Chương 1
- Rồi chưa anh Thiêm làm?
- Chút xíu nữa.
Tôi khom lưng, hết lên gân tay, vặn cổ sợi mây song to bằng ngón
chân cái. Sợi dây đánh vật với tôi như trăn với cọp. Nó vùng quẫy,
trườn, nẩy ngược, quất vào sườn tôi đau điếng, rồi xoắn tròn và giẫy
đành đạch. Tôi đạp chân trên lưng nó, lại vặn.
Chú Dé đến bên tôi, nói khàn khàn:
- Có du kích hai người, hỏi chỉ huy xê mình, gấp quá.
- Khoan, đợi đã.
Tôi mỏi rã hai tay rồi. Sợi mây chỉ cong lại một ít, không chịu nẻ
dọc. Dé bật kêu:
- May lé ik đớp! (1)
- Cái gì?
- Không làm được, để tui!
Hai tiếng đại bác ngạt mũi trong mưa. Cặp đạn rít vo vo trên cao,
biến mất, nổ xa. Mấy hôm nay địch bắn thưa thớt, chúng sợ hết đạn.
Tôi vừa ngừng vặn để thở phì một hơi. Dé đã giằng lấy sợi mây, kê nó
trên một rễ cây, lượm hòn đá đập mươi cái cho thớ mây giập ra, xoắn
cổ nó lại rất nhanh. Tôi đã từng làm kiểu ấy, nhưng vừa rồi ỷ sức
quá hoá lẫn, kể cũng ngượng.
Dé buộc đầu dây vào gốc cây gạo. Tôi vành tay lên miệng, gào cho át
tiếng nước đổ ầm ầm như mấy chục chiếc ô tô nổ máy tại chỗ:
- Căng dây ra! Căng dââây!
Chúng tôi hồi hộp nhìn tổ đầu tiên níu sợi mây lội qua thác. Hình
như nó réo to hơn ban nãy. Anh em đã thu ngắn dây súng, treo ngang
súng thật cao trên ngực. Áo quần đồ đạc gói cả vào tấm nhựa choàng,
buộc túm vác một bên vai, lỡ tuột tay rơi gói xuống nước thì có thể
chạy đón đầu vớt lại.
Đi đường núi, mỗi ngày năm mười lần băng suối lũ là chuyện thường.
Nhưng cáu nhất là chúng tôi đang hành quân giữa đồng bằng Quảng Nam,
song song với quốc lộ số Một, chỉ cách hơn mười cây số đường chim
bay, mà phải mất nửa buổi để vượt một dải ruộng bậc thang kẹp giữa
hai sườn đồi, cách nửa tháng chúng tôi cõng gạo qua đây còn thấy khô
trắng, nẻ chân chim! Trận lụt quái quỉ đã biến quãng ruộng hẹp thành
thác bùn đỏ bầm. Ban nãy tôi với chú Dé phải trút hết súng đạn,
ba-lô, buộc dây dù vào bụng - mười khúc dây võng nối nhau - bơi nhào
qua thác ở chỗ hẹp nhất, sau đó hì hụi kéo một đầu sợi mây song qua
theo.
Tôi nhẹ người hẳn khi anh em lần lượt níu bụi mua sát mé nước, nhún
chân bước lên gò. Việc đầu tiên là đặt gói xuống đất, rút ngay cái
quần đùi quấn cổ mặc vào. Về đồng bằng, quân ta giữ tư thế cẩn thận
lắm.
Dé trỏ ngón tay lên đầu dốc:
- Anh Thiêm đi gặp du kích. Tui qua nước, lấy đồ anh đồ tui. Du kích
hai người, kia!
Tôi vuốt nước mưa tràn vào mắt, nhận ra hai cái bóng mờ mờ trong
mưa, đứng im dưới cây dừa thấp. Tôi thấy lạ. Anh Năm Cẩn, chính trị
viên, đã đem một tổ đi trước chúng tôi nửa ngày. Chắc hẳn anh qua
đây lúc nước còn yếu nên để lại ám hiệu an toàn và đi thẳng vào xóm,
tìm gặp xã đội. Nếu hai cậu đứng đấy là du kích Tam Trân được phái
ra đón chúng tôi, sao họ cứ thập thò đằng xa? Cũng chẳng phải biệt
kích, chúng nó sức mấy mà dám vuốt râu hùm? Coi điệu bộ kỳ lắm.
Tôi rút súng ngắn cầm tay - một đồng chí vừa đem cái nịt súng sang
giùm- cho tiểu đội Một tản rộng, luồn giữa các bụi sim và mua, đi
lên đồi. Nhiều trái pháo 105 liên tiếp xoáy mưa trên đầu, nổ phía
đường ô-tô. Hai bóng kia vẫn đợi. Họ đội nón lá, trùm tấm nhựa xuống
quá gối. Một người mang súng chúc nòng xuống đất. Tôi vạch lá, bước
ra trước mặt họ, suýt kêu một tiếng "à". Hèn gì không dám xuống!
Họ là hai cô gái rất trẻ, lạ mặt, đang luống cuống gí ngón chân trên
bùn, nhìn cắm xuống đất. Chú em trinh sát của tôi nói tiếng Kinh
chưa sõi, đàn ông hay đàn bà đều gọi "người du kích" cho gọn. Tôi
cười xí xoá:
- Xin lỗi nghen, tụi tôi dầm mưa ướt hết. Nhờ các đồng chí về báo xã
đội anh em đang qua sông, à quên qua ruộng, chừng mười lăm phút nữa
đi tiếp được.
Cô mang các-bin ngửng đầu, rụt rè:
- Chúng tôi... đội công tác Tam Sa, dưới kia...
Tôi không để ý, chỉ gọi tiểu đội Một dàn ra giữ mặt trước, rồi chào
vội, bỏ đi. Cô kia bước theo mấy bước, nói hấp tấp:
- Báo cáo đồng chí, tụi tui ở Tam Sa, vùng bị chiếm...
- Đây là Tam Trân chớ?
- Nguy lắm anh à. Xã em... xã chúng tôi lụt ba thước nước, địch còn
bắn ngày bắn đêm, bà con chết quá đi... Các anh làm sao xuống cứu
giùm... tụi nó nhốt đồng bào trong ấp...
Tôi quay lại. Cô du kích Tam Sa nhìn tôi bằng cặp mắt đỏ, mí sưng
dày. Đôi lông mày rậm đen giương cao, đợi câu trả lời. Hai cánh mũi
phập phồng thở mạnh. Biết nói sao để cô hiểu bây giờ? Tôi gạt nước
mưa trên mặt, lặp lại những câu đã nói nhiều lần khi qua các vùng bị
ngập:
- Đồng chí hiểu cho tụi tôi phải đi xa lắm, gấp lắm. Phải như khi
khác, tụi tôi nhào xuống cứu liền không đợi nhắc.
- Dạ, tôi cũng biết bộ đội phải lo đánh giặc, nhưng mà...
Một ánh chớp màu cam chợt loé trong màn mưa đục, bên phải tôi. Một
tiếng "inh" rất sâu, rền dài, như trái bom tấn vừa nổ dưới mười
thước đất. Đất quẫy rùng rùng. Cái gì vậy? Tôi sửng sốt ngó quanh,
chợt thấy hòn Chò bên kia dải ruộng ngập có cái gì khác thường. Trái
núi đang cựa mình. Đấy, rõ ràng nó cựa. Mấy thân cây cao in sọc
trắng trên núi bắt đầu rung nhòe nét trên nền lá sẫm. Một đường
ngoằn ngoèo màu đỏ tươi đang chạy từ đỉnh núi xuống chân, nở to rất
nhanh, như luồng sét nào vừa đánh xuống và dính luôn vào sườn dốc.
Một đường nứt nẻ. Núi đổ!
Bị nước lụt xói mãi vào chân, cả một mảng núi đang sụt xuống.
Sau tiếng nổ lớn, hòn Chò phát ra tiếp tiếng sấm đất, ban đầu nghe
xa và bí hiểm, dần dần dội lên, rất to. Các thứ tiếng tách rời nhau
mỗi lúc một rõ: lách cách, òng ọc, rắc rắc, rào rào, và từng loạt
tiếng nổ râm ran như một tiểu đoàn đang bắn máy bay. Những khối đá
to bằng cái nhà bắt đầu lăn, xô đẩy nhau, càng xuống thấp càng lao
nhanh, chồm lên nhau như bầy trâu điên nhảy loạn. Một chùm tảng đá
cỡ cái chum bị húc văng tốc lên trời, xoay tít, vẽ những đường cong
đen trên mưa trắng, rơi bịch bịch; một hòn gieo xuống cách tôi chỉ
một tầm ném lựu đạn, quẫy ào ào giữa các bụi mưa như heo rừng bị bắn
gãy chân. Đá nhào trước, tiếp tới những cây to của mảng rừng cấm.
Cây lăn ngang lông lốc một quãng, cành và rễ biến thành những bánh
xe răng cưa lắp hai đầu thân, rồi lần lượt chuyển sang chuồi dọc
theo dốc, chân xuống dưới. Tiếp đó, từ vết thương đỏ hỏn của núi,
một dòng máu bầm lừ lừ tuôn ra, rất đặc, lan rộng, lổn nhổn những
cây đá ngào trong đất lầy, với những hòn đá nhô màu trắng như bọt
sủi. Trái núi bị quẩy lỏng thành thác bùn mênh mông đang chảy xuống!
Tôi đứng ngó trân trân, chợt thấy đầu nóng bỏng và chân tay lạnh sởn
da gà. Rất may, mảng núi kia lở hướng khác. Nếu nó đổ xuống chỗ
C.215 của tôi đang qua thác... Chúng tôi không thể nổ súng đánh bật
lùi trung đoàn đá. Dù tìm được hố rãnh núp, chúng tôi cũng sẽ bị
chôn dưới mấy thước bùn, cả đại đội biến mất không còn dấu vết, chao
ôi! Núi còn sụt nữa. Phải vượt gấp quãng này. Tôi đâm đầu chạy xuống
chỗ lội. Đằng sau tôi ai đó kêu to.
Anh em đã qua thác gần hết, đại đội trưởng Ba Tơ thắt nịt súng ngắn,
hỏi:
- Gì như động đất vậy Thiêm?
Thì ra quả đồi này che khuất cảnh núi sụt. Tôi kể hối hả. Ba Tơ quay
lại, hét gọi mấy tổ bên kia qua gấp. Nước lũ đang ngả dần sang màu
đỏ tươi pha vàng - màu của lớp đất sâu mới bị quật lên - chảy nhanh
vọt, chậm lại, rồi kêu ùng ục như nồi cháo sôi. Chúng tôi túm tay
kéo hai đồng chí sang cuối cùng, họ không rút chân được nữa trong
chất hồ đỏ sền sệt. Hú vía!
Ba Tơ cau mày, mặt còn tái:
- Hết sông ngăn tới núi cản. Đi như rùa bò, đây rồi xê mình mang
tiếng gỡ không ra đó Thiêm... Đằng trước mau lên, rửa cái gì, lên
đỉnh gò tập hợp!
Tôi mặc áo, choàng cái quần dài qua cổ, xốc ba-lô. Hai đầu gối còn
hơi run, có lẽ vì cơn hoảng vừa rồi. Một cái tình huống chưa hề gặp,
cũng chẳng nghe nói bao giờ. Anh Ba vẫn lắc đầu:
- Trễ hẹn mất Thiêm à. Tới ngày N, chắc tụi mình còn lội nước tận
đâu đâu, tiếng bộc phá không tới lỗ tai.
- Mấy xê kia không chừng cũng mắc kẹt...
- Tụi thằng Long giữa mùa lụt cứ đi mỗi ngày hai trạm, không nhớ à?
Nhớ chứ, nhưng tôi không muốn anh sốt ruột thêm. Tôi buộc tấm choàng
trùm trên mũ tai bèo, thắt múi sau gáy, khom lưng leo dốc lần nữa.
Hai cô gái trên đầu dốc đã biến mất. Hình như ban nãy cô đeo các-bin
gọi với theo tôi mấy tiếng thất thanh, rất tội, nhưng giờ thì đâu mà
phân bua. Cái lý do đang nằm to tướng sau lưng tôi kia: dòng thác
biến thành thung lũng lầy đang nở nhanh, cây gạo đứng chỗ mé nước
hồi nãy đã ngập tới nửa thân, còn chưa hết ngập.
*
Chỉ có ba chúng tôi trong ban chỉ huy được biết ngày và nơi hội
quân, nhưng mối lo trễ hẹn cứ day dứt từ đại đội trưởng Ba Tơ đến
chú Dé em cưng mới nhập ngũ. Lính xê mình rất tài coi tướng cán bộ.
Sau bốn trận thắng khá ngon ở Quảng - Đà, tiểu đoàn chúng tôi được
điều vào Quảng Ngãi theo trung đoàn đã vào trước. Sắp làm ăn to đây.
Năm Cẩn đi nhận lệnh, về cười khà:
- Trung đoàn cưng lính thiệt chớ. Các ảnh cử phái viên ra, sắp đặt
cho tụi mình vừa đi vừa nghỉ xả hơi, ăn uống bảnh, tới đất Sơn Tịnh
là choảng được liền.
Đời lính mang nặng đi dài, chẳng mấy khi được đi một chuyến hành
quân thoải mái như kỳ này. Chúng tôi sẽ đi mỗi ngày một trạm ngắn,
nhiều nhất chỉ năm tiếng đồng hồ, toàn ban ngày, ngoài tầm pháo
địch. Ba ngày đi, một ngày nghỉ. Hậu cần làm ăn rất cừ, đã đặt ở mỗi
trạm nghỉ một chú trâu hay bò đang vỗ béo bên cạnh một rẫy sắn cỡ sư
đoàn. Gạo tăng vọt lên "lon quan ba"(2). Cậu Châu, phái viên hậu
cần, mọi khi tới đơn vị thường méo mặt kể khó khăn, nay rung đùi thả
cửa. Cậu ta khoe tài xoay sở mãi đến nỗi anh Ba Tơ phải chặn: "Thôi
được, mày cứ đi với tụi tao làm con tin. Hễ thiếu trâu, tao xẻ mày
tao nướng". Tay Châu này tính cởi mở, xốc vác, rủi bị mấy lần hứa
hão nên bị gọi là "ông trâu giấy". Bị trám miệng, cậu không bực, chỉ
rút dao xếp ra liếc trên bàn tay: "Keo này được ăn trâu mập, đứa nào
còn nhắc tới trâu giấy là tao xin khúc lưỡi!"
Quân đi được vài ngày, ông trời bắt đầu phá đám. Mây kéo lên, căng
trên đầu chúng tôi một lớp bong bóng heo đều màu. Mưa tuôn xuống,
mới đầu là thứ mưa phùn rây bột làm mát người mát đất. Lính ta rất
khoái. Mưa vuốt dịu đợt nắng cuối mùa. Mưa làm tàu bay mù mắt, tới
trạm mặc sức đốt lửa ban ngày mà lùi sắn, nướng thịt trâu, pha chè
rừng nhấm nháp.
Giọt nước qua mỗi ngày đêm lại nở ra một chút, dày thêm một chút.
Những đợt tạnh rút ngắn lại, biến hẳn, mưa chiếm hết trời đất. Mỗi
lần sốt ruột ngửng lên nhìn trời, chúng tôi chỉ thấy những chấm bụi
li ti từ nền mây đục kia tuôn xuống, chen chúc như trẻ con vừa chạy
vừa nghịch huých nhau, to dần, khi rơi bộp trên mặt thì bằng hạt đậu
đen. Vất vả rồi. Vắt kéo ra đón đường như tằm ăn rỗi. Quảng nhựa leo
dốc, mồ hôi tuôn đầm đìa khắp người, hơi nóng bốc lên mặt hầm hập.
Áo quần chịu để thối hoắc, không giặt phơi được. Củi ướt, đất ướt,
cơm hết sống lại nhão. Chân bị nước ăn, ban đầu chỉ ngứa rát ở các
kẽ ngón, sau cả bàn chân bị nẻ da rỉ máu, nhúng xuống nước đau nhói
tận óc.
Rồi những cái phiền vặt đó không đáng kể nữa, khi trước mặt chúng
tôi mọi chỗ trũng đều biến thành suối, suối thành sông, sông thành
cửa biển. Cầu lớn cầu nhỏ kéo nhau về biển Đông hết sạch. Chúng tôi
đi bằng cặp chân lội bùn, sau thêm cây gậy, rồi ghép thêm hai tay
níu hoặc bò, thêm phao ni-lông độn áo quần và nhồi lá cho phình to
đủ sức cõng trung liên. Mỗi ngày năm bảy lần chúng tôi lặn mò súng
chìm, chạy dọc thác vớt ba-lô, có khi phải nhào theo các cậu trượt
chân bị nước cuốn. Những luồng “nước cống”, mà chỉ khe suối trên núi
mới có, hay gầm rống thốc xuống như máy bay chúi, trong chớp mắt
biến chỗ lội cạn thành cái thác dữ cắt nghiến đơn vị làm đôi, và
chúng tôi đành đứng hai bên bờ nhìn nhau, đợi vài giờ cho nước vợi
bớt.
Cán bộ cũng ngấm nước mưa bợt người và uống đầy bụng nước lũ như anh
em, nhưng cứ bị lửa đốt trong ngực: chậm nhất ngày 14-11-1964 phải
có mặt tại Sơn Tịnh, sẵn sàng nổ súng. Bộ đội đi từ mờ đất đến nhọ
mặt người. Chưa đủ. Năm đội mở đường được phóng lên trước, gồm các
“chuyên gia cầu treo”, “chuyên gia cắt rừng”, “chuyên gia dò thác”.
Vẫn mất hai ngày đêm để vượt một trạm ngắn.
Tiểu đoàn đành bỏ đường núi. Từng đại đội tách ra, toả xuống đồng
bằng, chia nhiều ngả vào Quảng Ngãi. Anh tiểu đoàn trưởng cười cười,
vạch cho C.125 của tôi một nét bút chì trên bản đồ:
- Các cậu đánh tao ngộ khá, cho ăn nhậu vùng thấp nhứt, tươi không?
Nét bút, vẽ rất nhạt để sau dễ tẩy, lách qua gần chợ Cẩm Khê, chợ
Cây Sanh. Phải đi sát hông sáu đồn to bót nhỏ, cả chục ấp chiến
lược, dễ đụng giặc lắm, mà đụng ắt ngứa tay muốn choảng. Anh tiểu
đoàn trưởng lấy cuốn sổ trên tay tôi, viết luôn mấy chữ thật to:
"Nhớ ba yêu cầu: bí mật, đúng hẹn, đủ quân số võ khí". Anh trả tôi
cuốn sổ, vẫn cười:
- Mình gửi mấy chữ cho Ba Tơ. Ông bạn cố tri của mình nóng mũi một
cây, cậu phải can không cho hắn đánh ẩu dọc đường, nhớ chưa?
Đại đội tôi đi nhanh hẳn lên sau khi rẽ cương. Chính trị viên Cẩn là
cán bộ lâu năm của Quảng Nam, tới xóm nào cũng "đụng đầu người quen
cộp cộp", nên chúng tôi có sẵn đò chực bến sông, du kích dẫn đường,
các mẹ lo giùm cơm ăn cơm gói. Địch mắc mưa nằm co trong đồn, bắn
pháo hà tiện, máy bay chỉ quần đảo mé trên lớp kính đục che trời.
Chúng tôi dấn tới, bù được mấy ngày chậm trên núi, mừng rơn. Rồi
nước lại dâng. Con lũ xuống núi đuổi theo chúng tôi, dai và ác như
đỉa voi. Đất Tiên Phước lùi về phía sau. Đồng bằng Tam Kỳ đón chúng
tôi bằng tiếng trống mõ báo động dội râm ran trên vùng nước trắng
băng. Chúng tôi đổ xô vào cứu lụt một, hai, ba lần, đã trễ càng trễ
thêm, vừa đi vừa chạy cũng không kịp. Nhiều anh em gục lả. Cơn lũ đã
đến trước, chặn đầu những người lính sốt rét đến lập cập lảo đảo,
mắt sâu và má hóp, tay rớt da, bàn chân rỉ máu, nhưng vẫn khiêng
theo tất cả các đồng chí ốm, lội nước thâu đêm về hướng chiến dịch.
Ba Tơ phà một luồng khói rất đặc, nhắm mắt, nói lúng búng: "Chà, đã
thèm...". Bộ mặt to ngang và sần sùi biến trong khói. Theo thói
quen, anh hoa hoa điếu thuốc trước mặt, ai cần thì đón lấy rít vài
khói, nếu không anh lại hút tiếp. Nhưng chúng tôi có đủ mỗi người
một điếu thuốc rê cỡ bự trên tay.
Năm Cẩn đón anh em lúc sẩm tối ở thôn Sáu xã Tam Trân, gọi tắt là
Sáu Trân nghe hệt tên người. Anh mua nửa con bò chết đuối và gạ vay
được lúa đảm phụ giải phóng, nhờ bà con sấy và xay giã gấp, đất cũ
người quen có khác. Chúng tôi đánh một chầu cháo bò nhiều hành, nêm
nước mắm nhứt, ăn vào tới đâu biết tới đó. Nước mưa ngấm da bị đẩy
ra từng giọt to, tôi trút được tới vài ca mồ hôi, người nhẹ thênh.
Lập tức nửa đại đội được chọn đi cứu lụt ở hai thôn gần, hẹn bốn
tiếng phải về để kịp lên đường lúc gà gáy đầu. Chi ủy họp gấp trong
căn nhà tranh của chị xã đội trưởng Tam Trân, ngồi trên những bó lúa
can sớm gặt dưới mưa còn xếp đống to giữa nhà, chảy nước ra nền lênh
láng. Vùng này kịp gặt xong cả, rất may.
Hồi chiều anh Bảy quai nón, bí thư huyện Tam Kỳ, đã tìm gặp Năm Cẩn,
nhờ bộ đội góp sức cứu lụt vài hôm, nhất là cứu đồng bào bị giam
trong các ấp chiến lược dọc đường Một. Số người chết đến sáng nay đã
ngót bốn trăm, còn tăng nữa, nước cứ lên không ngừng. Trong chuỗi
tên của các ấp bị nặng nhất, tôi nghe có làng Cả thuộc Tam Sa. Cô du
kích Tam Sa có đôi mắt sưng, chỉ kịp nói vài câu ấp úng...
Ba Tơ hơi gắt:
- Kéo xuống tận đường Một... Mình ăn cơm Tam Kỳ mòn răng đây nè. Mỗi
lần đi gấp qua đây, cứ phải úp mũ giấu mặt, không thì bà con túm áo
níu lại, bắt ghé ăn gà uống rượu suốt ngày. Năm Cẩn cũng vậy, phải
chưa? Thử hỏi xê mình đứa nào mấy bữa nay khỏi sốt ruột sốt gan?
Không ai cải, nhưng anh sừng sộ to hơn:
- Các cha nhớ đó, hồi nào trực thăng nó chụp xuống đầu làng, cả xê
mình xách súng chạy ra rừng, bị bà con chửi cho rát mặt. Tới khi hốt
được cái Gò Sậy, dắt tù binh về một xâu, các mẹ mới nấu cơm cho ăn.
Bây giờ cũng vậy. Cứ đậy mo lên mặt mà đi, nhồi đất sét vô lỗ tai mà
đi...
Các đồng chí đưa mắt cho nhau qua ánh đèn dầu lù mù, thở dài, chép
miệng. Mỗi người đang bị giằng xé rất đau, và hơn cả vẫn là Ba Tơ,
tôi biết. Những tin xóm trôi người chết xóc mãi vào anh cán bộ huyện
đội Tam Kỳ năm xưa, gãy trong thịt như gai xương rồng. Anh cáu kỉnh
giục bộ đội đi gấp nữa, anh cãi nhau với mình, tự thúc mình đấy
thôi. Những lời oán trách của cán bộ và đồng bào sẽ trút xuống đầu
anh trước hết. "Thằng Ba Tơ dẫn đại đội nó đi thẳng một hơi, bà con
chết lụt nó không thèm ngó. Thà rằng ai đâu xa lạ, chớ nó ăn dầm nằm
dề đất Tam Kỳ..."
Chúng tôi lật đi lật lại các công thức gỡ bí, nhưng chính người đưa
kế ra cũng biết rõ mình đang tự dối mình. Gãy hết. Một cuộc họp bị
tắc tị, buốt ruột.
- Đại đội ở lại một ngày hai đêm, sau đó đi hoả tốc; anh em đã đuối
càng kiệt sức hơn, số lên cơn sốt rét tăng vọt, đến nơi làm sao đủ
sức đánh dài ngày?
- Chọn để lại một trung đội khoẻ mạnh, cứu lụt vài ngày, xong đuổi
theo đơn vị?
Ý này của tôi, và tôi muốn lãnh trung đội ấy. Tôi còn khỏe, bơi khá.
Nhưng ai sẽ vác súng cối, khiêng người ốm, gánh đạn và gạo đi trước?
- Cho người chạy hoả tốc tìm gặp ban chỉ huy tiểu đoàn xin ở lại cả
đại đội? Tiểu đoàn đi trước khá xa. Chúng tôi không có tàu bay, máy
điện tín. Đường bộ ngập lênh láng, xe đạp tắc. Đường sông không có.
Vài người chạy bộ vào tới địa đầu Quảng Ngãi rồi trở ra, nước lụt đủ
thì giờ về biển hết. Vả lại ngày hẹn là do trung đoàn hay cấp trên
nữa qui định...
Chi ủy tính nát nước. Mỗi lúc chúng tôi lặng im, tiếng trống mõ từ
phía Đông lại bay tới lao xao, chen những loạt cối to cối nhỏ, những
tràng súng máy từ các đồn trên cao xả xuống chỗ nào có đốm sáng.
Chạy lụt trong đêm mưa phải có đèn. Tôi nhìn cái đèn pin nhựa Vasa
thò đầu ra khỏi túi dết của Năm Cẩn, thoáng rùng mình. Thứ đèn này
bán khắp nơi, đầu bằng nhựa trong, rọi xuống đất vẫn lộ một cục sáng
trắng to sù...Địch đã bắn nhào bao nhiêu bà con soi đèn chạy lụt đêm
nay?
Năm Cẩn thì thào một điều chúng tôi đã biết:
- Vùng giải phóng ở mé trên này, cao hơn, ngập lác đác từng chỗ còn
dễ cứu. Dưới kia khó, anh Bảy mới năn nỉ nhờ tụi mình...
Câu nói đông lại trong cổ anh. Anh rướn cổ, nuốt mạnh hai lần, nín
luôn. Rõ quá rồi. Tiếng mõ và tiếng súng thay anh kể tiếp. Địch nhốt
đồng bào vào các ấp chiến lược quanh chân đồn, chỗ thấp, sát họng
súng, rào thép gai và mìn vây kín, cổng ấp khoá cứng. Sẽ còn ai sống
sót không để tả lại cảnh địa ngục đang hiện hình dưới kia: nước dâng
réo ầm ào trong đêm đen kịt, hàng ngàn con người rú thét chạy loạn,
mìn nổ tới tấp dưới chân đạp, đạn giặc quét vung vãi xuống đầu, trời
đất ơi! Một đồng chí bước vội ra hè, không kịp nén tiếng nấc. Anh Ba
Tơ nhìn tôi trừng trừng, bàn tay anh đang nắm lặng lẽ bật lên một
ngón, hai ngón. Anh hất hàm. Tôi lắc đầu. Năm Cẩn thở dài. Ba chúng
tôi đều biết không thể trễ hẹn, dù chỉ vài ngày. Đến trễ là phạm kỷ
luật chiến trường, là trốn chiến đấu, là đào ngũ, là làm cho trung
đoàn bị què cụt, là phá vỡ cuộc tiến công rập ràng. Chúng tôi có vô
khối lý do để khỏi bị trách phạt. Nhưng người đảng viên trong mỗi
chúng tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho mình, chưa nói đến cả chi bộ,
chi đoàn, cả xê mình sẽ cảm thấy lần đầu mang nhục...
- Thôi giải tán. Còn ba tiếng nữa, rán ngủ.
Ba Tơ nói khẽ như báo tin thất trận.
Chúng tôi treo võng dồn vào một đầu nhà. Bên kia đống lúa chưa đập,
ba đứa con chị Bỉnh chủ nhà ôm nhau ngáy trên bộ ván kê sát đất, mẹ
chúng đang chạy góp người góp gạo cứu lụt. Năm Cẩn viết vội mấy chữ
gửi anh Bảy quai nón - lại phải phân trần. Thêm một mớ đạn 105 chừng
mười hai trái nữa hú dài, chớp lửa gần, rung đất dưới chân tôi. Ba
Tơ đang ngồi, co chân lên bôi thuốc đỏ vào các kẽ ngón, ngửng đầu.
Mắt anh có đốm lửa.
- Thiêm à, tao muốn ăn non một cú quá, mày!
- Cú sao đó?
- Pháo kích. Sơ sơ một chục trái cối sáu mươi, thả vô chỗ hai trăm
lẻ năm của tụi Chóp Chài. Cũng nhẹ vai anh em chút đỉnh. Tụi nó nghi
bộ đội huyện, biết sao được chủ lực đánh lẻ...
Tôi rút cuốn sổ tay, giơ cho anh xem lại mấy chữ của tiểu đoàn
trưởng ghi. Đây là lần thứ ba anh nóng mũi. Anh "hự" trong mũi, thả
phịch đôi vai to bè bè xuống võng, kéo tấm đắp lên trùm đầu, không
cựa quậy nữa. Tôi khoác tấm nhựa, lê chân đau nhức đi gặp các trung
đội. Anh em cứu lụt đã lục đục về gần đủ. Quay lại nhà chị Bỉnh, tôi
chỉ còn đủ sức nhấc hai chân đầy bùn đặt lên võng.
*
Khi lịm nhanh như hòn đá rớt xuống ao, trong tai tôi vẫn xoáy tròn
tiếng trống mõ của vùng dưới. Tôi giật mình thức giấc có lẽ vì cái
tiếng nhoi nhói ấy biến mất. Đúng, nó dứt rồi. Chỉ còn mưa tuôn sùi
sụt, chuột kêu trên mái, vài loạt súng lạc lõng. Nước rút, hết báo
động. May quá... Tôi nghĩ chập chờn bấy nhiêu, đã thấy cái đầu đặc
sệt lại buồn ngủ đến nhũn người. Giọng phụ nữ nói khẽ, nói to, nói
khẽ. Giọng quen quen. Của ai? Đến giờ báo thức chưa nhỉ? Lỡ cậu gác
ngủ quên... Tôi cố mở cặp mi mắt đè nặng như chì, xoay cổ tay xem
mặt đồng hồ lân tinh dưới tấm đắp. Mới gần hai giờ sáng. Hai rưỡi
dậy, ba giờ ra đi. Vẫn cái giọng quen quen bên kia đống lúa, cạnh
bếp. Tôi hé tấm dù nhìn sang.
Chị Bỉnh xã đội trưởng Tam Trân đang chất thêm củi vào bếp. Hai cô
gái nữa ngồi sưởi. Cả ba đều ướt sũng, quần vo quá gối. Một cô nói
rụt rè:
- Thôi chị, ngập lụt khó đi củi...
Cô rút bớt mấy thanh đang cháy. Ngọn lửa soi một khuôn mặt hơi hóp,
có đôi lông mày rậm đen như mày đàn ông, nhưng uốn cong đều nên
trông vẫn dịu. Người cũng gầy, cái nịt đạn Mỹ bó ngang eo lưng mảnh
dẻ trông to bản hẳn ra. Cô du kích Tam Sa ban chiều đây rồi.
- Em về, chị.
Chị Bỉnh gạt phắt:
- Tầm bậy! Đạn chê thì nước cũng nuốt mày, đợi sáng đã!
- Em về. Mai chị cứ cho số anh em đó xuống thẳng gò Trúc, em đón...
- Mày điên hả Mẫn? Bộ cả chi ủy có một mình mày biết lo thôi à? Đưa
súng đây!
Chị giằng cây các-bin băng cong trên tay Mẫn, dựng trái vào góc
phên, nhắc cái đòn kê đến ngồi bên Mẫn, quàng tay ngang vai Mẫn. Chị
to gấp đôi Mẫn, trông như mẹ bên con. Mẫn úp mặt trên đầu gối. Chị
Bỉnh ghé tai Mẫn thì thào hồi lâu, tôi không nghe được. Cũng chẳng
đẹp đẽ gì cái lối nghe trộm, nhưng tôi biết họ chỉ nói chuyện cứu
lụt nên cứ lắng tai. Chợt Mẫn thổn thức hơi to:
- Không phải đâu chị!
- Còn ngập thì còn đánh mõ la làng chớ, đây im xo hết...
- Chết sạch trơn rồi, lấy ai nữa mà báo động!
Một luồng lạnh buốt giội từ đầu xuống chân tôi. Tại sao tôi không
đoán ra cái điều dữ dội mà rất đơn giản ấy? Nước rút sao được dưới
trời mưa không dứt hạt? Tôi run tay bíu vào mép võng, muốn chồm dậy,
muốn kêu to rằng bộ đội sẽ đi ngay bây giờ. Nhưng tôi không hất nổi
tảng đá đè trên ngực. Tôi phải ỳ ra như cái bị thịt. Áo quần biến
thành tôn lạnh bó cứng chân tay, và dọc lưng tôi luồng lạnh ban đầu
cứ đọng lại mãi, như nước chảy theo dây võng đã ngấm ướt nửa người
bên dưới. Nằm im đấy, bịt tai, nhắm mắt, rồi cuốn gói đi trước sáng.
Nhắc lại với cô du kích kia những lời phân trần xoắn xuýt để làm gì,
trong khi bà con mắc lụt cần tay giúp hơn cần mồm mép!
Chị Bỉnh hất hàm về phía bốn cái võng của chúng tôi:
- Hồi chiều mày gặp ai?
- Anh gì còn trẻ, trắng trắng, cao, bộ tướng như học trò thành phố,
nói giọng tỉnh trong...
- À, anh Thiêm, Tư Thiêm đại đội phó. Sao?
- Ảnh mới nghe thấy tiếng đã phủi như phủi tàu lửa. Em nghe nói có
chú Ba Tơ, chú Năm Cẩn, tính hỏi thăm mà ảnh đâm đầu chạy mất. Coi
người như rác!
Tôi điếng người. Rất, may chị Bỉnh nói giúp:
- Tay Thiêm đó tao biết, cũng tốt nết lắm. Cả đại đội bị bết xà lết
mà phải đi thí xác, coi thiệt thương. Hồi tối chi ủy họp ở đây, tính
chuyện cứu lụt, bàn riết rồi chịu bó tay, anh Cẩn nói vậy. Gà gáy
đầu họ đi rồi. Đừng oán, tội anh em.
- Oán ai đâu. Chỉ ghét cái người làm bộ làm tịch. Thôi em về, dứt
khoát. Dậy, Liềm!
Mẫn lay cô gái thứ hai nãy giờ ngồi dựa phên, ngoẹo đầu ngủ say.
Liềm mới trạc mười lăm, gầy nhom, da nâu. Chị Bỉnh thở dài, nhấc thử
cái bao bột mì to đặt trên ghế đẩu, chép miệng không nói. Dưới vải
gồ lên những quả gì tròn, bằng trái cam, có lẽ là cơm cứu đói. Mẫn
luồn hai tay ra sau, gạt rất gọn những thứ đeo trên thắt lưng ra
trước bụng: mấy băng các-bin ngắn, hai lựu đạn mỏ vịt, một cái võng
xi-ta xếp nhỏ. Xem cái dáng quen thạo của Mẫn, tôi biết cô này đã
đeo súng nhiều năm, không phải mượn súng người khác đem theo giữ
mình. Mẫn khoác hai quai bao cơm vào vai, chống tay trên gối, mím
môi cố đứng dậy. Liềm đưa súng, choàng cho Mẫn tấm nhựa rách mấy
chỗ. Vừa nhích vào bước, Mẫn lảo đảo vịn cây cột, tay run. Chị Bỉnh
vội đỡ cái bao to gấp bốn vòng bụng Mẫn, gắt:
- Bỏ ra, mày bôn(3) thì đi trước, lát nữa tụi tao đem cơm xuống!
Mẫn hít mấy hơi dài, ngửng lên, gạy tay chị:
- Em ngồi lâu, đứng dậy... hoa mắt chút thôi.
Mẫn cười nhợt nhạt, trao các-bin cho Liềm, níu cửa bước ra chầm
chậm. Chị Bỉnh lắc đầu, cầm đèn ra thềm. Bên ngoài tấm rèm mưa buông
từ mái tranh, chỉ có một khối đen đặc của trời và đất nối liền nhau
bằng những cuộn chỉ trắng tuôn hoài không dứt đoạn. Quãng ruộng ngập
trước nhà, hồi mới tối còn chảy im lặng, giờ đã réo lên tiếng thác ồ
ồ trong đêm, đầy đe doạ.
*
Từ mé trên, một lệnh ngắn chạy dọc hàng quân:
- Dừng lại, nghỉ chỗ khuất. Mời anh Thiêm lên.
Lại gặp một con sông nào đó mới ra đời trong lụt! Tôi đưa trả cây
trung liên cho cậu Kỷ, vòng lên, lội lõm bõm dọc các bờ ruộng bậc
thang đã biến thành vô số đập nước tràn, tránh một chỗ bờ bị xói sâu
hoắm, chợt thấy một người đang hoa tay nói gì giữa trung đội Hai. À
"ông trâu giấy". Có tin mới đây rồi!
Tay Châu nhác thấy tôi, vội kêu:
- Giật gân, gay cấn, ai yếu tim bịt tai đừng nghe!
- Trâu bứt mũi chạy ra rừng hả?
- Tào lao, Bác Hưng đánh rồi. Hốt trụi một dê lính dù chánh hiệu rằn
ri, cha chả, đang vây đồn mần nữa. Cắt tiểu đoàn cậu ở lại Quảng Nam
cứu lụt mươi ngày. Gởi tặng mỗi xê một đài chiến lợi phẩm mới tinh
hảo, xê cậu được một Xô-ni. Đã đời chưa? Hơn ăn trâu mập chưa?
Anh em cười rộ. Vui thắng trận có, mà mừng được cứu lụt chắc là phần
nhiều. Những đôi mắt hõm vụt tươi lên. Tôi cười theo. Hình như tôi
vừa hất khỏi vai một khúc gỗ sém nặng ghê gớm trong những ngày
khiêng cây dọn rẫy. Riêng anh Ba Tơ không cười. Anh lẳng lặng kéo
tôi đi lách lên trước. Chính trị viên tiểu đoàn đón chúng tôi giao
việc mới. Ba Tơ liếm một giọt mưa đậu trên mép, đặng hắng, hỏi ngập
ngừng:
- Diệt tụi dù... gọn không?
- Cũng khá. Sẩy đâu bốn chục thằng đuôi.
- Mình bị bao nhiêu?
- Mất ba, bị thương tám. Đánh dưới mưa đỡ bớt cái tàu bay. Tù binh
một trăm hai, chạy gạo cho nó ăn mệt đừ.
