụ mãn kinh điêu toa và sợ già sợ chết, mụ ấy trát son phấn lên
người như hề, hiện nguyên hình là một gái hạ lưu, và mỗi dịp sinh
nhật lại đào bới trong kho ảnh lưu trữ cuống cuồng tuyệt vọng hơn.
Ôi chúng nó những cậu ấm thời đại biết trút tinh lực hào khí nam nhi
vào đâu!
Sến hẳn cũng sững sờ như tất cả chúng tôi: người đàn ông phút trước
em vừa gắng nâng đỡ vừa lo bại cuộc, phút sau đã vươn hết chiều cao
che chở đàng hoàng lịch thiệp ngời ngời, Sến và ông ấy làm thành một
cặp nhìn không chán mắt. Vừa ngắm ngẩn ngơ tôi vừa được biết cái
ghen ngầm mất dạy của tôi không ăn thua gì bên cạnh những thằng
khác. Thằng Hồng gầm gừ “Hừ, Comeback!”, tôi dịch là “Hãy đợi đấy!”.
Thằng trẻ trai này cũng con một ông đồ, đồ xứ Nghệ hẳn hoi; cũng nếm
một chút mùi chiến khu, chiến khu 79; cũng Tây học, Tây Liên Xô; lại
có chín mươi chín ngọn Hồng Lĩnh yểm sau lưng và làng tổ Kim Liên
làm bệ đỡ. Phong độ của y không để cho người ta ngắm mà để cho người
ta gờm. Nhiều tháng sau y sẽ làm một người hùng, đánh bạt hào quang
của ông Thân lúc này. Nhưng chuyện còn dài… Thằng Tân bây giờ xán
lại từ phía sau, một tay đặt lên thành ghế bố nó, một tay ghế Sến,
chen vai vào giữa và the thé thốt lên: “Enchanté!”, tôi dịch là: “Mẹ
kiếp!” Bạn đọc có thể thấy là tôi đã thu lãi lớn từ những buổi trò
chuyện tay bảy trong những tổ chim xì xồ và véo von giọng mũi.
Tôi tìm thấy Đoài trong một xó phòng với ba xấp phong bì đếm dở, mỗi
xấp một hạng khách. Nhiệm vụ của anh ta trong mọi hội nghị là tế nhị
phát phong bì cho khách. Không có phong bì thì không có hội nghị.
Nghề đi dự hội nghị là nghề nhàn và lương cao. Chúng tôi ngồi im
lặng bên nhau rất lâu. Tôi luôn giữ một góc nghiêng nhất định chắn
bớt đường anh chàng nhìn về phía Sến. Có trời biết vì sao tôi bỗng
lo cho cơn ghen của gã cán bộ thoát li này hơn cơn ghen của chính
mình. Ở trung tâm ngoại ngữ, Sến dường như thuộc về tất cả mà chẳng
của riêng ai. Ở đây Sến đường hoàng cặp đôi với ông Thân. Ý thức sở
hữu của anh chàng tiểu nông thế là bị thử thách đáng kể. Đoài đột
nhiên thủ thỉ: “Vợ tôi hồi trẻ xinh nhất nàng, ông ạ. Tôi đi nính
về, Quảng Trị ông ạ, hai trên bảy, sơ sơ thôi, nấy được cô xinh nhất
nàng. Cũng có mấy thằng, giáo viên cấp ba hẳn hoi, bác sĩ nữa, mới
nại thằng cha con trai chủ tịch huyện, nhưng cô ấy chọn tôi. Tôi
đáng tin hơn những thằng kia, ông ạ. Thằng con chủ tịch huyện bây
giờ nằm khóc dở ở Hồng Kông đợi cưỡng bức hồi hương về ăn cám. Nhưng
mà tôi ngốc lắm. Cô ấy đi nàm đồng nửa buổi về, máu đầy ở xà cạp,
tôi hỏi đứa nào đánh thì ra báo công an, cô ấy chạy vào buồng cười
một mình. Hoá ra đán bà họ hành kinh, khiếp nắm, ông ạ. Nần nào về
tôi cũng mang một bánh xà phòng thơm, nhưng mẹ con nó cất hết vào
tủ, cho thơm nâu, ông ạ, mang dùng nại sợ phí. Nhà tôi ở quê toàn
dùng nước mưa. Xà phòng rửa nước mưa không đi đâu, nhờn tay nắm, ông
ạ”.
Tôi chuồn khỏi cơn tâm thần của anh hàng xóm sát vách. Mặc kệ anh ta
đếm sai phong bì. Nếu thượng đẳng khách vớ phải phong bì dành cho hạ
đẳng khách thì ông Viện trưởng chứ cóc phải tôi lo mất chức. Mặc kệ
anh ta sờ soạng trong những xó xỉnh cải lương hạng bét của tâm hồn.
Mẹ kiếp, tự nhiên lôi vợ ra để tự an ủi! Đời cán bộ thoát li quả là
đời lí tưởng, mất mát chỗ này một tí là có ngay chỗ khác bù vào. Nếu
thằng Đủ ngồi đây và nó cũng lên cơn thì hội nghị “Di sản và đổi
mới” này kể như bị san bằng. Hậu Thánh Gióng cưỡi mô tô phân khối
lớn, nhổ phắt sáu chiếc cột trong phòng này vung lên thì dinh luỹ
khoa học xã hội tan tành!
Mới ngày nào tôi còn trêu chọc, nhài ra sao rồi ngọc nan ra sao. Sến
là phát hiện của Đoài. Anh ta mởi đầu solo một sớm mùa xuân lãng mạn
ở ngoại thành, chúng tôi ùa ra đồng diễn một đàn giữa mùa hè như ve
đô thị. Trong tấn kịch này đứa nào cũng có cơ hội đóng kép với đào.
Nếu khéo bảo nhau chúng tôi có thể luân phiên. Nhưng Đoài là một anh
nông dân. Anh ta không chịu chung với năm nhà hàng xóm một con vịt
để nó lần lượt đẻ mỗi nhà một trứng. Mới ngày nào đời chúng tôi
thong thả, tim chúng tôi an nhàn, đứa nào thân cư chỗ nào mệnh đóng
ở đâu đều đã ổn thoả. Bỗng dưng Sến chen vào!
Bảy người chúng tôi là một tập hợp vô duyên. Nếu tất cả cùng quyết
chết vì tình thì chẳng hạn Sến họp với cha con Đoài được một nhóm
đầu rau; Sến chết một lần nữa họp với cha con ông Thân được một nhóm
trầu cau như trong truyện cổ cho hậu thế tiếc thương; nhưng Sến chết
thêm lần thứ ba thì vô nghĩa vì tôi và thằng Hồng quyết không thể
quyện vào nhau sống cũng như chết.
Ông Thân lên diễn đàn đầu giờ chiều ngày hội nghị thứ hai. Trước đó
chúng tôi đã nghe một diễn văn mở đầu của Viện trưởng dài bốn mươi
lăm phút, ba báo cáo chính, hai mươi chín tham luận. Các báo cáo đều
ngợi ca công cuộc đổi mới và xác định chỗ đứng vững chắc của nền
khoa học xã hội, đồng thời tiết lộ rằng trong tình hình mới rất
nhiều vấn đề mới đặt ra, hoặc những vấn đề cũ có thể được xem xét
lại.
Các tham luận theo trình tự sau:
Tham luận thứ nhất: “Chủ nghĩa yêu nước, di sản quý báu nhất của dân
tộc Việt Nam”.
Tham luận thứ hai: “Chủ nghĩa anh hùng, truyền thống sáng ngời của
chúng ta”.
Tham luận thứ ba: “Tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới hôm
nay”.
Tham luận thứ tư: “Vai trò lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp giải
phóng dân tộc và sự nghiệp đổi mới”.
Tham luận thứ năm: “Sứ mệnh mới của giai cấp công nhân Việt Nam”.
Tham luận thứ sáu: “Sức mạnh của Mặt trận dân tộc - Từ liên minh
công nông đến phong trào hoà hợp hoà giải”.
Tham luận thứ bảy: “Những bài học lớn từ cuộc chiến tranh nhân dân”.
Tham luận thứ tám: “Hai ví dụ về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh: Từ
Điện Biên Phủ đến chiến dịch Hồ Chí Minh”.
Tham luận thứ chín: “Chính sách ngụ binh ư nông - một cách nhìn
mới”.
Tham luận thứ mười: “Phương thức sản xuất châu Á, những vấn đề của
lịch sử”.
Tham luận thứ mười một: “Nông thôn Việt Nam trong lịch sử. Những bức
xúc của công cuộc hiện đại hoá”.
Tham luận thứ mười hai: “Làng cổ truyền. Một vài đề nghị từ khía
cạnh phát huy và bảo tồn”.
Tham luận thứ mười ba: “Phác hoạ vài nét về tầng lớp trung nông,
tiềm năng và xu hướng mới”.
Tham luận thứ mười bốn: “Có hay không một tầng lớp địa chủ trong
lịch sử?”.
Tham luận thứ mười lăm: “Đô thị Việt Nam trong lịch sử và hiện đại”.
Tham luận thứ mười sáu: “Thử giở lại hồ sơ của giai cấp tư sản dân
tộc. Một hướng đi mới”.
Tham luận thứ mười bảy: “Chính sách bế quan toả cảng của nhà Nguyễn
- Những hậu quả”.
Tham luận thứ mười tám: “Sơ bộ đánh giá vai trò của nhà Nguyễn trong
việc thống nhất nước ta đầu thế kỉ mười chín”.
Tham luận thứ hai mươi: “Lại nói về trống đồng và triết học phương
Nam”.
Tham luận thứ hai mươi mốt: “Bàn về chữ ‘nhân’ trong truyền thống tư
tưởng của người Việt”.
Tham luận thứ hai mươi hai: “Có hay không một tâm thức Việt Nam?”.
Tham luận thứ hai mươi ba: “Tam giáo đồng nguyên, một mô hình lịch
sử thuần Việt”.
Tham luận thứ hai mươi bốn: “Tục thờ Mẫu và nguyên lí Mẹ trong triết
lí của người Việt”.
Tham luận thứ hai mươi lăm: “Triết lí trầu cau - Bản sắc dân tộc và
hiện đại”.
Tham luận thứ hai mươi sáu: “Lược trình phát triển của chữ Việt và
vai trò của nó trong công cuộc hiện đại hoá đất nước”.
Tham luận thứ hai mươi bảy: “Tản mạn về công cuộc khai hoang trong
lịch sử và chính sách kinh tế mới hiện nay”.
Tham luận thứ hai mươi tám: “Tiền cổ Việt Nam – Vài suy nghĩ bước
đầu về kinh tế thị trường”.
Tham luận thứ hai mươi chín: “Phôn cơ lo, một quan niệm hiện đại”.
(Tôi xin chép lại nguyên văn tên các báo cáo khoa học như vậy để bạn
đọc ngoại đạo dễ hình dung thế nào là một hội nghị khoa học cấp nhà
nước trong giai đoạn đổi mới.)
Ngày hội nghị thứ hai, Sến cuốn tóc cài trâm mặc váy áo đầm, em bảo
hôm qua em di sản rồi hôm nay đổi mới. Hôm qua Sến sánh vai ông Thân
đi khắp hành lang. Bạn cũ, người quen và học trò của ông ấy chẳng
biết ba chục năm qua ở đâu bỗng kéo ra như kiến. Bắt tay vỗ vai giật
áo ông ấy, hỏi thăm ào ào, ai cũng tranh thủ đứng một lát gần Sến.
Ngửi em, sờ em bằng mắt láo liên, nếm em bằng lưỡi liếm môi khô.
Dường như chủ toạ cố tình kéo dài buổi giải lao. Ai bảo các nhà khoa
học khô khan chúng ta không đa tình! Một phút nữa hai phút nữa ba
phút nữa, tôi phải làm một cái gì đó thật anh hùng hiệp sĩ. Giải
phóng mĩ nhân, đưa nàng về chỗ an toàn, lập một vành đai chống đỡ.
Ôi các em, sóng gió các em gây ở đời chưa đủ sao mà phải tới đây,
tâm trí nào chúng tôi làm bác học! Tôi than thầm một tiếng nam nhi
não ruột như thế rồi mọc lên trước mặt Sến. Trước mặt Sến tôi quên
khuấy kế hoạch hiệp sĩ. Từ khi biết Sến chưa bao giờ em hiện ra ngọc
ngà như thế. Thánh thiện như thế. Hai cái nốt ruồi đầy quá khứ. Ngực
cong vời vợi. Môi đầm đìa…
Ông Thân tham luận về truyền thống dân chủ của người xưa. Ông tra về
gốc la tinh của cái từ sang trọng đề mô cờ ra xi. Ông dẫn nghĩa theo
Từ Nguyên. Ông trích đi trích lại câu thánh hiền “dân vi trọng quân
vi khinh” và câu á thánh hiền “nước chở thuyền, nước lật thuyền”.