Đến lúc này những nét đăm chiêu trên mặt Ba Tơ mới giãn ra. Anh gật
gật, cười, những giọt nước đọng trong râu rớt xuống. Trung đoàn
không vì chúng tôi vắng mặt mà gặp khó, vẫn đánh ngon. Tôi thầm
ngượng vì trót vui quá sớm và ồn ào khi được lệnh mới. Thân này ví
xẻ làm đôi được...
Chính trị viên ngồi xổm, cầm que vạch sơ đồ trên mặt bùn, nói vội:
- Sáng nay nước lên non một thước nữa, nguy to, tràn lan hết. Mình
đi trên sườn núi, ngó xuống phía Tam Sa, Tam Lộc, thấy lút ngọn tre
mất rồi. Ba Tơ à, cậu là thổ công hà bá đất này, lãnh luôn cánh nam
Tam Kỳ đi. Vùng giải phóng bị nhẹ, tự lực thôi, cậu đem quân nhào
xuống mé đường Một mà cứu. Địch bắn thì kêu loa cảnh báo gắt, cực
chẳng đã mới nổ súng. Có điều nhứt thiết phải để dành một trung đội
nắm trong tay, phòng càn. Hễ ngớt mưa là trực thăng chụp xuống lập
tức, nó tuyên bố mượn sư đoàn nước diệt hết Việt cộng rồi đó, mẹ nội
nó chớ diệt!
Năm phút sau, C.215 quay ngược chiều, sải chân trở lại Sáu Trận. Ban
chỉ huy vừa đi vừa bàn. Năm Cẩn bị buộc phải nắm trung đội "ứng
viên" vì đau dạ dày. Tôi giành đi Tam Sa. Cái tên ấy được nhắc đi
nhắc lại mãi, thôi thúc quá. Tôi còn mắc nợ riêng cô du kích Tam Sa
có đôi mắt đàn ông. Những bà con đang chới với trên mái nhà sắp bị
nước cuốn, nếu nghe Mẫn nói tới anh bộ đội nào đó "coi người như
rác"... Tôi sởn gai trên mặt. Một phút vô ý, không, chỉ vài giây
thôi, nhưng vô ý đối với một người đang khổ đến cùng cực...
Tôi treo cái máy thu thanh Nhật mới nhận trên cổ, vặn nút. Chưa tới
giờ đài Giải phóng. Tôi tìm Hà Nội, khoảng một ngàn ki-lô-xích. Đây
rồi. Một cô gái Bắc đang đọc tin chậm, tiếng cô chao đi chao lại
theo nhịp chân.
... Theo tin nước ngoài, phẩy, đã có ít nhất năm nghìn người chết,
phẩy, hai triệu người không còn nhà ở, chấm. Nhiều làng đã biến mất
không còn dấu vết, chấm...
Một tiếng cộc lốc bật đằng sau tôi:
-Mở to nữa!
Riêng tỉnh Quảng Tín, phẩy, tức Nam Quảng Nam, phẩy, đã có tám mươi
phần trăm số nhà cửa bị sập và trôi, chấm. Trong khi ấy, phẩy, bè lũ
Mỹ-ngụy vẫn đẩy mạnh càn quét bắn phá vùng giải phóng cũng như vùng
chúng tạm kiểm soát, chấm. Hãng thông tin Mỹ A.P thú nhận, hai chấm,
mở ngoặc kép, quân đội chính phủ, mở ngoặc đơn, tức Mỹ-ngụy, đóng
ngoặc đơn, đang ráo riết hành quân để tiêu diệt những toán du kích
Việt cộng....
Một cặp tàu rà bay chéo qua trước mặt chúng tôi, hằn hai bóng cá
chuối bơi trong nước gạo. Trung đội đi đầu lên đạn róc róc. Tôi
không mở miệng. Anh em lên đạn rồi sẽ xuống đạn. Lúc này ai cũng
muốn nghe sắt thép cựa mình. Tôi cắm cúi đi theo cái ba-lô lết bùn
của Năm Cẩn, thoáng thấy anh đưa tay lên mặt. Nước mắt tôi đã chảy
nóng cằm từ nãy rồi, anh ơi. Có tiếng gì như sịt mũi rất nhẹ trong
máy thu thanh, rồi giọng người đọc tin bỗng khản đi, hơi hấp tấp:
Tôi đọc lại, Nạn lụt lớn chưa từng thấy vẫn tiếp tục tàn phá các
tỉnh ven biển từ Thừa-thiên đến Bình Định...
Sau lưng tôi, anh Ba Tơ bỗng nấc dồn. Những tiếng nấc dội từ đáy
ngực, nặng và sâu, những tiếng kêu của một người bị thương ở phổi.
Tôi không quay lại, vẫn thấy đôi vai rộng của anh rung giật trong
cơn đau. Năm ngoái, khi nghe tin đưa con trai bảy tuổi bị địch chặt
đầu, anh chỉ tái mặt và run nhè nhẹ.
Chúng tôi kéo hàng dọc đi gấp trong mưa, không ai nhìn ai, từng
người lặng lẽ vuốt mặt.
Chú thích
(1) Anh không làm được! (tiếng dân tộc Co)
(2) Mỗi ngày ăn ba lon (ống sữa bò)
(3) Vội, gấp
Chương 2
Năm Ri nhào sấp xuống. Tôi nhào theo.
Chuỗi đạn mười hai ly bảy xóc vào sườn đồi bên trái, nổ pục pục, bùn
toé trên cổ tôi. Chuỗi sau dài và quét thấp hơn, xẹt qua gáy nóng
rát. Tôi quát:
- Lăn xuống! Lăn!
Anh em ôm súng vào ngực, kẹp chân giữa háng, dựng cùi tay đỡ nóng,
lăn lông lốc theo sườn đồi trơn nhẫy. Chú Dé rơi lõm xuống nước, hối
hả bò lên, chửi một hồi tiếng Co. Khuất rồi. Đạn vẫn réo réo qua đầu
chúng tôi. Nhưng lại có nhiều phát súng trường lốp bốp, nòng quay
hướng khác, không nghe tiếng đạn vỗ không khí. Chắc là du kích kìm
địch, tỉa vài thằng cho chúng câm họng. Trên gò Mù U có một đại đội
biệt động quân với bốn thằng Mỹ, suốt mấy ngày này bắn vào bất cứ
cái gì còn cựa quậy trên mặt nước.
Năm Ri - cậu du kích Tam Sa dẫn chúng tôi về xã -nằm im trên mặt
đường. Chắc bị rồi. Địch ngớt bắn, tôi định vọt lên, vừa lúc Ri nhỏm
dậy chạy ào ào xuống dốc, tràng trọng liên đuổi theo không kịp. Ri
cười rất rộng, hấp háy con mắt vảy cá:
- Tôi lỡ mắc kẹt trên cao, ón(1) quá mà không biết lăn...
Lao xao nhiều tiếng phụ nữ gọi, cách chừng trăm thước:
- Lại đây núp, mau! Nó kêu pháo chụp bắn bây giờ! Kìa anh Ri! Ngó
coi thằng Năm!
Không đùa với thứ pháo úp rơm ấy được. Chúng tôi chạy léo nhép trên
bùn về phía người gọi. Một quả 105 bay xẹt xẹt, nổ gần chỗ chúng tôi
gặp họng cây trọng liên, phì khói trắng. Chắc pháo nó chĩa sẳn vào
đây mới bắn nhanh vậy. Mấy cô du kích đứng nép vào sườn đồi lở, vẩy
rối rít: “Lấy đích rồi, bôn lên chớ!“ Chúng tôi đâm bổ vào chỗ núp,
vừa lúc tiếng “pình “ của trái đạn bùng lên đầu. Mảnh băm xuống rào
rào bịch bịch. Đồng chí chạy vào sau cùng bật kêu khẽ, đưa cánh tay
bết bùng lên: Một mảnh thép kịp cứa bắp tay, vết sắc như dao chém,
may không sâu. Các cô xúm lại rửa và băng, hỏi lấy được. Địch bắn
dồn dập mươi quả rồi im.
Trong đám đông tôi nhận ra em Liềm đã đi với cô hai Mẫn. Liềm ngó
tôi, chớp chớp mắt, lảng. Còn tức mà.
Đây là một cái hàm ếch rộng, lõm vào sườn đất đỏ. Nước xoáy kéo đất
sụt xuống, để lại cái hang cho người trú, chưa biết khi nào sẽ lở
tiếp. Đội công tác Tam Sa đặt “ hậu cứ “ tại đây, bón cháo tiêm
thuốc cho đồng bào bị nạn, để xuồng bè của các xã giải phóng xuống
chở đi.
Năm Ri còn hổn hển nhưng cái kiêu hãnh bên trong vẫn xì qua giọng
nói:
- Bộ đội chủ lực về đánh giặc cứu lụt đây. im bớt coi! Chú Luân, chị
Mẫn đâu? Chị Tám đâu?
Một chị bước tới, đập tay Ri:
- Thì để các ảnh thở chút đã chớ. Mới xuống đã lấm lem như trâu lăn,
chẳng ai cực như bộ đội. Uống nước đã các anh, ăn sơ chén cháo thịt
bò đỡ đói, thiệt tội...
Nghe kiểu than thở của chị, tôi đoán ngay chị có chồng đi bộ đội.
Thấy mọi người mừng xôn xao, tôi không nỡ nói ngay rằng chỉ có mười
bốn anh em về giúp Tam Sa. Ưu tiên số một rồi đấy. Chúng tôi không
ăn, chỉ gửi gói áo quần và bao gạo lại đây. Mỗi người mặc quần đùi
áo lót, mang súng đạn và tất cả các thứ ni-lông đi mưa, tấm tăng ba
thước, pông-sô lấy của địch, dây mây, dây dù đã vét được khi rời đại
đội. Ra trận ngay. Chị Tám cứ túm mười bốn nắm cơm vào tấm choàng
bắt Năm Ri xách theo cho chúng tôi ăn trưa.
Vừa đi vừa chạy vòng vèo qua các chân đồi khuất, bơi giữa cau, chè,
sắn từng quãng, chúng tôi đến gò Trúc. Bãi sắn rộng, ngập một nửa.
Nước, gió và pháo địch đã xô sắn trốc gốc nằm nghiêng ngửa: những củ
sắn gãy điểm lác đác những chấm tròn, trắng tinh lạ mắt trên màu bùn
tãi khắp nơi. Mấy người đang đóng bè chuối. Một áo đen ngước lên,
lật nón lá. Cô Mẫn, chi ủy viên Tam Sa.
Mẫn nói ngay:
- Các anh có việc gì...
Vừa nhận ra tôi, Mẫn ngừng lại mím môi. Tôi nghĩ nhanh: “Tự ái dai
khiếp!“. Tôi bước tới để chặn những hờn dổi mất thì giờ:
- Chúng tôi về giúp cứu lụt. Chỉ có mười bốn anh em tất cả, mang
theo võ khí. Đề nghị đồng chí giao việc.
Mẫn mở to mắt vài giây nữa, rồi không hiểu sao lại bật cười nhẹ, ấp
úng:
- Chao, may quá...
Chúng tôi ghé vai khiêng luôn cái bè chuối. Đội công tác Tam Sa và
mấy thanh niên nữa đang chèo hai chiếc xuồng nan với sáu cái bè
chuối, qua lại trên cánh đồng chưa gặt ngập dưới ba thước nước. Tụi
biệt động trên gò Mù U không nhìn thấy quãng này, nhưng vẫn gọi pháo
chụp bắn lên cầu may.
Trước mặt tôi cách chừng trăm thước là thôn Nhơn-ái, tức làng Cá,
tức Một Sa “ấp tân sanh điển hình của quận Lý-tín “, có đủ hai sông
ba núi vây quanh. Cái lò giết mòn nay biến thành giết gấp.
Đài Giải phóng và đài Hà Nội tới tấp báo lụt trước mấy ngày. Tụi ác
ôn bắt tin đài ta, giữ kín, lén chôn thêm mìn chung quanh các cổng
ấp khoá cứng, kéo quân cắm lều trên gò Mù U. Nước lũ đổ dồn về ban
đêm cuốn đi chừng ba chục nóc nhà, ngót chục bà con chết mất xác.
Mười mấy người nữa trúng mìn khi cố phá cổng ấp hay trèo qua kẽm
gai. Nước dâng tiếp. Bà con chạy dồn lên chỗ cao giữa làng, trèo lên
giường phản, rồi lên bàn thờ, rồi lên giàn gỗ kê dưới mái nhà, rồi
phá mái trên nóc, rồi chuyền qua cành cây. Nước lên nữa. Nước khoả
các xóm thấp, xoáy sập các nhà vách đất, lừ lừ đuổi mãi theo người.
Cái chết từ dưới lên, đến đây thêm cái chết từ trên đổ xuống. Những
người ôm ván bơi hoặc leo cây chỗ trống trải đều bị quân “đầu cọp“
xối đạn giết. Thứ cọp này không bao giờ no thịt người. Cọp Mỹ nuôi,
có chủ dắt dây. Lắm người lặn tránh đạn, không ngoi lên nữa. Một
tiếng “ục“ nhỏ, ngột hơi, đặc sệt dưới đáy. Một luồng nước đầy bong
bóng đùn lên, cuộn tròn. Người trên cây ngó xuống chỉ kịp thấy mớ
tóc đen xõa như rong, thấy mảng trắng của gan bàn chân hiện thoáng
trong bọt nước, chìm ngay.
Đội công tác lao vào cứu dân trong ấp, mất liền hai đồng chí trong
buổi đầu. Ngày thứ hai khá hơn, chỉ bị thương một. Các xã giải phóng
chia bớt du kích đến giúp, một số ém địch trên gò Mù U, số khác
chống bè, chèo xuồng, ôm ván bơi, đi vớt từng người. Đến lúc này,
bên xóm còn ngót một trăm bà con chưa thoát được.
Năm Ri đã kể những chuyện ấy dọc đường. Bây giờ tôi đang đứng trước
trận địa chống lụt. Nước, mênh mông nước màu canh hến trải ngút tầm
mắt, lều bều các thứ giường chõng bàn ghế trôi lẫn với củi rều, đây
đó nhô lên một mái nhà ngói sắp ngập, vài ngọn cây lắc lư chực trốc
gốc thụp xuống. Từng chùm người đang bám vào những chỗ sống cuối
cùng ấy. Nước xuống tới đây không còn chảy xiết như vùng trên, nhưng
lại dồn ứ nhiều hơn, dâng cao và rút chậm hơn. Nó cứ thong thả nhích
từng đốt ngón tay như đã nắm chắc mồi ngon, không cần vội.
Mẫn hỏi run run bên tai tôi:
- Làm sao anh? Người ít, xuồng bè thiếu… Hay là nhờ các anh cản địch
phía gò...
Tôi không đáp, cũng không để ý tới những lời giục rối chung quanh.
Đầu tôi hết nóng. Những xúc động quẫy lên nén xuống mấy hôm nay tan
biến. Tôi tỉnh, lì, gần như lạnh lùng. Tôi đã tập cho mình biết tỉnh
khô tỉnh rụi trong cuộc giao chiến, khi xóc lê cũng như khi bị đạn
xóc.
Làm thêm bè chuối không lợi. Chuối chặt từ xa, cả buổi mới xong bè,
mà mỗi cái chỉ chở được một người chèo và một người nằm, rất chậm và
dễ lật. Kìm tụi biệt động đã có hơn hai chục du kích các xã bạn, đủ
rồi. Từng đồng chí ôm phao bơi đi cứu, cũng quá chậm. Coi chừng pháo
bắn, trực thăng chụp…
Một kế hoạch hiện dần trong óc. Có thể được lắm. Tôi quay lại, gặp
mười mấy cặp mắt đang chờ, đăm đăm cùng nghĩ với tôi.
- Làm kiểu kéo phà sông Tranh. Sao.?
Anh em reo ồn:
- Biết mà!
- Vớt lẻ sao cho kịp, kéo phà thôi!
- Căng dây ra đo, mau! Nối dài luôn đi!
Mẫn nhìn anh em chạy ùa đi bẻ lá sắn nhồi vào ni lông, lại nhìn tôi,
ngẩn ra. Tôi phải nói cặn kẽ hơn. Anh em sẽ nối số dây hiện có cho
đủ một trăm ba chục sải, gấp đôi khoảng cách từ đây sang mái đình
cao nhất bên kia. Quãng giữa sợi dây ấy buộc vài chục cái phao to
bằng ni-lông túm. Một tổ bơi sang xóm, số đông lại ở bên gò, sẽ kéo
chùm phao ấy qua lại như kéo phà, mỗi lần vớt được vài chục bà con
ôm phao. Nước đủ sâu để chân người không chạm kẽm gai và mìn nằm
dưới đáy. Xuồng bè sẽ dành cho những người ôm con nhỏ hay sắp ngất.
Mẫn mừng cuống lên:
- Tôi qua bên xóm, nghe anh?
- Đừng, đồng chí ở lại đây đón bà con, đưa vô chỗ chị Tám.
Tôi túm một đầu dây định buộc ngang bụng. Chú Dé giật lại, gắt:
- Lé ik!
- Sao nữa?
- Để tui làm, anh chỉ huy...nhiều nhiều...
Chú khoát rộng bàn tay, ra ý chỉ huy chung, rồi buộc luôn dây vào
mình. Các đồng chí khác cũng quyết không cho tôi sang xóm: “Lỡ pháo
chụp bắn, anh núp đâu? Đừng để tụi tui bị kiểm thảo!”. Trong câu nói
lẫy ấy, trong mắt anh em, tôi đọc thấy một mệnh lệnh và một tình
thương thật lớn, buộc tôi phải nghe lời.
Hơn nửa giờ qua. Dây không đứt, phao không chìm, ổn cả. Chuyến phà
đầu tiên trút lên gò hai mươi ba người xanh nhợt. Mẫn reo nho nhỏ,
dìu từng người bước lên bằng đôi chân tê cứng. Một ông cụ tóc trắng
râu đen quấn thuốc rê mời tôi hút, cụ ướt sũng mà sao thuốc vẫn khô.
Cụ ngồi bóp chân, cà rà kể một hồi. Tôi chỉ vâng dạ, mắt dán vào anh
em cứu lụt bên kia, tìm cách nâng năng suất. Tôi gọi hai đồng chí
đến, dặn chuyển đầu dây đến những chỗ bà con bám đông cho đỡ mất
công góp người. Họ bám phao qua xóm. Tuy đang bận, tôi cũng nghe
loáng thoáng rằng cụ này là ông Mười nổi tiếng chữa đau lưng giỏi,
rằng làng Cá chết nhiều vì bị địch cướp hết số xuồng nan, rằng cái
lụt này còn to gấp mâý lần trận lụt “bất quá“ năm Dần. Bất quá nước
vô vườn là cùng, bất quá tới thềm, dân làng cứ bất quá mãi đến khi
nửa làng bị lút mái mới thất kinh, nhưng năm ấy chỉ trôi đồ đạc chứ
không ai chết. Tôi bơi ra vớt một phao bị cái tủ trôi húc sổ dây,
cách bờ mươi thước, có một bà mẹ bám. Mẫn gọi bà là bác Sáu.
Chuyến thứ hai chỉ mất mười tám phút, rất khá. Chuyến thứ ba chậm vì
các nhóm đông đã vợi bớt, anh em phải chèo xuồng đi đón từng người,
chở tới bến phà. Đó là ngôi đình làng Cá còn nhô hai nửa mái, bên
tán lá xõa rộng của cây đa to. Các đồng chí đã thạo hơn, buộc tay
cho hai anh em nhỏ ôm chung một phao, sang được tới hai mươi tám
người. Mẫn bồng hai tay hai em, cõng một đứa nữa, chạy hì hụi trên
gò, vừa thở vừa cười. Mừng quá mà.
Trong khi chuỗi phao nhẹ rẽ nước róc rách chạy sang xóm. Mẫn buột
miệng:
- Chắc tới lượt mẹ tôi.
- Đâu, mẹ đồng chí chỗ nào?
- Trên nóc nhà ngói thằng xã Chinh, chỗ xa nhứt...Mẹ bồng thằng cháu
Hoàn đó. Hai em tôi qua được rồi thằng Tâm đang chèo bè kia
Mẫn nói ấp úng, không nhìn tôi, như xấu hổ vì trót tính cái gì đó
cho riêng mình. Tôi thoáng hối hận. Mẫn lo chung cho bà con là đúng,
cán bộ phải vậy, nhưng tôi lại không nhớ rằng Mẫn cũng có mẹ và con
như người khác.
- Đồng chí mấy cháu rồi?
Không hiểu sao Mẫn ngoảnh mặt, lúng túng:
- Một.
- Ảnh đâu?
Mẫn chợt ửng má, lắc đầu. Tôi chỉ hỏi để biết Mẫn còn bao nhiêu
người nhà phải cứu, không tò mò. Các cô có chồng đi lính ngụy hay
thua kém anh em thường lắc đầu thay câu trả lời. Và Mẫn hấp tấp nói
lảng:
- Hồi nãy các anh mới tới, tôi cứ tưởng…Mọi ngày, bộ đội xuống Tam
Hải hay lấy đội công tác dẫn đường..
Đến lượt Mẫn phân bua. Thôi được, cô hết tự ái là đủ, tôi không mong
gì hơn.
Mưa dứt từ ban nãy. Mây bốc dần lên cao, báo hiệu chẳng lành. Bây
giờ, thứ tiếng động mà tôi gờm nhất bắt đầu dội từ xa: máy bay. Một
cặp L.19 bay rất thấp từ thị xã Tam Kỳ lên phía quận Tiên Phước,
chệch hướng chúng tôi. Chúng lên tìm chỗ đánh phá vùng ta. Bên xóm
anh em hối hả góp người. Mối nguy mới tăng dần khi nền trời bắt đầu
hiện những mảng xanh. Rồi tiếng phành phạch của trực thăng nổi lên.
Ba chấm đen đứng yên một chỗ trên chân trời, nở to dần: Chúng bay
thẳng hướng Tam Sa. Lôi thôi đây.
Tôi vành tay làm loa, gọi anh em giấu phao. Những cái bóng vẫy kêu
trên mặt nước đều ngừng động đậy, núp vào một chòm lá hay nằm ép
trên mái nhà. Trên gò chúng tôi tản ra từng tổ, kéo những bụi sắn để
che mình, đơm súng đợi.
Ba chiếc trực thăng đã chém nắng ầm ầm trên làng Cá. Hai chiếc óc
nóc rẽ bên trái, đảo một vòng, sà sà đáp xuống gò Mù U. Các tổ du
kích ém gò vẩn nín thinh, anh em đã gọi loa báo cho lính địch biết
ta không bắn máy bay tiếp tế hay chở thương.
Chiếc đờn cò không xuống đất. Nó quần một lần, hai lần. Bóng đen của
nó lướt qua loáng loáng. Tôi thoáng nhớ những bóng cá mập lượn qua
đáy cát của biển Qui Nhơn, một buổi trưa gió lặng nước trong. Nó bay
chậm dần, dừng hẳn. Cánh cửa tò vò bên trong bật ra, cắt ngang chữ
MARiNNES(2) nét vuông, sơn trắng trên thân màu lá sẫm. Một thằng cao
lớn đứng vịn mép cửa, dòm xuống, nhô cái mũ bay tròn bóng. Đến khi
nó đẩy cặp kính to lên khỏi mắt, tôi nhận ra một thằng Mỹ. Mặt nó
gầy và đỏ, mũi gồ râu xanh cằm. Tôi nhìn dán vào mặt nó, hồi hộp
đợi. Chung quanh tôi, trên các cồn đất biến thành đảo, hàng trăm con
mắt dưới lá cũng đang nhìn nó.
Thằng Mỹ xem khá lâu cái “ ấp tân sanh “ có tên trên các bản đồ quân
sự Mỹ-ngụy. Mảnh đất này cùng với hơn ngàn dân bị giam trong rào, từ
lâu đã được coi là của “quốc gia“, tức của Mỹ, của thằng lái trực
thăng đang ngó xuống. Trời rất sáng. Ánh nắng chiếu xiên làm nổi rõ
các đường nét bên dưới. Nó thấy tách bạch từng người đàn bà đang ôm
con rũ rượi, sắp lăn xuống nước. Nó cũng thấy gió cánh quạt thốc
xuống đang xô lắc lư mấy ngọn cây còn người đang bám. Chùm phao
ni-lông đã được thu kín dưới tán lá cây đa, sợi dây chìm sâu dưới
nước đục, nó không biết có ai đó đang cứu lụt. Đứng trên cái máy có
sức giết người và cứu người ấy, ngắm cảnh đau khổ trải tràn lan, nó
sẽ làm gì?
Thằng Mỹ sẽ làm gì đây?
Chỉ cần trong thân nó còn một chấm sáng của con người, chỉ cần nó
nhớ thoảng một chút lời mẹ nó khuyên nó sống lương thiện. Nếu tên
cướp biển đã biến hẳn thành thú dữ, đã nghiện máu, tôi chỉ mong nó
ngấy máu no mồi lấy một phút thôi. Nó giở trò gì cũng được. Thả
thang dây xuống kéo vài người lên để chụp ảnh, khoe quân đội Hoa-kỳ
nhân đạo, được. Bĩu môi, nhổ nước bọt quay đuôi bay về Đà Nẵng mà
uống rượu sờ gái, được hết. Miễn là…
Hai chiếc H.34 đã bay xa. Tên Mỹ bước lùi, sập cửa. Chiếc UH.1A rồ
máy gắt hơn, bắt đầu lên chênh chếch. Tôi thở nhẹ được vài hơi. Hỏng
rồi nó vòng lại. Tôi hét trong tiếng máy:
- Đợi tôi phát hoả!
Nó lừ lừ chúc mũi về mái đình. Tôi nâng cây trường Mát của chú Dé,
rê đường ngắm theo cái mõm tròn của nó.
Chưa bắn. Thân thể tôi rung lên đòi bắn, nhưng đầu tôi vẫn kìm được
ngón tay ngoắc trên cò: cố tránh một trận đấu súng trong khi ngót ba
chục đồng bào bị kẹp giữa hai làn đạn. Đợi chút nữa. Cố đợi.
Chiếc trực thăntg phản lực sà thấp qua xóm, không đánh. Hai cây đỡ
dưới bụng nó như trượt trên một tấm kính. Tôi quệt vội mồ hôi chảy
thành dòng trên mặt, lại ngắm. Nó muốn chơi trò mèo vờn chuột? Nó
chùn tay, nhờm tay khi sắp giết dân? Một lần nữa nó vòng lại, cao
hơn trước nhiều. À, nó chỉ sợ đạn bắn trả. Tôi đẩy thước ngắm lên ba
trăm. Chắc tụi biệt động đã gọi bộ đàm báo tin có du kích quanh đây.
Tôi co ngón tay, bóp cò nấc thứ nhất, vẫn đợi...
Khoảng cách chừng nửa giây. Hai luồng khói của nó vừa phụt, súng của
tôi cũng phì khói. Cặp rốc-két rít ra tiếng giũa cọ lưỡi cưa, chìm
ngay trong tiếng nổ túi bụi dưới đất. Mẫn bắn cây Các-bin M.2 ngay
bên tôi, từng loạt năm viên rất giòn. Cậu Kỷ chưa bình tĩnh mấy, một
băng trung liên chỉ sổ một hơi. Ngọn đòn trả thù quá đột ngột và quá
dữ. Chiếc “xe tăng bay“ lạng đi, gượng ngóc đầu, lạng nữa. Chúng tôi
bắn mãi đến khi nó rơi tõm xuống đồng nước lụt. Một cái phễu trắng
vọt lên, rã vụn, tưới xuống rào rào. Sóng cồn to. Những con sóng
cuốn chiếu chạy xa chỗ máy bay rơi, đập vào gò bóc bách. Cánh quạt
lưng quẫy sùng sục mấy giây nữa mới ngừng. Tôi che mắt tìm hai thằng
lái, không thấy, chúng mắc luôn trong cái xác trực thăng còn nhô
khúc đuôi. Sướng không thể tả. Nhưng tôi không dám ngó lâu hơn. Mạng
bà con đang treo sợi tóc.
Tụi biệt động vừa được tiếp thêm đạn, bắn tơi bời. Khói đạn cối bốc
dày ở quãng đồi chúng tôi bị trọng liên quét ban nãy. Xuyên qua lớp
mù trắng toả ngang, một luồng khói màu lam từ từ bốc đứng lên. Mẫn
chỉ về phía ấy, ngón tay hơi rung:
- Có cây rơm to trôi lấp ló đó. Chắc chị Tám cho đốt nhử pháo, nhử
tàu bay. Cha con thằng Chinh biết rõ làng mình lắm anh à, nó kêu
pháo bắn trúng y từng liên gia.
Bên xóm chú Dé đã khoát tay ra hiệu kéo phà. Chúng tôi ùa cả xuống
mé nước, túm sợi mây. Pháo chụp nã vào chỗ chị Tám rất gấp. Địch sẽ
mắc mưu trong bao nhiêu phút? Chuỗi phao vào tới bờ, chỉ được mười
bảy người cho sang trước, anh em đang vét nốt mười một người đang
bám rãi rác.
Hai cây 105 ngừng bắn. Cối 81 giã gạo thưa dần rồi nghỉ. Cần như im
lặng. Cái im lặng nặng trĩu những đe doạ, khi pháo địch đang xoay
họng mà ta không đoán được chúng sẽ bắn vào đâu. Cột khói rơm bốc
lên to hơn, du kích bắn râm ran, cố chọc tức giặc. Chỉ cần mười lăm
phút nữa, mười hai phút cũng đủ. Thôi thì sáu bảy phút để phao và
người kịp tách khỏi xóm một quãng..
Tôi sực nhớ, hỏi Mẫn:
- Mẹ Mẫn đâu không thấy?
- Đang ẵm thằng Hoàn. Các ảnh đưa qua mái đình kìa.
Mẫn nói hổn hển trong khi đỡ một chị bụng chửa lên dốc. Bà mẹ Mẫn
buộc cái gì như cái thúng vào máy ngói. Tiếng loa binh vận bắt đầu
nổi phía gò Mù U. Phải cứu cho được mẹ và con Mẫn. Không được bỏ
quên những người biết hy sinh lặng lẽ.
Thôi rồi, pháo bắn!
Hai cục lửa xòe thấp trên xóm ngập, biến thành hai búng muội đen.
Tiếng nổ chập đôi dội to trên nước kèm tiếng rung kim loại. Mẫn bóp
mạnh bắp tay tôi, kêu rú. Tấm lưới chài rơi xoà xuống nhưng vãi vào
chỗ hết người. Nhanh lên bà con ơi, gấp nữa! Cha con thằng Chinh nào
đó sắp gọi bộ đàm lái họng pháo… Thêm hai quả, cao hơn. Hai quả hơi
nhích sang phải. Một bóng áo trắng rời cành cây rơi ngửa, tiếng hét
bị nước bịt nửa chừng. Tôi gào đến rách họng:
- Kiếm ván che mảnh! Lặn xuống nước, lựa chỗ không mìn, níu cây hụp
xuống nước!
Những bọt khói đen phình to, kết thành đám mây xám, khi tãi rộng ra
nó loãng màu hoá trắng đục. Lửa bầm loe loé trong ruột nó. Khói đùn
ra, phòi ra, lộn ngửa cuồn cuộn và cứ lấn qua bên phải. Trúng chỗ
rồi. Tôi ngã ngồi xuống, gượng đứng dậy để nhìn. Mảnh xối chủm chủm
như mưa đá. Ông già khoác tay nải nằm nghiêng trên nóc nhà, mảnh xăm
mứt gừng vào hông. Một chị mặc áo quần đen đang ngồi bỗng gục xuống,
chống tay nhỏm lên, vòi máu phì ngang cổ. Em nhỏ níu tay mẹ, cố ghì
lại. Cả hai lăn xuống nước. Trên chạc cành đa có một cô gái nằm sấp,
tay chân thõng, tóc rủ, cả chục chấm máu loang nhanh trên áo hoa cà.
Cạnh đấy một bàn tay nhô lên chới với, khoắng mặt nước, chụp vào
không khí vài lần, biến mất.
*
- Ăn đi mấy anh! Đắng cơm nghẹn nước cũng rán ăn, lấy sức giúp đồng
bào chớ, nhịn đói cả ngày rồi. Dé, hết chưa em? Cơm chớ thứ gì mà
ngó hoài vậy anh Thiêm? Liềm, múc thêm canh, ớt đâu hết rồi...
Chị Tám Giàu bắt chúng tôi ăn. Thì ăn vậy. Chén ơm ghế sắn non phả
mùi thơm nóng vào mặt. Tôi và một miếng thấy mình đang nhai rơm khô.
Tức thật. Ăn thịt bò hơn. Một chậu nhôm đầy thịt bò nấu với lá lốt,
tôi biết ngon lắm. Tôi cầm mảnh tre dùng làm thìa, xúc thịt vào
chén, chợt nhớ những miếng thịt người vung vãi trên mái đình, đỏ,
nhầy nhụa. Dạ dầy tôi thốc ngược một cái. Tôi cắn răng, nuốt cơn
buồn nôn trở xuống, thấy đau buốt chỗ mỏ ác. Êm rồi, tôi yếu đuối
quá, thật không ngờ. Đánh dư sáu chục trận, không kể hàng ngàn xác
giặc nằm đủ các kiểu kỳ quặc tôi đã thấy, riêng số đồng chí mà tôi
cõng, băng bó, đỡ xuống huyệt cũng khá nhiều. Chưa lần nào tôi bủn
rủn như hôm nay. Có lẽ toàn người già, phụ nữ, trẻ em, nhất là trẻ
em. Những xác trẻ em bị vằm nát...Nhưng thôi, hãy nghe lời chị Tám.
Má tôi hồi xưa cũng vững như chị. Khổ quá thì khóc kể ồn ào một lát,
rồi bầy con vẫn ăn no tắm sạch, mạ vẫn xép đầy gánh để mai cấy sớm,
trã cá vẫn đậy kỹ tránh mèo. Tôi cố nuốt nắm trấu ngậm trong miệng.
Nhai cả thịt bò nữa
Trâu chết ít nhờ bơi bầy quen, con này kê mõm trên mông con kia, kết
dần thành những bè trâu trôi mãi vẫn sống, sau này đồng bào sẽ đi
tìm chuộc lại. Bò chìm rất nhanh. Khắp các bờ bãi đều lù lù những
xác bò trương phình tấp vào. Nhiều gia đình sau khi mất trụi của
cải, cố cứu lấy con bò cày đất thổ không kém gì trâu. Kéo trước đẩy
sau mãi rồi con bò cũng lên được chỗ ráo. Nó đứng run mãi bốn chân,
ngạt giọng kêu nhỏ dần, rồi quị. Chủ nó chỉ còn một quần đùi trên
mình, tìm loạng choạng trên bãi bùn không gặp một thứ gì để xẻ thịt
hay đốt ra lửa được. Vài hôm sau, cả nhà phải hè hụi đẩy chút vốn
cuối cùng xuống nước cho đỡ thối khi đò cứu lụt chưa đến kịp ...
Đội võ trang công tác Tam Sa kéo về hang ăn cơm. Chị Tám và Út liềm
trải ni-lông giữa đất, bưng dọn, phát những mảnh lá chuối dùng thay
chén. Anh em hỏi nhau, kể chuyện mới. họ đón xuồng từ thị trấn An
Tân lên, từ các xã giải phóng xuống, biết nhiều tin lắm.
- Chao suốt vùng dưới đồng bào đồn rum: Giải phóng tới đâu dân sống
tới đó, cứu bằng xuồng cao-su có máy mà.
- Đồn Dốc Leo tiêu rồi. Núi sụp, chôn cả đại đội bảo an. Chỗ cầu
Bầu-bầu mũ sắt trôi dồn đống. Thằng thiếu uý Hinh đứng trên chòi,
thì thằng Hinh bót Dương-mít-nài chớ Hinh nào, nó cầm loa điện kêu
om: “Giải phóng có xuồng đò gì cứu giùm với, tụi tôi hàng rồi, chết
hết!“. Mình mới đón hai tiểu trực thăng tới, lính không ra được nữa.
- Mười bảy lính cộng hoà lên với Tam Trân rồi, mang cả trung liên,
đói rệu nước miếng trong...
Tôi nuốt từng câu họ nói, như uống thuốc bổ. Dù sao chúng tôi cũng
cứu được ngót trăm bà con, chỉ mất bảy người trong trận mưa mảnh,
vậy là khá. Bây giờ pháo cối đã im. Máy bay vắng. Chỉ còn tụi rằn ri
trên gò đôi lúc ặc ặc một tràng, lối cười sặc trong họng khi bụng
quá no. Cứ cười đi. Tới khi tao bóp cổ sắp chết, chúng mày sẽ kêu
những tiếng ặc giống hệt!
Ban nãy, trong khi chiếc UH.1B đến câu cái xác trực thăng chết đuối
– câu mãi không lên nổi, sau nó bỏ, hai chiếc AD.6 quần ném bom các
cù lao. Chúng tôi hưởng lần nữa cái sướng được bắn trả địch, cho lửa
trong bụng phun ra thành luồng qua miệng súng.
Tôi kê cây trung liên Brao-ninh, quì trong một hố đất nẻ sâu đến
ngực. Mẫn nhảy xuống sau, lập cập tháo băng rỗng trên các-bin, lắp
băng mới, tay giật từng hồi. Chúng tôi đều thấy mẹ Mẫn chết nằm sấp
trên cái thúng, đứa nhỏ rớt đâu mất. Tôi ghé tai Mẫn nói qua tiếng
bom:
- Bình tĩng nghe Mẫn, bắn cho trúng.
Mẫn quay ngoắt lại.
Đôi mắt!
Một đôi mắt tôi chưa từng thấy, toàn tròng trắng nổi gân máu đỏ. Đốm
đen ở giữa co lại nhỏ xíu. Cặp mày rậm đâm vào nhau, nổi rất gắt
trên da xanh nhợt màu đọt chuối, môi không còn nét. Mẫn há miệng
định nói lại gì, lại ngửng nhìn chiếc AD.6 bắt đầu lao xuống, lần
này thẳng hướng chúng tôi. Tôi ngắm giữa mũi thằng giặc, lúc này
giống một quả trứng với đũa và tăm xóc vào.
Ba loạt cac-bin nổ hấp tấp trên đầu tôi. Không cần nhìn, tôi cũng
biết trượt: Mẫn đứng bắn không bệ tì, loạt đầu nổ khi máy bay còn
ngoài tầm, các loạt sau chưa kịp ngắm lại. Tôi nín thở đợi ba giây
nữa, biết chắc ăn. Cây trung liên rẹt hai hơi hết băng. Tôi buông nó
ngay, chụp đôi chân Mẫn giật mạnh. Mẫn nhào nghiêng xuống hố. Trái
rốc-két xẹt qua đầu, rít tiếng xoảng dài như đá lăn xuôi mái tôn,
quạt luồng hơi nóng hực, nổ choáng óc. Đất vách hố sập xuống lấp nửa
người Mẫn. Tôi ló cổ lên nhìn. Chiếc AD.6 lắc lư, lắc lư, nghiêng
cánh bay về Tam Kỳ. Nó bị thương nhưng không rớt, tiếc ghê.