Vua xắn quần lội ruộng và tướng sĩ hoà nước sông chén rượu. Những
tấm gương cũ một lần nữa được mang ra soi. Bách gia chư tử từ bên
Tàu được kéo sang ta cũng thành một tiềm năng trăm hoa đua nở. Đến
chỗ ông diễn giải cái tinh thần ruột rà hoà điệu của nền văn minh
“quốc-gia-làng-xóm” và xoáy vào cái đơn vị nổi tiếng là làng với
những truyền thống quý báu của nó thì tôi mất kiên nhẫn và quay sang
ngắm Sến. Sến ngồi thật thẳng, môi hé trìu mền, đùi khép đoan trang.
Quả thật khối tri thức cổ kính tuôn trào trên bục hội nghị kia chẳng
liên quan gì đến em. Tôi không muốn khẳng định rằng Sến từ trên trời
rơi xuống giữa đám Từ Thức chúng tôi, vì em trần tục lắm. Nhưng Sến
là một thực thể phi lịch sử. Quá khứ của em nằm trong tủ áo. Cái sơ
mi tím này Sến mặc duy nhất một buổi chia tay mười lăm năm trước,
thời ấy màu tím là màu đau tim nên em nhất định may áo tím. Bộ váy
áo nhiễu loạn kia Sến sắm đại trong một cơn khùng, mỗi lần lên cơn
là em đi mua sắm; cơn khùng năm ấy hẳn say máu lắm, nên áo xống mới
đỏ rừng rực lượn lên lượn xuống nhằng nhịt thế kia. Một đống áo mút
cổ lọ xếp xó, cái thời áo mút phân phối, một cái cổ lọ màu hoàng yến
thò ra ngoài sơ mi ve nhọn đã là bao nhiêu ý thức thời trang! Còn
những chiếc slip nữa, không phải chiếc nào cũng bé bỏng thơm tho:
chiếc thì nhàu nát chán chường, chiếc thì e ấp trinh bạch, chiếc
mỏng tang như áo ma, chiếc cục mịch quăn queo như mo nang chưa ép.
Cái đống lá đa nhà chùa ấy cho thấy Sến chẳng ngại dấn thân. Một
lòng cầu thị như thế đi suốt những biến cố thời trang, em can trường
của tôi, Marie Sến! Tủ áo của Sến với tôi là một bài giảng cỡ thánh
hiền. Đức mặc ở em cũng như đức ăn, hai cái phẩm hạnh con nhà bình
dân, một tinh thần phơi mở rộng rãi tuyệt đối. Em có thể ăn đất uống
sông và mặc mây trời cũng hăng hái tự nhiên như khi lỉnh kỉnh nai
nịt bằng những sợi chất dẻo đính kim tuyến. Không kén chọn, không
thành kiến, chỉ một lòng yêu sốt sắng mù loà, một nhiệt tình sống ôm
đồm rối rít, và có lẽ một chút thiên về những gam đồng bóng phô
phang, Sến liên quan gì đâu đến những ông vua hiền vua ngu và những
truyền thống không hề có trong hiện tại!
Trên kia ông Thân vẫn tiếp tục mạch tư tưởng. Tôi hân hạnh được biết
cái mạch ấy. Đại loại như thế này: các nhà khoa học cấp tiến nhất
của chúng ta trong khi day dứt khôn nguôi về thực trạng đất nước thì
chia làm hai phái. Phái cấp tiến cực đoan thì phang tuốt, Đảng, Bác,
Các Cụ Mác Sờ Lê Nin, chủ nghĩa, cơ chế, hệ thống, vân vân. Đấy là
những thứ đáng bị đánh đòn, đã đành, đến dân tộc, lịch sử, truyền
thống cũng không có cái nào được tha. Hai ngàn năm (phái này chỉ
công nhận hai ngàn năm lịch sử Việt Nam) kém phẩm chất tuyệt đối. Có
nghĩa là tình thế của chúng ta hoàn toàn vô vọng. Muốn tiến bộ canh
tân chỉ còn cách nhổ tận gốc nước Việt, khuân sang trồng ở Âu Mĩ mà
thôi.
Phái cấp tiến ôn hoà thì đi giữa ranh giới của những giá trị tích
cực và những giá trị tiêu cực, họ có cái vẻ tự tin thót ruột của
những nghệ sĩ đi trên dây. Phương châm của họ là phê phán sự phê
phán có tính chất phê phán. Thoạt nghe tương đối rối mù. Nhưng tôi
có hân hạnh được nghe đi nghe lại, ông hàng xóm xế bên trái tôi là
thủ lĩnh phái này, lâu dần tôi cũng nắm được nghệ thuật giữ thăng
bằng trên độ cao trí tuệ của những nghệ sĩ lão luyện đó. Họ đầy tinh
thần phê phán, đấy là điều không cần bàn cãi. Và đầy lương tâm. Đạo
đức. Tư cách. Trách nhiệm. Đức tin. Tất cả những phẩm chất ấy cùng
bảo nhau họp lại trong một biện chứng pháp đứng đắn như trời trồng.
Giả sử họ nói sai cũng không ai trách, vì ai dám trách một nhân cách
đáng khâm phục nhường ấy! Khi các nhân cách lớn tha thiết tự bày tỏ
thì những vấn đề của khoa học và tổ quốc dường như cũng tự động được
giải quyết. Thế là tác giả hài lòng, độc giả mãn nguyện. Không nơi
nào trên thế giới có một nền khoa học thân tình dễ chịu hơn. Tôi
cũng nghe thủng mọi ý tứ của các nhà bác học cấp tiến ôn hoà, cũng
chiêm ngưỡng họ thi đua nhân cách, nhưng thú thực nghe nhìn xong ít
khi nhớ được điều gì. Có lẽ vì ý kiến họ na ná nhau, nhân cách họ
từa tựa nhau, họ lại có tật nói dài, nói rất dài, người này lặp lại
người kia và lặp lại chính mình không mệt mỏi, không đếm xỉa đến sức
khoẻ của người nghe và dán đầy trích dẫn Đông Tây lên trụ cột tư
tưởng như những cột áp phích kín mít. Ai không theo phong cách đó có
thể bị coi ngay là thất học, hay chưa chín muồi. Họ có thể là những
ngòi nổ, đấy là điều không cần bàn cãi, nhưng cái cách họ nổ ra
những vấn đề thì, xin lỗi, sặc mùi trưởng giả. Và bạn đọc chẳng lẩy
ra được một xu hài hước nào ở họ đâu, như đã nói, các nhà biện chứng
ấy đứng đắn như trời trồng, cười tủm trước mặt họ là thiếu lịch sự
hơn đánh rắm. Người nào trong số họ tự cho mình có uy mua thì mủm
mỉm cười gật gù: bạch mã phi mã. Đố người Việt nào chỉ biết quốc ngữ
hiểu được cái uy mua ấy.
Các nhà cấp tiến cực đoan thì ồn ào bi đát, các nhà cấp tiến ôn hoà
thì nghiêm trọng dài dòng. Tìm thầy, kết bạn, xe duyên tri kỉ trong
thời buổi này nếu không được số phận bịt mắt dắt tay thì khác nào đi
chọn xe máy ở phố Hàng Bông, cuối cùng bạn cũng mất kiên nhẫn mà
nhảy đại lên một chiếc. Nếu không, bạn hãy về nhà tự yêu lấy tốc độ
di chuyển của mình.
Nhưng hãy trở về chỗ ông Thân trên bục hội nghị. Không phải ông ấy
sùng bái quá khứ. Không phải ông ấy phiến diện hời hợt. Các nhà biện
chứng vĩ đại thì sâu sắc toàn diện và bao vây con mồi tư tưởng của
họ từ mọi phía. Tôi biết ông Thân dài dòng Thi vân Tử viết từ Khoá
Hư Lục sang Những bản thảo kinh tế chính trị và sắp sửa cho Trần Văn
Giáp ngồi cạnh Trần Văn Giàu, Lê Quý Đôn cạnh Lê Thành Khôi, rồi
BEFEO, CEFEO, PEFFEO, những Woodside, Tsuboi, Jamieson, Condominas…
được giăng ra như lưới, chỉ để ông khoai thai đứng trên bờ, từ từ,
rất từ từ, cất lên mẻ cá gồm một chú cá tư tưởng duy nhất mà ông dày
công chăm bẵm mấy chục năm đợi dịp thả xuống để rồi cất lên trước ồ
à của toàn thể công chúng mắt sáng ngời. Theo thiển ý của tôi thì
cái động tác cất lên thả xuống đó hơi phiền hà, và cái tinh thần ngư
ông phương Đông trong trường hợp này rất đáng sốt ruột. Nhưng rút
cuộc thì tôi không bịt mồm ba chục năm, tôi chỉ không có gì đáng nói
để nói mà thôi. Ở địa vị ông ấy chắc tôi còn rung đùi bệnh hoạn hơn
để thưởng thức dài hơi mẻ lưới ăn chắc của mình.
Đã mười lăm phút. Đề mô cờ ra xi chưa gây rắc rối cho ai. Công chúng
không phải những con nhà chài thiện nghệ để rung động khi chú cá
cưng của ông Thân quẫy đuôi tế nhị. Đấy là công chúng của ngày hội
nghị thứ hai, đầu giờ chiều, sau ba báo cáo chính và hai mươi chín
tham luận. Đấy là công chúng đã nhận xong phong bì. Hai phần ba
thượng đẳng khách đã toạ trong những hội nghị khác: vinh dự này
không của riêng ai. Một nửa trung đẳng khách đã biến mất sau ngày
hội nghị thứ nhất, họ đã nói xong phần họ và không có nhu cầu nghe
ai khác, tôi không nói ngoa, phàm là giáo sư thì biết tỏng nhau. Một
phần ba hạ đẳng khách không trở lại nữa. Khách khứa còn non nửa và
đội nhà cũng rệu rã lắm rồi. Hai cô cuồng báo thì đã tót đi đọc báo.
Bốn chị em khác đang ngồi xổm chọn cá ở chợ Hôm và thêm năm chị em
nữa bôn ba đến nhà trẻ. Ba chị em vắng mặt không rõ động cơ. Phái Âu
Cơ để lại một nữ phó tiến sĩ trong phòng hội nghị. Nàng tiên trí
thức này sẽ đọc tham luận thứ ba mươi mốt. Chúng tôi, đám quần chúng
vừa tả vừa hữu, vương vãi trong năm quán nước trà và ba quán cà phê
bao quanh Viện. Tám cứ điểm trọng yếu này lập thành một vành đai
chất lỏng kì diệu bọc êm thành luỹ của khoa học. Thằng Tân, thằng
giẻ rách hoang tưởng, đôi khi cũng biết hóm. Nó chia phương định
hướng, gọi tên tám cái tiền đồn ấy là Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Li,
Khôn, Đoài. Ai rủ nó ra quán, nó khinh khỉnh chặn trước: ”Phục Hi
hay Văn Vương?”. Là những định hướng khác nhau đáng kể. Bạn ngẩn tò
te nó sẽ coi bạn là mù chữ, không đáng cùng nó uống một chén trà.
Đấy là công chúng của ngày hội nghị thứ hai, đầu giờ chiều. Muốn
chinh phục nó bạn phải đốt pháo đùng. Tiếng pháo tép của ông Thân
bật lên từ một cõi lòng thiết tha, nhưng tế nhị quá. Ông đang vùi
những suy tư của một đời nín nhịn vào chiếc gối phồng của sự uyên
bác. Giữa tiếng ngáy bất tận của các dữ kiện lịch sử, lời tâm huyết
của ông rời rạc thảng thốt như lời nói mê mấy ai lưu ý. Rằng đề mô
cờ ra xí nằm trong huyết thống dân tộc này. Tôi chua tiếp: Phải trả
lại dòng máu sang trọng ấy cho dân tộc, cho xứng đáng với cha ông!
Rằng người Việt chúng ta vốn khoan dung với mọi trào lưu tư tưởng
khác mình. Tôi chua tiếp: Ôi cái dân chủ đa nguyên! Và ở đâu đó
trong cái hội trường mệt mỏi này, thằng con trai duy nhất của ông
đang lẩm bẩm câu kinh biết rồi khổ lắm nói mãi. Cái khổ của thằng
con là phải nghe. Cái khổ của ông bố là không được nói. Gia đình trí
thức hiện đại của chúng ta gồm những chiếc miệng chỉ mấp máy trong
mê và những chiếc tai đút nút chăng? Nghe bi đát quá. Vân và Kiều
ơi, cha không có gì để nói nhưng sẽ hò hát bông phèng luôn luôn, và
các con nhớ đeo toòng teeng cho những chiếc tai xinh luôn sinh động!
Còn Sến, Sến một mình vỗ tay như bé Măng Non trong chương trình
Những bông hoa nhỏ của truyền hình, và cần cổ phu nhân vươn như chân
Chùa Một Cột, ngực gái một con dào dạt chìa ra đón người hùng, người
thả lưới vĩ đại từ bục bước xuống. Sến lục túi lấy một lát sâm. Cách
ba hàng ghế tôi nghe lời em ân cần “Nam Triều Tiên xịn đấy anh ạ,
không phải sâm mậu dịch đâu, ngậm đi cho lại sức”. Ôi mĩ nhân, mĩ
nhân, con người bình thường và trần tục nơi em làm mủi lòng tôi ấm
lòng tôi, tôi lại biết phải lòng em là hợp lẽ.