Mẫn ngồi dựa vách hố, đập tay vào các-bin cho đất rơi, thở dốc. Mắt
Mẫn đã bớt dữ nhưng còn dại dại. Chiếc máy bay thứ hai ngoi lên rất
cao, quần, phóng rốc-két hú hoạ trước khi chuồn. Tôi bắc lại trung
liên, nghiêng báng cho cậu Kỷ thay băng, đợi dịp bắn nữa. Bỗng nhiên
tôi rất muốn Mẫn là trai, hoặc tôi biến thàn chị Bỉnh to lớn của Tam
Trân để quàng tay ôm vai Mẫn mà dỗ như đứa em mất mẹ đang đau khỗ
đến quẫn trí.
- Mẫn nè...
Tôi chưa biết an ủi sao cho phải. Mẫn không giống những cô du kích
tôi quen.
- À...bây giờ nó bắn lung tung...bà con núp chỗ chị Tám có yên không
hè? Rốc-két rung đất mạnh lắm, cái hang coi bộ dễ sụp...
Mẫn buông một tiếng “dạ” lơ lửng, lượm cái lá rụng lên, lật xem hai
mặt. Rồi như chợt hiểu, Mẫn lắp bắp: “dễ sụp thiệt anh à“, Mẫn chống
súng trèo lên miệng hố, chạy về phía “hậu cứ” của đội. Đồng bào dồn
tránh pháo trong chỗ hàm ếch ấy khá đông, chẳng biết xuồng Tam Trân
chở đi hết chưa. Tôi nhìn theo thấy hai bắp chân Mẫn đầy những vết
gai gạch, máu loang trên bàn chân không dép. Lóng ngóng vậy mà tôi
lại nhắc trúng cái điều cần nhắc nhất. Chỉ có trách nhiệm mới kéo
Mẫn ra khỏi cơn tê dại. Con trai Mẫn biến đi đằng nào?
Thằng tàu bay cút. Không đợi xuồng tôi bơi ào qua đầu dây bên kia.
Các đồng chí cứu lụt sống cả nhờ vớt được hai tấm phản đội đầu, che
thêm cho ba em nhỏ, một chị, cùng nép dưới tán cây đa. Mẹ Mẫn nằm
sấp, cạn máu. mẹ lượm được cái thúng trôi, dỡ ngói, xé khăn buộc
chắc thúng vào cây mè, đặt thằng bé Hoàn nằm gọn trong ấy. Bây giờ
mẹ vẫn ôm ghì cái thúng dưới ngực. Tôi gỡ tay mẹ, bồng lên một đứa
bé nhuộm đỏ lòm từ đầu đến chân, ngất mà không bị thương.
Đến khi cùng với Năm Ri đào huyệt trên gò, tôi mới biết Mẫn chưa có
chồng con. Một chiến sĩ Quân giải phóng ở Tiên Phước đi xa, để thai
trong bụng vợ. Chị vợ bị giặc bắt, đẻ và chết trong nhà tù thị xã,
gửi con mới lọt lòng cho mẹ. Mẹ ra tù, bồng theo đứa cháu không ruột
rà, nuôi giùm cho ba nó. Hôm nay, mẹ truyền sự sống cho cháu lần
cuối cùng, mẹ nghỉ. Tôi ngậm dầu lửa, phun mãi mới kéo được hai cánh
tay mẹ duỗi thẳng ra trước khi chôn. Chúng con lớn lên bao nhiêu
cũng vẫn nằm trong vòng tay mẹ, mẹ ơi, mẹ nghỉ được rồi...
Đội công tác vẫn nói lao xao quanh mâm cơm:
- Đó, đó, trận lụt này dân chửi nát mặt ba thằng Mỹ. Cả mấy phố ngập
lút tầng dưới, tụi Mỹ lái ca-nô chạy thẳng tới ba Thiên Hương, hốt
riêng mấy con đĩ đem về sở Mỹ, lại còn nhảy tuýt thình thình trên
ca-nô cho ấm. Mấy thằng quan ngụy tháo lon ra giơ, vẫy, nó không
thèm ghé.
- Sao nghe đồn tụi ngụy cho xuồng với trực thăng đi cứu?
- Trực thăng của Mỹ hết, bay sụp nhà rớt người chớ cứu ai. Còn tụi
sư đoàn Hai lo ăn cướp. Biết nó làm sao chưa? Chở người, không chịu
chở đồ đạc. Đem đồng bào về trại nhốt kỹ, rồi thả xuồng ghe đi từng
nhà hốt của sạch bong, đem giấu nơi khác. Có bà dại quá, hở cho nó
thấy cái xách đầy vàng, nó chở ra chỗ vắng đạp nhào xuống nước, bắn
chìm luôn, lấy được cả mấy ký vàng. Thằng nào chó vừa vừa cũng đợi
giơ lên một xấp giấy năm trăm mới chịu quay lái..
- Mẹ cố tổ cha thằng nó chớ, người mình với nhau..
- Thì cha con xã Chinh đó, người mình, dân làng Cá chánh chi cố cựu
đó..” A-lô, a-lô, nhích tới chút nữa..dạ, biết chớ, dân chỗ tôi mắc
lụt thì dồn cục vô xóm Đình chớ chạy đâu...dạ, trúng y rồi đó, xin
cho đủ năm chục trái..dạ, bắn nữa đại úy à, cộng sản đỏ lòm hết mà,
nữa, nữa...”
Một anh đếm từng tiếng lạnh ngắt:
- Cặp đó bây đừng chửi, cũng đừng bắn, rán bắt sống cho tao. Tao
viết giấy ký tên, xin hai tay bóp cổ hai đứa, hễ năm phút không chết
thì chịu chặt tay đền... Chín Cang đâu ta?
- Đi với chị Mẫn lên Tam Trân, lo chạy thuốc men cơm cháo cho bà con
bị nặng.
- Bồng thằng nhỏ theo chớ?
- Út Hoà ẵm đi trước rồi. Nó chết giấc lâu lắm, giựt mình nổi khóc
ré một lát, lại nằm lịm. Chắc sợ quá...
- Sống được là được. Thôi uống nước rồi lo bố trí chống càn. Bà Bỉnh
mập mới chở xuống thêm hai xuồng cơm gạo áo quần nữa, cuốc xẻng cũng
có. Tam Sa khởi xong rồi, phải lo dựng bia cho Tam Trân là một, bộ
đội là hai đó các cha!
Người vừa nói là anh Tư Luân, bí thư cho bộ Tam Sa. Một người gầy
nhom, mắt sâu, da đen sắt, râu nhổ trơn bóng và tóc hớt trọc, rất
khó đoán tuổi. Anh nắm bộ phận bắn tỉa gò Mù U suốt ngày nay. Chẳng
hiểu họ hàng dòng dõi ra sao mà Út Liềm gọi anh bằng ông, xưng cháu,
nghe rất lạ tai.
Tôi đón ca nước trên tay em Liềm-hết lẫy rồi-nhắc anh em tháo súng
ra lau, nhớ chùi kĩ từng viên đạn. Không biết từ lúc nào, bộ máy
trong đầu tôi đã xoay sang hướng mới. Hãy vĩnh biệt bà con đã khuất
và đi tới, mang theo mối thù thiêng liêng ngấm vào máu. Hãy lo tiếp
cho những người còn sống và sẽ sống những ngàn năm nữa trên đất này.
Đợt tấn công mới bắt đầu rồi, nó mở màn đêm bằng chén cơm cố nuốt và
bàn tay lau sạch cây súng, bằng những con toán mới đang lũ lượt kéo
đến với tôi... Phải đào ngay hầm hố để mai chống càn. Nước rút, phải
trục bọn “đầu cọp” kia đi Tam Sa mới nổi dậy được. Chưa đủ sức tiêu
diệt thì bao vây bức rút. Một trận cối 60 nện xuống thình lình, sau
đó bắn tỉa. Chỉ cần vài chục tay súng giỏi, mỗi ngày gạch tên mươi
đứa, quân nó chạy loạn ngay... Ý định mới hiện dần từng nét, từng
mảnh, như tấm giấy ảnh ngâm trong thuốc hiện. Cái nghề chụp ảnh năm
xưa, ở Đà Nẵng...
Giá còn cái máy ảnh hồi ấy - ừ nhỉ, máy Ca-nông chụp ảnh bắn pháo là
hợp- tôi sẽ ghi được bao nhiêu bộ mặt khác nhau của con quỉ Mỹ trong
ngày nắng hôm nay. Phim hạt mịn, ống kính thu lại f.8 tha hồ lấy
chiều sâu. Không, ánh sáng trời và nước đều gắt, dùng phim nhậy để
giảm độ trắng đen, tráng giê-nôn nữa, thu kỳ hết chi tiết. Tôi mỉm
cười. Chụp ảnh chưa cần bằng chụp đạn xuống đầu giặc. Tiếng Anh, bắn
và chụp đều là sút, cũng phải...
Những ý nhỏ ấy níu tay nhau đến với tôi như trẻ em đến chơi với anh
bộ đội. Bỗng dưng tôi bắt gặp một bông hoa vui đang nở ngập ngừng
trong tôi, toả hương quen xông đầu tôi dịu dần. Tôi nhận ra rồi. Nó
là niềm vui được đánh giặc. Nó hay đến bất chợt khi tôi sửa soạn ra
trận, vào lúc chân tay bận rối cả lên nhưng nó cuốn người say người
hơn mọi thứ vui khác trên đời. Nó chỉ kém cái vui thắng trận một
chút thôi, có lẽ.
Chú thích:
(1) Bí
(2) Lính thủy đánh bộ
Chương 3
Nước rút.
Những con sông không tên màu nâu, đỏ bầm, vàng đất sét lần lượt thu
hình, chảy chậm dần, tan trong biển nước gạo đang cạn, đứt thành
nhiều vũng bùn sền sệt, để lại từng bãi đá duỗi về phía Đông. Làng
Cá từ đáy nước nhô lên từng tí một, thưa đi như hàm răng rụng dở,
chết lặng. Ngôi đình còn đứng, mang trên hai mái toác lỗ chỗ vì pháo
một ngấn bọt vàng xỉn, và nhuộm bùn từ đấy trở xuống. Cây đa to đổi
màu lạ, trên xanh dưới nâu. Trên lớp cành rậm của nó đeo vô số bàn
ghế, bè, chõng, nia, rế, cả xác người xác thú nằm chìm trong tán lá,
bị nước tấp lại che kín. Mãi về sau khá lâu vẫn thỉnh thoảng có một
thứ nào đó đột ngột rơi xuống, trở về với đất. Hiện ra cuối cùng là
những khoảnh đồng cao ruộng thấp, bờ biến hết, bồi một lớp sỏi cát
từ núi lở xuống đáy hàng thước mộc(1) . Bên dưới lần vỏ ấy có một
mùa lúa gieo bị vùi không sót một hạt, có những trái mìn địch gài sẽ
nổ dưới lưỡi cuốc, có nhiều xác đàn bà trẻ em tìm mãi không thấy,
một lúc nào đó sẽ hiện ra, lặng lẽ nhắc lại cho loài người hiểu thế
nào là tội ác diệt chủng.
Dân làng Cá lần lượt trở về làng. Không thể bỏ quê bỏ đất. Họ cào
bùn bằng hai tay, tìm gấp lưỡi cuốc hay con gao, moi lại cái hầm
chống pháo trước hết rồi mới kiếm các thứ khác.
Bộ đội và bà con vùng giải phóng vẫn bớt ăn mặc đem xuống giúp mọi
thứ. Theo mực nước vợi dần, các nhóm xuồng chèo, xuồng chống, rồi
xuồng đẩy lướt bùn, tiếp người cõng hàng lội qua vũng qua cồn, cuối
cùng tới những đoàn dân công gánh trĩu vai, cứ tuôn tuôn về vùng bị
nạn. Quân địch cũng mon men kéo đến, bị du kích đẩy lùi. Sự sống mọc
mầm trở lại từng bước chập chững trên bãi bùn trải từ tỉnh này qua
tỉnh khác, bị phi pháo giặc cắn xé từng hồi, trong khi cơn bão số 16
đang quay thông thốc ngoài khơi, đi dần vào bờ biển miền Trung chưa
ráo lụt. Nó không dữ dội bằng cơn bão trong lòng người dân làng Cá,
người dân bị nhốt trong những ấp chiến lược như làng Cá. Thù giặc
hết chỗ nói. Thù đến tắc họng, cháy mắt, chỉ hả được khi nhào vào
chúng nó mà chém, cào, đâm, nện, cắn, bóp cổ. Cả những ai trước đây
run vì sợ giặc, nay chỉ run vì phải cố nén căm giận, đợi ngày N.
Tam Sa sắp nổi dậy.
Tôi về C.215 bàn đánh phối hợp.
Chẳng hiểu vì sao tôi còn đứng nổi. Lắm lúc tôi xây xẩm sắp ngã, dạ
dày lộn trái lên họng, các đốt xương mỏi rã như mọt đục thủng chi
chít. Tôi cố gượng, gượng được, lại nhấc súng lên “bia” một phát vào
cái mũ bê-rê đỏ bầm màu máu đông trên gò Mù U, hay bổ tiếp những
nhát cuốc moi hầm cho bà con. Dầm nước suốt từ đầu mùa lụt, đại đội
có nửa số quân đang lên cơn sốt rét, vừa run vừa cười: “Kệ cha nó,
sốt rét coi như khỏe, thương hàn trở lên mới là bệnh”. Nghỉ lúc này
là nằm trên đống gai. Nghe lệnh ra trận, anh em tung chăn chồm dậy
hết, nói mình đã qua cơn, đánh một lát tháo mồ hôi sẽ lành. Và họ
lành thật.
Cô Hai Mẫn cùng lên Tam Trân với tôi.
Mẫn đi sau lưng tôi như cái bóng. Không nói một tiếng. Khi dừng trên
gò tránh chiếc tàu rà, Mẫn ngồi bó gối nhìn mãi vào khoảng trống,
đôi mắt đàn ông cứ lặng đờ dưới khăn trắng. Cha Mẫn bị tù Côn Đảo đã
tám năm không một tin nhắn về. Đến nay, nỗi đau mất mẹ và cái khổ
chung của làng xóm ập đến, có lẽ quá sức chịu đựng của cô gái mới
chẵn hai mươi. Trong công tác Mẫn cứ tỉnh và sắc, nhưng tôi gờm cái
dáng cứng lạnh kéo dài ấy. Chị Tám Giàu dỗ mãi, Mẫn nói ráo hoảnh:
“Khóc làm gì? Tụi nó sợ đạn, có sợ nước mắt đâu!”
Hết quãng đồi hoang, tôi xắn quần lội suối. Hôm bơi qua chỗ này, Năm
Ri gọi nó là sông Rù Rì, ranh giới giữa Tam Sa và Tam Trân. Lúc ấy
nó rộng hơn trăm thước, gầm gào tuôn dòng thác màu gạch non qua cánh
đồng lớn phủ nước mưa trắng đục. Bây giờ nó trở lại là con suối
hiền, rất trong, chẳng họ hàng gì với lớp bùn khô đóng dày trên cây
lá viền rậm hai bên bờ.
Không có tiếng chân lội theo. Tôi ngoái lại. Mẫn đứng dựa thân cây,
ép bàn tay trên ngực, thở nặng nhọc. Mấy hôm nay Mẫn hay tức ngực
như thế. Tôi vội đến đỡ súng và bao lưng cho Mẫn, bảo ngồi nghỉ. Mẫn
hít một hơi dài, nói khẽ:
- Chỗ này… pháo giập luôn.
Mẫn đi ven suối ngược lên một quãng, đến bên con mương lấy nước bị
lấp một nửa. Cái đập đầu mương trôi mất, chỉ còn mấy khối đá chồng
nhau nằm giữa dòng. Chúng tôi bẻ lá lót ngồi bên mương cho dễ nhảy
xuống tránh pháo. Tôi vét cái túi ni-lông, bứt lá cánh bướm quấn một
điếu thuốc rê, lim dim thả khói. Mẫn ngồi dựa gốc cây, nhắm mắt.
Khi gặp các cô Tam Kỳ, anh Ba Tơ ưa đóng vai ông chú, trêu rất ác:
“Lính tao thà cắt tóc đi tu còn hơn lấy con gái Tam Kỳ. Tiền đâu mua
thuốc cho tụi bây hút? Mười đứa, đếm đi đếm lại thấy đeo bọc thuốc
bên hông đủ một tá. Tam Kỳ nằm giữa Hà Nội với Sài Gòn, là chỗ rốn
đường sắt, đẻ ra con gái đứa nào cũng giống y cái đầu máy xe lửa:
đen thui, đi ục ịch ục ịch, miệng phun khói phèo phèo, ai động đến
thì ré nhức tai như còi!”. Bị các cô xúm lại đấm bịch bịch, anh còn
kêu: “Xe lửa qua cầu đó, nghe chưa?”
Tôi cười một mình. Cô gái Tam Kỳ trước mặt tôi không có chút gì là
“xe lửa”.
Mẫn có khuôn mặt trái xoan trắng xanh, thân hình dẻo và thon, hơi
mảnh khảnh. Ai chỉ quen nhìn các cô nông dân mình tròn má phính, ắt
dễ lầm Mẫn là “nông dân cày đường nhựa”, tuy từ nhỏ tới nay Mẫn mới
ra thị xã có vài lần, chưa tới Đà Nẵng bao giờ. Nói theo kiểu má tôi
bàn với các bà chọn dâu, cô này “ốm như cây sậy, gió thổi bay, nước
da như đờn bà đẻ dậy, thứ đó rước về mà thờ chớ làm ăn gì!”. Trước
khi tôi về Tam Sa, chị Bỉnh đã cho biết Mẫn là chi ủy viên chính
thức phụ trách quân sự, kiêm bí thư xã đoàn thanh niên. “Coi bộ yểu
điệu như tiểu thơ mà đánh giặc lì lợm nhứt đó”. Dọc đường Năm Ri gọi
Mẫn là chị Hai và khen Mẫn “ăn no vác nặng”. Về cây các-bin liên
thanh của hiếm, chị Tám Giàu kể rằng Mẫn đã mượn áo dài quần trắng
đi dò mãi trên đường Một, ném lựu đạn hạ được hai tên công an quận,
tước một súng ngắn một các-bin. Thì ra cái mẽ ngoài lắm lúc thật
trái ngược.
Tôi ngồi im, đợi Mẫn đỡ mệt. Mấy ngày nay tôi chỉ chợp mắt mỗi đêm
được ba bốn tiếng, còn Mẫn hình như không hề ngủ, trăm việc đều đến
tay, chôn mẹ xong lại tất tưởi chạy chân không bén đất. Về họp với
C.215, tôi sẽ thu xếp cho Mẫn nghỉ một chút, khuây khoả một chút.
Những quầng sáng lạ chợt hiện trên mặt cô gái, chạy rập rờn. Hàng mi
và một mảng tóc của Mẫn nổi màu vàng kim nhũ từng lúc, tuy Mẫn ngòi
dưới bóng cây rậm. Tôi đưa mắt tìm quanh, nhận ra con suối đang đón
ánh nắng vừa vén mây, mặt nước đầy những tia rắc ngang như kim, ở
giữa chân một mảng thủy ngân loá mắt. Tôi ngắm Mẫn ngồi im giữa
những sóng nắng toả từ suối rung rinh rờn trên lá trên người, mỉm
cười một mình: đẹp đấy, nếu Mẫn là người yêu của tôi thì đây là cảnh
rất nên thơ. Tiếc rằng tôi không yêu Mẫn, chỉ thương và trọng thôi.
Tôi đi xuống suối rửa mặt, chợt thấy những chấm trắng nhấp nhô gần
bờ,chỗ nước chảy mé bên dưới. À, bông bạc. Gặp lại bạn cũ rồi.
Cây bông bạc nằm chìm dưới nước, rễ xoà bám đá, duỗi những lá mỏng
và dài quẫy mãi theo dòng như một chùm dải lụa xanh. Chỉ có bông hoa
nhô khỏi mặt nước. Trên đầu cái cuống xanh mềm, hai ngón tay tháp
bút xòe ra trắng muốt, nhè nhẹ vẫy mãi, nhắc mãi một lời hứa nào đó,
rất xưa trong tiếng suối thầm thì.
Tôi luồn tay nâng mấy bông hoa gần bờ. Con sông ở quê má tôi cũng
nhiều hoa này. Lâu lâu, dọc đường dài từ trận này đến trận khác, thứ
hoa kỷ niệm của tuổi nhỏ lại đón tôi ở một nơi có nước trong và bóng
mát, vẫy tôi, kín đáo và dễ thương như đôi ngón tay của ai đó đặt
gánh gạo bên đường, vừa gặp “anh ấy” trong hàng bộ đội kéo qua… Có
tiếng chân nhẹ của Mẫn xuống theo. Tôi ngắt một bông, quay lại đưa
cho Mẫn. Mẫn chớp mắt, khẽ nói:
- Đừng hái, anh.
- Mẫn không thích à?
- Thích chớ. Mà để vậy coi xinh hơn.
Ừ nhỉ. Bông bạc đứt cuống nằm trên lòng bàn tay tôi cứ thẳng đờ như
hai con tằm chết cứng. Nó là thứ hoa không ngắt cắm bình được. Nó
chỉ đẹp khi đang sống, đang uốn quẫy giữa dòng suối biết đi biết
nói. Tôi mến nó đã lâu, sao không nhớ cái nét riêng ấy nhỉ… Tôi thả
bông hoa vừa ngắt xuống suối, nhìn nó trôi nhún nhảy như đùa với
nước lần cuối trước khi héo rã, tan vào nước, chợt thấy ân hận. Cái
chết mới tràn qua đất này xong, sao tôi lại đi cắt ngang sự sống, dù
chỉ là cuộc sống của ngọn cỏ?
Một loạt pháo từ An Tân bắn lên, nổ gần chỗ lội ban nãy. Đợi mươi
phút nữa, chúng tôi đi tiếp về Tam Trân sau khi pháo địch chuyển
làn.
*
Cái kế hoạch bao vây bức rút của tôi bị loại ngay vòng đầu.
Đại đội trưởng Ba Tơ gặp Mẫn, hỏi chuyện làng chuyện nhà, nhăn trán
nghĩ mãi rồi lắc đầu: hồi anh ở Tam Kỳ, Mẫn mới theo đội công tác và
chỉ được giao nấu cơm vá áo. Anh lại đi cánh Bắc nhiều hơn, ít quen
Tam Sa. Nghe kể việc cứu lụt, anh ừ ừ trong mũi, cầm nhíp nhổ mãi
một cái cằm đã trụi râu. Rồi anh "hự" một tiếng, gắt tôi trước mặt
Mẫn, rất ngang:
- Cái tụi ăn gan uống máu đó mà để cho thoát? Bức rút... hừ, bức
rút... Mày hay trách tao nóng mũi, lần này tao nóng hết đầu mình
chân tay rồi đó. Đừng nói anh em mình đòi đánh, dân đòi đánh, ngay
mấy chục thằng quân địch mới chạy về ta cũng năn nỉ làm sao diệt tụi
đầu cọp kia nè! Xưa nay tụi nó hiếp người cướp của chẳng có chừa vợ
lính nhà lính đâu! Lại còn bốn thằng Mỹ, cha con thằng gì mà ác ôn
đó nữa, cho rút hết à?
Hai gò má sần sùi của anh đỏ rựng.
Chính trị viên Cẩn vừa ghi vừa xoa bụng bằng tay trái- vẫn cái dạ
dày. Trung đoàn đang giục đưa tin thêm về tội ác Mỹ - nguỵ. Anh gập
sổ, buông gọn:
- Hễ trên không cho thêm quân, xê mình dám lãnh một diệt một không?
Tôi tưởng Ba Tơ sắp nói ngay: "Dám!". Nhưng ngay giữa những cơn nóng
ồn ào, anh vẫn tính rất kỹ sức ta sức địch, vẫn "khôn róc mấu" khi
xương máu anh em cần được cân nhắc. Anh dịu giọng:
- Tao nói phải diệt, còn ai diệt, diệt cách sao thì đợi bàn cho thấu
lý đã chớ.
Chúng tôi đi gặp luôn ban chỉ huy tiểu đoàn đóng cách vài cây số.
Tôi nhường Mẫn báo cáo, để dành tiếng nói của mình cho phần cuối:
xin đánh. Tiểu đoàn trưởng hỏi rất kỹ, chống cằm ngồi nghĩ, điếu
thuốc rơi xuống quần cháy một lỗ tròn không hay. Chính trị viên ra
vườn xì mũi, trở vào với cặp mắt đỏ, nói khẽ:
- Đồng chí Mẫn ăn cơm rồi ngủ một giấc, chiều nay họp tiếp. Cậu
Thiêm nhớ uống thuốc phòng nghen.
Thì ra ở đời vẫn còn những việc mất thì giờ như vậy: ăn, ngủ, uống
thuốc. Chúng tôi đang chăm chăm đợi một tiếng "đánh" thôi mà. Mẫn
đưa mắt hỏi tôi:, vẻ tuyệt vọng rõ đến nỗi anh tiểu đoàn trưởng phải
lèo thêm:
- Tư Thiêm vẽ giùm cho cái sơ đồ làng Cá với gò Mù U, được chớ?
Xế chiều, Đảng ủy tiểu đoàn họp mở rộng, và tiểu đoàn trưởng mới nói
hết ý mình:
- Chẳng những vây diệt đại biệt động của thằng Quỳnh, còn phải khoá
họng pháo An Tân, đánh sứt mẻ các cứ điểm đã gây nhiều tội ác trong
khu vực Nam Tam Kỳ. Huyện hứa cho bộ đội phối hợp. Đặc công của tỉnh
đang sửa soạn làm ăn. Huyện ủy vừa cho biết kế hoạch đồng khởi của
vùng dưới, tám đến mười xã, anh Bảy còn muốn làm mạnh hơn...
Mẫn quay nhìn tôi, mỉm cười, mắt vui lóng lánh. Tôi nở mày nở mặt.
Chúng tôi nằn nèo xin một cắc, đang sợ bị từ chối, bỗng được tới một
đồng, nhiều đồng, hoá ra giàu sụ.
- Riêng cái gò Mù U, đề nghị giao cho xê Ba Tơ chủ công. Cho thêm
một xê nữa mở hai mũi phụ vá đường, chặn hết các ngả. Phải băm nát,
hốt gọn, diệt cho sạch, xoá phiên hiệu cái đơn vị ác ôn đó, nhất là
số Mỹ và cha con thằng Chinh càng không được để sẩy. Các đồng chí
thấy sao?
Ngón đòn trả thù lớn hơn mơ ước của chúng tôi nhiều quá. Nó còn lớn
lên nữa sau khi Đảng ủy tiểu đoàn đi họp với tỉnh ủy, huyện ủy, có
anh phó chính ủy trung đoàn vừa đi vừa chạy từ Quảng Ngãi ra kịp dự.
Mẫn cùng đắp bàn cát với tôi ở nhà chị Bỉnh, cười luôn miệng, đôi
lúc lại thừ người ra hỏi khẽ: "Cắn cưa rồi chớ, anh Thiêm?". Mẫn cứ
sợ mừng hụt. Đối với Mẫn, trận này không chỉ là trừng phạt giặc và
giải phóng xã mình, nó còn lấy lại cho Mẫn tiếng cười và tâm hồn
thanh thản. Thiếu nó, máu trong người Mẫn cứ mãi là dầu sôi. Hạnh
phúc đến trước một ít rồi, toả ngời ngời trên khuôn mặt gầy đang
hồng lại như ngấm trầu thuốc.
Nhưng kế hoạch không cắn cưa bấy nhiêu. Liên tiếp có tin mới: trung
đoàn điện cho hai xê trợ chiến mới xây dựng được đi thực tập luôn
trong dịp này, nện cối 81 và ĐK vào các đồn gần Tam Sa; tỉnh đội
Quảng Nam báo tin sẽ đánh vào thị xã Tam Kỳ; một cậu đại đội trưởng
đặc công của khu mà tôi quen chợt đến, kéo Mẫn ra góc vườn hỏi về
con đường xuống cửa biển An Hoà.... Vẫn chưa hết. Cái máy thu thanh
đặt bên chỗ chúng tôi làm việc từng giờ nhắc rằng trả thù cho làng
Cá còn có đồng bào Sài Gòn, Đà Nẵng đang đánh lại cảnh sát dã chiến
trên đường phố để đòi cứu vùng bị nạn, còn miền Bắc đang dồn gạo,
vải, thuốc men gửi vào, còn những người ngay thật trên cả trái đất
đang quyên góp và xuống đường. Giặc vừa úp những cái nơm thép xuống
làng, thì đây, một tấm lưới trời đang dang rộng ra mãi, dày thêm
mãi, sắp chụp xuống rồi.
Bàn cát đã xong. Gọi là bàn đất sét đúng hơn. Tôi cắm lá cờ giấy
trên gò Mù U - cờ vẽ một cái đầu cọp nhe răng, miệng tô đỏ lòm bằng
thuốc đỏ-vừa nghe chị Bỉnh hỏi mấy giờ. Tôi liếc xuống cổ tay, phải
nghĩ một chút mới biết là bốn giờ sáng chứ không phải bốn giờ chiều.
Một tiếng rưỡi nữa cán bộ các xê đánh gò Mù U sẽ lên bàn cát. Chưa
bào giờ tôi thấy Mẫn tươi khoẻ như lúc này, sau một đêm thức trắng.
*
Chiều hôm ấy, khi Mẫn và tôi sắp trở về Tam Sa để sửa soạn đón quân,
một cậu du kích đến tìm tôi, đưa một lá thư có phong bì giấy trắng
hẳn hoi. Anh Liệp, đội trưởng đội võ trang công tác Tam Sa, trân
trọng mời tôi đến "dự bữa cơm thân mật với đội, nhằm cảm tạ sự đoàn
kết giữa Quân đội giải phóng và địa phương". Tôi đưa thư cho Mẫn,
cười:
- Cô này ghê thiệt, ngồi một bên mà nhứt định gởi giấy cho oai. Tụi
tôi đi hết chớ?
Mẫn không giấu được bối rối khi đọc thư. Tôi bắt đầu thấy lạ. Đội
Tam Sa mời liên hoan, Mẫn không biết. Mà lại mời riêng tôi, tại Tam
Trân. Người cầm giấy đúng là du kích Tam Sa thật, nói ăn cơm ở quán
thím Liệp. Mẫn bảo tôi nên đi, cách nửa cây số thôi. Mẫn còn mấy
việc linh tinh, không dự, sẽ đợi tôi đúng tám giờ tối tại nhà chị
Bỉnh để cùng về xã. Cuối cùng là mấy tiếng hấp tấp và cặp mắt nhìn
lảng: "Chỗ quán xá có hơi phức tạp, anh giữ ý một chút...". Thế
nghĩa là gì?
Tôi theo cậu du kích ra đường ô tô lúc lên đèn.
Rải rác trong vùng giải phóng có những phố chợ nho nhỏ với mươi quán
bán tạp hoá, mắm muối, bia cam, bánh xèo và mì Quảng, cùng với các
tiệm may, cắt tóc, sửa xe đạp chia chỗ nhau dọc một khúc đường. Nơi
họp chợ là một khu vườn mít hay cau gần đấy, có hầm hào tránh tàu
bay đại bác càng hay, phiên chợ chỉ kéo dài vài tiếng. Phố chợ
Ngọc-lợi này khá nhộn nhịp, lắm hàng. Hàng thành phố có xe khách chở
lên hằng ngày, hàng vùng giải phóng được xe thồ và thuyền đưa xuống.
Chợ nhỏ buôn lớn, cần mua máy thu thanh Nhật hay đồng hồ Thụy-sĩ đều
có sẵn, phải cái giá khá đắt sau nhiều lớp ăn lời. Mậu dịch công
doanh cũng vừa đặt một cửa hàng ở đây. Ta chưa chặt cầu phá đường,
chỉ soát xe, thu thuế, chỉ đạo giá cả, bắt gián điệp. Địch chưa ném
bom đốt dãy quán vì sợ thị xã bị giam đói. Bọn lính địch mỗi khi càn
lên đây thường hỏi mua giây dù, vải dù hoa, bi-đông Mỹ, giá rẻ hơn
chợ buôn lậu Tam Kỳ.
Quán thím Liệp là một nhà tranh khá rộng nằm bên đường cái, ghép
thêm một nhà nữa theo thế chữ đinh ở phía sau. Thím Liệp đón tôi
niềm nở, nhắc các con "chào chú" - ba đứa bé rất xinh, lễ phép, mặc
vải hoa cùng màu. Thím còn trẻ lắm. Cũng may câu chào đầu tiên của
tôi rất là chung chung nên tôi kịp gọi tiếp bằng chị, tưởng đắc sách
rồi, ai dè lát sau lại biết con gái đầu của chị đã lấy chồng, chị
sắp có cháu ngoại. Chao ôi, cách xưng hô tiếng Việt sao mà rắc rối!
Cơm đã dọn sẵn ở nhà trong. Ba người ngồi uống trà đợi khách, đứng
dậy bắt tay tôi hồ hởi. Cả ba đều lạ mặt, sao vậy? Những đồng chí
cứu lụt tôi quen đi đâu hết? Tôi không thể nghĩ đây là một pha xi-nê
trinh thám, bởi du kích Tam Trân đeo súng ra vào nườm nượp ngoài
kia, cười ầm, chị Liệp chia cho mỗi người một nắm thuốc rê và gắt:
"Nhỏ nhỏ cái miệng chớ, chú Tám đang có khác!"
Một anh tóc lốm đốm bạc, người cao lớn, mặc bộ ka-ki Mỹ may kiểu bộ
đội còn mới, trịnh trọng giới thiệu hai đồng chí Ba Thấn và Sáu Quỳ
trong đội Tam Sa, rồi chỉ vào mình: "Tôi là Tám Liệp, đội trưởng".
Anh rót rượu a-nít và bia 33, mời tôi nâng cốc với dáng điệu của một
sư trưởng đón khách nước ngoài. Tôi đã ăn no và không biết uống
rượu, chỉ cầm đũa cho phải phép, nhấp bia và ngắm họ, nghe họ.
Anh Liệp luôn luôn đường hoàng đĩnh đạc, men lên đỏ mặt vẫn không
ngớt gọi tôi là "đồng chí đại đội phó". Tôi nhớ ngay anh Tư Luân bí
thư Tam Sa, đội phó, gầy chỉ còn toàn xương, lảo đảo ngồi xuống bên
tôi, vừa nắn chỗ đầu gối sưng đỏ vừa hỏi: "Còn điếu nào không,
Thiêm?". Anh Quì trạc tuổi tôi, chỉ ăn không nói. Anh Thấn có vẻ cởi
mở nhất, hết lời khen bộ đội "thương đám dân lành", tôi nghe rất
chối tai tuy biết một số đồng chí ta còn nhiễm lối ăn nói vùng địch.
Có một cái gì lắt léo đằng sau bữa tiệc gà quay cá hấp rất sang này.
Phải chăng các vị cần tôi có mặt để tiện chi mấy trăm bạc quỹ công
vào bữa chén? Nếu vậy lý do đã đủ, tôi sẽ rút lui sớm để các vị ăn
nhậu với nhau, tôi phải lo đánh giặc để giải phóng quê các vị đây.
Bà con dưới kia đang xẻ tư mỗi nắm cơm cứu đói dưới hầm, pháo giặc
tưới đất bột trên miếng sắn ghế...
Tôi cố giữ bình tĩnh một lát nữa rồi xin kiếu trước. Tôi bị níu lại.
Thì ra họ còn muốn căn dặn mấy lời. Anh Liệp nhắc rằng tư tưởng
trong đội đang phức tạp, tôi nghe điều gì trái tai thì chớ tin ngay,
nên hỏi lại đội trưởng. Ba Thấn đỡ lời, nói cô Mẫn đánh giặc thiệt
tới gan nhưng "sanh hoạt có phần bừa bãi". Anh cười tủm, nháy nháy
để tôi hiểu "sanh hoạt" nghĩa là gì. Chị Liệp đi qua cũng ghé vào,
tố con Hai Mực là đứa ăn cháo đá bát, theo đuôi ông Luân mà coi trời
bằng vung, lau mũi chưa sạch mà đòi hỉnh mũi. Anh Liệp ra vẻ khoan
dung: "Thôi, chấp chi con nít mới lớn". Mất một lát tôi mới hiểu
"Mực" là tên "móc nối" của Mẫn. Sáu Quì bận gặm cái đùi gà, chỉ lắc
đầu thở dài, chẳng biết rầu về ông Luân, cô Mẫn hay cái đùi gà dai.
Nửa giờ sau tôi mới đi thoát, mồ hôi vã ướt lưng.
Bộ đội tới đâu phải tìm gặp cán bộ địa phương trước hết, tôi đã làm
việc với mấy chục uỷ ban xã và đội công tác, chưa bao giờ thấy khó
chịu như hôm nay. Tôi có nghe loáng thoáng về anh Tám Liệp, còn làm
đội trưởng nhưng vừa rớt chức bí thư trong đại hội chi bộ hồi đầu
năm vì quá nhát gan. Dù chẳng biết mô tê nào, tôi vẫn không muốn tin
lời họ. Đây đó tôi cũng gặp trong hàng ngũ ta một số người lưỡi dài
hơn tay, nhờ khéo trốn việc nên rảnh thân rỗi mồm, hễ tụ lại đủ cặp
là bắt đầu nói xấu sau lưng một người thứ ba, và cái tật ngồi lê đôi
mách ấy có khi được đặt tên chữ là "hội ý hội báo", là "nhận định
tình hình nội bộ". Cuộc bôi nhọ vừa rồi còn nặng hơn thế. Cái bộ ba
kia - bộ tứ thì đúng hơn, vì chị Liệp chủ quán hiểu hết người và
việc trong đội, chi bộ - vừa cơm gà cá gỏi vừa đánh vào lưng những
đồng chí đang vào sống ra chết. Nhưng họ ranh quá hoá dại. Họ tưởng
tôi cũng tham vặt như họ và ngốc hơn họ. Những người tồi thường hay
lấy mình làm thước đo để đánh giá kẻ khác. Trong khi nịnh anh A, đả
chị B, trung lập bác C, doạ ngầm chú D, họ không biết rằng họ đang
hứng lấy sự khinh ghét của những đồng chí đáng gọi là đồng chí...
Tôi không muốn nhúng vào việc nội bộ của đội Tam Sa, nhưng trách
nhiệm buộc tôi phải nói hết với huyện ủy khi có dịp. Ý định ấy giúp
tôi nhẹ người dần trên đường về.
Chưa đến bảy giờ rưỡi tôi đã bước vào nhà chị Bỉnh. Mẫn không đi đâu
cả, ngồi ru con chị Bỉnh đợi tôi. Thoáng một ánh gì như lo sợ trong
đôi mắt đen ngửng lên, có thể là xót xa. Tôi chỉ nói sơ rằng chỉ đến
cho biết người biết nhà anh Liệp thôi, giục Mẫn đi xuống Tam Sa.