Nàng phó tiến sĩ của Viện tôi đã mào đầu xong về “Phụ nữ Việt Nam,
truyền thống và hiện đại”. Nàng đeo kính và để tóc xù, trông cũng ra
một hiện tượng. Sến hay trách tôi ác khẩu với đàn bà. Vâng, sự âu
yếm của tôi nó nhếch nhác méo mó. Nói chung cái quan hệ đực cái ở ta
nó nhếch nhác méo mó trong phạm vi toàn quốc, không chỉ riêng nơi
tôi. Đàn ông dương vật buồn thiu, đàn bà cạn khô suối tình. Chỗ nào
rào rạt biển tình thì là một biển cải lương chết chìm, một biển cải
lương rất sến. Tôi còn một chút âu yếm chưa dùng đến, phải gói ghém
vào miệng lưỡi xấu xa độc địa cho dễ bảo toàn. Ngày xưa để thần linh
không màng, người ta bọc con yêu vào tên xấu…
Ở địa vị nàng tiên trí thức trên kia tôi sẽ à ơi – ru con cho cử toạ
ngủ gật được yên tâm thiếp đi. Ông Viện trưởng sẽ đánh thức họ dậy.
Có thể tin vào kinh nghiệm đọc diễn văn bế mạc của ông.
Chương 8: Vợ chồng. Những biểu hiện của tình thương
Sau hội nghị “Di sản và đổi mới”, tất cả chúng tôi đều tạm ngưng áp
phe Sến. (Ấm Đủ không dự hội nghị nhưng được ấm Tân thông tin, thế
là nó cũng gầm lên: “Địt mẹ con nhỏ bậy quá!”). Chúng tôi thôi tập
trung nói giọng cường quốc ở trường. Đứa có vợ hết nịnh đểu vợ ở
nhà. Thằng ở Viện không đi đái rắt để nghe lỏm điện thoại nhau.
Chúng tôi cùng lùi lai, chừa ra một khoảng cách tỉnh táo để khẳng
định rằng: câu chuyện mùi mẫn sặc mùi cải lương Nam Bộ này đối với
sĩ phu Bắc Kì chúng ta là đáng ngờ lắm!
Chúng tôi quay về với tôn chỉ của mình. Đoài lên dây cót đức hạnh.
Thân rà lại lí trí phê phán. Tân bắt ấn, hai ngón trỏ chỉ thẳng lên
tầng cao của sự khinh miệt tuyệt đối: nó gọi đấy là giác ngộ. Hồng
chui tọt vào chiếc lô cốt văn minh, y đếch liên quan đến mục giải
trí rẻ tiền. Đủ lại được một cơ hội chê cười lũ trong biên chế mạt
vận suy đồi. Tôi làm một con tằm nhả ra những sợi tơ lòng chí lí,
đại loại đời phù du thật, và đàn bà là cái hoạ. Thông thường ý nghĩ
của tôi khiêm tốn hơn. Những tiếng lòng đúc kết quá nhiều sự trải
đời của người quân tử như trên đang làm bùi ngùi văn chương Việt Nam
hiện đại. Tự nhiên sau hội nghị tôi cũng lẫn lộn thật giả, cũng ưa
một chút quân tử bùi ngùi.
Sến rõ là một thiên đường cửa khép hờ, chỉ mạnh chân một chút là cả
bọn chúng tôi ùa vào đại náo. Nhưng tiếu lâm hiện đại đã nói rồi,
người Việt chúng ta giẫm chân nhau, chúng ta thà kéo tuột nhau cùng
rơi trở về địa ngục. Chúng tôi là một bọn đàn ông Việt điển hình. Ăn
pho-mát như thằng Hồng, khinh tiền bối như thằng Tân, nói ngọng như
thằng Đoài, nói bậy như thằng Đủ, nói năm ngoại ngữ như ông Thân,
nói vu vơ như tôi, những phẩm chất ấy đều thuần Việt. Cho nên thay
vì đại náo nơi Sến, chúng tôi lui về tuần tiễu những vương quốc thế
gian bé xíu của mình. Cái triển vọng thiên đường tập thể nghe thì
hấp dẫn nhưng không mấy thích hợp với chúng tôi. Chỗ nào dành cho
những cá nhân thì chúng tôi hùng hổ xưng danh một tập thể. Chỗ nào
dành cho tập thể thì chúng tôi thu lu trong cái xác đơn chiếc của
mình. Và chẳng bao giờ tiến bộ trong vấn đề chiếm đoạt, chúng tôi
mãi là những thằng gia trưởng thoả hiệp với luật hôn nhân. Sến ơi,
em hãy thương chúng tôi mà đừng yêu và chúng tôi yêu em mà không
thương! Bao nhiêu tình thương chúng tôi đã gói để đầu giường cho các
bà vợ hằng đêm gối ấp. Lấy chúng tôi làm chồng sang hèn thế nào chưa
biết, nhưng cái bọc tình thương ấy các bà có thể mang theo xuống đáy
mồ.
Sến đã thấy vợ tôi dưới dạng vỏ lon Coca Cola bẹp rúm. Mỗi sáng khi
cô ấy rời nhà đến cơ quan, xưởng bánh kẹo, tôi luôn nhìn theo. Như
mọi người Hà Nội cuối thế kỉ hai mươi, cô ấy không còn đi bộ. Chỉ
xuống xe dắt lên con dốc La Thành, nhìn từ xa như một con cào cào
lôi con châu chấu, xe là chủ người, không phải người là chủ xe. Rồi
thoắt một cái đã trên yên. Tôi mất vợ vào dòng xe, bây giờ cô ấy
giống hệt bất kì ai, là muôn loài, là nhân loại, tuyệt lắm. Chỉ
không là thiếu nữ mười lăm năm trước thường thả bộ dọc phố Sinh Từ
về Quốc Tử Giám. Thời ấy nửa triệu người Hà Nội giống nhau như nửa
triệu giọt nước sông Hồng. Một tập thể phù sa mặc vải pha ni lông
cắt phiếu và đi dép nhựa căng tin. Thời ấy nếu không có cái quần đen
bên dưới và tóc dài bên trên chẳng ai biết người trước mặt liền ông
hay liền bà. Từ gót chân đến đỉnh đầu không chỗ nào hở ra cho một
tia quyến rũ riêng tư. Phô phang một phân vuông cá lẻ khác người có
thể là phạm thượng. Khí phách đàn ông và nhan sắc đàn bà chỉ có
trong sách, những dáng thướt tha chỉ thấp thoáng trong văn thơ, tất
cả những gì bốc mùi mĩ thuật đều bị những nhát chổi mạnh mẽ của tinh
thần sạch sẽ quét phăng khỏi hiện thực
Tôi thường vẩn vơ nhìn ngó những dáng đi. Bỏ qua chuyện sách vở dối
lòng, tôi mạo muội khẳng định với bạn đọc là người Hà Nội thời ấy
đánh mất dáng đi. Họ chuyển động trong thành phố trên những đôi chân
không thuộc về họ, vung vẩy những cánh tay giả, so vai rướn cổ như
được lắp ráp và nhẫn nại lê cái túi thịt tương đối lép của họ bằng
một tốc độ nhỉnh hơn bản thân sự ngưng đọng tí ti. Thằng Hồng hồi ấy
vừa đi thực tập một năm Liên Xô trở về. Đối diện lại với hiện thực
Hà Nội, y nói thâm thuý rằng: “Sống thế này mà vẫn sống, ôi sự sống
quả là bất diệt!”. Lúc đó y đầy lòng ngưỡng mộ đấy nước Xô Viết, cho
đó là thiên đường của nhân loại, nhưng chủ yếu là y còn trẻ, còn
biết ngạc nhiên và rút ra những kết luận khả quan. Bây giờ mấy cậu
nghiên cứu sinh Ban lịch sử thế giới của Viện tôi ngồi luyện kim ở
đôm Năm lại khinh dân Nga như rác. Trở lại thiếu nữ tên Phần, tôi
muốn nói rằng nàng có một dáng đi. Không yêu kiều kiêu hãnh gì nhưng
là một dáng đi. Cho thấy cá nhân nàng chứ không phải nửa triệu đồng
bào. Rút cục tôi không thể cưới một tập thể về làm vợ. Phần thả bộ
dọc phố Sinh Từ, cũng tóc dài bên trên quần đen bên dưới không khác
mẹ nàng chị nàng và bà ngoại nàng, nhưng bước chân của nàng thuộc về
nàng, bám sát sau nàng tôi thấy rõ; hai tay nàng mọc tự nhiên từ hai
vai thảnh thơi; cổ chắc nịch an toàn; nàng không nhún nhảy và ngửng
nhìn trời như trong sách, nhưng không lê bước, tốc độ của nàng tuỳ
thuộc những hoàn cảnh rất riêng của nàng: nàng có một dáng đi.
Tôi đã cưới một dáng đi. Bây giờ sáng sáng tôi mất vợ vào dòng xe.
Đến Giảng Võ dòng xe chia ba. Vợ tôi chắc đang lật đật vẫy tay xin
đường. Tay cô ấy cũng khác xưa, tự động chắp vào vai, bên dưới là
đôi chân tự động nối vào hông, bên trên là cái cổ tự động ngồi đúng
chỗ. Chân, tay và cổ đàn bà phải mọc tự nhiên như nhành thuỷ tiên
đơm từ củ. Nhưng tôi không là cây tùng, vợ tôi không là thuỷ tiên.
Tôi đứng trên ban công nhà mình căng mắt nhìn về hướng xưởng bánh
kẹo nhưng không thế, không thể nhận ra vợ mình. Đường chi chít những
hình nấm khum khum lăn trên hai bánh. Bây giờ, khi dân Hà Nội bắt
đầu có nhu cầu là những cá nhân riêng tư thì vợ tôi chìm vào một đám
đông hỗn loạn ba triệu người. Cô ấy không còn thuộc về mình. Cô ấy
thuộc về tôi và các con tôi, thuộc về xưởng bánh kẹo.
Nhưng đàn bà đánh giá nhau thực tế như tính tuổi vàng, miệng thì chị
chị em em, mắt thì so đo từng sợi lông mi ngắn dài của đối tượng,
tôi kể Sến nghe về một dáng đi mười lăm năm trước có ích gì? Sến hẳn
cũng đã được dịp chào hỏi vợ thằng Hồng. Chị nay dạy triết ở Đại học
tổng hợp, tối nào cũng xem vô tuyến đến mục “Con kênh xanh xanh” và
là người đàn bà giàu sáng kiến nhất khu cầu thang. Khi chúng tôi mới
dọn về, chị ta treo ngay ở hành lang một bảng phân công trực nhật,
“Nguyên-Thân-Hồng-Đoài”, trẻ con khu tập thể chữa thành
“Nguyên-Nhân-L…-Dài”, đứa nào đi ngang qua cũng rú lên:
“Tạisaotạisaotạisao”-“Tạitaotạitaotạitao”. Vợ thằng Hồng viết một
bảng phân công mới, treo tít lên cao, “Đoài-Hồng-Thân-Nguyên”. Bảng
không suy suyển, nhưng bên dưới xuất hiện dòng chữ nguệch ngoạc “đùi
Hồng chân Nguyên”. Vợ thằng Hồng thay quý danh của chúng tôi bằng
những chữ cái, “H-N-T-Đ”. Nhưng bí danh kiểu này cũng không an toàn:
khẩu hiệu mới to tướng trên tường là “Hôm Nay Thèm Đ…”
Lũ trí thức chúng tôi dưới sự chỉ đạo của một nữ triết gia hí hửng
nêu một tấm gương nếp sống văn hoá. Cho một khoảnh toen hoẻn hai mét
vuông với những phiến lát màu gạch cua gập gềnh. Một ốc đảo, một
utopia, một trò cười và một triển lãm bích báo khiêu dâm.