Địch chừng đã đánh hơi có chủ lực về, cho tàu rà và C.47 quần mãi
trên cánh đồng lớn của Sáu Trân, ném đèn dù dày như nấm mọc sau mưa.
Ruộng sau lụt không còn bờ bụi gì nữa, chúng tôi phải quàng dù hoa
kín người, ngồi thụp khi máy bay vòng lại, có khi phải đóng vai hòn
đá suốt hai mươi phút. Tới một lúc đèn tắt hết, chỉ còn chùm đốm
xanh đỏ của chiếc C.47 vẽ mãi số 8 trên cao, Mẫn phóng lên rất
nhanh. Tôi không ngờ cô gái mới ôm ngực thở dốc hôm kia có thể đi
vèo vèo như vậy, như xem đường bằng bốn mắt cá chân. Nhanh quá mất.
Đi đêm đã nhiều mà tôi theo Mẫn không kịp. Pin không bấm được, trời
đen, một cơn mưa nhỏ lại nhuộm sẫm các lối lòn vừa khô xong, khi mới
tối còn trắng mờ. Cái khăn tang trên tóc Mẫn bị tấm dù trùm kín. Tôi
chỉ còn biết căng mắt nhìn hai bắp chân trắng thấp thoáng đằng
trước, một thứ lộ tiêu trời cho, và sấp ngửa đuổi theo. Được một lát
thì cặp lộ tiêu ấy biến mất, sau khi Mẫn lội qua một vũng bùn đặc.
Tôi bước xuống ruộng một lần, hai lần, buộc lòng phải bảo Mẫn chậm
lại. Mẫn nói như xin lỗi:
- Ở đội công tác phải mò đêm quanh năm, tôi quen mắt quen chân...
Chân tôi không kém ai, nhưng mắt thì chịu thua cô này hẳn rồi. Đến
sông Rù Rì chúng tôi dừng lại nghỉ. Tôi rất mừng khi Mẫn rửa chân
thật sạch và vo quần cao đến vế, rồi bỗng bật cười thành tiếng, thầm
giễu mình con nít. Mẫn cười theo:
- Thích quá anh hè. Tôi cứ sợ chiêm bao, thức dậy không còn chi hết,
chao!
Lần đầu tôi nghe Mẫn cười. Một tiếng cười dè dặt như chưa dám vui
quá sớm.
Chú thích
(1) Thước cũ, độ 4 dm
Chương 4
Tôi nhè nhẹ co hai bàn tay lên xoa mặt và cổ, phủi mấy con kiến đen
chân ngắn mình đẫy. Giống này cũng lạ, đốt không đau nhưng nếu tôi
giết một con thì cả bầy từ đâu ùa tới bò kín người, sẽ trị tôi bằng
cái ngứa ngáy.
Bọn lính gác đứng nép im xo dưới bóng cây. Tôi rình khá lâu không
thấy chúng hút thuốc, đập muỗi, bấm pin xem giờ. Chỉ một trung đội
mà chúng gác tới bốn vọng ở bốn góc vườn, thêm nửa giờ một cặp đi
tuần không rọi đèn. Lính rằn ri con cưng của Mỹ có khác. Tôi thu thú
khi nghĩ đến cái phút thằng chỉ huy hứng đạn vào ngực, giãy lên tức
tối: "Gác vậy mà Việt cộng cứ đánh được!". Tiếc rằng trận này chỉ là
tí hon.
Trước mặt tôi, khối đen của ngôi đình làng Cá hằn trên nền trời rậm
sao. Thằng Chinh con với ba chục tên biệt động ngủ trong ấy. Hồi
chiều chúng tôi đụng cái trắc trở mới này: "thêm một đại lính đầu
cọp nữa kéo tới gò Mù U, sau đó hai trung tách ra đóng trong hai ấp
chiến lược Nhơn Ái và Nhơn Phước, giữ sườn cho cụm quân trên gò. Cái
nhóm mười bốn anh em cứu lụt chúng tôi lại được giao đánh vào làng
Cá, tất nhiên. Còn những hai mươi phút nữa mới đến giờ G, tôi cứ cho
tất cả bò vào nằm dọc hàng rào, theo dõi địch luôn thể. Lính cũ đã
qua nhiều trận, anh em đủ sức bám lâu bên hông giặc mà không mất
bình tĩnh.
Hồi mới thử lửa, cái khoảng thời gian nằm đợi nổ súng là một cực
hình đối với tôi. Mệt và căng lắm. Tôi dán mắt vào lớp kẽm gai hình
cũi heo ở ngoài cùng, cố nhớ lại cái đồn đã xem trên bàn cát với các
lô-cốt mẹ, con, hầm chìm hào lộ, rào và mương đầy những chông mìn.
Tôi nhẩm mãi những lời dặn từ các anh từ tiểu đoàn đến tiểu đội,
những mánh lới nhỏ của các đồng chí cũ mách cho, thấp thỏm lo không
thuộc. Người tôi hết nóng lại lạnh, một sợi gân nào đó giật từng hồi
dọc xương sống, bụng thót lại rất mót đái, kiến bò mãi trong các bắp
thịt chân tay, tệ nhất là cái họng cứ trở chứng đòi ho rất dữ. Y hệt
một cậu học trò sắp vào buồng thi, cuống quýt lo trượt, cố học "gạo"
thêm đến mụ cả óc. Nếu ai nghi tôi sợ chết thì oan lắm. Tôi rất ham
giết giặc nhưng còn thiếu bình tĩnh, vậy thôi.
Qua vài trận, tôi mới lập được cái ung dung đầy tự chủ của người
lính cũ. Những ý nghĩ rối tinh biến dần. Cái lối ngọ nguậy lăng xăng
và cứng như gỗ của người mới tập đi xe đạp nhường chỗ cho những động
tác gọn, dẻo, nhanh, mạnh nhưng không phí sức. Nhích lên một ít nữa,
tôi được anh em khen: "Thằng Thiêm đánh nghề đấy". Một tiếng tôi
chưa gặp trên báo trên đài, có lẽ vì ngại lẫn với lính nhà nghề của
địch, nhưng hay nghe trên cửa miệng bộ đội. Thành ra người thợ hay
người dân cày cần phải thạo nghề, còn anh chiến sĩ thì phải "tinh
thông chiến thuật kỹ thuật", nghe khá dài... Kể từ lúc tôi tàm tạm
thạo nghề trở đi, thời gian nằm im sát địch không còn hành hạ tôi
nữa mà biến thành những phút nghỉ dễ chịu, để cho sợi gân thớ thịt
giãn ra, mọi thứ lo toan khi chuẩn bị và đi đường lùi về phía sau,
những cảm xúc dồn dập kịp lắng xuống và kết tinh. Dứt quãng nghỉ bắt
buộc ấy, tôi nhào lên đánh rất khỏe.
Năm ngoái ở xê mình xảy ra chuyện buồn cười. Một anh nhà báo đến gặp
Mười Cảnh, chiến sĩ thi đua trung đoàn, hỏi và ghi suốt hai ngày.
Chúng tôi khoái lắm, lo cháo sớm chè khuya để anh lấy sức làm việc.
Hơn tháng sau chúng tôi nhận được số báo có một bài dài về cậu Cảnh.
Đại đội họp lại nghe đọc chung, trịnh trọng như làm lễ mừng công.
Bài báo viết đủ các mặt nổi nhất của Cảnh. Khen hơi quá một chút,
nhưng không sao, sức cậu Cảnh có thể bù vào chỗ chưa kịp làm mà đã
được nêu. Ác một nỗi anh em càng nghe càng xì xào, cười, đến cuối cứ
ngớ ra quên vỗ tay. Lặng đi một lát rồi quân ta mới góp ý, ban đầu
còn ngập ngừng lựa lời, sau mới túi bụi. Mười Cảnh được tả đang đánh
giặc say sưa với đôi mắt nảy lửa, máu sôi trong đầu, miệng thét
những câu khích lệ đồng đội. Anh em bàn rằng chớ nên toé lửa con
mắt, khó bắn trúng địch mà lại dễ đạp mìn ba râu của nó. Rằng bốc
máu lên đầu không có lợi, phải tỉnh để đoán mẹo thằng địch và nghĩ
cách giết nó. Rằng khi đâm lê cần thét dữ, lúc khác phải để dành tai
nghe lệnh chỉ huy và nghe cả giặc nữa. Đến cái đoạn gay cấn nhất, tả
cậu bạn bị thương: Cảnh chạy đến, thổn thức lay gọi người đồng chí
thân yêu, rồi ghé vai cõng bạn quay về phía sau băng bó. Anh em kêu
ầm: ra trận mà khóc lóc, bỏ chiến đấu, mượn cớ bạn bị thương để rút
dù! Chính cậu bạn được cứu phải phân trần giùm. Thì ra Cảnh chạy lại
rút băng quấn cầm máu rất nhanh, miệng gọi cáng thương, rồi xốc tiểu
liên chồm tới đánh tiếp, diệt xong hai chiếc M.113 mới quay lại. Cậu
kia nhường cáng cho đồng chí khác, chống súng đi tập tễnh, Cảnh cõng
bạn và đeo hai súng hai bao suốt đường rút quân.
Mười Cảnh vốn là tay làm nhiều ít nói, cứ nhìn cắm xuống đất như tìm
hầm ngầm mà trốn. May phước không ai hiểu lầm cậu ta, một con người
chánh hiệu vàng ròng. Năm Cẩn gãi đầu khi nghe đọc chỗ Mười Cảnh gặp
trọng liên địch bắn rát quá, đã nhớ lại một câu động viên của bí thư
chi bộ, nhờ đó thêm quyết tâm giết giặc. Anh rỉ tai tôi: "Công tác
chính trị vậy là chưa ngấm". Cuối buổi, Ba Tơ nghĩ ra một lời giải
thích rất hay:
- Thì phải viết vậy mới ra văn chương chớ, cứ tả cái kiểu tụi mình
đánh tỉnh khô như phát rẫy, hấp dẫn sao được.
Anh em đều thấy đại đội trưởng nói có lý, thôi cho qua.
Quả thật những ngày đêm trước khi ra trận là căng hết mức. Mỗi chúng
tôi đều phải làm nhiều, nghĩ nhiều, cảm nhiều. Thằng giặc chẳng phải
hùm beo, ma quỉ gì, nhưng không thể coi nó là cục thịt thừa nằm ỳ
chịu đấm. Phải lường cho hết các ngón tam khoanh tứ đốm, tìm cách
phá hết các bửu bối của nó. Chúng tôi còn thành kính lật lại cuốn sổ
căm thù của đời mình. Các khoản nợ máu còn dễ đếm, nợ bóc lột tính
mãi cũng ra, còn những mối nhục khía vào tim như cật nứa thì chúng
tôi nói ít mà cảm nhiều - một cái tát có khi để giấu trong tim sâu
hơn trái bom tấn. Chúng tôi sửa soạn một cuộc thanh toán, và biết
rằng nỗi đau ngàn đời của con người không được sống ra người còn đòi
rất nhiều cuộc thanh toán nữa. Chen vào mọi chỗ hở của hăm bốn giờ
là trăm thứ việc không tên, từ viên đạn long đầu phải thay đến cái
bao gạo chuột khoét chưa vá.
Đến cái phút sắp giao chiến.
Lúc ấy tất cả đã ngấm, đã tiêu hoá hết, biến thành sức mạnh mới
trong mỗi tế bào của người lính rồi. Anh chiến sĩ hẹn với mình:
"Phải xoá sổ cái đơn vị ác ôn này", và ngạc nhiên nếu có ai nhắc đấy
là câu nói của chính trị viên. Giết giặc đã là đòi hỏi riêng tư của
anh, cái đòi hỏi gấp rút nhất, cứng và nhọn như mũi lê phóng về phía
trước. Anh biết rõ những gì sắp làm để giết được giặc. Anh nhẹ nhõm
đến mức kỳ lạ. Phải có kỷ luật chiến trường mới kìm anh được, không
cho tếu. Kẻ thù không hiểu nổi anh đã đành, cả một số bạn bè đứng
bên lề nhìn vào cũng khó đoán vì sao anh thanh thản đến vậy trước
cái chết. Họ tưởng anh phải say máu như gà chọi mới đánh được, trong
khi anh cứ bông lơn pha trò dưới bom rải thảm, xung phong hét dữ
nhưng vẫn nhớ băng đạn còn bao nhiêu lượt bóp cò, và kìm được đà tay
đâm khi thằng địch thả súng...
Trung đội rằn ri trong đình cho lính ra thay gác, vẫn không đèn lửa.
Ranh lắm. Tôi xem đồng hồ: còn tám phút. Tôi bóp tay chú Dé, rỉ nhỏ:
- Mệt không?
- Không. Bằng nhau mới ngủ dậy.
Dé cười. Hàm răng loé trắng và biến.
Bên phải tôi, cô Hai Mẫn nằm sấp, chống một tay lên cằm, từng lúc
nhìn tôi bằng cặp mắt lóng lánh đọng sao. Mẫn nắm một tiểu đội du
kích đánh chung với bộ đội, nhưng chia nhiều nhóm chặn các ngả,
phòng thằng Chinh sẩy chạy lẫn trong dân.
Sau khởi nghĩa Mẫn sẽ làm xã đội trưởng. Anh Bảy quai nón nói vậy và
cười: "Đàn ông xưng anh với vợ miết rồi cứ bắt đàn bà làm phó!". Tôi
không kể với Mẫn câu chuyện trong quán chị Liệp, chỉ hỏi về bộ ba đã
gặp, về anh đội trưởng mới thấy đảo về xã có một buổi lại trở lên
Tam Trân. Mẫn nói lảng, giữ miệng như có thư ký ghi biên bản bên
cạnh. Rõ ràng Mẫn xem tôi là người ngõ ngoài đến giúp, chỉ cho biết
những sụ bụp xẹt đùng choàng, không thích tôi xen vào việc riêng của
Tam Sa. Cũng được thôi. Tuy trong khi phối hợp tôi vẫn có quyền chất
vấn về anh đội trưởng, và Mẫn phải trả lời, nhưng tôi không muốn vặn
lý Mẫn làm gì.
Cây kim phút nhích dần đên cái đốm xanh của số 6. Tôi bấm vào tay
Mẫn ba lần, báo hiệu tiến tới sát địch, nhân đấy nắm cổ tay Mẫn thêm
mươi giây, ấn đầu ngón tay chỗ mạch máu. Mẫn không run, tim đập vừa
phải: vững đấy. Mẫn và chú Dé bấm nối dây chuyền ra mé sau. Chúng
tôi trườn rất chậm đến cách chân tường năm bước, lại dừng đợi. Một
bắp thịt trên gò má tôi rút mạnh, đau. Tôi đặt bàn tay trái lên, day
day mấy cái, nó nằm im. Đằng sau đã lên đủ, báo cáo bằng hai lần bấm
vào chân tôi. Êm cả. Chắc ăn rồi.
Phía gò Mù U bỗng loé chớp trắng. Không đợi tiếng nổ đến tai, tôi
vọt lên, giật nụ xoè, tống trái thủ pháo một cân qua cửa đình, lùi
lại nép bên tường, đơm cây súng ngắn P38. Nổ này, nổ đi, phải nổ
chứ... Chú Dé thả hai lựu đạn Mỹ qua cửa sổ. Mẫn kịp xả một loạt,
hất nhào một cái bóng vừa nhảy ra hiên, chắc là thằng đốc gác. Sân
đình bật sáng chói mắt, đất xóc dưới chân tôi. Ngon rồi. Chung quanh
vườn, nhiều bụi cây phun lửa đỏ. Một bóng lính gác chạy mấy bước,
ngã. Tôi hét xung phong. Trong đình có tiếng gào, rên, ằng ặc, chen
tiếng ngói rơi vỡ. Hai tổ đánh lê lao qua cửa. Tôi vòng đón mé sau
đình.Các cậu đánh rất cừ, không mở miệng, chỉ hự trong mũi khi xóc
lê. Một thân thể to nặng húc vào tôi, hai đốm mắt trắng dã, miệng ú
ớ. Tôi gạt chân hắn ngã sấp, vuốt nhanh cánh tay trái hắn một lượt
cho chắc. Không có khăn trắng, tôi gí súng vào cái đầu cố ngóc, bóp
cò hai lượt. Thằng thứ hai trèo qua cửa sổ, gục luôn, chắc đã bị
đâm. Một thằng nữa nhảy ra, quạt một tràng tom-xơn hú hoạ, chạy. Tôi
kịp vẩy theo ba phát vào lưng, nó lăn ra giãy. Chú Dé giữ cửa sổ đầu
kia quật ngang súng vào một cặp chân vừa chạm đất, chắc lưỡi lê gãy,
lê trường Mát tồi lắm. Tôi vòng ra sân. Mấy đống thịt nằm lù lù trên
mặt bùn khô trắng mờ. Anh em trong đình đã hét gọi hàng.
Mẫn kêu lanh lảnh ngoài ngõ:
- Bà con thắp đuốc bắt lính sẩy! Trói tù binh, cô bác ơi! Mẫn đây,
Hai Mẫn đây, nổi lửa mau lên.
Nhiều giọng phụ nữ kêu tiếp, lan ra khắp xóm. Phía gò Mù U đã hết
tiếng nổ lớn, chỉ còn súng nhỏ từng lúc rộ lên, lặng đi, lại rộ. Mẫn
khôn lắm, xưng tên ngay cho bà con khỏi ngợ, giữa đêm nghe súng rầm
rầm thì khó biết cái gì xảy ra. Một bùng lửa bốc lên ngoài rào, nở
lem lém: mấy bó rạ đang cháy to dần. Một ông già giơ cao tấm tranh
cháy phừng phừng, cầm dao phay chạy tới. Mấy đốm sáng nữa. Nhiều
ngọn đuốc bốc khắp xóm. Bà con giật tung những mái tranh rạ mới che
tạm sau lụt, xóc lên đầu một cây nạng hay khúc ngọn tre, đốt sáng
rực đi soi các bụi bờ.
Anh em đã ập vào đình, rọi pin, thắp cái đèn bão vỡ bóng, bắt đầu
trói mấy tên sống sót, máu phòi qua lỗ mũi nổi bong bóng. Tôi cho
một tổ sục quanh vườn, tóm thêm được hai thằng gác chui trong hàng
rào nằm im, không dám chạy qua vòng vây lửa của đồng bào ngoài kia.
Tất cả chỉ có hai mươi lăm đứa cả chết lẫn sống. Mẫn vào nhận mặt,
kêu thiếu thằng Chinh mặt ngựa, con thịt đáng tiền nhất của cuộc
săn. Hồi chiều du kích bí mật đếm được ba mươi bảy tên tất cả.
Tôi rọi loáng qua xem cấp hiệu, chĩa đèn pin vào mặt một tên hạ sĩ
lùn tè, gằn giọng:
- Ai chỉ huy trung đội, nói!
- Dạ, dạ... thượng sĩ Uẩn... dạ, em mới thấy nằm kia.
- Còn một tiểu nữa đi đâu?
- Dạ, ông cảnh sát dẫn đi ngủ nhà ổng, nghe nói vậy...
Tôi để một tổ trói tù, kéo anh em chạy ào qua nhà ngói xã Chinh,
chia ba hướng ập vào. Chúng nó trốn sạch... Không phải, chúng chưa
hề ngủ tại đây. Chỉ có những dấu chân lẻ tẻ đạp trên lớp bùn non đã
bong từng mảng cong cong như nồi đất vỡ. Ngoài sân cũng vắng dấu.
Mẫn đoán chúng ngủ trong vườn mít để chạy về phía đường Một cho
nhanh. Chúng tôi xé rào luồn qua vườn: địch ngủ đấy và đã chuồn.
Chúng đào mỗi đứa một hố bắn, trải pông-sô nằm sát bên, còn khuân gỗ
làm công sự trung liên hẳn hoi. Dấu giày răng chó in dày trên lối
mòn ra đồng. Tôi níu tay Mẫn đang kẹp các-bin đuổi theo hấp tấp, rọi
đèn pin bọc vải xanh sát đất, dò theo một quãng, tìm ra trái mìn
nhảy chỉ nhô ba cái mấu đen nhỏ xíu. Một trái nữa lấp vội hơn. Một
trái nữa vùi trong lá khô qua loa... Địch đã chạy xa, để lại những
vết giày sải dài, mũi bấm sâu, những dấu ướt sau chỗ lội đều sắp
khô.
Quay lại vườn mít, tôi dặn anh em trở về đình thu dọn chỗ đánh, và
giữ Mẫn ở lại đây một lát. Có lẽ Mẫn chờ tôi trách, vì Mẫn nắm du
kích bí mật theo dõi địch mà không biết có một cụm ra nằm tận đây.
- Thiệt đó anh, chị em núp ngó chừng miết, thấy gì đâu... mười một
rưỡi báo tin chót... còn đủ hết... vậy mà hụt thằng Chinh....
Tôi không muốn trách Mẫn chút nào. Chẳng mấy khi trận đánh diễn ra
thật đúng như ta muốn. Thắng lợi có khi tăng gấp đôi, có khi sụt còn
một nửa, nhưng vẫn thắng là được. Tôi nghe Mẫn nói ấp úng, ngượng và
buồn, bỗng thấy một niềm thương lớn lắm cứ dâng mãi, dâng mãi, khiến
tôi nghẹn lời. Tôi thương Mẫn, thương các đồng chí và bà con làng
Cá, thương mảnh đất đẫm bùn và máu đang đỡ chân tôi. Tôi đằng hắng
hai lần mới nói được:
- Không... tôi tính để đồng chí coi kỹ lại cách bố trí của địch. Đây
là kiểu con nhím, độc lắm.
Bộ đội đánh vài ngày nữa sẽ đi. Cô xã đội măng tơ với đội du kích
còn vụng dại của mình sẽ phải vật lộn dài ngày với bọn thù ác và quỉ
quyệt thế này đây. Ngủ trong ấp chiến lược, chưa hề đoán được quân
ta sắp đánh, vậy mà chúng gác rất kỹ, đang đêm nín hơi đổi chỗ,
trước khi ngả lưng còn đào công sự, rút chạy vẫn nhớ đặt mìn...
thằng Chinh con mặt ngựa này không dễ diệt đâu. Tôi soi đèn cho Mẫn
xem từng chỗ một, nói thật cặn kẽ, rất muốn đưa tay vuốt tóc đứa em
gái vừa môi côi mẹ và dặn thầm thì: "Em nhớ kỹ nghe em, anh sắp đi
rồi...". Út Hiền em gái tôi lớn hơn Mẫn đến ba tuổi.
- Đồng chí chú ý hướng đặt trung liên, đây, ta chạy thẳng vô bị bắn
xâu táo ngay, thấy chưa?
Đến một lúc nào đó, chúng tôi đứng lặng nhìn nhau trong tối. Hình
như Mẫn thở dài. Mẫn nói trước:
- Ta ra chỗ mit-tinh, anh hè.
Đi được mươi bước, Mẫn chợt nói nghèn nghẹn:
- Các anh tốt quá. Phải chi các anh ở được ít lâu nữa... em... em có
mấy chuyện... thôi để sau...
Bấy nhiêu thôi. Mẫn rẽ vội qua một ngõ khác khi chúng tôi sắp ra
đường làng, nơi bà con làng Cá đang cầm đèn gió kéo tới sân đình
từng nhóm đông. Tôi chép miệng, bước thẳng. Tôi chỉ muốn là bạn thân
của Mẫn, cũng thân như anh Ba Tơ, chú Dé và nhiều người khác, bởi
tình bạn chiếm một chỗ lớn lắm trong tôi. Rất tiếc, Mẫn từ chối. Tôi
thoáng thấy một mối dây nào đó nối liền những lời cay nghiệt trong
quán chị Liệp với cái dáng cố làm ra gò bó lạnh lùng của Mẫn...
Thôi, phớt, đánh nhau với giặc đủ mệt, hơi đâu để ý tới những chuyện
rắc rối tơ tằm cho nó vướng!
Lát sau, tôi đã quên hết.
Sân đình đông nghịt. Mấy đồng chí trong đội công tác đang bơm đèn
măng-sông, sửa lại cái biểu ngữ. Bà con vẫn đến kìn kìn. Mấy chị cầm
dao chuối, mài chưa hết gỉ nhưng rất bén, giải tới một thằng lính
rằn ri chạy lạc, quấn bó giò trên thân nó không biết bao nhiêu thứ
dây to nhỏ, cả lạt tre và dây bẹ chuối. Số "thanh niên chiến đấu"
mang nộp hơn chục súng săn, một đống lựu đạn. Thằng ấp trưởng rúc
vào đống rạ đã bị moi ra trói ké, ngồi co ro ở góc sân, rác phủ đầy
tóc. Đàn ông chen chúc trong đình xem chỗ đánh, cười rộ từng hồi.
Các mẹ gớm máu chỉ đứng ngoài, túm áo bộ đội mà kể thút thít. Đây
không phải là đêm đồng khởi của ba bốn năm trước - hăng, ồn ào, bỡ
ngỡ, thừa nhiều mà thiếu cũng lắm - nhưng cái không khí ngây ngất
vẫn là một. Tôi cười to, nói vội giữa đám đông. Tôi cố trả lời không
bỏ sót hàng chục câu hỏi bay vào tới tấp. Tôi lật mũ đưa cho em nhỏ
cứ đòi đội thử, an ủi một chị rằng bộ đội ta đông quá nên tôi không
quen anh Hồng Sơn hồi ở nhà tên là Vện, rút trả xếp giấy bạc mà một
bà mẹ nhét bừa vào túi, quay mặt ra ánh đèn để ông cụ xem mặt vì
giọng nói giống y thằng Ba của cụ.
Bộ đội lẳng lặng rút khi mít-tinh bắt đầu. Hai giờ sáng rồi, phải
dồn quân lại sửa soạn chống càn ngay. Mẫn và đội du kích đang rối
rít chia súng đạn trong nhà xã Chinh, ghép số anh chị em mới vào các
tiểu đội, các tổ, vài tiếng nữa là đánh.
Ra khỏi xóm, tôi quay lại và thấy một cảnh lạ: giữa những bóng cây
xơ xác in trên trời sao, đột ngột nổi lên một cái gì rất to, sáng
rực, cành quẫy nhẹ làm rung lao xao cái tán lá tuyền một màu xanh
non mát rượi. Tôi sửng sốt một loáng, rồi nhận ra cây đa già bên mái
đình, thân chằng chịt những vết rạch, còn nhiều mảnh pháo cắm sâu
vào gỗ, lay không ra. Thật nó đấy không? Hình như loạt nổ vừa rồi đã
đánh thức nó dậy, và nó lập tức chuyển mình, trút vỏ, thay lá, đi
ngay vào cuộc sống mới. Mùa xuân vọt lên giữa đêm. Đi khá xa, tôi
còn thấy cây đa kỳ diệu ấy hiện trẻ măng trong quầng lửa của cuộc
nổi dậy. Tôi chưa gặp một cây nào đẹp như thế.
*
Tiểu đoàn đi tiếp về phía Nam.
Con đường giao liên quen đã đổi khác nhiều. Chúng tôi tự dọn cây đổ,
phát rừng vòng tránh chỗ khó, bắc cầu, và đặt một loạt tên mới: dốc
Cát-chài, đèo Đá-nẻ, cầu Mương-xói. Còn phải tránh những cái tên
trùng lặp nhiều, như Núi-lở chẳng hạn: mỗi ngày chúng tôi đi qua cả
chục hòn núi sụt, phơi ruột đỏ như trái dưa hấu bị con heo cạp ăn
mất một góc hay một nửa. Có lắm tên lạ tai. Một cây chò rất cao bên
đường tự dưng thụt hẳn vào lòng đất như đũa cắm nồi cháo, chỉ ló lên
vài thước ngọn: quả đồi được gọi là gò Cây-lút. Hòn núi Tròn-quít
rất dễ nhận từ xa, đỉnh nó vốn nhọn nay lõm sâu xuống như miệng núi
lửa. Giao liên dẫn khách đi vài chuyến, các tên mới sẽ được truyền
miệng, được nhớ, dần dà bước vào bản đồ và sử sách, nếu mình không
có những lần đảo lộn lớn hơn trên đất mình.
Chúng tôi dừng ăn trưa trên dãy núi ngang chạy xuống gần biển, giữa
Quảng Nam và Quảng Ngãi. Đã quen nếp, hễ nghỉ trên núi là anh em tìm
chỗ quang nhất ngồi ngắm đồng bằng hiện trước mặt như bàn cát, với
đất mở rộng và biển nhích lại gần. Chúng tôi xem cảnh, háo hức khi
sắp tiến vào vùng chưa quen, nhưng thường là se se thương một mảnh
quê mới đã ngấm ít nhiều mồ hôi và máu của mình. Dù chỉ có mồ hôi đi
đường hay mấy giọt máu vãi của đỉa hút thừa, đó vẫn là những thứ của
thân người gửi vào lòng đất, nối liền người với đất.
Trông từ xa, những vết tàn phá của trận lụt mờ nét đi, bớt dữ, dồn ở
phía vùng địch tạm chiếm. Sáu thôn của Tam Sa nổi khá rõ, tên cũng
dễ thương và dễ nhớ. Bốn thôn mé trên đường Một là vùng đất thịt hay
Tứ Nhơn: Nhơn Ái, Nhơn Phước, Nhơn Lộc, Nhơn Thọ. Hai thôn dưới là
vùng cát tức Nhị lộc, gồm Lộc Chánh và Lộc Thứ. To nhất là Nhơn Ái
tức Một Sa, mang cái tên làng Cá rất xưa mà khéo vẽ: một hòn đảo
xanh hình con cá thon dài quẫy trên biển lúa. Các cụ nói nó là con
cá kình, tôi muốn nó là con cá ngạnh. Con suối ở quê mẹ tôi nhiều cá
ngạnh, nó nhỏ và hiền, chẳng hại ai, nhưng dám chém những giống to
chực nuốt. Ừ nhỉ, trông làng Cá y hệt nước bạn Cu-ba thu nhỏ lại. Đã
có anh cán bộ nào đặt tên mật cho nó là Cu-ba chưa?
Làng Cá sống.
Đi mãi tận đây nhìn lại, tôi vẫn thấy làng Cá đang sống tràn trề.
Nhiều sợi khói bốc lên song song dưới nắng trưa đứng gió, khói mảnh
và đặc hơn xưa vì không còn ngấm qua những mái tranh dày. Ruộng
quanh làng bắt đầu nhám mặt dưới lưỡi cuốc dọn sỏi cát, còn quãng gò
lở phơi đất sù sì kia đã có chân người giẫm thành một đường mòn nhẵn
mặt, vết nhám trên ruộng và vết phẳng trên đồi đều báo tin người
đang giành lại đất.
Anh Ba Tơ cầm nắm cơm sắn - một cơm ba sắn, chúng tôi đã trút gạo ra
cứu đói - đến bên tôi, nhấc cái ba-lô Mỹ của tôi đặt sang bên cạnh,
chép miệng một cái, ngồi xuống. Tôi biết anh sắp cự nự một lần nữa
vì cái tội đem nửa cái võng ka-ki, hai cặp bà-ba và tấm choàng đi
mưa cho bà con bị nạn. Nuốt vội miếng cơm, tôi phủ đầu ngay:
- Giống đất Lào không, anh Ba?
- À...
Cặp lông mày cau cau giãn ra, mắt anh dịu lại. Anh lắc đầu.
- Khó tính dữ hè. Coi bộ ông đi hết đất nước mình, chẳng nơi nào ông
thấy vừa mắt cho bằng quê vợ.
- Tầm bậy cái thằng...
- Cảnh Chăm-pa-sắc đẹp vậy mà, chắc cô Nguyệt Nga phải xinh lắm, như
trăng rằm. Hèn gì...
Chú Dé nhô đầu tới, tròn mắt:
- Chị Nga ở núi nào, anh? Dân tộc nào?
Thấy câu chuyện bắt đầu lan ra xung quanh, anh đại đội trưởng hừ hừ
trong mũi, nhỏm dậy, chuồn mất. Coi bộ gồ ghề và hay cộc vậy đó, mà
anh có một mối tình rất chi là lãng mạn: hồi còn ở bộ đội tình
nguyện đánh Tây tít bên kia sông Mê-công, anh yêu lắm lắm một cô gái
Lào, cô ấy cũng yêu lại. Cứ vậy trong bốn năm cho đến khi anh tập
kết về nước, cô Chăn-tha đi bộ ra Sầm-nứa... Mãi tới năm ngoái, một
anh bạn cũ ghé vào đơn vị tìm thăm Ba Tơ mới kể toang toang câu
chuyện giấu kỹ ấy ra, trầm trồ khen Chăn-tha xinh, ngoan, giỏi và
tiếc mãi cho Ba Tơ. Chăn-tha có nghĩa là mặt trăng, như ta gọi cô
Nguyệt ấy, tôi cao hứng đặt tên là Nguyệt Nga, và Ba Tơ tất nhiên
hoá ra Lục Vân Tơ. Từ đó anh em xê mình thương anh hơn một chút nữa,
cũng nắm được chỗ yếu của anh: hễ nhắc đến cô Chăn-tha thì Ba Tơ
đang cáu đâm hiền, thật tội. Bên trong con người những lửa là lửa ấy
có một góc kín của hồn dành cho ánh trăng mát rượi của người yêu đi
xa, dù anh đã có vợ con, và nghe đâu Chăn-tha cũng tay bồng tay dắt.
Đám con trai còn "mồ côi vợ" như tôi chỉ ưa quấy, đem chuyện tình
cảm ra bông phèn rất dai, nên Ba Tơ cứ phải ấp úng một câu nói lảng
và chuồn cho gọn.
Bây giờ, máy bay đã vo ve lọt vào tầm nhìn. Con mắt tôi quen gạt tàu
bay ra khỏi cảnh trời đất, nhưng lúc này tôi xem rất kỹ một tốp bốn
chiếc máy bay phản lực đang vừa quần vừa nhích lại gần, bắt chước
kiểu đi của các cơn bão. Thứ phản lực này toàn Mỹ lái, lâu nay chỉ
bay cao và thẳng qua vùng ta, biến mất. Chúng ùa ra cắn trộm miền
Bắc một keo cách đây ba tháng, rớt cả mớ, và tôi đã đưa hai khẩu cối
60 của xê mình đi nện một cú trị tội vào sân bay Hiệp Đức, lúc ấy
đang ở gần. Chúng định làm gì mà hôm nay kéo nhau đi rà dai dẳng
trên đất Tam Kỳ?
Chúng đã vòng đến gần núi. Bốn con cá đuối bơi kiểu lạ, đuôi trước
đầu sau. Chú Dé kêu nhỏ: "Ô, tàu bay ngược!". Đúng, chúng có cái gì
đó lố bịch, ngớ ngẩn, ngược đời. Chúng giống một chùm máy bay nặn
bằng đất sét rất vụng, nung sém đen; một em bé khờ buộc dây vào đuôi
chúng mà kéo lê sồn sột trên nền xi-măng nhám, làm ồn đến phát ngấy.
Chúng xấu và thâm hiểm. Chúng đang tính giở trò ma quỉ nào đó trong
cái điệu bay lừ đừ, xì khói đen dài, không chồm chúi, như chỉ biết
làm một việc là dùng đuôi khói vẽ bừa trên trời, những chữ O chữ S
hay số 8 ghép theo kiểu phù thủy. Dải đất phủ bùn chưa kịp khô trước
mặt tôi còn phải chống với những gì mới nữa?
Cái ý chống chọi cứ dẫn tôi nghĩ đến cô Hai Mẫn. Có lẽ vì lần đầu
tôi gặp một cô gái xanh và gầy phải đánh vật với nhiều khó khăn đến
thế đổ xô tới cùng một lúc. Tôi chấm nắm cơm vào muối mè, cắn một
miếng nữa, ngửng lên, chợt thấy đồng bằng Quảng Nam đã đổi hình.
Biển sáng xanh như con mắt lung linh, vùng đất phẳng hình trăng mồng
mười là mí mắt... à, rất giống, những rặng phi lao ven bãi cát kia
là hàng mi nhé, vành núi cong cong phủ cây rậm chạy vòng từ Hoà vang
đến Tam Kỳ là nét gồ của một chân mày rất đen. rất dày. Mắt của Mẫn,
hệt rồi... Tôi cười, tự giễu mình bông lông.
Mẫn không thuộc kiểu người tôi thích. Dọc đường đánh giặc qua năm
sáu tỉnh, tôi quen hàng trăm cô du kích trẻ tươi - nhiều cô thật
xinh, xinh càng hay chứ sao - vui phơi phới; đánh giặc gan liền
tướng quân chẳng kém ai, chỉ khóc khi băng cho các anh thương binh,
vá áo cho bộ đội trắng đêm mà đòi trả công một bài hát mới. Mẫn khác
họ nhiều quá. Hôm chia tay, Mẫn đến chào xê mình, vẫn trịnh trọng
"cảm ơn các đồng chí hết lòng giúp đỡ chúng tôi". Tôi đoán Mẫn đóng
vai bà chị Hai với các em mãi thành tật, lúc nào cũng quen giọng đàn
chị tuy mới chẵn hai mươi. Cũng có một lúc cặp mắt đậm như tô mực
nhìn tôi khá lâu, muốn kể một chuyện gì đấy khó nói bằng lời, nhưng
đành quay đi.
Tôi hỏi Năm Cẩn:
- Hồi ở Quảng Nam, anh quen nhà Hai Mẫn không?
- Mình đi phía Tiên Phước, Thăng Bình, nhiều hơn. Chà, cái tỉnh gần
hai triệu dân chớ ít đâu. Ông biết Tam Kỳ bao nhiêu không? Một trăm
năm chục ngàn, bằng một tỉnh nhỏ nhỏ rồi, mình quen sao cho khắp.
Tôi biết. Đi tỉnh nào tôi cũng gặp những người nói mô tê răng rứa
chừ giống quãng Trung-bộ từ Huế trở ra, bằng những thanh đã ngả sang
giọng miền Nam mộc mạc. Cũng lạ, chỉ bước qua dãy núi này, đến đất
Bình Sơn đã nghe bà con nói đâu kia sao vậy giờ, tiếng Việt bước
thêm một bậc thang nữa trên đường vào Nam...
Mỗi lần rời một vùng vừa ở, tôi lại tự hứa rất thành thật rằng thế
nào cũng tìm cách quay lại thăm; tôi ghi một lô tên bạn mới, hòm
thư, và tin chắc mình sẽ viết về ít nhất mấy câu thăm hỏi; tôi mang
theo một tấm khăn hay vật gì đó làm kỷ niệm để buộc mình không được
quên. Bây giờ cũng vậy. Trong sổ tay của tôi có một bông bạc ép khô
và địa chỉ của anh Luân, cô Mẫn, nhiều đồng chí nữa, có những con số
tội ác và mấy câu nhắc mình trả thù. Nhưng tôi đoán trước rằng cuốn
sổ tay cùng với bông bạc và các dòng chữ sẽ trôi theo suối lũ hay bị
na-pan đốt; nếu có dịp qua Tam Kỳ tôi sẽ hối hả đi nhanh cho kịp
ngày hẹn gọi đằng trước - bao giờ cũng có một công tác gì đó cần gấp
hơn những thương nhớ riêng - và tôi sẽ gác cả thư lẫn thăm lại, đợi
một dịp rảnh còn lâu mới tới.
- Chuẩn bị!
Tôi xốc ba-lô. Biết làm sao được, chưa phải lúc trà dư tửu hậu để ôn
chuyện đã qua, khi mỗi giờ đánh Mỹ còn chứa đầy những điều không ngờ
buộc tôi phải động óc động tay không ngớt. Rừng sắp buông rèm che
đất Quảng Nam. Những ngày cứu lụt lùi ra sau lưng, về nơi tôi chỉ
còn quay nhìn bằng trí nhớ, bởi cặp mắt lắp đằng trước luôn luôn bận
đón vô vàn cái mới đang chờ trên đường chiến dịch.
Chương 5
Con chim vàng anh bay trước mặt tôi từng quãng ngắn. Đường bay của
nó mắc quai nón đều đặn vào các cành cây dọc lối mòn, như một dãy
lụa vàng dệt sọc đen dẫn tôi trở về Quảng Nam. Con chim đẹp không
gợi cho tôi một kỷ niệm nào rõ nét. Tôi gắn bó hơn với con "khó khăn
khắc phục" của vùng núi, mượn tiếng rìu chặt cây làm tiếng gõ phách
để hát suốt mùa rẫy, từ lúa trỉa đến lúa suốt(1).
Chưa vào hè mà tôi nhớ con tu hú ở quê mẹ. Một lằn đen đáp vào chòm
lá, một trái bông gòn khô vỏ ngọ nguậy sau cành, một tràng từ tu hú
ngả sang tu hấu cho đến những tiếng hấu cuối cùng kêu lấy được. Một
mớ câu hỏi của thằng Thiêm mới từ thành phố về, lớ ngớ như mèo con
tới nhà lạ:
- Chị Ba ơi chị Ba, sao nó hấu hấu?
- Tại nó ăn dưa hấu nhiều. Đó, đó, nó xin nữa.
- Sao họ nói con này kêu có cá chuồn, chị Ba?
- Nó ăn dưa, nhả ra cá chuồn. Cá trong họng nó rớt xuống như tao
phun hột chà là vậy nè. Đó, đó, thấy không, kiếm cái rổ đi hứng...
Ngang đoạn này, tiếng má tôi từ dưới bếp dội lên:
- Ba, mày khôn bao lăm mà xui em ăn cứt gà sáp, hả?
Chị tôi le lưỡi, chạy biến ra vườn coi trâu. Tôi lại tập đánh vần,
mải căng mắt tìm cá chuồn rớt từ miệng chim nên cứ gào cờ i ki, là
ki, may má tôi mù chữ không bẻ được. Chị Ba bây giờ có còn nhắc câu
đùa cũ với bầy con trứng gà trứng vịt của chị?
Tôi đang đi ngược lại con đường rừng cũ, hướng Bắc. Một mình, một
ba-lô, một súng ngắn, sau lưng một cậu giao liên rất chịu khó nhưng
hiểu câu kín miệng giúp nước theo nghĩa đen. Chân tôi bước gấp mà
hơi nặng, tuy không có chút bùn dẻo nào bết vào dép. Đường mùa xuân
còn một ít vắt. Cái cảm giác lạnh và lầy nhầy từ bàn chân vẳng lên
đã quen chạy thẳng sang tay, tôi cúi gỡ vắt mà dòng nhớ cứ quay đều
trong đầu như xe nước trên sông. Tôi nhớ xê mình vừa thôi, vai xê
phó vốn hay đi chuẩn bị chiến trường và chạy ngoài, riết rồi cũng
không lạ nữa với cái chống chếnh của người lính tách khỏi khối đông
anh em. Nhưng cái đất Bình Định của tôi, bao giờ mới được gặp lại?
Tôi nhớ quê lắm!
Đại đội 215 đuổi theo trung đoàn qua hết Quảng Ngãi, thẳng một hơi
vào xứ dừa Tam Quan, đánh luôn hai trận, một bảnh và một rất bảnh,
kiếm được bảy huân chương cả chung lẫn riêng. Chọi sức với giặc là
chuyện vất vả lắm chứ, nhưng tôi cứ thấy chiến dịch trong rừng dừa
này diễn ra như hội mùa xuân, vui sao vui lạ. Nếu tôi bốc vì được về
tỉnh nhà, thì sao anh em khác tỉnh trong xê mình đều hớn hở như tôi?
Tóc dừa kết thành biển xanh mênh mông. Quân ta là đoàn tàu ngầm dưới
đáy sâu, cứ thả xăng đi giữa ban ngày, chơi ú tim với máy bay. Thỉnh
thoảng mấy trăm cái vòi lửa đỏ cùng phụt lên, chụp đầu vài thằng có
cánh dìm biến dưới sóng lá, và địch lụi hụi đổ quân lặn mò, hốt về
một bộ xương sắt đã lóc hết thịt. Xe bọc thép kéo vào húc dừa không
trốc, xê mình xơi ngon sáu chiếc, sau đó bà con bắt uống dừa rụng
đến bỏ cơm. Bom pháo nhiều, nhưng các thân dừa chặn mảnh tốt hơn cả
bê-tông, cái anh đất pha cát trong vườn dừa lại ngọt lừ dưới bàn tay
ấn xẻng đào hầm, không làm bẩn áo quần sau mỗi lần chúng tôi xuống
núp. Sau trận, các má hay kéo chúng tôi vào ngủ nhà - những căn nhà
đắp mái đất sét trước khi lợp, khó cháy, hè mát và đông ấm - nhưng
anh em khoái nghỉ ngoài vườn hơn, buộc võng giữa các gốc dừa, ngồi
đung đưa mà uống nhấm nháp những trái dừa nạo. Rất nhiều cậu quả
quyết mình lên cân vì dừa, có thể lắm. Dừa lửa bốc mùi men êm của
rượu tà-vạc ngam(2). Dừa xiêm ngọt như đường cát, mát như đường
phèn. Dừa ta thơm dịu, béo, vừa uống vừa nghĩ mới nhận ra cái hương
riêng kín đáo. Nằm trong vườn dừa không yên đâu nhé. Anh em phớt tàu
bay đại bác, không phớt được các cô dân công Bình Định gánh gạo trẩy
qua, gọi nhau bằng cái giọng như trẻ em chả chớt: "Đầu gấu đụng cái
đầu cấu sưng bằng trái ấu". Anh em nằn nì các cô trổ cho xem tài múa
roi đi quyền mà cả nước đều biết. Chưa hết. Còn các "binh đoàn khởi
nghĩa" rất độc đáo của Bình Định 65; từng vạn từng vạn đồng bào kéo
qua các xã như sóng thần, kéo bật lên những cuộc nổi dậy, mỗi ngày
đêm biến cả chục ấp chiến lược thành làng chiến đấu của ta. Còn
những cây số người xanh đỏ kính coong từ phố phường tuôn về vùng
giải phóng trong dịp Tết... Tôi chẳng dám khoe quê hương, nhưng ai
cấm tôi tươi mặt khi nghe xê mình ca ngợi đất và người Bình Định,
khen nức khen nở khen thở chẳng được?
Tới ngày 7-2-1965, lịch sử lật trang. Bom Mỹ trút xuống miền Bắc một
lần nữa. Các căn cứ giặc nối nhau nổ dây chuyền như chuỗi mìn điện
dưới tay ta bấm, cái tin dữ kia truyền miệng dọc đường ra trận cũng
nổ dây chuyền trong mỗi chúng tôi. Chiều hôm ấy chúng tôi thắng lớn
trên Đèo Nhông. Hai xúc động lớn trong cùng một ngày: những phút máu
uất kéo lên cổ gợi nhớ làng Cá chết lụt, những phút say người nhất
trong đời đánh Mỹ. Chỉ qua sáu tiếng đồng hồ, ân oán đã tạm rạch ròi
bước đầu.
Trong xê mình từ nay có câu nói mới: chạy đua kiểu Đèo Nhông.
Cánh quân địch giữ sườn vừa qua khỏi, tiểu đoàn ào lên chiếm đồi,
đánh thúc ngang hông binh đoàn lớn đang hành quân theo trục đường
nhựa, đội hình chữ Y. Tôi vọt lên đầu. Tiểu đoàn phó đón ở chân dốc,
hét: "Mau nữa, mau, tụi biệt động tới lưng đồi bên kia rồi!". Tiếng
anh đuổi theo, tôi nghe lõm bõm: " Đừng ngó tàu bay, chạy, có phòng
không...". Chúng tôi chạy ngược dốc, tranh quất rào rào ngang bụng.
Quãng đường của ta dài gấp đôi của địch. Ta phải tới trước, chiếm
đỉnh, đánh vỗ mặt, hất nó xuống. Đến chậm mươi tích tắc, địch sẽ xổ
đạn đón ta... Chúng tôi chạy đến đứt hơi, đến đứng tim. Mắt thấy
toàn đỏ với đen quay chong chóng. Đầu gối long ra, mũi dép chân này
đá vào đầu mắt cá chân kia toạc da. Đại đội tách dần thành nhiều
cụm. Tôi nắm được nhóm dẫn đầu, hơn chục người thuộc hai trung đội.
Hai phần ba dốc. Tai không nghe miệng hô nữa, có lẽ miệng chỉ quát
ra hơi, không thành tiếng. Cứ chạy. Ngã sấp, lại lẩy bẩy chồm tới.
Không hiểu sao tôi còn sức để cúi nhặt bao lựu đạn của cậu Nam lăn
ra sùi bọt mép, xách theo. Cuối cùng, tôi nằm vật trên vạt đế xơ xác
của đỉnh đồi, lên hết gân tay mới đưa được trái lựu đạn tới miệng,
lập cập cắn chốt. Tạ ơn cặp chân trung thành, sáu anh em chúng tôi
đã vượt địch sát nút, chúng đang lội ào ào dưới mắt kia, dăng hàng
ngang, mũ dưa hấu lấp ló chỉ cách ba chục thước!
Cặp L.19 sợ súng phòng không, quần trên cao, nghiêng cánh dòm mãi
vào lưng chúng tôi, phóng hai trái rốc-két phía sau, trật ra ngoài
những tốp mũ tai bèo đang bươn dốc. Tôi để anh em thở hai phút. Địch
ngoi lên thêm mươi bước. Ta thêm gần một trung đội, mệt bò lê bò
càng nhưng thấy địch sẽ nẩy lên như mó vào điện. Tôi nghĩ rất nhanh
đến một đòn tâm lý đánh phủ đầu. Thèm vội cái kèn đồng. Không có
pháo hiệu. Cái mặt đỏ bầm của tên đi đầu đã nhô kia, miệng há thở
hồng hộc. Tôi quì lên, tung trái lựu vào nó, hét: "Trả thù cho miền
Bắc, trả thù cho bà con chết lụt!". Súng nổ, át mất khúc sau. Trái
đồi biến ra núi lửa.
Địch bị cú đấm đột ngột, bật ngửa. Đạn quét quân rằn ri như chỗi
quét kiến. Khi lớp xác trên cùng che khuất tụi lính nằm bẹp, chúng
tôi bắc trung liên lên vai nhau quỳ bắn, đứng bắn. Tôi chơi toàn lựu
đạn. Chú Dé cắn chốt, đưa từng cặp, chỉ chỗ:
- Nhiều người địch, gốc cây!
- Máy a-lô kia!
- Chỉ huy hai người, đeo chấm chấm... để tui!
Tôi dạng chân, uốn người theo trái lựu, ngó đường bay vạch khói
ngang trời mà sướng mê. Những búng khói trắng bật giữa tranh cói, xé
toạc từng chùm giặc, lúc hoảng chúng hay xúm lại dồn cục. Ai túm
vành mũ mềm giật nhẹ. Dé kêu: "Cúi xuống!". Tôi cũng vừa thấy cây
đại liên địch mới bắc. Ưu tiên cho mày, một nè, hai nè. Trái sau
ngon như đào tiên, lọt giữa thằng bắn và thằng lắp băng. Dải đạn
vàng choé tung lên cao, đứt, rớt trùm cái xác chân trên đầu dưới. Xé
mũ tao nữa thôi? Cối 81 đã bắn lên đâu đó, rền dài.
Giọng Ba Tơ ồm ồm:
- Lùa vịt đi, Thiêm!
Tôi quay ngoắt lại. Sau lưng và hai bên tôi, sườn đồi là biển động,
những sóng lá ngụy trang rẽ tranh xô tới. Ba Tơ quì sau cây đại liên
Mỹ, một mảng máu loang dán áo vào vai, cậu y tá dòm dòm không dám mó
vào anh. Tôi rút súng ngắn, hỏi vội:
- Đủ khói lửa chớ?
- Như thường. Cối mình nổ kia, mở máy!
Bốn tiếng bịch bịch đập nong đằng kia. Đại liên cựa mình, vạch một
luồng khói căng dài. Bảnh rồi. Tôi lấy hơi cẩn thận, hô thật vang:
- Trả thù cho làng Cá, xung phooong!
Cuộc đua thứ hai bắt đầu: địch chạy, ta đuổi, cả hai cùng nhào xuống
dốc, cùng thở, cùng trượt lăn tròn. Anh em reo, địch ré. Luồng đạn
của Ba Tơ có hình, có mắt. Tia khói vạch đường xóc vào những tốp mũ
sắt còn chưa kịp rã, chỉ chỗ này, phạt chỗ kia, xẹt ngang hông tôi
rất bạo. Ba Tơ chỉ huy bằng những ngón tay chỉ luôn luôn trúng đích.
Tôi quét hai loạt tom-xơn vào mấy cái lưng áo ướt, nghe tiếng cốc
của khối cơ bẩm gõ suông, túm nòng quật luôn vào một bê-rê đỏ bầm.
Năm Cẩn hổn hển bên phải: "Đừng giết, trói...". Một cậu khoác súng,
xổ dậy. Tội nghiệp anh Năm, chạy kiểu này lại nôn tới mặt xanh! Tiểu
đội trưởng Sáu quấy nhất xê mình, mệt đứt hơi vẫn còn ném vội câu
đùa: "Chia phần tôi với, anh!". Cậu Giàu ngã ngồi, gắt bạn: "Kệ tao,
gãy chân còn tay, rượt đi!"
Chú Dé xách túm lựu đạn còn lại, giật áo tôi: "Truốc né, truốc
né(3), anh Thiêm!". Tôi nhảy qua tảng đá. Chùm đạn toé lửa cạnh tay.
Hai chân rớt trên lưng một cái xác cởi trần, tôi chỗng kềnh, nhỏm
dậy, lại nhào ngửa; cái mũ sắt quật vào đầu tôi trượt một ít, trúng
chéo sau gáy. Thằng địch cuống cuồng quật nữa, trúng ngực, ăn nhằm
gì. Vẫn nằm, tôi gí họng P.38 sát bụng nó, bóp hai phát, chợt thấy
ba bông mai vàng cài trên ngực áo. Hất tên đại úy quằn quại sang
bên, tôi ngồi lên cái máy PRC.10 thò đuôi dài trên lưng một thằng
nằm co con tôm, sở chỉ huy tiểu đoàn đây rồi! Dé xồ tới, lật một xác
nữa, hai bông mai vàng. Tôi còn choáng váng sau cú nhảy dù bị đánh
úp, bỗng nhớ ra, chồm tới xốc ngược thằng bộ đàm dậy, ghé miệng vào
cái ống nói đeo trước ngực nó, bấm nút phát, nói to:
- Tôi ra lệnh tất cả tiểu đoàn ngừng chống cự. Tôi hạ lệnh tất cả
đầu hàng. Bỏ súng, ngừng bắn lập tức!
Chẳng biết cái lệnh của tôi có nước non gì không, giữa lúc địch đang
vắt chân lên cổ. Cậu Sáu thay tôi đỡ cái xác, réo: "Thua rồi, đừng
bướng nữa, hàng sống chống chết....". Tôi đuổi theo xê mình, tới
đường nhựa mới kịp. Bọn lính sống sót ùa lên xe, dồn cục để hứng các
thứ trái nổ, càng gọn. Đến lúc này anh em vừa đánh vừa pha trò, mách
nước cho nhau, gọi hàng từng xe lính một.
Phải mất nhiều năm làm rẫy, tập trận, leo núi, mới vươn tới những
phút đỉnh cao chói lọi như vậy, chúng in một vệt sao băng trong đời
người lính cách mạng, soi sáng ngày qua, soi sáng ngày mai. Kể
chuyện mình, anh sẽ vô tình mà sôi giọng khi chạm đến cái mốc Đèo
Nhông, người mới nghe sẽ buồn cười với cái tên cục mịch ấy trước khi
hiểu và yêu nó như anh. Giữa những trận bom chôn xuống đào lên, anh
sẽ nhắc Đèo Nhông và cặm cụi lau cây súng lấm, nghĩ về cuộc lùa vịt
sắp tới. Và có thể đến nửa thế kỷ sau, khi Đèo Nhông chỉ còn được
nêu tên trong những pho sử dày cộp, anh sẽ vuốt tóc đứa cháu nội
khóc nhè vì sợ ngỗng, ôn lại cho nó bài học lớn của một trận nhỏ
xíu, hồi ta chưa có tàu bay đại bác....
Độp một cái, tôi bị tách khỏi xê mình, khỏi xứ dừa và chiến dịch
đang ngon trớn.
Chính ủy trung đoàn cho gọi tôi giữa cuộc họp bình công, đưa xem bức
điện của quân khu. Bốn cán bộ được rút đi công tác đặc biệt từ sáu
tháng đến một năm. Tôi lạnh người khi gặp dòng cuối cùng: Đặng Đức
Thiêm, 28 tuổi, C. phó C.215. Bỏ mẹ không! Mà cũng đúng là bỏ mẹ tôi
thật.
Hôm kia tôi ghé thăm quê ngoại, bà con la trời tôi rủi quá: má tôi
với Út Hiền về tìm tôi suốt mấy ngày Tết, hụt, tốn khá nhiều nước
mắt và tiền xe. Chị chủ tịch lắc đầu chép miệng hoài, hẹn cho cô
cháu đáp xe hàng vào Qui Nhơn đón má và em tôi ngay, khó mấy cũng
một tuần nữa tôi sẽ được gặp. Năm năm lẻ một tháng, tôi mới về gần
gia đình...
Tôi giúp Năm Cẩn xoa dịu cơn nóng mũi của anh Ba Tơ chực xắn tay áo
tốc lên trung đoàn (mày cứ ở đây, tội tao chịu! Đặc biệt, rồi biệt
phái, rồi biệt tăm biệt tích luôn, lạ gì! Tao hỏi: ai thay mày? Hả?
Cử được một đứa ngang cỡ mày về thế chỗ, tao mới cho đi!). Tôi viết
thư xin lỗi ủy ban và gửi má, lên trung đoàn lấy giấy giới thiệu
thượng khẩn, đi gấp ra Quảng Nam. Tôi sẽ chuẩn bị đánh Mỹ ở đấy. Bên
kia biển lớn, bọn cướp Mỹ đang nai nịt, sắp nối đuôi nhau trèo lên
lũ máy bay: "Chủ địa cầu" bụng chửa, sang đánh ta!
Cuộc chạy đua chiếm đỉnh đã mở rộng ngang tầm trái đất. Tôi không
thể chậm.
*
Qua sống núi rồi. Vòm lá trước mắt quang hẳn, chân trời xuống thấp
hơn chân người. Sắp đến chỗ mỏm núi mà chúng tôi ngồi ngắm đồng bằng
Quảng Nam sau lụt, cậu giao liên bỗng rẽ ngoặt sang trái, lội ngược
suối. Tôi hỏi:
- Đi đường núi hả đồng chí?
- Đang càn.
Đằng trước, tiếng cối 60 nổ xa và thưa thớt. Càn vặt thôi.
- Gần tới chạm chưa đồng chí?
- Có đi có tới, hỏi chi!
Tôi im. Những cái trái ý cứ như hẹn nhau cùng đến, bắt tôi nhớ con
đường mịn cát dưới bóng dừa với cô giao liên dẫn tôi đi sát đồn
địch, vồ vập hỏi thăm anh bộ đội nói giọng cùng tỉnh. Hết quãng suối
là đường rẽ mới phát vắt nhung nhúc dựng vòi, buộc tôi phải so sánh
thêm nữa và thêm nữa, đến khi bật cười một mình: tôi đang hờn lẫy
cái xứ Quảng, kỳ không!
Hai giờ chiều hôm sau, tôi đến một trạm "ngã tư" của Quảng Nam, nơi
con đường xương sống dọc Trường Sơn tách thành một cặp xương sườn
lên núi xuống biển. Cái đích của tôi, cơ quan H.68, đóng gần đây.
Trạm trưởng Hùng là người dân tộc Gia-rai, rất vui tính và ham học
đại số, bỗng biến thành tủ sắt khi tôi hỏi về H.68. Tôi thử các loại
chìa khoá - Cau pi-ai Ya-rai xết xết(4), giải giùm bài toán khó, ca
ngợi các làng chiến đấu hai chân rất vững của của tỉnh Gia-lai mãi
cậu mới hé cho chút xíu bí mật: H.68 ở đồng bằng.
Đồng chí trực ngang(5) dẫn về một ông khách đeo kính trắng. À, Duy
Hảo, cậu bạn thầy thuốc. Cậu ta vừa leo dốc, hẳn mồ hôi mặt bốc lên
mớ cặp kính cận số bốn nên ngó tôi như ngó cột nhà. Hảo đặt bao
xuống sạp, lau kính và mặt rất kỹ. Phải hiểu giùm những cái khó
riêng của giới cận thị "yêu nhau đeo kính lên xem, ghét nhau gỡ kính
chẳng thèm nhìn nhau". Chớ nên phiền lòng khi họ nheo mắt nhìn ta
một cách bề trên và soi mói, bật một tiếng "à" tuy chẳng có sẹo mới
trên mặt ta, buông câu chào rất chậm trễ, gọi mẹ ta là em và em gái
ta là bác, vân vân.
- Ủa, mày hả Thiêm?
Đúng cái câu tôi chờ Hảo nói bằng giọng Đà Nẵng pha Sài Gòn.
Chúng tôi khám sức khỏe nhau bằng mấy trái đấm hạng nặng. Chị nấu ăn
của trạm đứng xem, che miệng cười.
- Tao về bệnh xá tỉnh nửa năm rồi. Chúc mày không bao giờ léo hánh
vô đó. Coi chừng, mày ốm nhom mà mắt hơi vàng, gan có vấn đề...
- Vi trùng đậu đầy kính, mày dòm đâu cũng thấy bệnh, ngán kinh. Ngắm
lại anh Giải phóng quân oai hùng đây nè, ca ngợi đi!
- Dạ, em xin phục vụ hết mình. Anh cần cưa tay chân ngay bây giờ, em
cũng sẵn...
Chị nấu ăn háy một cái, bỏ đi: "Nói vậy nó hệ chớ!". Tôi nhìn theo,
đoán chị sắp đốt cái chỗi dựng bên bếp. Cái chỗi chưa tới số, sống
sót.
Chúng tôi kéo xuống suối tắm để tự do quấy. Rất may, Hảo cũng về
H.68 và huyện Tam Kỳ để nhờ xếp chỗ cho bệnh xá dời xuống đồng bằng.
H.68 là một trong các bộ phận nghiên cứu tại mặt trận của quân khu,
hiện đóng gần chợ Minh Huy. Anh Bảy quai nón cũng ở gần đấy. Hảo chỉ
biết bấy nhiêu, nhưng lại nắm rất chắc các thứ chất tươi đồng bằng
mà chúng tôi sắp được hưởng. Cậu ta mới nhận được mười lăm ngàn nhà
gửi cho, đã sắm một máy thu thanh Xô-ny và các thứ đồ dùng khá sang,
đang gửi mua thêm ni-lông may võng, áo quần, mũ da. Cậu mở bao cho
tôi xem hết, rút đưa tôi năm trăm. Tôi cười, lắc đầu, tuy rất túng.
Áo quần rách cả, có vài bộ coi được thì đã đem cứu lụt hoặc "cho heo
mặc" nghĩa là đổi lấy heo cho xê mình ăn. Khi tôi rời đơn vị, Năm
Cẩn đã nhét vào bao tôi cặp bà ba đen của vợ mới gửi lên. Cũng khó
nói vì sao tôi không nhận tiền của Hảo, tuy vẫn chơi thân với cậu.
Có lẽ vì nhà Hảo giàu hơn nhà tôi nhiều quá. Có lẽ vì tôi đã từ chối
cái bánh bẻ đôi năm xưa, một lần, hai lần, mãi thành nếp chăng.
Hảo giễu, nhưng giọng đã pha chút khó chịu:
- Mày vẫn gàn. Đạo Đức Thiêm tu ép xác...
- Mô phật!
- Thôi được, đi ăn với tao vài keo. Mất lập trường không?
- Cái đó thì hoan hô cú một!
Lát sau, đang tắm, Hảo bỗng trầm ngâm nhìn tôi:
- Mày ngại... giữa con Nga với mày có cái gì đó không cao thượng...
lởn vởn cái gì đó như đồng tiền... sợ mang tiếng nhờ vả anh con
Nga... đúng chưa?
Tôi cười xoà, vục đầu vào chỗ nước xối, thở phì phì thay câu trả
lời. Cứ để cho Hảo tưởng vậy cũng hay.
Tôi với Hảo cùng tuổi. Cuộc đời hai chúng tôi gợi hình con đường
nhựa và con đường sắt chạy dọc miền Trung, song song với nhau một
quãng rồi tách rời nhau, lại về bên nhau, cứ vậy nhiều lần.
Khi tiếng súng lớn của Pháp từ mặt trận An Khê dội rền tới Quy Nhơn,
cả nhà tôi gánh gồng bồng bế nhau rời phố cảng, về quê má tôi gần
Tam Quan. Ba tôi làm thợ sửa máy ở Sở hoả xa của ta, sống trên cái
toa đen dùng làm xưởng, đi hết ga này đến ga khác, giữ cho những
chuyến xe lửa xe ray kháng chiến chạy suốt ba ngàn đêm không dứt
đoạn. Tôi ở nhà với má, một buổi đi học một buổi ra đồng, mãi đến
sau Giơ-ne mới trông thấy thằng giặc Tây còn cầm súng.
Lên lớp nhì tôi gặp Hảo.
Đó là một chú nhỏ lòng khòng, da trắng cớm nắng, luôn luôn diện áo
quần sang và chải tóc bóng, xưng tên kép Duy Hảo nghe điệu rơi điệu
rụng. Mẹ Hảo ở lại giữ tiệm buôn to trong Đà Nẵng bị chiếm với hai
em, Hảo theo cha tản cư từng khúc vào đến Tam Quan. Về sau chúng tôi
biết thêm: cha Hảo là thầy thuốc giỏi, sáng làm bệnh viện công,
chiều chữa bệnh tư lấy tiền, còn nhận đều đặn những chuyến quà của
bà vợ giàu sụ gửi cho - vải, thuốc, vàng, từng xâu nhẫn vàng dài
bằng gang tay - nên sống khá sang.
Một số bạn học lập tức ghét Hảo, tìm cách ăn hiếp. Bỏ sỏi vào cổ áo,
lấn ngã xuống ruộng, bôi mực cắm kim vào ghế, thịnh nhất là xúm lại
vốc bùn trét vào áo quần trắng của Hảo mỗi khi tàu bay bay qua, dù
chỉ là tàu bay chở mắm ruốc: "Nó thấy kia! Nó bắn!". Một phe khác
không thích Hảo nhưng chống thói ăn hiếp, cử tôi làm "thủ lãnh".
Thằng Xứng đầu nậu chửi tôi: "Đồ dân xứ chợ, nịnh bợ nhà giàu". Nó
thách tôi vật. Thấy nó to xác quá, tôi hẹn vật dưới nước. Cả lớp
giấu thầy kéo ra bờ sông làm chứng, coi tôi nhận nước thằng Xứng một
mẻ ngất ngư, con nít Qui Nhơn quanh năm bơi biển mà. Tôi được tôn
làm "ông thầy võ", một cái tên trọng vọng ở đất Bình Định thượng võ
này. Hảo bớt kênh kiệu, biết ơn tôi chí chết, nhưng tôi chỉ thỉnh
thoảng mượn sách học mà không chơi thân. Qua vài tháng, chuyện cũ
quên sạch, Hảo nhập bọn với tất cả anh em.
Bom đạn trong vùng tự do tăng dần. Tây nhảy dù nữa. Luồng quà gửi từ
Đà Nẵng bị tắc. Đầu năm 1952, trúng na-pan cháy nhà, ông thầy thuốc
đem Hảo trốn về vùng tề. Lớp bảy chúng tôi chửi cha con Hảo một trận
vuốt đuôi.
Bốn năm sau, tôi gặp lại Hảo ở Đà Nẵng. Tôi rách, đói, lánh mặt cảnh
sát, gò lưng đạp xích-lô chở cậu sinh viên Duy Hảo về biệt thự.
*
Cũng dễ đoán đời tôi sẽ ra sao nếu tôi tập kết ra miền Bắc với ba và
anh Hai, với các bạn cùng lớp chín(6), với đôi bàn tay sớm chai đi
vì cầm cày và sửa máy, với xấp học bạ trong đó các thầy cô thường
ghi: “học sinh giỏi toàn diện” mỗi dịp cuối khoá. Nhiều người thân
đã tiếc giùm tôi. Mặc dù vậy, ngoài vài lần thoáng nghĩ bông lông
đến sự hơn thiệt giữa các số phận, mãi đến nay tôi vẫn không ân hận
vì đã ở lại miền Nam, thay cha anh đánh bọn thù mới.
Ngừng bắn. Ba tôi trắng ngày trắng đêm sửa những chiếc cam-nhông-ray
đưa bộ đội về cảng Qui Nhơn. Anh Hai tôi từ Tây Nguyên về muộn, qua
ga Sa Huỳnh thấy ba tôi nằm ngửa dưới một xe hỏng, thò đầu ra quát
cậu thợ phụ lớ ngớ. Anh vọt cửa sổ chạy tới, nói hối hả vài câu, nắm
tay ba một cái, chạy đón đầu chuyến xe rời ga, kịp đu người lên,
quệt mồ hôi và bôi đầy mặt những vệt dầu nhem nhuốc. Má tôi bán và
cho hết đồ đạc, đưa tôi với Út Hiền mỗi người một gánh trở về Qui
Nhơn, đợi xuống chuyến tàu biển cuối cùng với ba tôi. Nhưng một trận
thương hàn rất ác và kéo dài – chín năm vất vả chợt nổi dậy đòi nợ -
bắt má nằm liệt. Chị Ba lấy chồng xa, Út Hiền còn dại, chỉ một mình
tôi có thể ở lại nuôi má.
Tôi không băn khoăn mấy khi đến gặp anh Trung xin lãnh công tác. Tôi
thương má tôi hơn ai hết trên đời, là đi một lẽ. Tôi lại háo hức
muốn tự mình làm cách mạng. Đã ăn học thẳng một lèo đến mười bảy
tuổi, bây giờ đến lượt tôi góp chút công cứu nước cho phải lẽ công
bằng chứ. Hai năm, xong tổng tuyển cử là ba với anh Hai về, từ đó
trở đi muốn xông pha hiểm nghèo cũng không còn dịp… Tôi vững bụng
lắm. Chỉ có một lúc mềm yếu. Ấy là cái buổi chiều ba tôi xuống
thuyền, tôi với Út Hiền ngồi trên bãi cát ngó theo. Chiếc Kilinxki
đậu ngoài kia, một thành phố màu sữa nổi ngời ngời trên biển xanh,
đẹp hơn những chiêm bao đẹp nhất của một đứa trẻ từ lọt lòng đã thở
gió mặn và nghe tiếng còi tàu. Đáng lẽ nó đưa tôi đến với Bác Hồ,
đến những miền thần thoại… Út Hiền đã giọt ngắn giọt dài từ hôm qua.
Nó khóc nên tôi dễ nín hơn. Chiếc tàu Ba Lan kéo còi, nhả khói dày,
tôi vẫn im, nhưng đến khi nó quay hẳn đuôi về phía tôi, tôi bật khóc
thút thít mất một hồi. Giá nó cứ chạy ngang chắc tôi đỡ tủi. Được
cái tụi bạn trai không cùng đi, tôi khỏi bị giễu.
Má tôi nằm gần hai tháng mới dậy, hom hem, xanh rớt, tóc ngả bạc
chừng một phần ba, và thương tôi gấp mười trước kia. Má chải tóc cho
Út Hiền, rủ rỉ: “Gái út theo má đã đành, nghĩ tội thằng Tư nửa đường
đứt gánh tại má”. Tôi gạt ngay, nói Đoàn giao tôi ở lại, nghĩa là
nói một nửa sự thật.
Trong năm đầu, việc công việc tư đều trôi chảy. Tổ Thanh niên Cứu
quốc chúng tôi treo cờ, rải truyền đơn, căng biểu ngữ, địch đang rối
chưa lùng kỹ được. Riêng cậu Dư bị bắn trên cây me, mất chút thịt
mông nhưng chạy thoát. Các tổ khác cũng ăn nên làm ra cả. Đồng bào
Qui Nhơn hầu hết từ kháng chiến về, thấy chúng tôi bị rượt là lao
ngay đòn gánh vào chân tụi cảnh sát, vừa giơ tay xin truyền đơn vừa
hỏi: “Sắp chưa?”.
Cái nghề sửa máy của ba tôi truyền cho ngày một ngày hai, bây giờ
giúp tôi nuôi nhà và hoạt động trong dân thợ khá dễ. Ba tôi yêu máy
hơn vợ con, buộc tôi phải nghiện máy. Có dạo tôi nghỉ hè, theo ba
đẩy cái xưởng lắp bánh từ ga này đến ga khác - đường ngắn, tàu đêm
không chịu móc kéo - tôi mệt quá định lủi bị hai cái tát thấy sao
hôm sao mai: “Mày học làm ông tham hay học để giúp nước, nói!”. Tôi
cọ mặt hết một phần tư bánh xà-bông nội mới sạch mười dấu ngón tay
đen nhẫy.
Dân công chiến dịch hay khiêng động cơ xe địch về, ngày càng lắm
kiểu lạ. Bác xưởng trưởng sờ nắn một lát, chép miệng: “Phải tới tay
Tám Rảnh mới xong”. Bác mở hòm lấy một chai rượu lậu – hồi ấy ta
thiếu gạo, cấm rượu rất ngặt - giục đi kiếm ít lát cá ngừ và một đĩa
ớt đầy. Ba tôi được vời đến. Ông trách người đãi rượu đôi câu cho
phải đạo, nhấp một chén, nhai ớt rau ráu, nhấp chén nữa, mắt gườm
gườm thôi miên cỗ máy đang ỳ ra đấy như thách chơi vào. Ông quờ quờ
tìm cái nút lá chuối khô, nhét miệng chai rượu. Rồi kéo ghế nhích
dần tới. Rồi tay gãi râu cằm, mũi hừ hừ, chân đi rà rà quanh máy như
lựa thế võ song phi hay đoản đả. Rồi quát bất cứ ai đứng gần: “Mọc
rễ đó hả? Lấy cái mỏ-lết!”. Ba tôi bập vào máy rồi, sẽ đánh vật với
nó suốt hăm bốn tiếng, bốn mươi tám tiếng, nếu cần thì gấp đôi gấp
ba số giờ ấy không nghỉ. Cả xưởng xúm bàn góp, được, nhưng chớ dại
mà giục ông cụ làm gấp, và phải sẵn sàng chịu lấm. Đến khi khối động
cơ đã chịu nổ đều, ông mới lảo đảo tới bàn rượu, nhai ớt và uống tì
tì đến cạn chai, vẫn trừng mắt cấm cái máy trở chứng, đến khi ông
lăn ra ngủ thì bom hất xuống đất chưa chắc đã dậy. Đi tập kết, ông
cõng trên ba-lô một bó giấy khen bằng đòn bánh tét, nhưng vẫn không
lãnh nổi một chân chấp hành công đoàn.
Quân Pháp sắp cuốn gói, bán đổ bán tháo những chiếc xe mới ăn đạn ta
sứt mẻ ít nhiều. Nhà giàu ở các cảng trút hết tiền mua xe, lập hãng
xe khách, xe hàng. Xưởng sửa xe mọc dày. Tôi vào làm thợ phụ trong
một xưởng mới. Chủ là một ông đã tự lái chiếc xe than cọc cạch của
mình trong vùng tự do, mới phát tài nhờ mấy chuyến buôn nước bọt,
một vốn bốn lời. Ông này chưa kịp to bụng, bóp nặn vừa phải, ưa tỏ
vẻ hào hiệp trước đám đông và khoe mình kháng chiến khi kín cửa,
cũng tin dùng những người thợ từ vùng xa về mà ông biết là tốt nết,
giỏi chắp vá. Nghề của tôi tuy học mót nhưng được thầy giỏi, lại
thêm chút chữ nghĩa bù vào. Gặp máy mới, tôi đọc kỹ những cuốn sách
hướng dẫn tiếng Anh tiếng Pháp của hãng chế tạo, mày mò dò dẫm riết
cũng ra, dám tháo sửa cả những cỗ máy phức tạp của GMC, Đốtgiơ,
Xtútbâycơ. Dần dà lương tôi lên ngang thợ chính, rồi nhích thêm một
ít sau khi ông chủ trịnh trọng treo biển báo rằng ở đây có người nói
tiếng Pháp tiếng Anh: tôi kiêm chân phiên dịch, tiếp khách nước
ngoài, cả khám xe chẩn bệnh. Cảng Qui Nhơn lúc ấy đầy nghẹt lính
Pháp, nhân viên Ủy ban quốc tế, cố vấn Mỹ. Xưởng đông khách hẳn lên.
Tổ thanh niên Cứu quốc trách tôi "phục vụ đế quốc", nhưng anh Trung
bảo tôi cứ làm quen với Mỹ Pháp nhiều đi, cần lắm.
Tới đợt hiệp thương, tôi đã nắm được một tổ công nhân khá vững. Qui
Nhơn rầm rầm như sắp nổi dậy. Riêng tổ tôi lái hai xe Gip rải truyền
đơn in máy suốt từ mũi Tấn lên tới Hưng Thạnh, gửi bưu điện hơn năm
chục thư cảnh cáo tụi xấu từ phường đến tỉnh. Địch hoảng, co lại ít
lâu, lại làm tới. Má con tôi bị buộc đi tố cộng lớp A vì có người
nhà tập kết. Một sáng, ông chủ xanh mặt nhét vào tay tôi một tháng
lương, lắp bắp mời tôi về nghỉ: một cú điện thoại của công an đã
khuyên ông đừng dính vào kẻ "tình nghi can cứu". Tôi tìm chỗ khác,
làm mươi hôm lại bị thải. Chỗ thứ ba, điện thoại đã tới trước. Tôi
nghĩ: "Mình ở lại làm cách mạng, đâu phải làm giàu". Tôi xách cái
thùng gỗ ra ngồi đầu phố, sửa xe đạp, bị cảnh sát lôi về bót. Tôi
xoay nghề ngang, xách một chùm chìa khoá đi lắc rủng rẻng qua các
phố, chữa khoá rong.