Vợ thằng Hồng chuyển sang sáng kiến thứ hai: chị ta lên một chương
trình bóng điện. Lúc đầu chị ta tự nguyện mắc một bóng đèn ở ngoài
hành lang, đúng bảy giờ tối bật, mười giờ đêm tắt. Cuối tháng đi các
nhà thu tiền ánh sáng công cộng, ba tiếng đồng hồ nhân lên với bốn
mươi oát cứ thế tính ra, cuối cùng chia bốn, cực kì minh bạch. Mỗi
nhà bốn trăm rưởi. Nhưng không tháng nào chỉ bốn trăm rưởi. Hai bóng
nổ, năm bóng bị tháo trộm, và tháng sau lại những số liệu bất ngờ
khác. Vợ tôi vừa đưa tiền vừa nói: “Sao bị tháo nhiều thế nhỉ”. Vợ
ông Thân thì hỏi: “Cô mua phải hàng rởm sao mà cháy luôn thế?”. Vợ
thằng Hồng triệu tập một cuộc họp. Kết quả là chúng tôi mỗi nhà mắc
ra ngoài một bóng của mình. Lần lượt theo chiều kim đồng hồ để khỏi
viết bảng, hôm nay nhà này chiếu sáng, ngày mai nhà bên cạnh, cứ thế
quay vòng. Nhưng giải pháp này sớm tỏ ra không thực tế. Bốn cái bóng
đèn ngon lành ngoài hành lang, ngay đêm đầu tiên cả bốn đều bay. Vợ
thằng Hồng đề nghị quay vòng theo tuần. Hết tuần nhà này gỡ bóng
mang vào thì nhà kia lắp lên, mỗi nhà mạo hiểm một tuần, hưởng thụ
ba tuần. Hai mét vuông chung của chúng tôi thôi đành bẩn thỉu như
mọi mét vuông trong khu nhà tập thể, nhưng những chiếc bóng đèn thì
sạch nhất hành tinh. Tôi nói như thế với giáo sư triết một hôm chị
ta trèo lên gỡ bóng. “Chị Chuyên ạ, cũng giống triết học của chị,
triết học tiến bộ nhất lịch sử loài người.” Vợ thằng Hồng đánh rơi
cái bóng. Bội Lan và Bội Hoàn chạy ra. Chị ta cứ đứng trên chiếc ghế
đẩu nhìn xuống tôi. Nếu ở Mĩ chắc chị ta đã phát đơn kiện tôi tội
sàm sỡ. Những dịp Tết và kỉ niệm quân đội tôi sang chơi, (tôi đã nói
ở trên, chúng tôi bán anh em xa mua lấy sự gần gũi của nhau), vợ
thằng Hồng lập tức bỏ sang phòng khác. Nhà ấy lắm phòng. Nếu chị ta
sang thăm vợ tôi, tôi chỉ còn cách lẻn vào nhà xí kéo ri đô kĩ.
Tôi chắc giáo sư triết không tránh mặt Marie Sến. Nếu vợ tôi ghen,
cô ấy bảo tại bóc hành cay mắt. Vợ thằng Hồng là loại Hoạn Thư, thế
nào cũng mời Sến đến ăn cơm thân mật với gia đình. Cơm thân mật nhà
ấy có Trưởng khoa đằng vợ và Viện trưởng Viện phó đằng chồng làm gia
vị. Sến sẽ được giới thiệu là cô em nuôi, vợ chồng nó nâng cốc nhìn
vào mắt nhau. Bội Lan Bội Hoàn vỗ tay, thằng Hồng có mà nhớ đến
những chiều ăn phó-mát ở Lotus như nhớ ác mộng! Tôi biết tỏng chị ta
tự cho mình là cái gì: là sự hoàn hảo không hơn không kém. Trí tuệ
nhất, đảm đang nhất, thành đạt nhất, giàu sáng kiến nhất, ngoài ra
còn là hoa khôi của khu cầu thang vì cái mặt trắng bệch như nhúng
nước trong khi vợ tôi da nâu còn vợ ông Thân đã già. Thỉnh thoảng
tôi ngứa mồm muốn hỏi thằng Hồng xem ở trên giường vợ y là người thế
nào. Có lắm sáng kiến không? Có sạch nhất hành tinh không? Tôi chưa
được có diễm phúc với một đàn bà hoàn hảo như thế. Biết đâu cũng quỵ
luỵ dịu dàng như ai? Thằng Hồng nhạy lắm. Y cũng ngồi những cuộc đàn
ông tầm phào, nhưng cứ đến đoạn chúng tôi thăm hỏi nhau chuyện mây
mưa là y đứng dậy. Y đếch liên quan đến mục ái ân truyền miệng.
Còn vợ ông Thân, tên là bà Mùi, tôi ít thấy mặt. Mỗi lần gặp bà đều
chào “Cơm chưa?”, tôi đáp “Dạ đã ạ”, là đủ thân mật. Bà bận đi lễ
quanh năm. Giữa một đấng chồng và một đấng con, cả hai đều thiên tài
ngang trái, bà Mùi phải tự chăm lo đời sống tinh thần của mình như
thế nào đó, tôi có thể hiểu được. Một hôm sau khi “Dạ đã ạ” như
thường lệ, tôi hỏi bà thờ vị nào. Bà Mùi bảo, Phật này, Quan Âm này,
Mẫu này, Cụ Hồ này, với một bà cô chết trẻ hồi Ất Dậu thiêng lắm.
Tôi buột miệng bảo năm ấy nhà tôi cũng có người chết. Hôm sau chẳng
phải ngày lương vợ tôi cũng luộc ba lạng thịt để lên bàn thờ, rồi tự
nhiên thấy bà Mùi khăn áo trịnh trọng vào cúng đỡ, vợ tôi đứng đằng
sau tập sự, cúng xong kéo nhau ra cầu thang đốt vàng, đốt xong lại
cúng tiếp lần nữa. Vân và Kiều hỏi ai chết hở bố. Tôi bảo hai triệu
người, bố không nhớ hết tên. Nghe nói ở nước ngoài phụ nữ rủ nhau đi
giải phóng phụ nữ. Ở đây phụ nữ rủ nhau đi tâm linh. Thỉnh thoảng đi
viếng đền chùa tôi phải nép sang bên cho những phái đoàn các mẹ các
chị tiến vào hành sự. Nếu ra ngoài họ cũng tự tin, nói năng trôi
chảy, biết rõ họ ước gì muốn gì như ỏ đền chùa thì đấy là một tập
thể mạnh. Nếu ngày thường họ cũng uống rượu, hút thuốc, múa gươm,
hào phóng phát tiền và hơi điên điên như lúc ngồi đồng thì bao nhiêu
phẩm chất quý nhất của lũ chúng ta đàn ông chạy cả sang phía họ. Cho
nên tôi lo ngại canh chừng phong trào tín ngưỡng đang dần nhen nhúm
ở cầu thang này. Hai người đàn bà với một que hương là thành một
giáo phái. Vợ thằng Hồng chắc không ai dám rủ rê, tôi đoán chiều ba
mươi Tết thắp hương tất niên chị ta đứng xa xa bàn thờ mà lẩm bẩm
“tôn giáo là thuốc tôn giáo là thuốc, phiện của nhân dân phiện của
nhân dân”.
Với bà Mùi, Sến không có gì phải ngại, nhục nhã người đàn bà đáng
kính ấy đã nếm đủ những năm chồng đi cải tạo, còn buồn vui bây giờ
của bà thuộc cả về thế giới bên kia. Sến là người đi lại lộn xộn
giữa cái sướng và cái khổ của mình rồi bắt người khác phải lộn xộn
theo, nhưng Sến không thể khuấy đảo bà Mùi được. Sến được nhận làm
hội viên mở rộng của giáo phái cầu thang này. Xin bạn đọc đừng cho
rằng gia đình chúng tôi văn minh tự do ngoại tình. Theo thiển ý tôi
thì nhà tù trên toàn thế giới không thể kiên cố bằng gia đình Việt.
Ở đây người ta không cùm nhau lại bằng luật pháp và bạo lực. Người
ta giam nhau trong tình thương. Những biểu hiện của tình thương vừa
sòng phẳng vừa nhập nhằng. Nhận Sến vào lúc nào và đẩy Sến ra lúc
nào là chiến lược tình thương của các bà vợ, chúng tôi không kiểm
soát nổi. Tôi chỉ thấy Sến ngày sóc ngày vọng sôi nổi theo đàn chị
đi thờ, chắc nhà em cũng có người dự vào năm Ất Dậu. Hoa cúng em cầm
hớn hở như hoa cưới. Chương trình tập sự bắt đầu chỉ đơn giản thế
thôi, dần dần Sến sẽ có một cuốn lịch con con như của bà Mùi ghi kín
các ngày, cộng thêm sổ công tác của nữ điệp viên quốc tế thì em phải
sống thật gấp mới đủ hiến mình cho cả người lẫn thánh.
Một tuần trôi đi hai tuần trôi đi. Suýt nữa thì câu chuyện tình tay
bảy này bị quẳng vào một xó cũng như cái hội nghị kia, không ai rờ
đến nữa. Tất cả chúng tôi đều sẵn một xó lỉnh kỉnh những đồ bỏ thì
thương vương thì tội như thế: tất thủng, bút bi rỗng, rất nhiều loại
đinh vít và túi ni lông, một đống địa chỉ, những quyển nhật kí thiếu
kiên nhẫn, danh thiếp của người khác, mơ mộng của mình… Dường như
không còn gì có thể nhổ phăng chúng tôi khỏi những ngày đực rựa lười
thối thây và phét lác, mồm thối hoăng thuốc lào… Dường như những cậu
bé mặc quần thủng đít đã mệt rồi trò chơi nói giọng nước lớn. Cũng
chẳng đáng ngạc nhiên: trong cái nóng nhiệt đới buồn này người ta
thật dễ mệt mỏi và bỏ cuộc.
Nhưng tôi đã nói, Marie Sến là một câu đố, một thách thức. Tôi mãi
hâm mộ ở em cái bí quyết vực dậy những thằng đàn ông thối chí. Sến
cho chúng tôi về nghỉ phép hai tuần, sang tuần thứ ba cuộc phấn đấu
cho tiến bộ lại quyết liệt hơn.
Bao giờ Sến cũng mở đầu ở Đoài. Anh cán bộ thoát li chính là mắt
xích yếu nhất có thể bẻ gãy. Nhờ Sến tôi mới nhìn ra sự nhạy cảm đặc
biệt và cái tiềm năng điên khùng của Đoài; trước đây tôi nghĩ, chấp
cả mọi thủ đoạn ranh vặt và những khúc mắc nào đó của tâm hồn thì
Đoài chẳng qua là một sinh vật thẳng một lèo như cái ống quần vuốt
li của anh ta mà thôi. Và hèn, hèn hơn tất cả lũ chúng tôi. Như đã
nói, đời thoát li như anh chàng là đời lí tưởng. Anh ta chẳng dại gì
thay đổi cái quan hệ hoàn hảo giữa hậu phương nơi quê nhà và tiền
tuyến chốn đô thành. Ai ngờ nghỉ Sến hai tuần, Đoài lập mưu sắp xếp
lại cuộc đời. Trong toan tính của anh ta, phần ranh vặt của thằng
tiểu nông vẫn lộ ra đáng ghét, nhưng cái tham vọng cải tạo cuộc đời
thì trong trắng và dũng cảm. Chúng tôi ngoại tình tay, ngoại tình
mồm, ngoại tình đầu, chắc chắn thằng nào cũng nghĩ đến vợ theo một
cách nào đó, đơn giản nhất là ra sức nịnh vợ hơn, nhưng cái đạo đức
chết tiệt của thằng trí thức trong biên chế không cho phép chúng tôi
coi Sến là một trọng lượng đáng để cân bằng với gia đình. Đoài không
thế. Dắt cả vợ và kinh nguyệt của vợ vào cơn ghen vì một đàn bà
khác, kiếp cán bộ thoát li đẻ ra quả lắm điều trái khoáy. Tôi vẫn
thầm khinh anh chàng là hoàn toàn tầm thường nhạt nhẽo, nay bỗng
giật mình: Đoài lún sâu trong cuộc tình này hơn tất cả chúng tôi. Sự
yêu của anh chàng thoạt trông thì tức cười, nhưng là một sự yêu mù
quáng nghiêm trọng. Khi ấy tôi vẫn còn chưa biết nó sẽ thê thảm, và
ngay trong thê thảm vẫn có phần tức cười như thế nào.
Đoài quyết đưa Sến về quê Tứ Kì. Anh ta cần một mức độ chính thức
hoá nào đó, anh ta cần một ràng buộc. Tôi được mời đi hộ tống và
nghi binh. Đoài về trước, anh ta gọi là đi tiền trạm, mẹ kiếp, chẳng
khác nào cái thời hắn đi tiền trạm Thái Bình mua lợn cho Viện. Tôi
hỏi: “Ông tính chuyện chết người đấy à?” Đoài đáp nghiêm trọng: “Tôi
phải để nàng nàm quen với bà xã ông ạ, không thì nàng thiếu nòng
tin.” Tôi hỏi vì sao hắn chọn mặt tôi gửi vàng. Đoài đáp: “Nhìn
chung cậu chẳng có ní tưởng gì nhưng nà một người bạn tốt.” Tôi nghĩ
đến những chiều theo Đoài và nàng của hắn cặp kè ở tiệm phở. Tôi
nghĩ đến những cuộc ngồi ở Apocalypse Now khi Sến đặt ngực lên bàn.
Nàng biết vú nàng là một kì quan. Nàng dâm đãng quá, làm sao tôi là
thằng bạn tốt được và cũng chẳng tin thằng nào tốt với tôi. Nếu
những lúc ấy thay vì ghen suông, tôi lùa tay xuống dưới thì cái mu
tình đầm đìa của nàng sẽ ngoạm lấy không chịu buông tha.
Nhưng suốt ba tiếng đồng hồ trong xe khách chật, tôi làm thằng bạn
tốt cho Sến ngủ trên vai, nàng thả bừa tóc vào mặt tôi rồi bỏ đi mơ
vài giấc mơ trinh nữ trên những ổ gà khét tiếng của đường Năm, còn
tôi thấy mình như Vân Trường đang canh giấc nồng cho một trong hai
phu nhân của Lưu Bị.