Địch bắt non trăm người, tổ tôi một cậu bị giam nửa tháng rồi mất
việc. Anh Trung lộ, kịp vọt khỏi ca-bin xe tải, thoát. Tôi được gọi
vào Gành Ráng gặp anh. Anh ở hang đá, tóc lợp tai, vẫn cười hết cái
miệng rộng, đặt hộp thư cho tôi gần Cầu Đôi. Nhưng cái hộp nhôm
trong hốc cây bàng ấy mãi mãi không đựng mảnh giấy nào, anh bị bắn
chết trong một đêm về móc cơ sở xóm Ga. Tôi đi xem đầu anh cắm cọc:
mắt không nhắm, miệng vẫn sắp cười.
Những người thám hiểm hang sâu thường mang theo một cuộn dây rất
dài, thả dây đánh dấu đường ra. Sợi dây của tôi vừa đứt. Một tháng,
hai tháng... chúng tôi vẫn mắc kẹt trong hang tối.
Tổ công nhân, bốn đứa xấp xỉ mười tám đến hai mươi, kéo ra họp trên
bãi biển vắng, bộ bài các-tê bài sẵn trước mặt. Chúng tôi cắt tay rỏ
máu vào bia, ăn thề, bàn những sự lay trời chuyển đất. Đánh úp tụi
bảo an, tước súng, kéo lên núi lập chiến khu, núi nằm ngay sau lưng
nhà ga chứ đâu xa. Chiếm một ca-nô máy của địch, lái ra miền Bắc xin
súng chở vào, nổ một băng là Qui Nhơn vùng lên hết. Cậu Bẩm tức
Xuyên Sơn ném ra một sáng kiến to bằng đình. Mỹ-Diệm gọi ta là cộng
sản, ừ, đã vậy ta đỏ lòm hẳn đi cho nó biết mặt: lập Thanh niên Cộng
sản đảng, viết điều lệ, rải hiệu triệu, thu đảng phí, gì nữa thì sau
sẽ bàn. Cái nạn đứt liên lạc coi như không còn! Chúng tôi bốc một
lát lại xìu, lỡ cấp trên đuổi ra khỏi Thanh niên Cứu quốc thì khốn!
Hẵng cứ in lại truyền đơn cũ, viết bích chương cũ, hoạt động đều cho
bà con khỏi nản cái đã.
Cậu Ngộ bị bắt với truyền đơn trong túi, không khai, bị đánh đau chỉ
biết: "Khí tiết! Khí tiết tới cùng!". Rồi tôi cũng được xe cây tới
rước, chắc tại tụi chỉ điểm thấy tôi hay tạt vào nhà Ngộ. Chẳng qua
chúng nó gạt sào đếm vịt, đố biết con mập con ốm. Điện, nước vôi,
roi bốn trận, tất cả chỉ đau ít lâu lại hết, còn vết giày trên cằm
tôi nóng cháy mãi đến giờ. Tôi bị trói ngồi dựa tường. Thằng ty phó
công an đưa mũi giày mõm nhái hất cằm tôi lên, nhếch mép: "Việt cộng
biểu mày ăn cứt, mày cũng ăn hả?". Mười năm sau, tôi còn muốn đè
riêng thằng ấy, cắn cổ.
Cái lưới đen ngày càng thít cứng. Ngộ bị án sáu năm tù. Bẩm thất
nghiệp lâu, phải đi Sài Gòn làm ăn. Thọ bị cha mẹ giam lỏng vì quá
sợ. Tôi về quê mẹ sục tìm mối, chỉ gặp cô bác tôi quì "sám hối"
trước gươm súng dựng chéo đỡ một cái mặt heo. Đảo lộn hết. Tối mịt.
Tôi trở lại Qui Nhơn, bị luôn một tuần xà-lim vì phạm lệnh quản
thúc. Má tôi thấy những vằn máu nằm mãi trong mắt tôi, dỗ tôi lánh
nơi khác. Má biết, và tôi cũng tự biết, tôi sắp thí mạng với chúng
nó. Hết chỗ chịu rồi.
Tôi bỏ đi Đà Nẵng.
Ông cậu đạp xích lô tròn mắt khi tôi bước vào nhà, không một thứ
giấy tờ dính túi. Ông giấu tôi trong buồng, chạy tiền hối lộ, kiếm
cho tôi được cái biên lai thuế cử tri, đỡ lo một cú soát nhà.
Đà Nẵng đông người, dân thợ hàng vạn và có tổ chức vững. Tôi ở không
khó, chỉ khó xoay việc làm. Ngay cậu tôi là dân cố cựu mà không sắm
nổi cái xích lô - giá xe bảy ngàn, nhưng thêm cái biển số của cảnh
sát tới mười bảy ngàn - phải cùng hai người nữa thuê chung một xe
của chủ, chia phiên nhau đạp, bỏ buổi là nguội bếp. Tôi lánh né
trong xóm nhà lá dọc đường lên Phước Tường, vá sửa xích-lô cho mấy
nhà quen, nấu cơm và giữ con cho bà mợ buôn đắp đổi gánh rau thúng
quít. Má tôi viết thư cho cậu, kể rằng "các ổng" bắt lên bắt xuống
hoài, nhờ cậu giữ giùm "gói đồ" má gửi, đừng để mất trộm.
Mất bốn tháng tôi mới tìm được một chân học việc phóng ảnh trong một
tiệm chụp hình ngoại ô. Cả ngày chui trong buồng tối, đỡ lộ mặt.
Thôi đành tạm biệt những chàng máy nổ ồn ào vạm vỡ, chuyển sang cái
nghề phóng đại tô màu xem chừng phù phiếm này, làm gì cũng chỉ để
chờ ngày làm cách mạng. Nghĩ vậy nhưng vào việc lại ham. Tôi mua
sách dạy chụp ảnh và kỹ thuật buồng tối, tự học ngấu nghiến, có đồng
nào trút ra mua phim, giấy, thuốc để thực tập. Tôi để dành tiền mua
cái thẻ căn cước cho đỡ rầy rà, gửi về nhà một ít, giúp cậu mợ tí
chút, chỉ ăn vừa đủ khỏi chết đói, sống bằng hy vọng nhiều hơn cơm.
Thỉnh thoảng tôi lại đạp xích-lô một phiên thay ông cậu ốm, chỉ đi
đêm và tránh phố đông.
Đêm ấy tôi lảng vảng phía bến Hà Thân, đón loại khách ít phiền nhất
là các bà có con thuê xe giờ hóng mát. Một cặp trai gái diện sang
vẫy xe về phố. Tôi nhận ra Duy Hảo, một cậu Hảo rất công tử bột, nói
những câu chen lổn nhổn tiếng Pháp và Anh. Tôi ấn cái mũ phật tử
rách xuống che nửa mặt, lặng lẽ đạp. Ghép những mẫu nghe lỏm, tôi
biết Hảo đang học đại học y khoa Sài Gòn, về nhà nghỉ hè. Cô kia là
em ruột Hảo, vừa thi xong tú tài bán phần, đang lo rớt. Anh em đang
bàn xin măng(7) một chiếc xe hơi Đôphin, tự lái cho dễ, xăng rẻ hơn
tiền xích lô.
Ông thầy thuốc nửa công nửa tư năm xưa là chủ một biệt thự khá to ở
phố vắng. Cô Nga mở xắc lấy tiền trả, Hảo bấm chuông rồi đợi. Một
chiếc ô-tô rẽ ngã tư chợt thốc đèn giữa mặt, tôi không tránh kịp,
Hảo bật kêu:
- Ai như Thiêm hả? Đúng Thiêm rồi!
Ban nãy tôi tưởng Hảo sẽ bối rối nếu nhận ra người bạn học ở nhà
trường "Việt minh", sẽ làm mặt lạ hay chào gượng rồi đi. Sai cả. Hảo
cố kéo tôi vào chơi. Tôi phân vân một loáng, rồi đẩy xe xích-lô qua
cổng. Không tội gì thậm thụt, Tôi đường hoàng ngồi xuống ghế bành,
úp cái mũ nát trên cái xô-pha phủ nhung boóc-đô. Trong gian phòng
khách lộng lẫy này chỉ có tôi là nghèo trái khoáy: sơ-mi cộc tay đẫm
mồ hôi, quần bà ba đen vá, dép cao su quai xỏ kiểu kháng chiến.
Mẹ Hảo to béo cỡ bà Phó Đoan(8), chỉ hỏi tôi một câu lạt lẽo rồi lên
gác. Cha Hảo gầy hơn xưa, xoắn xuýt hỏi thăm bà con quen ở thị trấn
Tam Quan. Bắt đầu rút ruột chăng? Tôi nói toàn sự thật, nghĩa là hầu
hết những người đã nhường nhà cho ông ở, nhường hầm cho ông núp, nay
đã bị đánh, bị tù, bị bỏ bao thả sông. Ông thầy thuốc xì mũi nhiều
lần. Hảo gỡ kính ra lau. Mộng Nga tròn mắt nghe, bỗng đi rửa mặt.
Tôi chào về. Cha Hảo giữ bàn tay tôi, nói run run:
- Hồi đó... bac có lỗi với Cụ Hồ quá... lỡ dại, biết làm sao! Thôi
trăm sự bác nhờ cháu, hễ gặp cán bộ đằng mình... cháu nói giúp, à...
các ảnh cần gì bác xin giúp nấy, miễn góp được chút công chuộc
tội...
Tôi giữ miệng, không đáp.
Nửa tháng sau tôi mới trở lại nhà Hảo. Mấy cậu bạn xích-lô biết nhà
này từ lâu, còn dò hỏi thêm chị bếp và anh lái xe, cam đoan với tôi
rằng ông này tốt, chỉ có bà vợ ham lợi hay làm áp-phe với tụi chính
quyền, lại mèo mỡ với một thằng trung tá ở Quân tiếp vụ. Qua hai
giới thạo tin đường và tin nhà nhất - xích-lô và ở mướn - qua những
lần lui tới nhà Hảo, tôi mới dần dà hiểu cái bi kịch thầm lặng giấu
sau các cửa sổ lắp kính màu, một kiểu bi kịch xa lạ đối với lớp
người lam lũ chúng tôi.
Cha Hảo lấy vợ để đào mỏ, mẹ Hảo lấy chồng để lên quan tắt - hồi xưa
ông y sĩ Đông Dương là quan đốc, oai lắm. Hai người sống với nhau
như sừng với đuôi, có nhân tình riêng, tiêu tiền riêng, đẻ con ra
giao cho vú nuôi. Sau năm năm rưỡi ở vùng tự do, khi lẻn bước xuống
thuyền biển trở về thành, ông thầy thuốc không ngờ cái lồng son cũ
đã trở nên kinh khủng đến vậy. Những cơn thèm khát biến nhanh sau
vài tuần ăn sang ngủ êm, nhường chỗ cho chất a-xít của hối tiếc gặm
mãi vào tim ông. Cái xấu tãi mực đen khắp vùng tạm chiếm càng làm
những mảng sáng của cách mạng nổi rực rỡ hơn. Ông đã đánh mất cuộc
sống đáng gọi là sống, mất lý tưởng yêu nước, mất sự cao quý của
nghề cứu người, mất những trăm anh em bà con viết thư cảm ơn ông,
mất lòng tin của đứa con bị ông dắt vào ngõ cụt. Ông cố tìm những
thứ thay thế, chỉ gặp hàng giả.
Tới đình chiến, ông cậy cục bắt mối, tính cho Hảo và Nga vượt tuyến
ra Bắc, còn ông chẳng mặt mũi nào gặp lại bạn cũ. Bà vợ phá ngang,
doạ báo mật thám chặn. Ông tát vợ mấy cái và chịu thua. Từ đó ông
coi mình như khách trọ trong ngôi nhà đứng tên vợ, đi xích-lô để
tránh ngồi ô-tô của vợ, ăn cơm trong buồng riêng, cần nói với vợ thì
nhắn qua miệng con. Ông định qua Pháp ở, rồi muốn cạo đầu đi tu,
nhưng không xa bầy con được, vắng ông chúng sẽ hư theo mẹ. Nhiều đêm
ông gọi Hảo vào buồng, khoá cửa, mở đài miền Bắc nghe đến hết giờ
phát, rồi trải chiếu dưới sàn nằm ôn mãi chuyện vùng tự do. Gần đây
Mộng Nga được vào “họp câu lạc bộ” với ông, vừa thích vừa sợ. Ba cha
con họp thành một cụm riêng – cô Út bị mẹ giữ riệt và hay mách lẻo –
chia nhau những hớp gió mát lọt qua đài vào cái xà-lim vàng son nhốt
họ.
Thời gian sàng lọc tình người như nước suối cọ đá, cuốn đi những
rong rêu bám hờ, xói sâu thêm những nét đã khắc sâu. Hảo thường nhắc
tên tôi và mấy người thân nữa, đoán tôi đang học về nguyên tử hay vũ
trụ gì đó bên Nga bên Đức, sẽ thành chuyên gia cỡ thế giới cho coi –
nhà Hảo giàu nhưng không đủ thế thần để cho con du học, Bởi vậy Hảo
mới sửng sốt khi thấy tôi đạp xích-lô. Cả nhà lập tức nghĩ rằng tôi
được Đảng giao việc gì lớn lắm ở miền Nam, tôi đang cầm cái chìa
khoá mở cửa ngục cho họ, trong bộ cánh tã ấy tôi là Dự Nhượng rình
giết bạo chúa. Riêng cô Mộng Nga mười bảy tuổi càng mộng khỏe hơn,
biến tôi thành một nhân vật nửa xi-nê trinh thám nửa lãng mạn Tự lực
văn đoàn. Tôi buồn cười, đôi lúc thu thú, rồi lo địch theo dõi và
biết tôi trốn quản thúc tại Qui Nhơn. Tôi nói qua loa rằng tôi không
dính đến cách mạng, chỉ làm nhiều nghề kiếm ăn và học thêm. Sự thật
cũng đúng vậy, tạm đúng trong lúc này. Hảo nháy một mắt, nói ngay
sang chuyện khác để tỏ ra mình hiểu chính trị lắm chứ. Mỗi lần đưa
sách học cho tôi mượn, một pho từ điển Anh-Pháp chẳng hạn, Nga lại
thấp giọng thì thào như sợ phá vỡ cái không khí huyền diệu của một
cuộc trao súng giữa rừng khuya. Cha Hảo thích gọi tôi và buồng khoá
hai lần cửa, khoát tay vào những ngăn tủ đầy thuốc và đồ mổ: “Hồi
nào… e hèm… tới khi chuyển đi, bác mới bao gói thiệt kỹ, giờ để vậy
coi tự nhiên hơn…”
Có gì đấy rất đáng thương ở cái bộ ba chân thành và mềm yếu này,
đang cố giữ một tia hy vọng vừa chợt loé, cố tìm nguồn vui qua những
kỷ niệm được gói trong giấy bóng màu của mơ ước pha lẫn ảo tưởng.
Nghĩ cho cùng, họ cũng có lý khi tin tôi. Dù sao tôi vẫn gần cách
mạng hơn họ. Một ngày nào đó, giữa lúc ít chờ đợi nhất, một bàn tay
từ bóng tối sẽ nhô ra kéo tay tôi, một giọng thương yêu sẽ gọi: “
Đồng chí Thiêm!”. Ôi hai tiếng đồng chí thơm như sữa mẹ trên môi,
bao giờ tôi mới được nhắc lại?
Tôi tự học chừng năm rưỡi thì chụp và tráng được phim màu, phóng
được ảnh màu. Ông chủ tiệm giao tôi làm thử vài tuần, thấy khách ưng
ý mới dám tin. Ông bỏ tiền mua máy điều hoà không khí, dọn buồng cho
tôi ở ngay trong tiệm, năn nỉ tôi làm phiên dịch, tất nhiên là tăng
lương. Bọn tề Qui Nhơn quên tôi, giấy tờ Đà Nẵng đã đủ, tôi không
cần giấu mặt nữa. Tiệm chụp hình Con thỏ biến thành Thiên thai ảnh
viện tức Eden Studio, đắt hàng hơn trước nhiều. Tôi vẫn tu ép xác
như cũ, để tiền gửi về giúp má tôi và phụ thêm cho Út Hiền được đi
học. Chung quanh tôi đã có nhiều bạn thân, toàn thợ trẻ cả, hay gây
sóng gió trong những cuộc họp lớn nhỏ của Liên hiệp nghiệp đoàn Đà
Nẵng. Tôi chọn sáu cậu thật vững, đưa cho đọc tập điều lệ Đoàn in đà
trên giấy nứa, của quí nhất tôi còn giữ được. Mừng quá đỗi, có cậu
khóc oà. Chúng tôi tự ghép thành một tổ, thề sống và đấu tranh theo
lý tưởng Đoàn, dù chưa biết bao giờ mới được nhận là đoàn viên.
Rồi tôi cũng tìm ra đầu mối. Không, cách mạng tìm đến tôi mới đúng.
Út Hiền từ Qui Nhơn ra thăm tôi, rút đưa một cuộn phim: "Anh gì đó
xưng tên Dư, bạn anh, nhờ anh tự tay tráng giùm. Ảnh dặn em cất kín,
ánh sáng lọt vô là hư hết, người như anh mới làm nổi việc này. Ảnh
hẹn mươi ngày nữa trở lại". Tôi mở hộp, thấy ngay con dấu "trái tim
lửa" trên giấy bao ngoài, suýt kêu to. Cậu Dư rách mông, cùng tổ
Thanh niên cứu quốc đầu tiên với tôi, dùng cái mặt nhẫn đu-ra in dấu
này làm tín hiệu, lâu nay bị địch lùng riết lắm kia mà. Tôi vọt ra
buồng tối tuy đã khuya, run rẩy tráng, hãm. Đoạn phim chỉ có sáu
kiểu, sáu trang chữ chụp lại. Rửa sơ, không đợi khô tôi lắp máy
phóng liền liền sáu ảnh 13x18, gí mắt vào chậu thuốc đọc ngay những
chữ đen đang hiện dưới đèn màu cam. Một lá thư viết tay của Dư, năm
trang tài liệu đánh máy về tình hình và nhiệm vụ, dưới đề "Bình
Định, 2-1958". Tài liệu ra tháng trước, mới tinh.
Lá thư giao cho tôi những hai chỗ móc nối ở Đà Nẵng.
Hai đốm sao.
Đêm đen đã bị chọc thủng.
*
Duy Hảo với tôi ngồi tránh vắt trên tảng đá giữa suối. Tôi lấy đá
nhám mài mấy cục chai cứng như sừng ở bàn chân, nghe Hảo kể rất say
những ngày làm chủ Đà Nẵng của học sinh và công nhân. Nếu trên cho
tôi về thành hoạt động, chắc bỡ ngỡ lâu đấy, phố và người đều khác
xưa. Chuyện của Hảo giống như dây câu thả xuống đáy ao, kéo lên
những kỷ niệm đã chìm từ lâu, rêu bám đổi màu nhưng vẫn rất gợi nhớ.
Tôi hỏi tắt ngang:
- Quên, em mày đẻ trai hay gái?
- Trai, ba ký rưỡi. Biết nó đặt tên gì không?
- Chắc lại thêm một Mộng nữa giáng trần...
Hảo nhìn tôi, mắt rất sâu qua kính trắng. Một cái nhìn dài, nhiều
nghĩa, rõ nhất là ý trách móc:
- Huỳnh Ái Trung. Nó nói với chồng về Sài Gòn nó nhớ miền Trung lắm.
Tôi cọ rất kỹ một vết chai, đợi mặt mình bớt nóng. Tôi đã xin lại
cái tên Trung của anh lái xe tải bị chặt đầu, chỉ dùng nó khi gửi
những mảnh thư nhỏ đến cho Hảo, nói bóng về công tác bằng giọng bông
phèng ma mãnh của học trò chuyền giấy cho nhau dưới mũi thầy giáo.
Ai ngờ cái tên ấy nhảy sang một đứa trẻ... Nga liều đến vậy ư?
- Nè Thiêm...
- Gì?
- Lặng im nghe tao xử cái tội yêng hùng rơm. Con Nga ưa mày, ừ nói
trắng ra là nó yêu mày, mày biết mà cứ làm lơ. Chắc mày đứng trước
gương, vỗ ngực nói vầy phải không: tôi không ham sắc ham của, tôi
không quyến rũ em gái bạn tôi, tôi đáng bực hiệp sĩ Tây hay quân tử
Tàu...
- Tàu lao. Nga với tao...gì đâu...
- Trong lúc non sông mờ cát bụi, phải đâu là hội kết uyên ương(9),
mày vĩ đại mà, tao còn lạ!
Tôi cười muốn sặc.
Vậy đó, có những tâm sự chỉ ngỏ được với người sơ, phải giấu bạn
thân. Không thể nói toạc rằng tôi mến Nga, thương hại một ít, nhưng
không hề yêu cô giai nhân em Hảo. Nói, Hảo sẽ giận chí chết, mà chắc
gì đã chịu tin cho.
Trước khi "nhảy núi", Hảo đã yêu liên tiếp chừng nửa tá cô gái, chọn
toàn cô xinh. Yêu thật chứ không lăng nhăng đâu, lần nào cũng say
sưa từ vài tuần đến vài tháng. Sau đó thì cả thèm chóng chán, cậu
lảng dần, cũng có khi bị cho ra rìa, nhưng vẫn giữ nguyên cách nghĩ:
"Xấu nết còn sửa được, xấu người thì chịu". Hảo tin ở sức mạnh vạn
năng của sắc đẹp đến nỗi không thể tưởng tượng rằng tôi chê Nga. Cậu
hay khuyên tôi khi ở Đà Nẵng: "Mày hơi yếu về mặt bằng cấp, gia tài,
được cái điển trai cũng khớ, lại là cách mạng nòi. Cứ tấn công đi,
ba tao thích mày, thêm tao nội ứng coi như ăn chắc!". Thấy tôi lờ,
Hảo chỉ đoán tôi bị mặc cảm tự ti hoặc giữ cái khí thái của người
chưa gặp vận. Có lẽ về sau Hảo sẽ hiểu dần: tôi không nghĩ tôi yêu
Nga là với lên. Trái lại.
Mộng Nga càng lớn càng đẹp, biết mình đẹp, rất chịu khó làm đẹp. Đã
vậy, Nga lại là con cưng của nhà trí thức giàu, lại có bằng tú tài
toàn phần mua bốn chục ngàn đồng, lại biết pi-a-nô, vẽ, thêu, đan,
do các thầy cô đến dạy tận nhà sau khi thôi học. Nga thích nghe
chuyện cách mạng, đôi lúc dám nhận vài việc thật dễ như mua giúp ít
thuốc, chuyển một lá thư không mật. "Em yếu tim, em dễ xúc động,
thần kinh em đâu có vững như các anh". Kèm nụ cười rất duyên đã được
nắn sửa kỹ bằng gương và ảnh. Người thợ chụp hình ở tôi rất chuộng
nhan sắc: bốn kiểu ảnh màu đạt nhất của Nga được phóng to, lồng
kính, treo chỗ trang trọng trong phòng khách Thiên thai ảnh viện,
khối kẻ trầm trồ. Bấm máy xong, tôi không để ý đến Nga nữa, tuy biết
Nga tìm tôi không chỉ vì muốn chụp.
Bà mẹ sợ thứ sô-cô-la Nhật pha thuốc kích thích - sợ là phải, lắm cô
đã bị cấm - cấm Nga đến chơi nhà con trai. Cấm sao nổi. Nhiều hôm
Nga ở lại giúp tôi chấm ảnh, xén ảnh, nói những câu chuyện dài dài
có nhiều chấm lửng, tôi vẫn giữ khoảng cách đều đặn như hai chúng
tôi đi song song trên hai bờ của một con suối ngoắt ngoéo. Khi Nga
đối đáp với một ai khác, tôi lặng lẽ ngắm gò má đánh kem rất khéo,
hàng mi nhuộm hồ ri-men cứng và bóng, mi mắt tô xanh đen, những móng
tay nhọn bôi hồng có ánh xà cừ, và tự hỏi: "Nếu mất đi lớp vỏ của
người-đẹp-trên-bìa-sách, mất số của hồi môn, cái bằng, lượt véc-ni
tài hoa rất mỏng, sẽ còn lại cái gì vững bền ở cô gái này? Lý tưởng,
lòng ham hiểu biết, sức vươn lên lập thân, sao Nga có quá ít? Cuộc
sống mai sau sẽ không để Nga nhởn nhơ giữa vòng những người quỳ gối
dâng tim như hiện nay, Nga sẽ chuyển, nhưng chuyển theo hướng nào?".
Tôi thương Nga tốt bụng, đang khổ vì mẹ cha âm thầm lìa nhau, anh
Hảo ở xa không giúp em được mấy. Có lẽ Nga muốn nhờ tôi lái đời
mình, nhưng lại sợ tay lái của tôi thô bạo. Mà có thể Nga còn ngại
những chênh lệch mà chính Hảo cũng nói trắng với tôi.
May phước, tôi không là anh Trương Chi, cũng chẳng phải thằng Sở
Khanh. Tôi chỉ là tay thợ ảnh được giao nắm hơn chục cơ sở Đà Nẵng,
trong đó có Duy Hảo. Tôi chẳng phái nén mình lên gân gì cả khi nói
chính trị với Nga, khuyên Nga như người anh, và bắt gặp trên mặt Nga
những nét hờn dỗi hay âu yếm không dính tới đường lối chính sách của
cách mạng miền Nam. Cứ như vậy đến ngày tôi trao đầu mối lại cho
đồng chí khác, rời thành phố đi cầm súng...
Nga lấy chồng năm kia, một cậu học ở Pháp về. Cách kén rể của bà mẹ
đã đổi chút ít theo thời thế, bà dỗ con: "Lấy nó thì cả đời khỏi lên
voi xuống chó gì hết, bên nào thắng cũng cần cái anh kỹ sư xây lại
cầu đường chớ". Ông cha im lặng, chưa ưng mấy nhưng chẳng lẽ cầm
duyên con gái. Hảo tiếc giùm cho tôi, biết Nga không quên tôi.
Hảo lại lau kính, buồn buồn:
- Cái dạo chống hiến chương Vũng Tàu, con Nga theo bạn bè xuống
đường bị mấy trái hơi cay sưng mắt, nó đeo kính đen đi khoe con mắt
với tụi bạn tao hoài, thiệt tội... Mẹ tao giữ riết quá. Phải chi tao
đem được nó theo, lên đây có mày nữa... Thôi đừng làm bộ! Nó vô văn
công, tới diễn cho bộ đội coi, mày năn nỉ xin làm em tao liền một
khi!
- Với tất cả những cái nếu... Mà thôi hụt làm em thì tao chỉ huy
mày. Tao hái rau, mày kiếm củi, lát nữa húp canh toàn quốc(10) cũng
mát ruột. Vị tinh Hồng Công của mày đâu?
Chúng tôi có lu bù chuyện để kể và cải. Còn đêm nay với ngày mai đi
chung nữa, lo gì.
Chú thích
(1) Dùng tay để tuốt lấy hạt lúa khi thu hoạch
(2) Một loại rượu ngon của dân tộc Catu, lấy từ cây đót hoặc đoác
(3) Tiếng Co: đường này, đường này
(4) Tôi nói tiếng Gia - rai được một ít
(5) Giao liên trên đường dây rẽ ngang
(6) Hệ giáo dục phổ thông chín năm hồi kháng chiến. Lớp 9 cũ tương
đương lớp 12 bây giờ
(7) Bà mẹ (Tiếng Pháp)
(8) Nhân vật trong “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng
(9) Thơ Thế Lữ
(10) Tiếng đùa: canh cả nước là nước
Chương 6
- Bom, nằm xuống!
Tiếng hét nhọn như kim xóc vào màng nhĩ. Tiếng bom huýt dài, kêu rắc
như cây đổ. Chưa kịp mở mắt tôi đã làm ngay những cử động thuộc
nhuyễn: tay phải chân phải cùng bật ngang ra ngoài võng, ngoặt xuống
tìm đất, mình lật nghiêng, cả người rơi sấp. Hai tay đỡ không cho
ngực bị tức, thường đúng tích tắc ấy bom nổ, mặt đất nảy ngược rất
mạnh hất bổng tôi lên tôi vẫn kịp “ hạ cánh “ lần thứ hai trước khi
mảnh réo qua lưng.
Một loạt tiếng cười rộ. Mắc lừa rồi. Tôi đứng dậy, nhìn những hàm
răng lạ chung quanh, nhớ ra trạm giao liên. Ở xã mình, các tay tếu
cũng hay tập báo động cho nhau kiểu này, có khi chỉ phá quấy chơi.
- Anh Thiêm! Địch ở xa cứ ngủ yên nghen
- Anh Thiêm! Dậy trở mình chút chớ mỏi
Duy Hảo nín cười trước, tuyên bố tôi được xếp hạng A về phản xạ có
điều kiện. Tay Hảo còn cầm nhánh cây tươi bẻ gập giả tiếng bom xuống
gần lưng người.
- Tao thử trên năm chục lần, mới có 7 người đáng loại A. Đô đốc
Thiêm có khác, con nhà võ...
- Thử lần nữa thì vợ mày ở goá!
Tôi gí nắm tay sát mũi Hảo, rồi phủi đầu gối.
- Nhờ trời, vậy còn lâu....Cho qua chuyện khoa học. Tới giờ lên
đường, mời đô đốc cho lệnh hành quân!
Trên sạp xếp một dãy bao bột no tròn, ngấm đen mồ hôi ở mặt áp lưng:
Một nhóm cõng gạo từ đồng bằng đi lên đã đi suốt đêm, vừa tới trạm.
Hảo bị mắt kém, mò đêm chỉ làm khổ anh em hết đợi lại hú lại tìm,
nên bám đường dây tiện hơn. Hảo gật gù hỏi kỹ các chặng đường về chợ
Minh Huy. Tôi cao hứng vạch luôn sơ đồ trên sân: đường núi hai ngày
nhé, qua sông Tranh tới Tiên Lãnh, lại vượt núi về Phước -cẩm, qua
một chặng đèo nữa, mất chừng bốn ngày với vài tiếng đêm. Chung quanh
lại cười, cười gì chẳng hiểu.
Hảo nói rất kính cẩn:
- Dạ, kính xin đô đốc xếp cái bản đồ lớp đồng ấu lại, để em thưa.
Đây là con đường hồi thằng Diệm còn vọc nước đái trong nôi, mà nay
đã tới năm sáu mươi lăm đại thắng, nhờ ơn các anh giải phóng...Tao
sẽ dắt mày đi bộ mười lăm phút tới làng, mượn xe đạp của ông bạn thợ
may, đèo nhau phóng về ngã ba An Lau ăn bún bò quán bà Sô, thẳng
đường ôtô xuống chợ Ngọc Nha, mỏi chân thì lên xe hàng đi vài chục
cây số cho nhớ mùi xăng. Bữa trưa, ta đánh một trận mì Quảng kèm bia
ở chợ Cây-xanh, ngủ một giấc, chiều mát đạp về Minh Huy là vừa.
Tôi sửng sốt tưởng Hảo còn đùa. Trạm trưởng Hùng gật đầu:
- Đi tốt. Anh em mới về nói địch không có chi, sáng trăng đi cho mát
thôi.
Tôi vẩn chưa tin hẳn. Cái trạm này...vẫn mái lá mây thưa, sạp tre,
nền nhà đầy gốc dựng, cái máng đưa nước suối về róc rách ngày đêm
cạnh bếp, con heo ụt ịt cọ lưng vào mông tôi nằm võng. Vẫn là trạm
núi. Và con đường Hảo nói, khi tôi rời đất Quảng nó vẫn đeo bên hông
cả chùm đồn bót và ấp chiến lược như cành sung đeo trái, tìm một chỗ
băng qua ban đêm còn khó, tính chi đến chuyện đạp xe giữa ban ngày.
Vùng đồng bằng đỏ gạch những bùn mà tôi ngắm trên triền núi lở, khắc
khoải tìm dấu hiệu của sự sống, mới đây thôi đã thay da đổi thịt đến
vậy ư?
Tôi nôn nao muốn xốc ngay ba-lô. Hảo bắt tôi cạo râu, thay mặc bà ba
đen, đeo súng ngắn và túi dết dưới áo. Lát nữa chúng tôi sẽ đi kiểu
“hợp pháp”: đội nón lá, nhét ba lô vào giỏ buộc hai bên chỗ đèo
hàng. Thằng địch bị ém, lo giữ các thành phố và căn cứ, càn ít hẳn
so với năm ngoái, nhưng hay “du kích “ lại ta bằng tàu rà thổi
rốc-két và trực thăng chụp xuống bắt cóc người đi lẻ, còn cái sự bom
pháo thì chẳng hơi đâu mà để ý.
*
Chúng tôi không vội vã mà vẫn đạp vèo vèo cho say gió. Trên khúc
đường đất chi chít những vết xe thồ, chúng tôi in thêm hai sợi dây
răng cưa: bánh trước nghịch ngợm lách qua luồn lại, bánh sau nghiêm
chỉnh hằn sâu, gợi những dấu chân của trâu mẹ và nghé con trên đồng
ruộng. Rồi xe lăn rào rạo trên đường rải đá, về hướng thị xã Tam Kỳ.
Một làng chiến đấu. Nhiều làng chiến đấu. Dây kẽm gai giăng lưới
trên đỉnh các trụ cao ba bốn chục thước, chống trực thăng chụp xuống
giữa làng, à, một cái mới, tôi chưa gặp kiểu rào trời này ở Bình
Định. Hầm tròn nối chuỗi hạt đều đặn bên đường. Các bác đào mương
lắc đầu cười khi chúng tôi lái xe đạp chậm qua cá hố chống tăng xếp
hình nanh sấu, qua một khúc rào lắt léo chữ chi, qua những súc gỗ to
chôn đứng, qua bãi chông chừa một lối đi rắn lượn. Cờ khắp nơi, cổng
chào và biểu ngữ khắp nơi, một đám hội của những màu những lời đánh
Mỹ. Vùng mới giải phóng có khác, các cô du kích gác đầu làng cũng
mới tinh như vừa rời hãng búp bê, quai súng thắt nơ hồng, mũ tai bèo
chưa kịp bạc màu và được rút dây bằng ống nhựa đỏ cắt từ nắp bút bi,
hầu hết ửng mặt quay đầu khi Hảo đưa giấy và trêu: “Có bắt tôi
không?“, áng chừng họ đã quen với hai tiếng “bắt chồng“ từ miền núi
lan xuống.
Núi lớn lùi xa, ngả từ màu lá sang màu trời. Trời cứ mở rộng mãi ra.
Lúa trải thênh thang hai bên đường, những mảng chín sớm nổi sáng
vàng tươi giữa cánh đồng đang vô gạo hay cứng gạo. Có cơm mới rồi.
Những vồng khoai đan lóng mốt vào nhau thành tấm phên nứa xanh xoay
tròn chậm chậm. Cây dầu lai đằng kia cũng xoay, khoe cho hết những
cụm lá non trắng xoá như bọt sóng, tãi trên nền sẫm của tán cây. Bọt
đọng trắng đầu cành, một nét của lụt lớn...
Tôi tìm dấu nạn lụt. Còn nhiều. Đất chưa lành hẳn, nhưng đang kéo da
non hối hả. Sườn núi lở đã đậm màu dưới nắng sấy và cỏ mọc vội. Cát
lấp ruộng được cào dồn vào một gốc thửa vun thành đống cao như cái
muống đường cát Quảng Ngãi đang rút mật, để dần dà được gánh đổ trên
nóc các hầm tránh bom. Một tổ đổi công cuốc vỡ lại khoảng ruộng lấp
đầy, con trâu gò lưng kéo cái cộ(1) chở đá và cát đi trút xuống rãnh
nước xói. Chung quanh tôi tất cả đều lột da trẻ lại. Mương mới vét,
bờ mới đắp, căn nhà tranh bên đường từ nền tới mái đều mới, chiếc
cầu sạp tre bắc đè trên cầu xi măng sập cũng chưa kịp sạm da. Đất
mình khoẻ lạ. Mấy ngàn tuổi mà đất với người vẫn sung sức lứa đương
trai.
Hơn chục em nhỏ cắp sách đi ngược chúng tôi, cự ly năm thước rất đều
để nhảy hầm cho gọn, chào nối nhau như điểm số: “chào các anh ơ!“
Cái tiếng ơ hẳn là dành cho lứa bạn chơi được thay cho tiếng ạ quá
lễ phép. Tôi xuống xe, bắt cho hết những bàn tay nhỏ xíu giơ thẳng
thành một chuỗi bông hoa năm cánh nở dọc hàng rào dễ thương không
chịu được. Tiếng trẻ em là thước đo vui buồn của mỗi làng. Leo qua
rào ấp chiến lược ban đêm, tôi chỉ nghe tiếng các em giật mình ré
đứt hơi, cắt ngang điệu nhạc du côn hay giọng hát đĩ thõa của đài
địch. Làng nổi dậy, tiếng hát của các em cũng nổi dậy, còn vụng
nhưng hăng say hết cỡ, cuộc đổi đời nào chẳng vậy. Và đến khi trong
xóm ngân tiếng bi bô của các em tập đọc, lúc ấy ngày mai mới thật
nảy mầm trong cái hôm nay nhiều đau đớn. Ban nãy tôi ngó qua một căn
nhà có tiếng trẻ khóc nhè: người mẹ lật qua lật lại cái áo bà ba đen
nhỏ xíu trước mặt đứa con, đứa bé cứ giãy chân lắc đầu, chắc đòi
sơ-mi kiểu bộ đội kia. Miễn sao các em không phải khóc đói hay khóc
bên xác mẹ, vậy đủ mừng rồi. …
Có tiếng máy bay. Cặp tàu rà quay lại chăng? Tôi nhìn quanh, chợt
thấy một cái đầu ôtô ló trên đỉnh dốc với cặp mắt cá vàng. Hèn gì
cây cầu xi măng chúng tôi vừa đạp qua còn nguyên! Hai chiếc xe đò
nối nhau xuống chậm. Các cửa sổ đầy chật những bộ mặt tươi nở, xoay
nhìn theo chúng tôi rất lâu: ai lên đây mà chẳng tìm một nhà người
quen “đi giải phóng “? Tôi vẫy tay chào chiếc xe gặp đầu tiên,anh
lái hãm lập tức, chắc tưởng chúng tôi muốn soát xe hay lên đi một
quãng. Tôi vội xua tay bảo đi, bà con cười ồ. Vui ghê. Chiếc sau -
một Xi-trô-en về già - khiến tôi ngứa miệng ngứa tay, muốn chặng xe,
lật capô, gắt anh lái xe một mẻ sượng mặt. Máy gõ lóc cóc, phun khói
đen kịt như M.113, cứ để như vậy chạy thì bằng đốt xăng nướng xe!