Rồi phố huyện, rồi con đường làng, cảnh vật tẻ nhạt vừa phải, không
văn hoa mà cũng không chất phác(1), Tứ Kì của anh hàng xóm sát vách
tôi là một vùng quê trung bình nhạt nhẽo. Nhưng Đoài không lấy đó
bận tâm, bao nhiêu tâm tình và tài trí anh ta dồn cả vào cuộc viếng
thăm này. Chúng tôi được thấy nhà Đoài ngăn nắp, lợn trong chuồng
không tru chéo đòi ăn, nhạc Trịnh Công Sơn, quạt Điện Cơ, cô con gái
út chưa đi lấy chồng thật ngoan và vợ Đoài, người đàn bà vốn “xinh
nhất nàng”, thật chậm thật hiền. Tôi ngà ngà say, bỏ mâm đàn ông có
gà béo và vị trưởng phòng văn hoá huyện cùng vị phó hiệu trưởng
trường trung học. Cô con gái út ngồi nhổ lông mày ở ngoài hiên.
Trong bếp vợ Đoài cầm tay Sến bảo: “Chị xin em đừng hắt hủi anh Đoài
nhà chị. Đàn ông người ta ai cũng có nòng tự hào, thôi thì, em cho
được gì thì cho, em đẹp thế này đừng khinh anh ấy phải tội, chị già
rồi.”
Tôi rón rén quay về mâm đàn ông huyên thiên thêm những gì về Tần
Thuỷ Hoàng, Quang Trung và Goócbachốp cho xứng mồm một Viện trưởng,
về nhà quê thì một thằng vô danh như tôi cũng được thấy mình quan
trọng. Cỡ trưởng phòng như Đoài ra đình là ngồi chiếu nhất, mở miệng
là thốt ra chân lí ở mức trung ương. Ngoài hiên hai chiếc lông mày
của cô gái tên Là đã mảnh như hai sợi chỉ, tôi sợ chúng biến mất,
như cái tinh thần gia đình trung cổ sáng suốt mà mù quáng và thiếng
liêng nơi đây sẽ bị nhổ đi cho kịp với gu của thời đại. Và tôi run
cầm cập hình dung ngay lúc này thằng Đủ có thể về thăm nhà. Nó sẽ đi
xuống bếp và mẹ nó lại xin Sến thương thêm cả nó…
Ôi những bà vợ!
Chúng tôi không biết Sến là vợ của ai. Điều ấy chắc là không quan
trọng. Sến xuất hiện giữa chúng tôi, giữa những bà vợ của chúng tôi,
tất cả rồi sẽ bùng lên trong một cuộc cách tân, trước em tôi đâu ngờ
cải cách ở xứ mình nó lẻn vào lòng mỗi người như bị bỏ bùa như vậy.
Tôi Viện sĩ tôi nhận xét mạnh rằng xứ mình chưa bao giờ tự canh tân,
cuộc cách mạng nào cũng do sáng kiến của những nòi phi Lạc Việt. Nay
Sến xúng xính như ma-đam phương xa, tên thì lai, tính tình thì Quỳnh
Dao, nhưng chắc chắn là của đất nước này, Sến đẩy chúng tôi vào
những cuộc cách mạng cá nhân điên khùng. Rồi mỗi đứa sẽ ra sao? Gia
đình sẽ ra sao? Xưa nay hễ bị đòi hỏi là chúng tôi mang gia đình ra
xin lỗi. Chỉ có chiến tranh là không cho chúng tôi xin lỗi. Bây giờ
em lại châm mồi chiến tranh, Marie Sến!
Lần lượt từng thằng chúng tôi sau đợt nghỉ Sến sẽ lao mình vào cuộc
chiến ái tình này. Chúng tôi sẽ liều mình xông lên, đảm đương những
việc vượt quá sức chúng tôi. Sẽ thành anh hùng. Sẽ trì hoãn ngày hoà
bình. Khi ấy tôi còn chưa biết, ngày hoà bình mới thật Apocalypse
Now.
Chú thích:
(1) không văn hoa mà cũng không chất phác: chữ của Phan Huy Chú mô
tả Hải Dương trong Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, Dư Địa Chí.
Chương 9: Văn chương. Những sung sướng và đau khổ của một tiểu
thuyết gia
Mỗi thằng lao vào một việc. Chúng tôi phải chứng minh mình. Sến
không mê đời thanh đạm của Đoài, vậy anh chàng phải giàu sụ lên. Sến
không thích thằng Đủ lỗ mãng, vậy nó phải thành trí thức. Sến không
bằng lòng thằng Hồng cơ hội, vậy nó phải thành super lương thiện.
Sến không đồng ý ông Thân ôn hoà, vậy ông phải làm một cái gì đó cực
đoan. Sến không ưa thằng Tân trí thức trùm chăn, vậy nó phải lao vào
đời thực. Còn tôi phải tích cực vì Sến không thích tôi lười. Ôi tình
yêu của chúng tôi cuối thể kỉ hai mươi sặc mùi truyện cũ mốc meo,
mùi hiệp khách và giai nhân, như thế là chúng tôi trai nước Nam
quyết tiến bộ trên cơ sở một lac hậu. Trông bề ngoài có thể cả sáu
thằng đều là công dân thời đại, không lạ cái computer, biết đổi đô
đê ra đồng, đã thôi chùi đít bằng giấy báo và chấp nhận phần nào
luật giao thông, nhưng bên trong, tôi đảm bảo rằng trái tim thằng
nào cũng tụt lại vài thế kỉ và sự chậm tiến của nó còn làm chúng tôi
kiêu hãnh. Tôi không nói ngoa, tiến bộ và lạc hậu ở đất nước này
quan hệ với nhau kì khôi lắm.
Tôi nghĩ đến việc viết văn. Là sự bận rộn dễ tha thứ nhất trong phạm
vi lí tưởng thong thả của phương Đông. Vả lại theo thiển ý tôi, đấy
là khả năng vượt rào chắc ăn cho một thằng trí thức Việt kém sự
nghiệp. Ở đó hắn chẳng có gì để mất. Dẫu không hẳn có tài nhưng có
tâm và liên tục sản xuất thì thể diện của hắn cũng dầy lên thuận với
số trang. Tôi nghe nói chữ “tâm” đáng ba chữ “tài”. Chính là những
nhà văn có tài bị rủa là thiếu tâm, chứ chưa bao giờ một nhà văn có
tâm bị trách là thiếu tài. Vậy là có thể yên lòng. Nếu lấy chữ “tài”
làm đầu thì bố ai dám cầm bút nữa! Ngoài ra nhà văn Việt không bắt
buộc phải thành đạt. Nhà văn Việt được quyền không có bạn đọc. Và
nếu không xuất chúng thì suốt đời chẳng sợ búa rìu của dư luận và
chính quyền.
Tôi chưa từng thấy một nhà văn Việt có khuynh hướng làm học giả,
sách của họ chật cứng những tình tiết phức tạp và đa cảm của cuộc
đời, học thức không len vào nổi, học thức ở đó không đúng chỗ, có
chăng thì như một lớp kem mỏng phun hoa lên bề mặt mà thôi. Giới phê
bình khen xỏ ai thì bảo đấy là một tác giả thông minh và có học
thức. Trong khi đó, sở thích ngầm của tuyệt đại đa số các học giả
Việt là làm nhà văn và công khai làm nhà thơ. Tôi cũng thế. Tôi có
dăm chục bài thơ và đã nhiều lần suýt viết sách. Tôi khoái hình dung
là được tự do không ai quấy nhiễu. Một mình với giấy bút! Có chỗ nào
người ta được tự do như thế không? Thuở bé tôi thích đi cầu tiêu
thật lâu, cầu tiêu xóm tôi là một dãy nhiều chuồng xí, tôi luôn chọn
một chuồng xí bị mất cửa, cầm một cái que dài thò ra ngoài rung rung
để báo hiệu có người, thế là chẳng ai quấy rầy tôi. Nếu ngồi trong
chuồng xí có cửa, nhưng cửa chẳng bao giờ đủ móc, tôi sẽ luôn phải
hắng giọng hoặc nơm nớp lo ngại bị bắt quả tang đang tận hưởng tự
do. Thuở bé tôi không thấy cầu tiêu xóm tôi là đáng kinh hoàng.
Lần này tôi vượt qua được ranh giới của sẽ viết và viết, cũng như
khi người ta quyết định ra đường đi ăn xin, rồi từ lúc quyết định
đến lúc chìa được bàn tay ra và mồm xin bố thí là một đường ranh,
vượt qua rồi thì không có gì trở ngại nữa. Người thúc vào lưng tôi
hẳn là Sến như bạn đọc đã rõ. Người khích lệ tôi là Đoài. Từ hôm
được hắn nhận xét là không có lí tưởng, tôi tự nhủ cầm bút là hoàn
toàn thích hợp. Tôi vẫn yêu Nguyễn Du vì lẽ ông không tiết lộ lí
tưởng, ông sợ những tiếng ồn, một người châu Á điển hình không ưa
bộc lộ tình cảm, lâu lâu thì thốt lên một tiếng, xé lòng. Tôi cũng
yêu Nguyễn Tuân trước bốn lăm, người này ồn ào hơn, quấy rầy độc giả
nhiều hơn, một người Á vừa nhiễm tính Tây cứ thật thà lộn trái mình
ra như lộn túi quần, bày tỏ, phân trần, ngang phè phè, tha thiết.
Ông không hướng dẫn ai, không hướng dẫn cả chính mình. Viết như thế
là sướng cho mình và sướng cho người đọc. Tôi không có ý định đau
đớn vật vã với con chứ. Không có tôi thì các nhà văn Việt Nam cũng
vật vã mấy ngàn năm rồi và sẽ còn vật vã nữa, như bị lịch sử hành
hạ, như mình tự hành mình. Căn bệnh quốc gia này cũng miễn trừ như
aids. Không, tôi không thích được đóng dấu positive, có thể dịch là
đóng dấu “tích cực” tí nào.
Tôi sẽ không viết sách khoa học, đấy là việc của các giáo sư, phó
giáo sư, tiến sĩ và phó tiến sĩ, xưa nay chưa bao giờ một phó nghiên
cứu viên xoàng lại cả gan làm tác giả. Mỗi năm tôi nộp cho Ban
chuyên môn hai bài nghiên cứu bài thu hoạch gì đó chẳng ai buồn ngó.
Hoặc chép lại bài từ những năm trước, cập nhật hoá vài khái niệm,
thế là đời Viện sĩ của tôi được bình yên. Bây giờ ngồi xem lại luận
án tốt nghiệp đại học tôi cứ ngạc nhiên: hai trăm trang ấy do tôi
viết ra. Người ta bảo tuổi trẻ không biết sợ là có lí. Nếu muốn
thành một phó tiến sĩ tôi phải viết thêm hai trăm trang nữa và lê
gót qua cửa nhà các giáo sư phản biện luôn luôn. Rồi thì minimom,
chẳng may rơi vào bàn của vợ thằng Hồng thì hết đường rút. Triết học
biện chứng của chị ta là một đồng tiền hai mặt, một con dao hai
lưỡi, không chạy đâu cho thoát. Rồi lên thực đơn cho lễ bảo vệ thử.
Xin vợ một triệu và một trăm gói kẹo sô cô la. Rồi lên thực đơn cho
lễ bảo vệ chính thức. Xin vợ hai triệu và hai trăm gói kẹo sô cô la.
Tên mình thì dài ra ba chữ cái PTS. Cột sống của vợ bên dây chuyền
của xưởng bánh kẹo thì ngắn lại.
Tạm biệt các Viện sĩ, tôi đi làm nhà văn. Tôi chưa biết sẽ viết gì
nhưng nhất định không kể chuyện đời lao nô của hai chàng chủ quán
Apocalypse Now. Tất cả những gì có thể thuật lại bằng miệng thì
không cần viết ra nữa, những chuyện li kì bóc lột đĩ điếm buôn lậu
Mafia chém giết quốc tế hai thanh niên ấy đã bật ra đằng lưỡi thì
ngòi bút tôi là thừa. Vả lại đó không phải là cuộc đời tôi, tôi
không thấy mình có lí do gì nhảy vào đó, trừ phi để trình làng một
thiên phóng sự xã hội động trời. Nhưng đã nói, nhổ một cái lông chân
mà làm làm lợi cho thiên hạ tôi cũng không, tôi không có ý định ăn
cơm nhà vác tù và hàng tổng. Cuộc cách mạng này là của cá nhân tôi.
Cho Sến. Có thể cũng cho tôi. Ngoài ra không dính gì đến ai. Nguyễn
Du có nguy cơ ngày càng xa lạ vì ông phải mướn cả sân khấu lẫn vai
tuồng để cải trang xuất hiện riêng cho những cặp mắt tinh tường
nhất. Khi được xưng tôi và làm tôi, Nguyễn Tuân đầy quyến rũ. Từ khi
xưng chúng tôi và làm người ta thì ông mất sức thuyết phục, thành
ngay văn nghệ mậu dịch, phiếu C.
Tôi viết: “Một con giun trắng đi dạo trong sân gặp một con giun
đen.” rồi ngồi nửa ngày nghĩ những đối thoại thâm thuý khác nhau của
hai con giun. Nếu con giun trắng hỏi vì sao con giun đen đen thì con
giun đen đáp vì sao con giun trắng trắng. Tôi cũng cho hai con giun
nói về con người. Nhưng truyện hai con giun thông thái theo truyền
thống ngụ ngôn phương Đông còn chán hơn những bài nghiên cứu của
tôi; ở đó tôi chép lại tôi, ở đây tôi chép lại cả một chương dài văn
học sử của thiên hạ. Thực ra niềm vui duy nhất của tôi là được viết:
“một con giun đi dạo trong sân”, tôi thưởng thức hình ảnh con giun
của tôi đi dạo, đi dạo, trong sân, tôi thấy con giun này có sức
thuyết phục, đáng tin, thỉnh thoảng tôi có thể nhớ đến nó ngộ
nghĩnh, thấy trong lòng vui vui, cười một mình, và chỉ thế mà thôi.
Tôi không có lí do gì để kéo dài câu chuyện, không cần viết gì thêm
và phải đặt một dấu chấm rất tự nhiên ở sau từ “sân”. Chỉ yêu một
dáng đi mà phải cưới một người vợ là cái chết của tiểu đăng khoa,
chỉ sướng bảy chữ mà tuôn ra vạn chữ là cái chết đại đăng khoa. Tôi
không có ý định viết để chết. Không có tôi thì rất nhiều nhà văn
Việt Nam cũng đã chết đi chết lại nhiều lần trên trang giấy. Họ thổ
tâm huyết. Họ hiến dâng đời mình. Chừng ấy cái chết là đủ làm đám
tang tập thể linh đình cho một nền văn học tập thể.
Sau hai con giun bịa, tôi thử viết về môi trường thật quanh tôi như
sau:
“Các nhà khoa học xã hội trong cơn lốc.
Đấy là một cơn lốc tệ hại. Nếu nó giày xéo tan nát các trang sách
khả kính của nền khoa học xã hội, ầm ầm cuốn sạch các Viện lớn Viện
nhỏ, các Hội đồng khoa học và Hội đồng chuyên viên cao cấp, các giáo
sư cấp I và giáo sư cấp II, các tiến sĩ và phó tiến sĩ, các thư kí
khoa học và các nghiên cứu viên, các tư liệu viên và các thi cử
viên, các bàn bạc viên và đấu đá viên, các tập sự viên cũng là các
nhân viên bộ máy chức năng ra ngoài biển Đông, vùi sâu chôn chặt ở
đó, để lại một hiện trường trống trơn thê thảm, thì ít nhất chúng ta
rồi cũng có lúc được hoàn hồn mà bắt tay vào công việc mới. Quốc gia
một ngày không thể thiếu khoa học xã hội. Chúng ta sẽ được thật sự
bận rộn. Còn nếu nó là một cơn lốc ngầm như tính tình người phương
Đông, bề ngoài tuyệt phẳng lặng nhưng âm ỉ công phá, đục ruỗng, reo
rắc ung thư, thì chúng ta được an nhàn. Đằng này nó chẳng Đông chẳng
Tây, chẳng nổi chẳng chìm, chẳng cho ta bận rộn, chẳng cho ta an
toàn, nó là một cơn lốc tệ hại.
Quả là tệ hại. Nó dám làm phiền cả các giáo sư là những người đã mọc
rễ sâu lắm vào mảnh đất khoa học. Với già nửa thế kỉ sau lưng, họ đã
kinh qua bao nhiêu lần viết tự kiểm điểm và sơ yếu lí lịch, đấy là
những trước tác giàu thông tin và đậm đà cảm xúc hơn bất kì công
trình khoa học nào. Họ đã trôi dạt theo biết bao tan hợp của bộ máy
ngiên cứu, khắc nhập khắc xuất, khắc vọt lên ngôi khắc nằm trên
thớt. Đã võ nghệ cao cường bò từ bìa E, một tháng sáu lạng thịt, lên
dần các vần chữ cái cao hơn. Đã sinh tử từ đợt công nhận học hàm này
đến đợt phong chức kia. Đã sắm đầy mấy ngăn kéo các giấy mời họp hội
nghị, tất nhiên cả hội ở nghị nước ngoài. Đã quen e hèm trước đám
đông. Đã làm chủ cả trong lúc ngủ các quy luật vận động và phát
triển xã hội. Họ vô cùng thông thái. Trước khi khởi đầu một công
trình khoa học họ đã biết rõ các kết luận từ lâu, việc chứng minh
những kết luận ấy chỉ còn là vấn đề của sức lao động. Họ lại có một
sức lao động phi thường. Rất nhiều giáo sư đã bỏ ra một đời cặm cụi
để chứng minh những điều mà lũ ngoại đạo chúng ta coi là hiển nhiên.
Vậy mà bây giờ cơn lốc tệ hại ấy đến phá bĩnh. Nó chẳng làm gì được
đâu nhưng cũng gây nhiễu nhương ít nhiều. Vài năm gần đây số lượng
giáo sư khoa học xã hội tăng gấp bội, vô khối người hôm trước ta còn
tưởng là một tay nói leo, hôm sau đã thực sự là giáo sư rồi. Danh
hiệu này đã phong là không bãi đi được…»
Thật là một khổ sai. Bạn đọc hẳn thấy là tôi đã thử một cú làm nhà
văn có trách nhiệm, mãi suy tư về những vấn đề thời sự nóng hổi của
nước nhà… Nhưng viết như thế là rởm, vì thực ra tôi không có lí
tưởng trách nhiệm gì hết. Viết như thế là cùng cấp độ với hô những
khẩu hiệu láo toét. Là như những hồi kí nào đó rất phi thường. Nhưng
quan trọng hơn cả: viết như thế là chép ra giấy cuốn sách đã hiện rõ
trong đầu. Chép lại cái mình đã biết quá rõ thì còn gì là vui thú
nữa!
Xin đủ cơn lốc đã biết. Viết sướng phải như là phiêu lưu: ngả nào
quen thì tránh, cứ xứ lạ mà nhằm. Viết sướng phải như là yêu Sến:
không biết lúc nào phải lòng nàng, có thể mệt mỏi, có thể hoài công,
có thể phụ người và người phụ lại, nhưng là yêu, là sống. Nghĩa là
không biết chữ sắp tới, dòng sắp tới, chương sắp tới sẽ ra sao,
nhưng một lòng chờ đợi, háo hức, một lòng tin vào chính mình và tin
vào đời. Có thể thất bại, nhưng là học, là tìm. Tôi không thể viết
một cuốn sách đã biết. Lí thuyết của tôi là viết như yêu Sến, và
cuốn sách của tôi sẽ phải là chuyện chúng tôi yêu Sến.
Ôi Marie Sến của tôi, con công yêu đời, tôi đâu ngờ đời tôi có lúc
quên cái sự nhàn, quên rằng mình không thể tỉ mỉ và kiên nhẫn, để
ngồi bồng bột mải miết viết một áng văn. Bằng tiếng Việt hiện đại
nhé. Cứ xoè đuôi vươn cổ hồn nhiên, con công ơi, em đẩy chúng tôi
vào thế tự mình phải vượt lên mình. Tôi bầu em làm tổng bí thư, tôi
bầu em làm chủ tịch nước, làm quốc hội, cho nước mình dân chủ phồn
vinh và trìu mến văn chương. Tôi lặn lội qua từng chữ, từng dòng,
từng trang, từng chương chưa biết. Tôi dựng nên em, nhân vật chính
của sách tôi, duy nhất từ âm thanh của cái tên Marie Sến. Tôi đuổi
theo một xúc cảm mơ hồ do cái tên ấy gây ra, chỉ một xúc cảm mà thôi
và nó dẫn đến đâu tôi không biết, nhưng tôi hoàn toàn vững tin vào
tầm vóc của nó. Đây có thể là sách trinh thám vì tôi làm con chó
cảnh sát chỉ ngửi một cái tên rơi ở hiện trường để lần theo đánh hơi
em. Vụ án Marie Sến là một vụ án chưa xong. Xong rồi thì còn gì vui
thú nữa.
Tôi không nghĩ rằng người ta viết để tự giải phóng khỏi một cái gì.
Tôi viết để buộc thêm vào mình những cái nợ chưa biết. Trước khi bắt
đầu cuốn sách về yêu Sến, tình yêu của tôi nhàn tênh không vướng
bận, tôi tự do, đời tôi yên bình, những cơn ghen là thứ khó chịu
nhất cũng có thể được coi là lợi nhuận của tâm hồn. Giờ đây mỗi chữ,
mỗi dòng, mỗi trang, mỗi chương đè lên tôi, nhưng tôi sướng cái sức
nặng của chúng, tôi vui vẻ được mất tự do nội bộ như thế.
Tôi cũng không nghĩ người ta viết cho đời. Các cụ ngày xưa vốn trọng
chữ khiêm, “không có kiêu, không có phóng túng nữa mới có thể thành
đức. Khi đức nghiệp đã tiến, công danh tất phải thành.”(1) Mà sao cứ
mải mê làm thứ văn chương cho đạo, cho đời? Cứ theo thiển ý tôi,
người viết nào xác định rằng đời cần văn mình thì khí kiêu hẳn là
bốc lên cao lắm. Nhưng khí kiêu không phải là cái đáng ngại nhất.
Đôi khi văn kiêu cũng đánh thức độc giả đang ngủ gật, và làm sống
động cái nền văn chương quá mực thước này. Tôi không nhất thiết mê
chữ khiêm.
Đáng ngại nhất là sự giả tạo. Trăm người viết thì may lắm một người
có thể tránh được nó. Có thể thôi. Nó lại cũng như aids, đặc biệt ưa
truyền vào những người ăn nằm không phòng ngừa gì với những lí
tưởng, những phong trào, những giáo điều, ăn nằm không phòng ngừa và
đẻ bừa những đứa con thiếu tháng. Vì sao sách của phần lớn những nhà
văn dấn thân cho sự thật thường ngẫu nhiên có vị hài hước ngoài ý
định của tác giả? Những sách ấy rất muốn thật mà hiếm khi được thật
và tác giả càng hăng hái trình bày sự thật bao nhiêu thì sự thật
càng trốn đi bấy nhiêu? Sự thật là một người đẹp nhạy cảm và khó
tính. Nàng biết giá của mình lắm, nhà văn đâu chỉ có lòng thành là
tậu nổi. Vả lại nàng được yêu từ ngàn đời nay, nàng quá từng trải
trong tình yêu của người đời, nàng cho phép mình kiêu kì và quay
lưng lại những người hâm mộ nàng quá đáng, nàng biết rõ lời tỏ tình
của mỗi chúng ta với nàng thực ra phải hiểu như thế nào. Cho nên tôi
là người cuối cùng dám tương tư nàng. Nếu nàng ngồi trong bếp với vợ
tôi, và vợ tôi cũng cầm tay nàng van nàng thương lấy tôi thì nàng sự
thật sẽ xử sự ra sao nhỉ? Tay mơ như tôi thậm chí có hi vọng gì phát
hiện ra nàng giữa cuộc đời này mà phải lòng!
Tôi chỉ viết một cuốn sách cho tình yêu Sến. Có thể cũng cho tôi,
hoặc cho Sến, nhưng trước hết là cho tình yêu Sến, theo tôi đấy là
một sự khác nhau rất lớn. Tôi phải nối dài cán bút thò ra ngoài rung
rung để báo hiệu rằng đây là lãnh địa riêng tư, cấm người ngoài.
Lúc nghe nói tôi viết một cuốn sách, Sến lập tức sáng mắt lên, Sến
ngưỡng mộ các nhà văn mặc dù em cho Nguyễn Tuân và Vũ Bằng là hai
tiệm phở. Bây giờ tôi có cảm giác là Sến kính trọng tôi. Lẽ ra toàn
bộ các nhà văn thế giới nên nhập quốc tịch Việt Nam, ở đất nước này
văn chương vẫn luôn là một cái gì đặc biệt. Nhân dân thì sùng kính
và không có thì giờ đọc. Chính quyền thì hộ tống luôn luôn. Chúng
tôi ngồi trong công viên Lê Nin, Sến tuột khỏi ghế băng, ngả nằm
trên cỏ. Tôi thấy mình có phận sự của gió hồ cúi vờn mấy sợi tóc em,
hôm nay tóc dài thiếu nữ. Vừa được kính trọng vừa ở tư thế nhìn
xuống, tôi mới thật rõ làm một đàn ông ở bên trên một đàn bà là
sướng như thế nào. Hợp tự nhiên như thế nào. Thằng gia trưởng trong
tôi như vậy sẽ sống sót sang thế kỉ hăm mốt. Sến hỏi tiểu thuyết hở
anh. Ừ, tiểu thuyết. Tiểu thuyết gia thì được hôn lên môi ấy, môi
phồng như bánh đa, răng như mãnh thú cắn cắn nhả nhả. Tôi ngửi ra
mùi thèm hăng hắc ngòn ngọt. Mắt Sến thất thần. Mắt Sến ráo riết
canh chừng, không cho tôi vào quá gần, không cho tôi bỏ đi. Tôi xoay
lưng lại một bà hàng nước trà rong và một cậu bé câu cá lậu. Những
lần hôn trước là hôn cuống quýt, răng gặp răng nhiều hơn môi gặp
môi; là hôn lịch sự có giáo dục, môi gặp môi là xong như tay bắt
tay. Lần này tôi sục vào miêng Sến, Sến sục vào miệng tôi. Lưỡi tôi
dài tổng cộng mười bảy phân, em chỉ nhả ra khi hai đứa sắp nghẹn.