Vài cái xéc- măng giá bao lăm mà không chịu thay, hả?
Rồi tôi bật cười một mình,gò lưng đạp. Cũng cái máu “kiến nguy bất
cứu mạc anh hùng“ của ba tôi, thấy máy bị xài ẩu là nhào vô bênh như
bênh trẻ con bị đánh, của ai mặc kệ. Tên là Rảnh mà cả đời ba tôi
bận hơn ai hết, thật tội, bởi cứ mua dây buộc mình. Chắc hẳn chủ xe
đã tính kỹ: thay méc-xăng mới không lợi bằng chạy liều hao xăng, tụi
ngụy thua bạc vẫn nửa đêm đánh “quân xa“ tới nhà,ném bừa xuống sân
hàng chục can xăng, đưa trả vài trăm cũng cầm vội, đi gỡ. Trong trận
càn hôm sau, tụi Mỹ mặc sức mà há miệng giơ tay khi nghe gào trực
thăng chở xăng tới gấp, khi đọc báo cáo thấy số xe bốc cháy hình như
nhiều hơn số mìn của Vi-xi đã nổ... Cứ sưởi ấm tuổi già bằng xăng Mỹ
đi hỡi bác Xi-trô-en sắp về hưu!
Gần đến Ngọc Nha, chúng tôi gặp máy bay ném bom. Hai chiếc AD.6 đang
phá nốt cái đồn mà trung đội dân vệ nổi dậy theo ta đã đốt rụi, rõ
là chúng tức đến xúc đất đổ đi? tụi phản lực Mỹ cho đến nay vẫn đánh
vùng núi nhiều hơn, mé đồng bằng này còn giao chọn bọn ngụy chó cậy
gần nhà.
Chúng tôi rẽ vào vườn mít,tránh thằng L.19 và nghỉ một lát. Tiếp hai
người đàn bà quảy gánh cũng ghé vào. Họ đặt gánh, lật nón ra quạt.
Tôi còn ngờ ngợ, vẫn kêu thử:
- Kìa, cô Mẫn!
- Trời đất, anh... anh Thiêm đây nè chị Tám!
Tôi gặp lại một cô Mẫn khác hẳn, khác đến nỗi tôi cứ muốn nghĩ đây
là cô em, còn dạo trước tôi cùng cứu lụt với cô chị. Hai chị em có
vóc người thon dẻo và đôi mày rậm đen giống nhau, nhưng cô em trẻ
tươi hơn nhiều, má bầu bĩnh đỏ au, cổ tay tròn lẳn. Cô chị hay dè
giữ, khô, còn cô em đang cười nói rối rít:
-Bọn em nhắc các anh miết. Chị Tám rầy, nhắc vậy các ảnh nhảy mũi,
đi đâu vấp đó. Bà con cũng rầy em sao không ghi số hòm thơ để gửi
giấy cho các ảnh. Em có gởi một lá đề C.215, huyện trả lại còn chỉnh
cho nữa, ức thiệt chớ. Kỳ này nhứt định phải ghé Tam Sa nghe anh? Ở
chơi lâu lâu, ăn đều mỗi nhà một bữa, giáp vòng mới được đi nghe
anh? Mấy anh kia đâu? Chú Dé đâu? Chú Ba Tơ đâu... chú Cẩn hết đau
bụng chưa?
Tôi trả lời mấy câu hỏi vội vàng, nghe kể chuyện Tam Sa, mãi không
hết thấy lạ. Có phải cái không khí say người của chuyến đi trong
vùng giải phóng rộng thênh đã khiến Mẫn cũng ngây ngất như tôi, hay
là cô gái Tam Kỳ đã đổi thịt thay da cùng với đất Tam Kỳ? Mẫn vừa
ghé xưởng quân giới xin các thứ về đúc thủ pháo, mở nắp đôi bầu cho
tôi xem một mớ kíp nổ, nụ xòe, dây cháy chậm, cứ cười dài: “Xin được
nhiều, nhờ em mới học lớp binh vận ba ngày đó anh!“ Tôi nhìn Mẫn
chăm chú, có lẽ Mẫn chợt nhận thấy mình vồ vập quá, vụt đỏ thêm hai
tai, ngoảnh sang chị Tám ấp úng:
- Ủa, chị Tám... không hỏi tin ảnh à?
Chị Tám Giàu mải xem máy bay chồm chúi, hay giả bộ xem chẳng biết,
quay lại tủm tỉm:
- Nhắm chừng hỏi cũng chẳng được nước non gì...Thì hỏi: bớ hai anh
đi đường cái quan, có gặp chồng tôi tập kết về không?
Chị Tám là cán bộ huyện. tên là Giàu nhưng lại nghèo nhất trong số
các chị em cán bộ hay lui tới Tam Sa, tôi nghe nói vậy. Chị có đủ
những nét của các chị lấy chồng ba ngày, đợi chồng mười năm: vẫn còn
nguyên những cử chỉ e ấp, điệu cười mắc cỡ che miệng, dáng đi óng ả
của cô dâu mới năm xưa, trong khi tóc rụng theo lược đã hơi thưa đi
trên trán, má bắt đầu nhám và hóp, chỗ lúm đồng tiền tròn xoay dấu
chấm đang ngã dần thành dấu phẩy- về sau sẽ hoá ra ngoặc đơn rồi
ngoặc kép – mắt bớt trong và đuôi mắt đã hiện nhiều vết khía li ti.
Mỗi ngày một ít, chị lặng lẽ hi sinh cái hạnh phúc làm vợ, dâng hiến
nốt cái quãng đời có thể làm mẹ cho nghĩa lớn. Chị thương chung anh
em bộ đội với cái bao dung của người chị thương lũ em chồng vừa
ngoan vừa quấy. Lứa trai trẻ chúng tôi hay đùa ác, thích trêu những
sự “mai sau thống nhứt nước nhà, áo đen làm chị áo đà làm em “,
nhưng rất hiểu và phục các chị. Chúng tôi hay bàn đến một loại huân
chương Chung thủy dành cho những người chị đang phá tất cả các kỷ
lục về tình yêu son sắt.
Duy Hảo ngồi lật xem một xấp thư, mặt tỉnh khô, ra vẻ “tao né một
bên rồi đó“. Khi nghe tôi nói với chị Tám kha khá, cậu mới chen vào:
- Cô là Phan Thị Mẫn ở Tam Sa, đúng chớ?
- Dạ.
- Có thơ của Út Hoà gởi.
- Thiệt hả anh? Đâu?
Mẫn vừa kể đã cho hai em đi xa vùng ác liệt ít lâu, lớn thêm chút
nào hay chút ấy trước khi về cái xã từng giờ xô xát của mình. Ba Tâm
làm giao liên cho huyện, được việc lắm, bị cái nhác học. Còn Út Hoà
mới mười ba tuổi, khai lập lờ theo tuổi ta là mười bốn, đã được vào
lớp cứu thương của tỉnh, nhờ học khá nên các ảnh cho theo tiếp lớp y
tá bốn tháng. Đọc lá thư em gái – bì, giấy chữ đều và nhỏ xíu - Mẫn
cau mày, rồi chớp chớp mắt, rồi chớm cười bên mép, khi đưa thư cho
chị Tám mới cười hẳn:
- Chao, miếng giấy bằng bàn tay mà hết ba phần tư xã luận! Nó hằm
hằm về xã, không chịu ở lại bệnh xá, mà nói y cái giọng bà già dạy
nàng dâu, kinh chưa chị!
Chị Tám ỡm ờ:
- Thì bắt chước chị nó chớ ai bày!
- Em mà bà gia?
- Không bà gia cũng quá cha dì ghẻ. Anh Thiêm nhớ không, dạo xưa hễ
nó gặp anh là mặt cứng như gỗ, nói lạnh như đá, phải chưa?
Chúng tôi cười rân. Mặt Mẫn đỏ tía mà chị Tám chưa thôi:
- Cứ như mặt trời mọc như vậy mới dễ coi chứ. Anh thấy bây giờ nó
xinh ra, nó trẻ người trẻ nết....
- Lạy bà, cho con sống với!
Mẫn giúi chị một cái nên thân.
Đã hết máy bay. Hảo nháy tôi, bàn đi bộ một quãng cho dẻo chân. Hình
như chị Tám với Hảo cố ý dắt xe đi trụt đằng sau. Mặc kệ. Tôi nói
nửa đùa nửa thật:
- Cô.. bí mật số một đó nghe.
- Bí mật?
- Cô lạ lắm. Muốn trẻ thì trẻ, muốn bà cụ non cũng hoá bà cụ liền,
chị Tám nói đúng. Khi thân thì thân, hễ làm mặt lạ với nhau...
Tôi chợt bắt gặp nét buồn đến rất nhanh khiến mặt cô gái tối sầm.
Buồn, không phải giận. Đôi mắt rất đen ngước nhìn tôi, lại nhìn
xuống đất. Vẫn đôi mắt muốn kể gì đấy mà tôi không hiểu. Mẫn xoay
đòn gánh đổi vai, ngập ngừng:
- Hồi nào anh về làng em lâu lâu...Chuyện hơi dài…thôi để sau đã.
Tôi hối đã làm Mẫn mất vui, mà vẫn không hiểu gì hơn về cô bạn. Bạn
chiến đấu thôi, tất nhiên.
Đến ngã tư chợ Ngọc Nha, chúng tôi rẽ hai hướng. Tôi bắt tay Mẫn,
đọc trong mắt Mẫn một lời gì như cầu cứu hay đòi hỏi. Có thể tôi
lầm. Con trai chúng tôi dễ lầm bởi hay đoán đằng sau những đôi mắt
đẹp chỉ có những ý tình đẹp. Mẫn cười lần nữa, hơi gượng. Tôi ngắm
hàm răng trắng bóng và nhỏ đều, nghĩ đến cái tên Ngọc Nha ai khéo
đặt, và chỉ nghĩ bấy nhiêu.
Đến phiên tôi đạp. Duy Hảo ngồi sau, lên tiếng cà rà:
- Ê, hàm, bây giờ mới gặp ma ăn giỗ. Nàng là người có đôi mắt huyền
của công chúa Ả- rập, ừ rât Ả-rập. Thân thể đẹp như vũ nữ ba-lê. Vui
ra vui, cũng mau hờn tủi khi chàng đóng vai Đạo Đức Thiêm hơi kỹ.
Cây mới ươm phải bón phải rào. Tao rào cho nàng một bí danh rất bí
là Sêhêrađát(2), xin tặng mày ít chục giấy hồng thơm, bì thơ có hình
bồ câu và tim các cỡ to nhỏ...
- Tầm bậy! Quen sơ sơ thôi.
- Chàng là kẻ đa nghi, nhớ câu tin bạn mất vợ...
- Vợ thiên hạ, vợ của tao đâu mà mất!
- Hỏi thiệt nghen, mày giấu mày chết: tao giới thiệu cho mấy thằng
còn mồ côi vợ ở bệnh xá, mày ưng không?
- Rất ưng. Cần thì tao thuyết giùm cho. Cô này tốt lắm mà tánh nết
không hợp với tao, xin kính nhi viễn chi thôi.
Hảo cụt hứng không vặn thêm nữa.
Cậu ta mới lên vùng giải phóng chưa đầy một năm mà đã quen đất quen
người ghê. Đến chợ Cây-sanh, Hảo kéo tôi vào quán mì Quảng “ngon
nhất trong vòng mười cây số bán kính”, hỏi các món, gắt anh chủ quán
bằng cái giọng người nhà:
- Thú cao lâu Hội An mà đặt tên phở xào thập cẩm là bắt chước dại!
Cho trước hai tô coi thử. Ừ, bia “băm ba”, hai ly pẹc-nô. Mày uống
pẹc-nô hay quăng –trô?
- Thôi đừng quăng tao xuống ruộng!
Tôi bông lơn để tránh nói rằng tôi mù tịt.
Đời sống thành phố cũng lạ: một người đói lả ngồi bên một kẻ khổ vì
thừa mỡ, đùi sát đùi trên tàu xe mà vẫn nguyên vẹn hai thế giới
riêng. Hồi ở Đà Nẵng tôi hay mắc vào một bi kịch nhỏ. Bị cơn đói
hành hạ sau buổi đạp xích lô, không dám ăn vặt vì bầy con ông cậu
chưa đủ no, khi phải ghé nhà Hảo tôi rất sợ cái mùi xào nấu thơm
lựng làm nước bọt ứa đầy miệng. Tôi chỉ bấm chuông hai lần bốn tiếng
như đã hẹn, đứng bên cổng dặn Nga việc gì đó cần làm, xong chuồn gấp
về nhà kiếm ít cơm cháy. Mộng Nga không bằng lòng, nhưng chỉ thấy
tôi hơi tỏ vẻ “ly kỳ rùng rợn”, làm sao hiểu được bụng dạ của người
thiếu bữa.
Hảo thổi bọt bia, cười cười:
- Uống bia mới, nói chuyện cũ...Mày nghĩ kỹ chưa?
Tôi nhớ. Năm ngoái, Hảo tìm gặp tôi ngay sau khi ra vùng giải phóng
Quảng Đà. Chúng tôi mừng lắm, buộc võng nằm ngoài vườn, uống bia và
rủ rỉ suốt đêm. Hảo ngạc nhiên khi biết tôi là trung đội trưởng. Cậu
hỏi rất thật:
- Hay mày bị phốt(3) gì, lên chậm?
Tôi chẳng có gì nổi bật, nhưng phốt cũng không. Hảo đắn đo lâu lắm,
khi sắp ngủ mới thấp giọng:
- Tao chân ướt chân ráo, mới vỡ lòng làm cách mạng. Hễ mày không
giận thì tao góp bậy một câu... Ai quen mày cũng phục mày thông
minh, nhiều tài. Mới lớp bảy mà đã dịch được tiếng Pháp tiếng Anh,
biết cả chữ Hán, thêm nghề thợ gia truyền nữa. Con Nga tới tiệm
hình, thấy mày cải róc róc với tụi Mỹ, tụi Gia-nã-đại, nhờ mày dịch
mấy bài nhà trường đều ăn điểm cao hết, nó tôn mày làm thầy không
bằng cấp... Yên, yên, tao nói hết. Chắc sai chánh trị hả? Mày lại
theo cách mạng suốt bấy nhiêu năm, từ hồi hiệu đoàn đến giờ, cực
thôi là cực, sao tới nay... vậy đó... Dốt mà hư một cây như thằng
Lãng ghẻ ruồi, đi võ bị Đà Lạt, tháng trước ghé qua tao thấy đóng
lon thiếu tá rồi. Không, tao không cho các ông trên đánh giá mày
sai. Tao tiếc mày chọn nghề không hợp, dùng tài không đúng chỗ, mày
xếp hết mọi thứ giỏi để đi cầm súng, thiệt uổng.
Tôi muốn kể thật cặn kẽ vì sao tôi cố xin nhập ngũ, được vào bộ đội
thì cố xin ra trận, nhưng rồi chỉ cười dài. Quả thật cái triết lý
sống là điều nói ra dễ chạm nhất, dễ có vẻ thầy đời nhất, bởi những
chữ lớn như Tổ Quốc, giai cấp, căm thù, anh hùng, đọc chỉ mất vài
giây mà học trọn một đời chưa hiểu hết nghĩa. Hảo và tôi đã nối nhau
bước vào trường đại học của cách mạng, mỗi đứa một khoa, cầm súng
hay cầm xơranh đều tốt nghiệp thành con người mới... Tôi gói gọn tất
cả vào một ham thích riêng cho xuôi tai Hảo, và tôi không nói dối.
Tôi mê bộ đội lâu lắm rồi, từ khi lũ trẻ chăn trâu chúng tôi ùa theo
níu tay các anh mặc xi- ta xám kéo qua làng... Không, lâu nữa kia,
từ khi chú bộ đội đeo ba-lô trước ngực để dành lưng cõng tôi dọc
đường Gò Găng ra Bồng Sơn, luôn miệng dỗ: “Nín cháu, nín, tàu bay nó
nghe nó bắn”. Cái mẫu người ấy in sâu đến nỗi khi nhớ lại những anh
tốt bụng mà tôi gặp hồi nhỏ, tôi đều mường tượng thấy họ mặc quân
phục...
- Kìa Thiêm, uống đi mày! Buồn ngủ cứng mắt rồi à?
Tôi trở về với phút đang sống. Cái phút rất thú vị: tô cao lầu đứng
trụ bộ ở giữa, chia bia và ly rượu thơm yểm hộ hai sườn, và tôi đang
đói ngấu. Tôi ăn, khen ngon. Hảo gọi làm tiếp, tới đợt ba, sẽ chuyển
qua phở gà. Tôi chợt hết thấy ngon. Hôm tôi đi, xê mình đã cắt người
tìm chỗ dọn rẫy cũ, trồng sắn. Đơn vị đông, hễ kéo lên núi là lo
chạy ăn chật vật, địch rải chất độc nhiều hơn trước, anh em kiếm củ
sắn ghế không? - Vớ vẩn, ai khiến mày lo đời vậy - Mót sắn ở các rẫy
cũ, phát cả gai rách tay rách mặt, đào thật là sâu, lôi lên được ít
củ to nhưng lại toàn xơ là xơ, sắn ăn nhả bã – Thì mày chung đói no
với anh em đã lâu, ăn vài bữa ngon đã sao, đồ gàn!
Một cậu Hảo trong tôi đang bực với thằng Thiêm lẩm cẩm. Thằng Thiêm
không cải chỉ nhớ thôi, nhớ cồn cào. …
Tôi không nhớ riêng cô gái nào. Tôi biết tính mình đã yêu thì say,
na ná như những ai chưa hề bị sốt rét thường bị cơn đầu tiên rất
nặng, nên cố hoãn cái thứ tình cảm đáng ngại ấy đến quá tuổi ba mươi
cho đỡ vướng bận. Mãi cho đến nay tất cả thương nhớ của tôi vẫn chỉ
gồm hai mảng lớn. Một là gia đình họ hàng, với má tôi ở giữa. Những
người bạn đường dài hợp thành mảng thứ hai, ở đó anh Ba Tơ nổi lên
như tảng đá xù xì, thêm chú Dé, thêm mấy cậu nữa, còn ở trung cảnh
có Hảo, Dư, Mẫn, Mộng Nga, có ba cô du kích Quảng Ngãi được xê mình
gọi lóng theo màu da là Út Bông, Út Than, Út Nghệ… Sau chuyến đi dài
từ Tam Quan ra đến Tam Kỳ, sao tôi bổng nhớ xê mình buốt ruột đến
thế?
- Hảo hả? Phải Hảo không?
Một anh mặc bà ba xám chợt xấn xổ đi vào, túi dết đầy căng nẩy trên
mông. Anh thở phì phò, quạt cái nón mới đến đứt chỉ rắc rắc, hỏi
dồn:
- Có xăng không? Mượn gấp vài ba can, làm giấy đàng hoàng, mươi bữa
nửa tháng mình trả...Thì xăng chạy máy chớ, đâu phải xăng đổ bật lửa
Hảo rót bia mời anh cán bộ kinh tế, cười:
- Nhè thầy thuốc mà hỏi xăng sao ông?
- Thì lâm bệnh phải bái tứ phương, thần nào nghe thần nấy giáng! Mới
giải phóng năm bảy cái thị trấn mà đã lắm vấn đề, tới khi làm chủ Đà
Nẵng, Tam Kỳ mới búi to. Cối xây cối giã của đồng bào quanh chợ để
mọt ăn hết, mình phải giữ cho máy xát gạo chạy đều chớ. Máy bơm nữa
nè, đội chiếu phim sắp về nữa nè…
- Ờ, ờ, nghề nào khó nấy. Ngang lưng thì cõng gói hàng, đầu đội
phiếu xuất vai mang chứng từ...
Tôi ghẹo một chút chơi. Anh kinh tế được dịp khoe thêm rõ nhiều rằng
cái thời gởi hàng trên lưng qua rồi, bây giờ phải tính bằng xe bằng
thuyền kia. Anh than thở, nhưng cặp mắt cứ lóng lánh như một bà mẹ
đang kêu nuôi bầy con cực ớn, đậu sởi đủ thứ mà sao tụi nó cứ lớn
phổng lên chẳng biết.
Máy bay địch vẫn cứ ồn từng hồi. Không cần xem cũng nhận ra trên đầu
có ba tầng địch. Trên cao là tụi thần này ma kia đi đánh vùng xa,
luồn hối hả qua các cụm mấy trắng và tảng mây đen, một bầy cá niên
trốn lưới chạy ngược lòng sông đá. Máy bay tải và trực thăng chiếm
từng giữa cùng với số chiếu đấu cánh quạt của ngụy. Thấp nhất là
những cặp tàu rà quanh năm dòm ngó. Máy bay tăng vọt so với năm
ngoái. thế nhưng cuộc sống trong vùng ta cứ ngồn ngộn, sôi sục trào
mãi về hướng Đông. Bước ngoặc lớn của cách mạng miền Nam đã hiện ra
trước mắt, ngụy đang rã, Mỹ sắp vào, có thể kéo theo một lần rẽ
ngoặt nữa trong đời tôi nếu như anh Ba Tơ đoán đúng, biệt phái rồi
từ biệt xê mình đi luôn. Đã rẽ thì không thấy gì nữa đằng sau. Đành
vậy. Con chim ra ràng ắt phải rời tổ thôi, phải tự làm quen với gió
lớn và chân trời mở rộng.
Chúng tôi dắt xe ra đường, đạp thong thả về chợ Minh Huy.
Cái ngày rộn rực này còn dành cho tôi một lần gặp nữa. Gặp người
không quen. Đang đi bộ qua mộ quãng đường viền chông, tôi chợt để ý
hai cái bóng áo trắng quần đen, môt lớn một nhỏ, từ trong xóm chạy
tuôn ra theo bờ ruộng. Người đến trước là một chị khoảng ba mươi,
dừng lại ngó tôi trân trân, thở, rồi quay đi nấc dồn. Em gái tới sau
gắt hổn hển:
- Mẹ… cái rổ đâu? Con biết... không phải là cha mà...
Người mẹ cải ấp úng, rất khẽ:
- Mày thấy mặt cha mày hồi nào đâu...
Hảo cười. Tôi không cười được. Cháu nhỏ tinh hơn mẹ, thấy tôi trẻ
quá, còn mẹ cháu vẫn nhớ mặt chồng hồi mới cưới nhau. Những người
thân không bao giờ già đi trong lòng ta, họ chỉ già đi khi ta gặp
lại. Cũng khó hiểu vì sao sau phút nao nao đã lặp lại nhiều lần ấy,
tôi không nhớ về xê mình mấy nữa, mà sốt ruột muốn mó ngay vào việc
mới đang chờ.
Chú thích:
(1) Xe quẹt
(2) Tên một hoàng hậu trong truyện cổ Arập
(3) Lỗi
Chương 7
Tưởng ai xa lạ, té ra đứng đầu H.68 là anh Điển béo lùn, trung đoàn
trưởng, thầy cũ của tôi ở trường cán bộ trung đội. Quảng Nam hay
cải” lời xưa chẳng biết đúng sai, chỉ biết anh cán bộ Quảng Nam này
thích xốc xới chung quanh mình những cuộc tranh luận thật hăng máu,
rồi lim dim cặp mắt ngồi nghe, từng lúc chêm câu khích đột ngột như
ong châm hay vặn ngược một lẽ xem chừng rất vững.
Mới đến cơ quan được một đêm, sáng sau tôi xa vào một chầu “đại lý
sự” như vậy.
Mỹ đổ bộ Đà Nẵng.
Hơn chục ông bạn phái viên, cũng là dân tứ xứ mới về như tôi, lập
tức đổ bộ vào chỗ làm việc của thủ trưởng, một cái miếu ở góc xóm.
Nghe đọc xong hai bức điện của quân khu, một loạt tin từ các đài và
các hãng thông tấn, chúng tôi mới phát nhé, phát vô số cái biểu
ngược nhau. Anh Điển vẫn cười đóng vai ông thợ đốt lò.
Tôi xúc động ít thôi. Bên cạnh số quân ngụy còn hơn nửa triệu, tôi
cho vài chục ngàn tên Mỹ kéo vào chỉ đủ dấm ớt, chẳng khác đám lính
mang cờ hiệu chạy quanh sân khấu khi vở tuồng sắp dứt, cổ máy bay
tàu chiến đánh thêm mấy hồi chiêng trống trước phút hạ màn. Rất có
thể chúng sẽ chiếm vài mảnh đất ven biển lấy chỗ cho tụi ngụy chạy
xuống tàu. Có thể sau khi mất hết miền Nam chúng vẫn níu lấy dăm bảy
cái căn cứ ỳ thần xác mà cò kè với ta. Đánh Mỹ chỉ mêt khoản bom
đạn, chứ tụi bị thịt ấy ra cái thớ gì...
Nhiều ý kiến bác tôi. Mỹ sẽ trút sang nửa triệu quân, một triệu,
nhiều nữa. Chiến tranh lan ra hai miền, sẽ tràn khắp Đông Nam Á, thế
chiến thứ ba sắp nổ... Đủ các quẻ bói động trời!
Anh Điển nhét cái ống nghe máy thu thanh vào một tai, vừa lượm tin
mới vừa theo dõi chúng tôi, tay lại sửa cái đèn ve rượu bạc hà, làm
ba việc một lần. Khi bị anh em buộc phải “tỏ thái độ“, anh mới đủng
đỉnh xé làm tư tờ giấy đánh máy, quấn điếu thuốc rê to bằng đuốc,
thở đủ ba khói mới chịu mở miệng:
- Mình mù tịt. Thiệt chớ.
Chúng tôi bật cười.
- Nãy giờ các cha xúm vô bẻ gãy cái chiến lược toàn cầu của Mỹ, nghe
thiệt sướng lỗ tai, chỉ có đôi chỗ mình chưa hiểu. Cậu Dõng nè, cậu
nắm kế hoạch nhà Trắng cách sao mà biết nó đưa vô một triệu? Tay Trà
cho nó xài mười vạn là hết mức, chắc không? Mình chỉ biết cắn cưa
một điều là Mỹ không chịu nhả miền Nam, bấy nhiêu thôi.
Cái anh vậy đó, giả bộ ngờ nghệch mà sâu gớm!
- Mình lo lắm. Sắp đánh thằng Mỹ bằng xương bằng thịt rồi mà mình
chưa hiểu gì về nó cả. Người nói nó ba đầu sáu tay, người tả nó như
cục thịt thừa, nghe loạn ù. Cha nào biết bày giùm cho chút. Tư
Thiêm, lính Mỹ nó công tử bột ra sao hả cậu? Biên chế, huấn luyện,
trang bị, điều lệnh, tư tưởng, tác phong... Kể mình nghe với đi!
Chúng tôi mới đọc vài tài liệu chung chung, nghe lỏm một số nhận xét
rất chiến lược về quân Mỹ mà đã tán phét tràn cung mây. Bị vặn tréo
bản họng, chỉ việc ngó nhau cười trừ.
- Bây giờ ta ừ với nhau vế thứ nhất: Mỹ vô bao nhiêu cũng đánh, đánh
phải thắng, thắng cho ta và cho cả thế giới nữa. Còn cái vế sau thì
treo đó đã: quân Mỹ ra sao, đánh Mỹ cách nào cho ngon? Cả nước cùng
tìm câu trả lời, có điều tụi mình lãnh việc nghiên cứu thì phải chia
nhau đi tìm trước. Ưng chưa nè?
Còn phải nói!
Sau hai ngày bàn cách làm việc, tôi rời H.68, không đi Đà Nẵng mà
ngược chiều về phía Nam. Số phái viên ra Đà Nẵng đã khá đông, vùng
An Tân còn thiếu người theo dõi. Quân ngụy đang xây sân bay và bến
cảng trên bãi cát dài nối liền hai tỉnh Nam-Ngãi, lót ổ sẵn cho Mỹ
vào đóng chốt. Tôi mang theo sáu trang đánh máy đầy những câu hỏi
hóc búa, mới đọc đã tháo mồ hôi hột. Đã vậy, các cậu khác còn trầm
trồ:
- Mày sướng đã đời, biết tiếng Mỹ, hốt được tài liệu hay bắt tù binh
là ăn xổi được liền. tụi tao vốn liếng chỉ có một tiếng ô-kê, chưa
biết cạy gỡ sao đây!
*
Đã thành lệ, trong giờ đầu của chuyến đi các chú giao liên rất
nghiệt ngã đối với khách lạ. Càng nhỏ càng làm nghiêm, cái nghiêm
phải đủ để bù vào chỗ thiếu cân thiếu thước, tạo được sự bình đẳng
giữa mười lăm và ba mươi tuổi. Dần dà các chú sẽ cho phép mình dễ
tính hơn một chút nếu khách không ỷ lớn cải liều, không mắc cái bệnh
đáng ghét nhất là bệnh chủ quan, không quá ngờ nghệch khi gặp tàu
bay đại bác hay giặc nằm kích. Các chú xuống thang từng bước, đề bạt
khách lên từng nấc, tới cuối quãng đường mới biến thành chú cháu hay
anh em.
Chú em tự xưng là Hùng Cường này cũng y vậy. Tôi nhìn hai cặp chân
tay lòng khòng chưa có bắp thịt, đôi lông mày rất rậm, nhận ngay ra
Ba Tâm em cô Mẫn, cứ im xem chú ăn ở ra sao. Tâm không nhớ tôi, dạo
lụt chú chỉ thoáng gặp tôi vài lần, bộ đội lại đông và hao hao giống
nhau.
Chúng tôi đi trong vùng giải phóng đang sùng sục hừng hực với cái
tin Mỹ đổ bộ, như lửa đốt rẫy gặp mưa bóng mây. Bà con cứ níu tôi
hỏi về lữ đoàn thủy quân lục chiến vừa vào Đà Nẵng. Tâm không bằng
lòng, nhưng thấy tôi đối đáp trôi chảy lại có vẻ nể hơn. Chú bắt đầu
cho biết rằng cánh Bắc Tam Kỳ “mở ra“ mạnh hơn cánh Nam, rằng chị
bánh bèo nhân tôm ở chợ Cây Cốc tăng giá đến ba đồng một chén là
phạm chính sách nặng, rằng thôn Một Sa tức làng Cá sống sót đến nay
là nhờ bộ đội cứu hết. Đến đây tôi phải cải: bộ đội chỉ cứu hơn tám
chục người, chính Ba Tâm cũng chèo bè chuối đi vớt bà con đấy thôi.
Tâm há miệng một lát rồi reo:
- Chết, hèn gì..anh Thiêm mà em ngợ miết. Sao hồi nãy anh không nói?
Tâm trách mãi chỗ này, làm như nếu biết tôi từ đầu chú đã cho tàu
bay giấy chở tôi vèo đến nơi ngay.
Tôi nghe Tâm kể lu bù chuyện mới chuyện cũ về quê mình, đoán chừng
phải trừ hao tới năm chục phần trăm bốc đồng thì còn đúng sự thật.
Phong trào Tam Sa lên mạnh lắm, khí thế lắm, có điều “bị kẹt cái
khâu cán bộ”. Kẹt ra sao chẳng biết, Tâm chỉ nghe lỏm bác Bảy nói
vậy; thím Chín bàn rút chị Hai Mẫn về làm thường vụ phụ nữ huyện mà
bác không chịu, nhắm trước sau chị cũng phải gánh cái bí thư Tam Sa.
Tôi giật mình khi Tâm ném cho Út Hoà một lời phê chí tử: “nó học khá
mà đạo đức tồi“, sau mới vỡ lẽ là cô em quá mau nước mắt và sợ máu.
“Cứu thướng gì nó. Ra trận chắc các anh bị thương phải dỗ nó nín,
cõng nó về!“. Riêng Ba Tâm cũng có một tâm sự rất sâu kín mà ai cũng
rõ: chú ngán làm giao liên, muốn đi bộ đội chủ lực, không cũng về
làm du kích làng Cá. Nhưng chú lại đang được chi đoàn cơ quan thử
thách, chú sợ năn nỉ xin đổi việc thì sẽ khó vào Đoàn. Éo le cái chỗ
đó. Chú thở dài não nuột: “Chị Hai giấu mà em biết, chỉ sợ em chết
thì họ Phan mất nòi, phong kiến thấy bà! Nghe Mỹ sắp vô An Tân, em
ngứa đánh quá. Tam Sa ở sát bên hông Mỹ, ưu tiên đánh Mỹ sướng nhứt,
còn bắn tụi ngụy thì ra cái gì...”. Chú nhổ nước bọt toánh một bãi
vào nửa triệu quân ngụy đầy mình súng đạn.
Tôi càng đi càng náo nức
Như con tàu xuyên vũ trụ, tôi đã rời khỏi sức hút của Bình Định và
xê mình. Đang lao mỗi lúc một nhanh về Tam Sa, về mảnh đất mang cái
tên làng Cá lạ tai- cá mà lại chết đuối! Tôi không nhớ làng Cá như
nhớ những xóm đã nuôi tôi suốt một mùa cày cấy hay luyện quân, ở đó
tôi thuộc đến tên các cháu trong nôi và nhắm mắt đi cũng trúng ngõ.
Làng Cá ở lại trong tôi chỉ bằng mấy nét chấm phá, nhưng mấy nét ấy
được khắc bằng con dao lửa của cơn đau dữ dội. Trên khúc đường rẽ
vào làng, tôi bước hẳn trên kỷ niệm, như đôi chân xốc lên những lỗ
cát trắng nằm dưới lớp cát ướt sẫm màu sau cơn mưa nhỏ. Tôi đi thẳng
vào đình làng, muốn ôm hôn chung một lần bấy nhiêu người thân gặp
lại, đợi qua cái phút lồng ngực đầy ứ khó thở.
Ngôi đình có người mà như bỏ hoang. Không một tiếng động.
Người ngồi bàn giữa, ngay dưới cờ Mặt Trận và tấm băng lớn, là anh
Tám Liệp chủ tịch xã. Vẫn khuôn mặt dài dưới tóc hoa râm, dáng người
cao lớn rất “có thớ“. Anh đeo kính trắng, đang viết. Quanh bàn bên
phải có ba người cặm cụi tính sổ. Một người ngửng lên, nhận ra tôi
gật đầu cười cười, cúi xuống. Đó là anh ba Thấn với cái trán dô và
ngắn, bộ tóc úp nồi đất. Dọc cái bàn dài bên trái có anh Quì và một
ai đó nữa, đều bận đọc và ghi.
Tôi lúng túng lùi lại, ngó quanh không thấy cái ghế nào, ngồi luôn
xuống bậc cửa ra vào, rút khăn lau mặt. Ba Tâm đến chỗ anh Quì, giao
mấy cuộn báo, xấp bì thư, đưa riêng hai tờ giấy đánh máy của H.68 và
huyện đội giới thiệu tôi là phái viên. Anh này vào sổ từng bì một,
xếp riêng ba công văn có lẽ là khẩn và mật, đặt giấy của tôi lên
trên đem đến bàn ông chủ tịch. Qui củ đấy. Anh Liệp nghe rỉ tai,
liếc ngược lên nhìn tôi bên trên cặp kiếng lão, gõ gõ cây bút máy,
lại viết. Bộ máy chính quyền ở nơi gần địch này vẫn làm viêc nghiêm
chỉnh, rất hay. Tôi luôn luôn trọng những người đang bận việc, say
việc. Tôi xoay đầu ngắm chung quanh đợi gọi.
Cái lỗ thủ pháo đánh toác nền còn kia, trũng hình lòng chảo. Mái
đình vẫn lỗ chỗ những dấu pháo chụp. À, đúng rồi cái mảng trống có
cây mè bắt nắng kia nơi bà mẹ Mẫn dỡ ngói, buộc cái thúng dựng cháu
Hoàn. Chao, tôi muốn bồng thằng nhỏ quá, coi nó lên cân nhiều không.
Mẫn khoe nó bụ và khôn lắm. Tôi muốn rảo một vòng quanh xóm quá.
Nửa giờ, một giờ, một giờ rưỡi. Ông chủ tịch chỉ ngẩng lên để rút
một điếu Bát-tô trong túi tài liệu châm lửa, lật một xấp giấy dầy,
bắt đầu đọc. Có cái gì không thường trong lối đón tiếp lạnh ngắt
này. Tôi ngờ ngợ khá lâu, chợt nhớ ra là thư ngắn mà tôi gởi anh Bảy
quai nón trước khi rời Tam Kỳ. Bận quá, tôi chỉ viết sơ sài rằng ở
Tam Sa có vài đồng chí ít bám dân, hình như nội bộ lủng củng sao đó.
Bấy nhiêu thôi mà bị đối phó ư? Đừng nóng, đừng nghi bậy, hãy cố giữ
niềm thương hồ hởi đã cuốn tôi đi gấp về đây...
Ông chủ tịch cầm giấy của tôi lên, sửa kính, xem nhanh. Ông vẫy anh
Quì lại nói nhỏ, rồi nói to với tôi:
- Đồng chí thiêm à...mời đồng chí về nghỉ tạm nhà bác Mười, lát nữa
chúng tôi trao đổi.
Tôi xốc ba lô theo anh Quì, chưa hết ngạc nhiên. Ngôi đình chết lặng
này, cây đa mất màu tươi non, những bộ mặt bị quấy rầy, hình như tất
cả đều phủ một màu sương khói, được dựng lại bằng sương khói, không
thật.
Anh Quì đi thẳng đến cuối xóm, hất hàm về phía một cái cổng, dặn
chúng tôi vào nhà ông thầy Mười mà đợi, bỏ đi luôn. Ông Mười tóc
trắng như cước và râu đen lánh, đang nhậu một mình trên phản giữa.
Ông túm vai tôi lè nhè:
- À, anh giải phóng. Ngồi, ngồi đây, làm một chén cho tửu năng hành
huyết. Ngó mặt thấy quen quen, am2 thôi trước lạ sau quen... Ông về
lo chuyện đánh Mỹ chớ? Mỹ tới xứ mình nói ô-kê, ô-kê, vị chi nó đòi
cống nạp cái thứ gà đen cho nó ăn. Thuốc gì cũng không qua được ô-kê
nhứt chích đem hầm nhừ. Ô tu hắc phát, xỉ lạc tái sanh. Mỹ nó biết
vậy mới nhào vô... Thiếu gà đen mà đem anh lươn nấu cháo cũng là
buộc lòng, vô ô-kê mới dụng thiện ngư...
Tôi nhờ Ba Tâm đi tìm anh Tư Luân và cô Mẫn. Văn phòng huyện nói anh
Bảy quai nón cũng đang kiểm tra các xã chung quanh đây, tôi nên gặp.
Gượng ngồi gốc phản một lát, tôi đi tuột ra sân, để ông già say nói
chuyện với cái ba-lô. Tới đầu ngõ tôi đứng thừ một lát lại quay vào:
ông chủ tịch có thể đến khi tôi đi vắng. Ông Mười đang cố giảng cho
cái ba-lô hiểu rằng Mỹ chiếm Cao Ly bởi thứ sâm Cao Ly hạp với tì vị
của nó. Chán ngấy. Tôi xách luôn ba-lô và bao gạo xuống bếp, soạn
các thứ ra nấu cơm ăn, cơm nắm.