Tôi ngẩn tò te trước hai cánh áo cứ từ từ vén lên như màn sân khấu,
ngực em bày chật(2) mắt tôi, mươi phút dài tôi mụ mị ngắm nghía, tôi
thằng đàn ông không có chỗ nào trong người kì vĩ như thể để mà tặng
mắt em. Đành làm người có lỗi, tôi bắt đầu mơn man. Thì hai đầu vú
đã lại như hai hòn đạn. Bây giờ tôi biết vì sao người ta mê những
Kim Tự Tháp, vì sao người ta âu yếm nặn bóp những chiếc oản đặt lên
bàn thờ. Tôi thầm thì những lời khen lịch sự. Thực ra tôi muốn nói
những lời tục tĩu cho thoả, cho đã, cho đúng với sự việc, cho không
giả tạo. Nhưng Sến cứ “đừng anh đừng anh đừng”, tôi nói tục làm sao
được. Người ta thế nào lộ cả ra trong lúc yêu. Thằng Hồng chắc gọi
vú vợ nó là hai trái tuyết lê, đầu vú là hai nhũ hoa. Ông Thân chắc
dùng từ khách quan là bộ ngực. Đoài chắc sẽ xin sờ tí. Đủ hẳn là
phải bóp vú và Tân thì gộp chung vào toà thiên nhiên. Ôi viết cũng
như là yêu, khi nào thì tục khi nào thì thanh?
Chúng tôi ngồi trong công viên Lê Nin, tôi tiểu thuyết gia được hết
mọi diễm phúc trên em, chỉ trừ không được trong em, nói theo cách
lịch sự. Sến để dành cho đêm tân hôn hay sao? Không phải, tính em
không thích để dành. Sến sợ tôi khinh hay sao? Không phải, bao nhiêu
nhục dục nơi em, em đã buông ra, bông hoa đĩ của tôi, bao nhiêu cánh
em xoè cả ra rồi và toả hương thèm hăng hắc ngòn ngọt. Tôi thì mê đi
vẻ đẹp của Sến. Sến mê đi trong lạc thú của chính xác thịt mình. Tay
tôi đâu thuộc về tôi, em túm được nó em dẫn nó đi vào hang em. Rồi
rung lên như dây đàn bầu. Rồi nằm yên, miệng cười, mắt đi chơi trên
vòm sấu. Không, Sến không sợ tôi khinh. Tôi ngồi đó vơ vẩn ngạc
nhiên vì sự ích kỉ thẳng thắn của Sến: hoá ra thằng gia trưởng sống
dai trong tôi với em chỉ là một thằng hầu, một thằng hầu hạnh phúc.
Bao giờ thì tôi thôi ngạc nhiên về em, câu đố tên là Marie Sến? Tôi
kết luận rằng Sến dành diễm phúc cuối cùng cho giây phút tôi, tiểu
thuyết gia, hoàn thành tác phâm. Xin bạn đọc hãy cùng tôi kiên nhẫn!
Tôi chẳng phải là người duy nhất chờ chực, có Sến trong tay mà chẳng
bao giờ vào nổi Sến. Tất cả chúng tôi, cha và con, đồng nghiệp và
láng giềng, trong biên chế và ngoài biên chế, nhà quê và tỉnh thành,
người và ma, sẽ gặp nhau tuốt tuồn tuột trong vũng yêu tập thể quái
dị tên là Marie Sến. Sẽ ngụp lặn trong đó. Sẽ tăng ga cho cỗ máy dục
tình của mình gầm rú. Trong một cuộc chạy không tải. Chạy suông.
Chú thích:
(1) "không có kiêu,…công danh tất phải thành": trích "Trách ma
nghèo" của Ngô Thì Sĩ.
(2) ngực em bày chật: thơ Hoàng Hưng
Chương 10: Dấn thân. Những cuộc thoát xác trong một nhà tắm ở cạnh
nước Mĩ
Sau cuộc chơi động tiên ở công viên Lê Nin tôi nài được địa chỉ Sến
ở phố Láng Hạ. Không phải để rình mò, ở địa vị chồng Sến chắc tôi
nuôi ba con béc-giê, mỗi con một góc canh cái hình tam giác tươi
thắm giữa hai đùi vợ. Không phải để khám phá Sến trong chính căn nhà
em ở: phòng khách tôi đã nhìn thấy trong xiêm áo tóc tai Sến thay
đổi xoành xoạch; nhà bếp trong sự ăn quà luôn miệng, và đã mon men
một tay vào buồng ngủ nồng nặc mùi thèm. Không, tôi không cần khám
phá. Tôi cần địa chỉ Sến như cần sổ lương hưu. Lương ấy chẳng đủ mua
hoa tai cho Vân và Kiều, nhưng như đã nói, tình yêu của tôi là tình
yêu của một thằng cán bộ trong biên chế. Tôi cũng cầm chắc những
thằng khác phải có địa chỉ Sến. Nhu cầu an toàn của đàn ông Việt về
một phương diện nhất định là đứng đầu thế giới. Chúng cóc run bởi
dây điện hở nhập nhoằng một đống ở nhà và xe không phanh ngoài
đường, chúng điềm nhiên phá đê Yên Phụ xây biệt thự, chúng đi lính
để chết như bỡn và nếu còn sống trở về thì ngồi ngay trên ổ thổ tả
uống bia. Nhưng chẳng thằng nào dám yêu không địa chỉ.
Đấy là một hôm chủ nhật, tôi định vãn cảnh chùa Láng, rồi thế nào đó
lại trố mắt nhìn lá cờ Mĩ trước một toà nhà kính và há mồm đánh vần
dòng chữ sơn đỏ trên cửa sổ tầng dưới của ngôi nhà hai tầng kế bên:
“Marie Sến - Tắm nóng lạnh”. Sướng đời chưa! Cái tên tôi đặt cho
riêng nàng, tên Tây, có mùi tháp Ép Phanh nghiêm chỉnh, bây giờ tênh
hênh ở chốn này, mẹ kiếp - tắm nóng lạnh! Tên Tây và Tây bồi trong
thành phố phải nhất quán đi kèm với shop, hotel, restaurant, bank,
company, gallery, tự nhiên đùng đùng một cái tên nhà tắm côsanhsinoa
nghe dơ quá!
Tôi xem lại địa chỉ cho chắc chắn rồi ngồi nửa tiếng ở quán nước
nghe ngóng. Tầng trên thấp thoáng bóng người, tầng dưới chỉ có một
bà già chạy ra chạy vào tiếp khách. Không có chó, không có tiếng
trẻ, không giống một gia đình. Một bụi nhài trên ban công. Một gốc
ngọc lan. Một điện thờ trên sân thượng.
Tôi quyết định tiến vào. Tôi quyết định từ giờ phút này làm thằng
đàn ông sạch nhất Hà Nội. Thế là Phật tại tâm, đón thu tôi tắm hai
suất nước nóng trong hai chiếc siêu điện Liên Xô pha vào hai chiếc
sô sáu lít. Ở buồng bên một đôi nam nữ vừa yêu nhau rất ồn đang dội
ào ào cho tang chứng của tình yêu trôi hết ra cống lộ thiên đường
Láng Hạ. Tôi nổi cơn thèm. Chú bé của tôi đâm thẳng vào trái tim bị
trúng tên rỏ máu đỏ trên tường men trắng. Nhưng trái tim chết tiệt
chẳng nhún vào tường, nó chát chúa đẩy tôi ngã ngồi theo bức tường
sau lưng. Ngồi lịm ở đấy tôi hình dung tốt, mỗi ngày nơi đây bao
nhiêu tình yêu, bao nhiêu tội lỗi, bao nhiêu vi trùng giang mai và
bao nhiêu ý thức vệ sinh trộn đều vào nhau, sủi bọt, trôi tràn trề
ra cống. Năm phút sau, dòng sinh lực ngầu ngầu ấy sẽ diễu sát qua
chiếc cổng có hàng rào điện tử của đại sứ quán mới toanh của nước
Mĩ, và nửa tiếng nữa nó sẽ ra nhập mạng mạch ngầm. Chậm nhất là đêm
nay, vào giờ bơm nước, tôi sẽ gí mũi vào bể chứa ở nhà để được lọc
mùi Marie Sến giữa mùi cơ-lo hoả mù: vòng luân hồi kì diêụ giữa
dương gian này là của một bọn vô thần mê mải sống.
Tôi ngồi thật lâu trên nền đá hoa trong đẫm nước mù mịt hơi và ngai
ngái mùi Camay. Tôi ngồi thương Sến và nghi vấn: chồng em đâu, con
em đâu, tương lai em đâu mà dựng một ngôi lầu cho thiên hạ tắm thuê
mỗi suất lãi năm trăm đồng? Hay kinh doanh với em chỉ là một cái cớ?
Ở ngay cạnh nước Mĩ, mỗi phân vuông mặt đường là một thỏi kim cương,
em có thể thành bà hoàng, sáng chẳng kém nữ thần Tự Do, sao lại ngự
trên hai cái buồng nửa nhà tắm nửa nhà thổ xoàng xĩnh này? Hay ngoài
bổn phận làm nữ điệp viên quốc tế cho chúng tôi sáu cường quốc rởm,
em thật sự là một chòi canh chừng nước Mĩ, một tiền đồn của văn minh
châu Á?
Bao nhiêu câu hỏi. Để bạn đọc khỏi mất công chờ đợi, tôi xin thưa
trước là những nghi vấn của tôi cho đến dòng cuối của cuốn tiểu
thuyết này cũng không được soi sáng. Trước sau Marie Sến vẫn là một
câu đố, giải được đoạn này thì đoạn kia càng bí hiểm hơn. Xin bạn
đọc hãy cùng tôi bỏ đi cái tính ham cắt nghĩa mọi vấn đề, hãy cùng
tôi ngồi hóng guốc Sến trên trên lầu, đôi guốc cuối thế kỉ, đôi guốc
đẹp nhất phố Cầu Gỗ, vâng trong đôi guốc tôi chú ý nhất cái chật
chật của đôi quai(1), và có ngồi tù hay dưới âm phủ tôi vẫn nghe ra
cái âm thanh ròn rã tung hoành mang số chín của gót em. Đây rồi:
trên đầu tôi Sến đi thành vòng tròn càng ngày càng hẹp. Sến nhảy.
Một bài van sờ. Trời ơi tôi chóng mặt, tôi văng đầu vào cả bốn bức
tường ngay dưới chân em. Bây giờ thì cả hai chiếc guốc chụm lại giữa
đỉnh đầu tôi. Đế nhựa đóng đinh gõ vào huyệt bách hội. Rồi lần lượt
từng chiếc rơi nghiêng xuống sàn. Tiếng rơi rất mỏng(2). Tôi bật
dậy. Nghĩa là Sến ngã. Có thể là bất tỉnh. Tôi chưa bao giờ được
bồng một người đàn bà bất tỉnh, không biết nặng hay nhẹ hơn lúc
thường? Tôi vơ khăn bông, đạp cửa, băng qua bà già đã phục vụ hai
siêu nước nóng bây giờ ngồi ở chân cầu thang nhặt rau. Tôi vọt lên
lầu.
Mươi phút dài tôi cứ tồng ngồng chắn ngang khung cửa. Sến nằm trên
gối cao, áo ki-mô-nô Hàng Gai mỗi tà một ngả, và ở giữa là ấm Tân
quay lưng ra ngoài. Với thằng nhãi này tôi chưa từng tồn tại đã
đành, bây giờ cả giàn thượng lưu trí thức Hà Nội có đứng đây cũng
không là một ảnh hưởng nào hết. Như một đứa trẻ như một con thú nó
vùi vào Sến, như ăn thua trên chiếu bạc, như tử thủ giữ cờ trên
chốt. Hoàn toàn chân thành và hiện thực. Không bịa không vay mượn
không nhàm chút nào. Không phải thằng Tân của mọi ngày, thằng Tân
khinh thân và khinh mọi lạc thú ăn ngủ đụ ị ở đời.
Mắt Sến gặp mắt tôi, và từ lúc đó đến khi tôi chạy trốn, đôi mắt em
mở lớn chiếu tướng tôi, không bỏ qua một cử động nào của tôi và của
chú bé lại trỗi dậy kinh hoàng dưới chiếc khăn bông quấn hờ. Nếu có
thể, tôi đã suỵt nó như suỵt chó. Đừng bứt xích xông ra như thế.
Nhưng suỵt làm sao được. Sến đang vươn dài chiếc cần cổ phu nhân,
chân chùa Một Cột, giúp thằng Tân trượt dần xuống ngực để em nhìn
tôi được rõ hơn. Thách thức hơn. Em lại chầm chậm đẩy đầu nó tóc dài
bê bết xuống mãi, đồng thời hai đùi toả ra một góc một trăm độ vững
chãi. Rồi để nó ở đấy chết đuối, hai tay em bắt đầu đàng hoàng thủ
dâm hai vú. Hai hòn đạn nâu nâu hồng hồng sắp vọt khỏi nòng chĩa
thẳng vào tôi. Mắt Sến vẫn không rời tôi. Như mời. Như cấm. Như thế
mươi giây, kịp cho tôi nhận xét rằng đàn bà tự làm sướng mình khéo
hơn và tha thiết hơn ta làm họ sướng. Rồi thằng Tân bỗng giật đùng
đùng như một con gà vừa bị cắt tiết và bật khóc thút thít. Mũi khụt
khịt, quệt như trẻ nhóc vào ki-mô-nô.
Chính là tôi nhắm mắt giật lùi bỏ chạy. Tôi xin thêm một suất tắm
lạnh. Trên lầu guốc Sến không khua. Buồng bên cạnh cũng thôi dội
nước. Sau cơn big bang của thằng Tân, chiều chủ nhật lẽ ra hiến Phật
của tôi tuyệt vời tĩnh lặng.
Một trăm ngày sau đó tôi không tắm. Trọn mùa thu thiêng liêng của
dân tộc không tắm. Một mùa thu dài với hai tháng Tám, trời xanh nắng
vàng ngất ngây. Chiều nào vào đúng giờ ấy tôi cũng lượn qua phố Láng
Hạ, đạp xe chậm qua đại sứ quán Mĩ. Có lẽ hình ảnh tôi bẩn như hủi,
với bụi Hà Nội trộn cùng mồ hôi, khói thuốc lào, và những tế bào
chết trên da một lớp nhiều mi li mét đã được CIA ghi nhớ, có lẽ A14
của Bộ Nội Vụ cũng đã quen mùi chua khắm của áo quần tôi một trăm
ngày không thay. Mỗi ngày bẩn hơn bốc mùi hơn là mỗi thoả mãn toàn
diện: tôi thách thức tôi nhé, tôi thách thức tất cả các cậu ấm và
em, thách thức môi trường trời thu trong leo lẻo và heo may khe khẽ,
thách thức cả chính trị ở tầm quốc tế. Tôi đã tìm ra cách nổi loạn
thích hợp nhất cho những thằng trai Việt gặp bước đường cùng.
Đủ một trăm ngày, tôi hùng dũng vèo qua nước Mĩ, xông thẳng vào nhà
tắm côsanhsinoa. Sự khốn cùng của tôi là một quả trứng trăm năm, bùn
và trấu và muối và nấm mốc meo đóng cứng bên ngoài còn bên trong đen
sì và thoảng mùi nước giải. Tôi xin một trăm suất nước nóng đựng
trong một trăm chiếc siêu điện Liên Xô. Trong này phải hoá vạc dầu
cho tôi lột da tôi, cống nổi ngoài kia phải sôi sùng sục. Tôi sẽ đỏ
hỏn đi lên lầu. Như một em bé tinh khôi. Một ngàn lần trinh trắng
hơn thằng Tân (rõ ràng Sến chuộng trai tân nhé!). Tôi sẽ thoát xác.
Không phải tôi của mọi ngày (rõ ràng Sến ưa sự thay đổi!). Ô kê, Sến
sẽ được thấy, tuột vỏ ra quả trứng của tôi quý giá như thế nào!
Lần này không phải thằng Tân, mà bố nó, ông Thân, gối đầu trong lòng
Sến. Ông hàng xóm khả kính của tôi nằm như một cái xác, nước mắt
chảy buồn thảm xuống khu rừng mà tôi đoán chắc là giờ nào trong ngày
cũng ẩm ướt của Sến. Chỉ nước mắt ông là còn sống còn chảy, ông
dường như đã ra hẳn khỏi cuộc đời, lại một vụ thoát xác, tôi đoán
thế, nếu không sao lại nằm như tĩnh vật thế kia bên cái toà thiên
nhiên sẵn đúc dầy dầy tên là Marie Sến? Sến chẳng buồn nhìn tôi. Sự
nghiệp của Sến lúc này là ủ hai bàn tay vô hồn của ông Thân vào hai
bầu ngực em vừa đẹp vừa hiền thiết tha. Tôi lạnh cóng từ lúc nào.
Chú bé của tôi tái mét và run cầm cập. Mùa đông về là mùa cưới, trai
gái ủ nhau vào giường nệm mới, đâu phải mùa cho tôi làm người thứ ba
bên rìa, ngắm ai cố sưởi cuộc đời ai đang nguội. Bức tĩnh vật mấp mé
cõi âm hôm nay là người cha, và pha con heo giãy giụa trăm ngày
trước là thằng con dường như không đơn thuần chỉ có một liên hệ máu
mủ. Như thể sau cơn đại bùng nổ của thằng con thì vạn vật mở ra để
trăm ngày sau khép vào với người cha. Như thể lễ phóng tinh lần đầu
tiên trong đời thằng con đánh dấu sự bất lực của người cha. Như thể
trong căn lầu này, thèm sống và thèm chết mỗi thứ treo trên một đầu
vú Sến cân bằng. Sự khốn cùng ấp ủ trăm ngày trăm năm của tôi, sự
ghen tuông chật chội bệnh hoạn bản xứ dơ dáy của tôi, ở khoảng cách
chưa đầy gang tấc giữa hai đầu vú ấy mới trơ trẽn làm sao. Mới ngu
làm sao.
Ở nhà, vợ tôi và bà Mùi đang lau nước mắt cho nhau. Nước mắt họ cũng
buồn thảm như nước mắt trên lầu Sến và không có bộ ngực đàn ông đẹp
đẽ nào ủ họ vào. Tôi thốt tỉnh từ cơn khổ nhục hôi hám trăm ngày của
mình. Tôi hỏi, thằng Tân làm sao hả? Bây giờ tôi chợt nhận ra, từ
hôm ấy nó biến khỏi khu cầu thang này và để trống vị trí tháp tùng
phái giáo sư ở Viện những sáng thứ hai và sáng thứ năm. Thế là nó
học được ở phái giáo sư sự ra đi lặng lẽ.
Hai người đàn bà oà lên một lần nữa, vái một lần nữa vào hư không,
gục một lần nữa vào nhau chứ không vào tôi. Tôi chưa bao giờ là một
chỗ dựa.
Thằng Tân sang Nga, qua Tiệp, rồi vượt rừng nhập trại bên Đức. Nó
chưa kịp bán một điếu thuốc trốn thuế nào. Nó là trai Hà Nội đi tìm
đồng hương giữa Berlin để trước hết uống Johnnie Walker và lái xe
hơi không có bằng. Thế thôi. Vụ dấn thân khiêm tốn này nhìn từ cái
xó Hà Nội cũng gây tốt một ấn tượng. Cũng mang tầm quốc tế. Thế
thôi. Một đời trai. Lãnh đủ một băng đạn oan giữa trời Tây, đạn Liên
Xô cũ; chết trong một căn nhà cao tầng, nhà Đông Đức cũ; cho những
điếu thuốc Golden American đến từ Ba Lan và do người Nghệ Tĩnh kiểm
soát. Chết dưới một cái tên giả. Tên của thằng Đủ. Chết phi pháp bởi
người Việt, theo kiểu Việt pha màu Chicago những năm hai mươi và màu
Russia những năm chín mươi. Chết ở bên đó, nước mắt chảy ở bên này.
Nếu ở nhà rơi xuống gầm một chiếc xe, ít ra thằng Tân cũng được một
đám tang với toàn vòng hoa trắng, dù vốn liếng trai tân đã trao vào
Sến; ít ra cũng được nghe từ cõi bên này bài điếu văn của Viện vô
cùng thương tiếc một nhà khoa học trẻ đầy triển vọng. Và chắc chắn
sẽ được A25 của Bộ Nội Vụ hộ tống: những trí thức cấp tiến ôn hoà,
những trí thức cấp tiến cực đoan, những giáo sư ăn mặc sặc sỡ, những
quý tộc Nga thế kỉ mười chín nói tiếng Pháp, tất cả giàn thượng lưu
trí thức Hà Nội sẽ hiện diện. Là một sự kiện có hồ sơ.
Đằng này chỉ có nước mắt của mấy người đàn bà vô danh khóc sai địa
chỉ, vì cái xác tên là Đủ không chịu ướp vào muối của tình thương
dành cho thằng trai tên là Tân.
Tôi lại đi Apocalypse Now uống rượu với hai ông trẻ. Uống đi anh
uống đi, bọn em kể chuyện đời lao nô anh nghe, đáng mấy cái tiểu
thuyết. Uống đi anh rượu ngon, nhà văn các anh rách bỏ mẹ. Hai đứa
tính chuyện bán quán quay lại Đức. Nói gì thì nói, bên ấy đời văn
minh sạch sẽ mỗi tuần gội đầu hai lần là đủ, ở Hà Nội mỗi ngày gội
hai lần vẫn ra nước đen sì. Nói gì thì nói, bên ấy làm một ngày bằng
bên này làm cả tháng, đứng đường hai năm là mua được Hồ Tây. Bọn em
lên Hồ Tây biệt thự tám phòng, anh và chị gì dịch vụ tình cảm vô tư
đi, có bọn em hậu thuẫn. Mẹ nó chứ, ngày xưa Đông Đức chơi được, bây
giờ Tây Đức mà rét à!
Tôi chúc hai đứa trai Hà Nội sớm giành lại Berlin từ tay người Quảng
Bình, Nghệ Tĩnh. Để báo thù cho thằng Tân. Tôi bỗng nhiên thành một
thằng nặng máu đồng hương, nặng tình hàng xóm. Rồi buổi tối, tôi lại
về trút vào vợ tôi chiếc vỏ Coca Cola bẹp rúm tội nghiệp bao nhiêu
là tình thương. Một chiếc hoa tai vàng của cô ấy đã ứng ra hùn cho
thằng Tân đi Tây. Chiếc còn lại góp vào mua vé cho hồn nó khuân tro
nó về Hà Nội. Nghe nói lượt về khó khăn đắt đỏ chẳng kém lượt đi:
làm sao từ cõi bên kia nó khẳng định được với cả chính phủ Đức và
chính phủ Việt ở cõi bên này rằng nó quả thật là người Hà Nội? Là
thằng Đủ. Alias thằng Tân. Để được trở về ngự trên bàn thờ của bà
Mùi, cạnh Phật, Quan Âm, Mẫu, Cụ Hồ, và một bà cô chết trẻ năm Ất
Dậu. Sự trao hồn đổi xác giữa hai cậu ấm, tình bạn hay cũng có thể
là hận thù cốt nhục của chúng rồi sẽ gây rắc rối lớn cho những quan
hệ đã chồng chéo lắm của chúng tôi. Và những bà vợ, những bà vợ
thương đứt ruột của chúng tôi đang nỗ lực để cái hiện thực rối mù
này làm chính họ phát điên hơn. Tình láng giềng ở chúng tôi đàn ông
quy về việc cùng sở hữu một cái mu mềm. Ở đàn bà, nghĩa láng giềng
quy về vàng, vàng, theo nghĩa quý giá nhất. Nữ triết gia Chuyên giấu
chồng trao nhẫn. Vợ Đoài ở quê thì bán non lợn giống được nửa chỉ.
Bao nhiêu nỗ lực đàn bà cho một lọ tro có mùi Marie Sến và mùi
Johnnie Walker. Hai cái khoái lạc lần đầu tiên trong đời đủ để thằng
Tân trút xác trí thức trùm chăn thành một linh hồn từng trải. Hồn nó
đàn ông hơn, nhiều sinh khí hơn, có sức thuyết phục hơn, chân thực
hơn nó lúc sinh thời và ngoài tiếng Pháp còn biết thêm dăm câu tiếng
Đức. Nếu lấy tình yêu làm mục đích tối cao thì cuộc dấn thân của gã
trai này kể như thành công. Rồi bạn đọc sẽ thấy, ở cõi bên kia thằng
Tân là một người tình điêu luyện, quyến rũ, với đủ các ngón yêu,
tuyệt vời hơn hẳn thằng Tân ở cõi bên này như thế nào. Bản thân tôi
mỗi lần đến Viện, có ai rủ ra một trong tám quán nước, bỗng nhiên
cũng lấy giọng thằng Tân mà hỏi, Phục Hi hay Văn Vương? Đã là dân
Việt thì nể người chết hơn người sống.
Nhưng trước khi linh hồn ấm Tân làm xong thủ tục tự nguyện hồi hương
theo hiệp định vừa kí giữa hai chính phủ, và tái định cư trong cuộc
tình tay bảy thậm vô lí này, tôi phải thuật lại những sự kiện khác,
liên quan đến cậu ấm kia, ấm Đủ.
Chú thích:
(1) trong đôi guốc tôi chú ý nhất cái chật chật của đôi quai: thơ
Đặng Đình Hưng
(2) tiếng rơi rất mỏng: thơ Trần Đăng Khoa