Ba Tâm về, buồn thiu:
- Em không gặp ai hết. Chú Tư đưa bác Bảy xuống vùng cát hôm qua,
chị Hai dời kho bí mật, anh Ri thôn đội mắc gài mìn...
Tôi vần cái ăng-gô cơm, kéo Tâm đi thốc ra đình. Người biến hết, chỉ
còn tay Quì đang gỡ băng cờ. Cậu ta quay mông ra tôi, ngậm kim băng
trong miệng, hỏi mãi chỉ buông vài tiếng lùng bùng. Tôi nổi khùng:
- Đồng chí lại đây!
- Làm gì mà…
- Lại đây!
Tôi rút hai tờ giấy giới thiệu đập xuống bàn, gằn giọng:
- Tôi cần kiểm tra công tác quân sự của ủy ban Tam Sa, ngay lập tức.
Đồng chí nào sẽ báo cáo?
- Đâu còn có đó, bác Tám dặn anh đợi...
- Tôi không biết chú bác nào hết. Ai báo cáo?
- Dạ, để em sửa soạn cơm tối, chỗ nghỉ...
Tôi suýt cười phì khi thấy cậu ta đổi giọng rất nhanh, hai tay xoắn
vào nhau như sắp vái. Lạ thật cán bộ Tam Sa... Cậu nằn nèo mấy câu
nữa về chuyện ăn ngủ, làm như tôi chỉ hạch để đòi chất tươi, rồi thú
thật là bác Tám đã “tạm lánh“ lên Tam Trân, ở đây địch hay đánh úp
lúc mờ sáng, lại có tin mai địch càn lớn. Tôi hết cáu, nhưng biết
phải sẵng giọng mới ăn thua:
- Địch càn thì ủy ban chạy mất xứ, đúng vậy không?
- Dạ còn xã đội lo đánh chớ. Để em đi tìm...
Quì ôm cuộn băng cờ, tất tưởi ra cổng đình. Tâm lắc đầu:
- Ba trợn ba tráo chứ tìm cái gì. Tuốt một hơi lên quán bà Liệp ăn
mì uống bia, rồi rút thiệt sâu vô xóm vắng mới dám ngủ. Đeo con thỏ
to tướng trên lưng..
Chúng tôi ăn cơm xong vẫn không thấy ai đến hỏi, đành tự đi lùng xã
đội.
Trời tối hẳn. Ngoài đồng ruộng luôn luôn có một thứ ánh sáng nào đó,
không trăng thì sao, còn trong xóm tán cây che rậm trên đầu làm cho
đất đen kịt, nơi có nhà thì mắt tôi bị loá đèn, qua khỏi mỗi khung
cửa lại sa vào bóng đêm dày đặc hơn. Tôi thoáng so sánh thời mò mẫm
băng đồng đi móc cơ sở, đêm xưa nổi dậy cả làng bừng lửa với cái
cảnh tranh tối tranh sáng lúc này, khi một số xấu đã len vào hàng
ngũ như giun sán vào ruột người, chễm chệ ngồi giữa đình làng mà làm
oai làm phước. Ngây thơ, không được đâu Thiêm ơi! Hãy tự hào vì cái
làng Cá đẫm bùn và máu năm ngoái đã lớn vọt lên thành làng chiến đấu
loại khá, hãy chia nỗi mừng ngây ngất của bà con làng Cá được sống
tự do sau cơn nước dâng pháo chụp, nhưng phải nhớ kỹ rằng tuổi lên
mười, tuổi hai mươi, tuổi bốn mươi đều có những mối lo riêng bên
cạnh những nguồn vui lớn.
Từng lúc, Ba Tâm để tôi đứng đợi, chạy vào một cửa sáng đèn hỏi tin
chị hai và các anh chị, cô chú. Bà con không biết. Tôi vội tìm cán
bộ nên tránh lộ mặt, sợ bà con giữ lại thăm hỏi lâu. Tôi biết cái
nguy hiểm đang chờ, nếu thiếu người dẫn đường và hầm bí mật trong
trận càn sáng mai. Pháo đêm nay im hẳn. Bọn lính ngủ sớm để dậy lúc
ba giờ, giội vào làng trận pháo mở đầu...
- Hay la lên Tam Trân, anh Thiêm?
- Không!
Tôi sẽ sục hết đêm qua bốn thôn giải phóng trên mé đường Một. Dù chỉ
sót vài cậu du kích nhấp nhổm, tôi cũng nắm lấy, kéo họ đi chống
càn, hạ được vài khiêng địch rồi rút đi đâu mới rút. Mảnh đất này
đắt giá lắm, để giặc đạp chân lên dễ dàng là có tội với những người
hiến máu giành lấy nó.
Đến cuối làng. Ba Tâm rẽ sang con đường ruộng qua thôn bên. Luồng
đèn pha từ đường nhựa quét lên, chợt dừng lại rung rung trên đầu
chúng tôi như một ống thủy tinh chứa bụi sáng. Hai bóng người đang
đi tới. Tâm kéo tôi lùi lại, rút lựu đạn đợi. Rồi chợt reo nhỏ:
- Chú Tư ơi chú Tư!
- Ai như thằng Tâm...
- Tìm chú muốn chảy máu mắt! Có cán bộ trên về. Anh Thiêm, bộ đội.
Tư Luân bước sấn tới:
- Thiêm nào? Thiêm ở đại đội ba Tơ hả?
Tôi nói luôn: “Đúng“. Anh ôm choàng hai vai tôi kêu khàn khàn:
- Hú ba hồn chín vía, tưởng lão bỏ luôn xứ này rồi! Khi nãy Hai Mẫn
mắc dời kho, cho liên lạc xuống kêu mình, con nhỏ nói cà trật cà
vuột, chẳng biết ai tên là Xiêm mà lại quen lắm, tốt lắm... Được lão
về giúp thì ưu tiên hết sức rồi!
Từ con người anh bí thư chi bộ Tam Sa toát ra mùi mồ hôi nồng rất
xốc vác và cái vui ồn ào, cả hai cùng một lần chụp lấy tôi. Tôi đang
ngỡ ngàng, bị anh kéo tuột vào một căn nhà gần nhất, vặn to ngọn đèn
chong trên bàn, gọi ầm:
- Cứ nhè thằng này bắt đền hoài: các ảnh đâu rồi, sao không thơ từ
gì hết. Dẫn được một anh về làm thuốc đây nè. Nhận ra chưa, chị
Biền? Tên gì nói nghe thử?
Mươi phút sau, nhà chị Biền đầy chật bà con trong xóm kéo tới, đứng
đầy cả ngoài sân, thay nhau nắm tay vỗ vai tôi, cười to, lau mắt sụt
sịt, hỏi một trăm câu tới tấp. Tôi say nhanh. Tôi lại hít thở cái
không khí không lẫn được của những đêm vào địch hậu, có chất men
nồng của trận thắng ban chiều và mùi na-pan trong tro nhà cháy, có
cái hương nhớ đời của tình dân mừng tủi và bựa đồ hộp Mỹ bốc hôi.
Đây mới thật là làng Cá của tôi, của Ba Tâm, của anh Luân, chị
Biền.. Anh bí thư nheo mắt ngắm tôi, cười hề hề, chen từng câu trêu
các bà mau nước mắt hay các ông mau quên. Rồi anh dang hai tay:
- Thôi bế mạc, giải tán, bà con về sửa hầm đặng mai chống càn. Anh
Thiêm còn ở lại đây lâu, ai muốn mời chuối mít vịt gà cứ tự do!
Tôi hứa đâu ba chục lần sẽ đến chơi nhà bác, thím, anh, cháu, em,
chị, cứ ngó mặt mà hú hoạ trong khi bà con lối xóm dặn dò trước khi
về.
Chúng tôi quay lại đình làng.
Ngôi đình một lần nữa đổi dạng. Một ngọn đèn leo lét trong góc, che
cái quạt mo tránh hắt ánh sáng ra ngoài. Năm sáu người ngồi quanh
bàn đang nói khẽ với nhau. Tôi nhận ngay ra Mẫn. Lại một cô Mẫn khác
nữa, còn những nét tươi khỏe của Mẫn em gặp dọc đường, nhưng cái vẻ
dè dữ kia là của Mẫn chị. Mẫn chào tôi, mời ngồi, rẻ rọt nói rằng
hồi chiều bận dời kho vũ khí nên chỉ có đồng chí Liệp tiếp tôi, sau
đó nhường lời cho anh Luân với dáng bà chủ nhà lịch thiệp. Về mặt
đối xử thì Mẫn là anh Luân với anh Liệp cộng lại chia đôi. Nhưng
thôi cho qua, tôi nóng bắt tay vào việc lắm rồi.
Chi ủy Tam Sa họp mở rộng. Mẫn nghe tiếp các tổ báo cáo về sửa soạn
chống càn, anh Luân ngoáy vội một thư hoả tốc để Ba Tâm mang lên
huyện đêm nay - chú nhỏ xịu mặt, chắc nghĩ rằng chị Hai “âm mưu” đẩy
thằng em ra khỏi trận càn- còn tôi đọc mấy dòng của anh Bảy quai nón
gửi. Anh ở hầm và lội vùng cát mấy đêm liền. Út Liềm xuống ấp chiến
lược nói qua lổ thông hơi tiếng được tiếng mất, nên anh Bảy chỉ viết
chung chung là đồng chí phái viên nên bám chắc đội du kích Tam Sa,
xây dựng bàn đạp ở thôn Một Sa cho tiện theo dõi căn cứ mới.
Ba Tâm ra đi một mình sau khi được chị giúi cho ít tiền và chú Luân
đền công cái đèn pin mới nguyên. Anh Luân bóc gói thuốc Quân tiếp
vụ, mời mỗi người một điếu còn lại nhét bừa vào túi tôi, nói chậm
rãi:
- Lão đi tìm tụi mình chắc muốn chửi mấy cha cán bộ ở đây bỏ dân
trốn giặc phải không? Cũng có đứa nhát đứa dạn lão à. Còn hai thôn
chưa khởi được là bọn mình còn ngậm đầy miệng ớt, lo chạy mặt trước
miết, để sau lưng lộn xộn không hay. Dân thiệt tốt mà cán bộ sanh
chuyện hoài. Trị được Ba Thấn rồi, cũng đỡ đôi chút...
- Ủa hồi chiều ảnh làm việc ngay chỗ bàn này!
- Có hai cậu kèm hai bên phải chưa? Nó ăn cắp quỹ công mấy trăm
ngàn, bây giờ đang tính sổ trả bớt lại, thành khẩn thì khỏi tù...
Nghề đời nó vậy, đói cơm lạt mắm thì khem, no cơm mặn mắm thì thèm
nọ kia. Hồi đánh giặc mửa mật thì biến đâu mất, bây giờ mới làm chủ
vài miếng đất lại thấy nhảy vô kiếm chác. Hai Mẫn chưa kể với lão á?
Tôi thấy Mẫn đưa mắt cho anh Luân rất nhanh, nói hơi sẵng:
- Đang họp mà chú Tư!
- Liếc nháy gì! Làm bà chi ủy, nắm cả xã đoàn xã đội, mà cứ thút
thít với bí thơ... Đừng hấm hứ nữa. Đồng chí Thiêm cũng là chi ủy
viên chớ đâu phải trẻ nít, bây giờ về sanh hoạt với tụi mình, giấy
tờ đủ hết..
- Thì.. để khoan đã. Đang lo chống càn, chú cứ ba đồng bảy đỗi tới
sáng!
Mẫn nhìn cắm xuống bàn, tay xoắn mãi sợi quai các-bin, rõ ra không
phải vì muộn giờ mà ngắt anh Luân. Chung quanh cười khà, ghẹo đôi
câu bóng gió nữa trước khi họp tiếp. Chắc cái bí mật mà Mẫn giấu
cũng chẳng ghê gớm lắm.
Trong càn, Mẫn sẽ nắm du kích xã đánh vùng Tứ Nhơn, anh Luân nằm hầm
trong hai ấp chiến lược Nhị Lộc, nắm quân chìm. Mẫn hỏi vặn các tổ
trưởng rất kỹ, có vẻ xét nét, còn anh Luân xoa cái cằm nhổ trụi râu,
gật gù cái đầu hớt trọc, dễ bằng lòng. Cả cách chia việc và làm việc
đều hơi lạ. Ở các nơi khác cán bộ trai thường lãnh việc bên ngoài và
hay bắt bẻ hơn các cô đôi mươi, đây ngược lại.
Tôi ngồi nghe khoan khoái của người đi xe chật đã lọt được tới ghế
sau nhiều giờ lắc xóc, kèm theo một băn khoăn kéo dài: hàng cán bộ
Tam Sa đang rối, tôi có thể bị cuốn theo những va chạm nhức đầu, khó
làm việc chính. Ai đã đi điều tra căn cứ đều biết một bàn đạp lung
lay gây lắm cái phiền. Bước ra khỏi xóm, bị phục kích. Mờ sáng về
ngả lưng, bị tập kích. Đang viết báo cáo, bị lôi đi họp kiểm điểm
một tay tham ô. Xin một người dẫn đường, cán bộ ngửa hai bàn tay
trắng. Phê bình xã, xã lặng im nhưng gửi giấy kể tội về đơn vị. Vân
vân, còn khối … Nhưng tôi không thể lựa chọn. Trong khu vực An Tân,
tôi quen chỉ đúng có một xã, đúng hơn chỉ một làng Cá thôi, và cái
quen biết ở nơi hằng ngày súng nổ này sẽ giúp tôi nhiều hơn mọi thứ
giấy giới thiệu. Tôi ngắm những khuôn mặt gân guốc chung quanh, dừng
lại lâu hơn trên gò má đen sắt mà hồ hởi của anh bí thư, trên cặp
mắt trẻ và nghiêm của cô xã đội, dần dần thấy vững bụng hơn. Lớp cột
này coi bộ chắc lắm đủ sức chống bão.
Chương 8
Một giọng trai nói sau lưng tôi, rất khẽ mà vẫn nghe hổn hển:
- Nằm yên, im, nó ngó mình trực chỉ...
Nhóm du kích nép trong mấy bụi chà là mọc trên sườn đồi, co mình
giấu bớt chân tay. Những mũi lá nhọn chích vào cổ tôi rất ngứa ngáy,
chịu vậy. Chiếc L.19 rà sát ruộng, bánh xe nó cách lúa chừng mươi
thước, đang vòng qua trước mặt tôi, dưới thấp và rất gần, ước chừng
lựu đạn ném có thể lọt buồng lái. Thằng ngồi sau ngước mắt nhìn chằm
chằm vào chỗ chúng tôi núp, nó chừa râu mép kiểu đang thịnh hành
trong quân ngụy. Tưởng như nó sắp hất hàm hỏi tôi: ”Sao, hai trăm,
chịu thì lên!”, hệt một tay lái xe chở khách lậu. Không bắn nó được.
Chúng tôi thất thế phải núp kín, thằng tàu rà kia càng nhởn nhơ, coi
cái bộ tiểu nhân đắc chí của nó mà lộn ruột.
Nó rè rè bay lên, khuất sau đồi. Tôi quay sang Mẫn, vừa lúc Mẫn nói
vội: ”Đây như hòn đảo, phải vượt ruộng qua bên gò anh à. Đi men bờ
bụi...”. Anh em bẻ lá cắm thêm quanh người. Nguy rồi. Chiếc L.19 tắt
máy từ trên cao đang đâm chếch xuống, thẳng vào mặt chúng tôi, không
một tiếng động. Lửa chớp dưới cánh. Một nắm tay to và mềm từ ruột
đất đấm ngược lên giữa ngực tôi. Tất cả tối sầm đi một loáng, lại
sáng.
Tôi thấy mình nằm nghiêng thấy hai hòn đen từ máy bay rớt xuống
trong khi cánh quạt của nó lại quay thành đĩa trắng. Hai trái lựu
đạn phì khói mé dưới, nó ném hơi sớm. Mẫn há miệng to mà kêu tiếng
nhỏ tí:
- Chạy qua bên kia! Ào đi!
Tôi nhào theo một lưng áo ướt đen mồ hôi, xuống dốc. Mặt dốc phủ
những hòn sỏi rời làm chân trượt rào rạo, liên tiếp mấy người lăn
tròn, đầu và chân xoáy lộn xộn. Tôi chỉ ngã ngồi một lần. Chiếc tàu
rà quay lại. Chúng tôi đã thụp hết vào những bụi lau và mua ven
ruộng. Nó xổ rốc-két và ném lựu đạn lần nữa vào mấy bụi chà là hồi
nãy, còn may rốc-két của nó là loại xuyên công sự nổ sâu, ít mảnh,
nhờ vậy tôi thoát được trái đầu. Bị đồi cản, vòng quần của nó cũng
rộng, chúng tôi kịp chạy. Nó vừa xoay đuôi, chúng tôi chạy ”xăng
mét” qua rẻo ruộng giữa hai chân đồi. Nhanh, gấp nữa, lỡ quân bộ tới
kịp, quét súng máy... bờ ruộng, mương trổ, vũng lầy hiện và biến
loang loáng dưới chân. Gần tới rồi. Nước ruộng chợt toé thành những
vòi phun nhỏ bên phải tôi. Tiếng kêu lao xao dội từ mé trái. Bỏ mẹ,
phóng ào tới quân nó chưa kịp dàn ra đâu. Luồng đạn đã xối dày và
rộng hơn. Chíu chíu, chốc chốc, chủm chủm, nó quấn vào chân như dây
rừng. Một cái gì rơi tõm. Tôi cúi chụp lấy, nghĩ nhanh đến một cây
súng, kéo lê sợi dây to bản mà chạy thục mạng. Bụi cây đằng trước
còn rung. Tôi thốc vào đấy, rúc vào mươi bước theo tiếng sột soạt
đằng trước, húc vào một cái lưng rộng. Năm Tuất quay phắt lại, tay
phải đỡ tay trái, há miệng định nói nhưng chỉ thở hồng hộc. Cậu Ri
nhô ra ngó tôi, ngó xuống tay tôi, lắp bắp:
- Có... đủ hết... Chị Hai ơi...
- Anh Thiêm đâu?
- Tới rồi. Lượm súng rồi...
Luồng đạn thẳng bây giờ tuôn ào ào vào các chòm cây sau lưng tôi.
Cây rung giật, cành văng tung toé, là bay thành luồng bão lá xói
riêng một góc đồi. Chúng tôi đã lọt vào chỗ khuất. Tôi cúi nhìn vào
cái vật đang kéo theo: Đúng là cây bàng đỏ của Năm Tuất. Tôi định
gắt anh ta rớt súng không lượm, mệt quá không gắt được, sau nhận ra
tay anh đang túa máu, thôi luôn, cầm hộ anh vậy. Chúng tôi lại khom
lưng chạy lúp xúp sau khi chiếc tàu rà thổi trái rốc-két thứ ba, lần
này nó lảng xa luôn bàn giao chúng tôi cho cối gần pháo xa. Vài phút
sau, tôi nhận ra một chuỗi pình pình đầu nòng của cối 81 chen trong
tiếng súng máy. Vẫn chạy, tôi đếm thầm số giây chỉ theo thói quen
chứ chẳng để làm gì. Lũ bắp chuối treo trên không khá lâu, bắt đầu
rít. Tất cả cùng dừng lại dỏng tai, một người nhào sấp khi chưa cần.
Tiếng rít nối dài. Vắng tiếng rắc rắc, tôi hô chạy tiếp. Loạt sét
đánh xuống chung quanh vạt cây bị đạn thẳng chém nát. Khi chùm đạn
cối khác chúi xuống, chúng tôi đã thoát khá xa. Nhoài người rồi.
Tôi vượt lên sát Mẫn, phì phò:
- Nghỉ chút... m- mệt...
Mẫn lắc đầu khoát tay ra hiệu gì đó, có trời hiểu.
Luồn từ gò sim qua vạt mua, từ vạt mua tới bãi bù-xít(1), tiếp tới
những mảng tranh rậm quét đuôi vào tay ngứa rát, Mẫn không nói được
nữa, vẫn không dừng. Tính chạy tới núi du di(2) hay sao. Nhưng tôi
cũng ba hơi nhập một, không cãi được.
Vượt xong một quãng gai bớm rậm, Mẫn vừa nhô đầu ra chỗ nắng bỗng
lùi lại, khoát tay – lại khoát! – chỉ vào vườn xoài bên phải. Tôi
rướn cổ dòm, thấy một tấm gì trơn bóng lẫn trong màu lá, thấy một
cái gáy người đỏ như tôm luộc, cuối cùng nhận ra hai chiếc M.113 tắt
máy đứng rình sau các bụi cây, như cặp voi dữ vừa bắt mùi lạ, đang
nín hơi căng tai. Không thấy tụi lính trong thùng xe. Riêng thằng Mỹ
bắn trọng liên ngồi cao hơn để lộ gáy, nó đang ngó chừng hướng khác.
Tôi thèm bắn nó đến run tay. Nhưng cả nhóm du kích đều muốn đứt hơi
cả, đạn sắp hết, bắn xong mắc giữa gai rậm, xe đuổi theo chỉ cần
nghiến xích đủ chết, khỏi quét đạn. Chúng tôi rẽ sang trái, bò thật
êm dưới những sợi gai mây đan lưới.
Lánh được chừng năm chục thước nữa, lại nghẽn.
Trên dốc trước mặt chúng tôi phủ đầy rau tàu bay thả những chấm hoa
trắng xốp lượn rập rờn dưới nắng như bầy ong lười. Tám chục thước
trống, rồi đến những bụi ngũ sắc, sàm, dứa dại trải rộng đến sông Rù
Rì, nơi có nước uống thoả thuê và nhiều chỗ núp tốt. Gay nhất là
chúng tôi không biết gì về địch. Mới thấy của nó hai xe, còn đâu
nữa? Đâm sầm qua khoảnh tàu bay này để húc vào họng đại liên của
chúng đơm sẵn ư? Hay chúng sẽ xả đạn từ một góc kín nào đó vào hông
vào lưng anh em?
Mẫn ngồi bệt xuống thở. Cô Chín Cang béo múp chen tới, thì thào: ”Em
khát muốn chết...”. Mặt Cang trắng như hòn bột bây giờ thành trái cà
chua chín. Chúng tôi đều cháy cổ, dù hồi sáng đã uống no nước ruộng.
Tôi nhìn Mẫn tái xanh, biết Mẫn sắp lả như dạo cứu lụt. Tôi hít mấy
hơi để cản bộ ba mũi, miệng và tai đang tranh nhau thở, đi bẻ lá gài
vào cái vòng ngụy trang mà một mình tôi có. Tôi dặn Mẫn cho anh em
sẵn sàng bắn che. Mẫn vừa gương cặp mày rậm, máy môi, tôi đã bắt đầu
bò qua bãi rau tàu bay. Nóng đít, nóng tay, hoa tàu bay lẫn với hoa
nắng nhảy nhót trước mắt, nhưng tôi vẫn nhìn quanh rất kỹ. Gần tới
dãy bụi ngũ sắc đầu tiên, tôi rút cả hai băng đạn súng ngắn dự trữ
ra cầm tay trái, trườn rất chậm, chĩa họng P.38 ra trước. Địch muốn
xơi tôi cũng phải trả giá năm bảy đứa. Tôi luồn sâu vào bóng lá, sục
kỹ một lát, quay ra vẫy nhóm du kích bò theo. Bốn cái bóng lổm ngổm
nhích qua bãi trống, đít cao hơn hầu rồi đầu cao hơn đít, xốc những
đốm bông xơ bay mù mịt thành mây. Chỉ còn bốn mống. Thảm hại không!
Đội du kích Tam Sa đã vỡ chạy.
Vỡ nát, chạy dài, phải nói thẳng như vậy, không thể màu mè là ”vận
động”, là ”rút khỏi xóm”. Trong báo cáo gửi về H.68, tôi sẽ gạch đít
thêm vào chỗ ngày tháng: 12-3-1965, để cái vô lý càng nổi rõ hơn.
Trên khắp miền Nam ta đánh quân ngụy xác xơ tơi tả. Ở đất Tam Kỳ này
làng chiến đấu đã mọc tua tủa chung quanh ”tỉnh đường tỉnh Quảng
Tín” và lấn sát thị xã. Khi tụi Sài Gòn réo cha cứu con với, khi cờ
lâm nước bí thằng Giôn-xơn phải cắn răng chịu chửi mà đổ quân Mỹ vào
miền Nam, ném bom miền Bắc, thì ở đây có một đội du kích bị rã, mạnh
ai nấy chạy! Đó lại là đội du kích Tam Sa, mọc trên mảnh đất cháy
bỏng căm giận, được bộ đội kèm nghề giúp súng, và được xếp loại đánh
khá trong huyện!
Cái nhục ấy xát muối vào mặt tôi suốt ba ngày qua. Đã nhiều năm tôi
mới một lần đánh giặc với khối bực tức đè trên lưng như cối đá, nó
chỉ làm mệt người liệt chân, nó ngược hẳn với cái hận thù chắp cánh
cho anh chiến sĩ khi lao theo mũi lê xé gió. Tam Sa... Một con suối
mạnh bị nhiều bọt bèo phủ trên mặt. Tôi vừa khoả được một mảng bẩn,
gặp nước trong, chưa kịp mừng đã bị cuốn ngay theo một dòng nước
ngược ven bờ, quẫy hoài vẫn chưa ra khỏi chỗ xoáy.
Lỗi tại ai?
Không phải tại Mẫn hay anh chị em cầm súng.
Buổi sáng đầu tiên ấy, hai tiểu đội của Mẫn đánh rất khá. Mẫn chỉ
huy chưa nhìn được khắp nhưng lại lắm mưu khôn, cho đốt khói chỗ
này, kéo lá đằng kia, thằng địch cứ loạn ù. Tiểu đoàn địch mấy keo
húc vào làng Cá lại bật ra, tôi đếm trong tầm nhìn được mười bảy cái
xác xanh vặn vẹo trên ruộng. Bỗng chị Biền luồn theo hào chạy tới,
mắt đỏ kè, hét vào tai Mẫn qua tiếng đạn cối 60 nổ xâu chuỗi:
- Ba Thấn phản rồi!
Mẫn quay phắt lại, mắt trừng trừng trên mặt tái dần.
Đêm qua, hai cậu du kích giải thằng Thấn về trại giam đã cởi trói
cho nó đi đồng: Không ít tên gian ác chạy thoát bằng cái mẹo nhỏ
này, quay lại trả thù những người dân đã vạch tội chúng! Còn may,
thằng Thấn đang lo dắt địch đi càn, chưa kịp chỉ bắt người. Một cánh
quân đã lọt vào xóm Đuồi, đang khui hầm bí mật, lại may nữa, cán bộ
và du kích chưa ai xuống hầm.
Ngớt loạt cối, tôi nhô đầu xem. Mặt đường nhựa vẫn vắng. Có lẽ chúng
đang sửa soạn xung phong đợt mới. Quân nó đánh rời rạc, thập thò,
ngụy 65 mà. Cây đại liên núp sau bao cát quét vô hồi kỳ trận về phía
Năm Tuất, luồng đạn chém lá tre tít trên ngọn, Một bàn tay đặt trên
tay tôi vịn hào. Mẫn nói, hơi run:
- Anh ngó chừng giùm, em thu xếp...
Tôi gật. Một đứa làm phản, bao nhiêu đảo lộn xô tới. Chiếc L.19 đang
vẽ số 8 trên xóm Đuồi. Mẫn nói với chị Biền đằng sau, giọng đanh hẳn
lại, tôi nghe lọt tai từng mẩu:
- Út Liềm ở luôn với chú Luân... Được, số đã lộ cho lánh tạm ra
ngoài, mà đừng chạy hoảng... Không, cán bộ đầu ngành thôi... Diệt
cho được thằng chó.. Vậy nghen. Chi ủy giao chị nắm lực lượng
chìm...
- Được, mày đánh đâu mặc kệ, trong này để tao chèo chống, khỏi lo
đi.
Du kích rút về xóm Giữa. Bà con ở đấy chạy nhào tìm Mẫn. Mày biết
chưa, bây giờ làm sao chị, tổ cha cái thằng ăn cơm ỉa cối, ông Liệp
cứ bênh nó hoài, chuyến này nó oánh mềm xương hết, tao đi Tam Trân,
em chửi nó một trận hôm qua mới nguy, bác phải né xuống Tam Hải cái
đã... Tối tinh rối mù.
Giữa lúc ấy, tai hoạ chụp xuống.
Bốn năm cây trung liên ào ào xả đạn vào lưng đội du kích. Một cậu
ngã vật, Năm Ri chỉ kịp lượm súng. Mẫn hét một tiếng thừa: ”Chạy!”.
Anh em đã tán loạn hết. Tôi bám lưng áo nâu của Mẫn. Địch ó ré, nổ
súng khắp nơi. Cái gì quất bộp bộp trên lưng tôi. Tôi vẩy hai hát
súng ngắn vào một nửa ngực vằn vện nhô khỏi góc tường. Lại bắn hú
hoạ vào chỗ hàng rào phì khói. Nhảy qua một thằng nằm ngửa, rảy hòn
chì giữa bụng nó, chạy xa tôi mới nhớ nó là xác chết. Nửa giờ sau,
dừng lại thở trong một bụi rậm ngoài gò, tôi vuốt khắp người tìm vết
thương. Quái lạ, tôi không bị thương. Chỉ cái ống lương khô đeo thắt
lưng bị hai viên đạn dùi bốn lỗ. Bao bi-đông bị xé một đường vải.
Coi như còn sống. Chạy chung với nhau có ba chúng tôi, bốn cây súng,
hơn chục đạn.
Đêm ấy, chúng tôi bò vào làng tính đánh trả đũa, húc phải một ổ phục
kích. Nêu tụi địch không hoảng bắn sớm, chắc chúng tôi có người phải
cõng. Thằng Thấn dẫn lính biệt động bọc lưng đội du kích, cũng biết
hết các đường ngang lối tắt cần phục hay gài mìn. Quân chúng kéo tới
làng Cá rất đông, sáng hôm sau kéo đi sục các gò hoang, có thêm trực
thăng và M.113. Chúng tôi vừa bắn tỉa một cánh quân đi bên kia rẻo
ruộng, lập tức bị đại liên và cối từ ba đỉnh gò châu vào giội mưa
đá, suýt chết, chạy mãi mới đánh lạc được thằng trực thăng đuổi dai,
bắn như trâu đái. Cây trường Mát của Năm Ri gãy báng, cậu chỉ bị
rạch thịt một vết ở đùi. Cô Cang ôm bụng rên từng lúc, hỏi chỉ đáp
ấm ớ, chắc đau bụng kinh. Tôi khỏe và lành lặn hơn cả, nhưng lạ đất
lạ người không thể dẫn đầu, đành chịu làm một toa đen hậm hực móc
vào cái đầu máy sắp liệt là cô xã đội trưởng.
Ban nãy Mẫn ngã một keo nặng khi chạy xuôi dốc, tôi đi sau không kịp
đỡ. Cái thế từ trên cao đổ xuống vốn là thế xung phong ở Đèo Nhông,
nó rất thoải mái khi tôi sải chân đuổi địch. Còn khi bị địch rượt
bắn, phải chạy lom khom với cây súng rỗng rất vướng, thì xuống khổ
hơn lên nhiều lắm.
*
Chúng tôi đến sông Rù Rì khoảng bốn giờ chiều. Bên kia sông là cánh
đồng lớn của Tam Trân, không vượt được, một cặp trực thăng đang rà
thấp, dùng gió cánh quạt rẽ lúa tìm người. Chiếc sau đeo cái loa bên
hông như bìu nước, thỉnh thoảng gọi cầu may: ”Nè, anh kia ra đi,
thấy rồi!”. Đành phải nằm lại đây đợi tối, địch ùa tới thì đánh bằng
báng súng và đá cục.
Đang rẽ lá đi ngược sông, Mấn chợt dừng lại, chỉ vào con đường mòn
chạy trước mặt, băng qua lòng sông cạn bằng một vạch sẫm do chân
người cọ sạch rêu trên đá đen.
- Nhảy qua, đừng để dấu!
Tôi hiểu. Một cánh quân khá đông đã qua đây, để lại lối đi hoàn toàn
mới. Địch ở đâu, làm gì? Nhóm du kích tách khỏi dân cứ chơi vơi,
chống chếnh. Chúng tôi bịt mắt bắt dê, không, bịt mắt chạy tránh một
bầy chó dại đang sủa gâu gâu khắp bốn chung quanh. Vết giày răng chó
chĩa mũi về phía Tam Trân cả, nhưng trên ấy không có tiếng súng, hẳn
địch nằm phục dọc rặng cây bên kia sông.
Chúng tôi đi luồn và bò thật êm giữa các bụi lau cứa mặt, gặp một
nhánh suối con. Uống vội một bụng nước no, múc đầy bi-đông của tôi,
lại đi. Pháo 105 từng lúc nện rung đất mé sau, có lẽ chúng bắn vào
chỗ lội có nhiều bông bạc mà tôi với Mẫn đã dừng nghỉ dạo xưa, gần
con mương cũ tránh pháo rất tiện. Thằng Thấn khai với địch không sót
một sợi tóc.
Cuối cùng, Năm Ri tìm được một rãnh nước xói khá sâu, lau mọc phủ
kín miệng, núp tốt. Chúng tôi lách vào đấy, ngồi rải xa nhau. Tôi
giành ngồi ngoài cùng. Trong nhóm, chỉ riêng cây P.38 của tôi còn
đạn, mà cũng một mình tôi bắn thạo súng ngắn, đóng vai ”đồng chí hoả
lực” là phải. Bọn xe M.113 chia nhau sục các gò, lẩy trọng liên từng
chuỗi năm phát rời để báo chỗ cho nhau. Cặp trực thăng vẫn phành
phạch kiếm mồi trên đồng. Đáng ngại nhất là đạn pháo cứ tránh chỗ
chúng tôi: quân bộ rình gần đây?
Khi tai bớt ù, tôi chợt nghe một tiếng lạ. Như ai đang thở mạnh. Như
ai sổ mũi... Tôi quờ ngón tay cái hất mẩu hãm cò súng, nhô đầu ngó
quanh một vòng. Lá không động. Quay lại sau, tôi thấy Mẫn thổn thức.
Mẫn ngồi xây lưng phía tôi, dựa nghiêng vào thành đất, úp mặt trên
hai bàn tay vịn một rễ cây đâm ngang, nấc nhè nhẹ. Mảnh áo bà ba
rách trên vai Mẫn rung, ngừng, lại rung. Cây các-bin rỗng dựng bên
cạnh, vấy bẩn, ngơ ngác như đứa trẻ mồ côi. Trong nạn lụt, mẹ chết,
nhà trôi, Mẫn lại không chịu khóc.
Tôi biết phụ nữ mau nước mắt, cũng biết nên để họ khóc cho nhẹ người
chứ không cần dỗ. Vào dịp khác, có lẽ tôi đã trêu cho Mẫn cười: ”Bà
Trưng Nhị dẫn quân chạy tới bờ sông Hát rồi, tính làm gì nữa? Nước
cạn, nhảy xuống chưa đủ ướt áo...”. Đại khái vậy. Lúc này thấy Mẫn
khổ quá, tôi không dám bạo miệng. Tay áo Mẫn gần đứt rời, phơi một
mảng toạc da đỏ hỏn ở cùi. Hai bắp chân xếp một bên, đầy những vết
gai xé chi chít, màu đỏ loang trên máu đen. Tôi chợt nhói trong
ngực: Mẫn sắp nằm liệt rồi! Hai bàn chân không dép đã rách nát, mấy
mảnh da lật ngửa, máu ngấm qua bùn khô đọng thành giọt trên gót.
Chết chưa, Mẫn cứ để vậy mà chạy qua đá sỏi! Bộ đội chúng tôi chăm
chút đôi chân rất kỹ, bởi quanh năm phải hành quân với ba bốn chục
cân trên vai, động đau chân là lập tức làm khổ anh em mang giúp, có
khi phải khiêng cả người, như xe nổ lốp biến thành đống sắt nằm ỳ.
Có thể một cô du kích không đi xa vác nặng đến vậy, nhưng liều như
Mẫn kể cũng quá liều!
Tôi cởi bao lưng, lấy gói bông băng, ve thuốc đỏ, đôi tất dài. Tất
là của quí trong đêm lạnh, lúc nẻ chân phải bôi mỡ, nhất là khi bị
thương ở chân mà phải qua vùng nhiều vắt, đỉa. Tôi nhích lại bên Mẫn
đằng hắng, ghé bên tai:
- Nè... băng chân đi Mẫn.
Mẫn giật mình. Không quay lại, Mẫn nhấc trán khỏi bàn tay, im một
lát mới thì thào:
- Gì, anh?
- Cô què đến nơi.
- Em... có bị thương đâu...
- Ngó xuống chân thử coi!
Mẫn quệt mắt rất vội, ngoẹo cổ nhìn, bật kêu ”ồ”. Thì ra Mẫn không
biết chân mình nát. Vẻ bối rối hiện rõ trong đôi mắt còn ướt.
- Dạ... để tối nay bôi thuốc...
- Băng ngay bây giờ, đừng bướng. Ai cũng mệt đừ, không cõng cô được
đâu. Để yên tôi rửa!
Tôi cố ý lên giọng đàn anh cho được việc, càu cạu như ông thầy thuốc
khó tính.
Mẫn vừa rụt rè duỗi chân ra, lại co ngay, chúm môi, trỏ ngón tay về
phía sông. Tiếng chân lội nước nổi to dần. Mấy tiếng gắt. Dao phạt
lá soàn soạt. Cánh quân phục kích đang rút vào làng, vẫn xuyên bờ
bụi tránh mìn. Còn phải coi chừng chúng gài lại một số phục đêm. Cặp
trực thăng mở rộng vòng quần, xổ hơn chục trái rốc-két cho nhẹ bụng
rồi cũng phới. Dễ thở rồi. Một cụm quân địch nổi lửa nấu cơm trên
đỉnh gò, cách chúng tôi chừng năm trăm thước. Các cụm khác đóng rải
rác xa hơn.
Chúng tôi xuống sông rửa. Cái việc rút sang Tam Trân đã thành tất
nhiên, không phải bàn nữa. Nấn ná quãng này, mai địch lùng kỹ thì
hết chỗ trốn. Tôi lội qua sông, nghe ngóng, rồi lách tới ven cánh
đồng. Những ngọn cau của xóm bên kia đã in bóng lá trên nền mây đỏ
gắt. Tôi xem thế đất, chọn được một lối vòng tốt. Nửa giờ nữa sẽ đi:
lúc ấy ánh sáng vừa tắt nhưng trên đồng chưa đủ tối để đèn dù soi rõ
người. Vẫn cần ngụy trang kỹ.
Tôi quay về, vừa nghe Mẫn nói với ba đồng chí kia:
- Bây giờ anh Năm với chú Ri đưa anh Thiêm lên Sáu Trân, nói chị
Bỉnh xã đội xếp chỗ cho ảnh nghỉ, nhắm chừng nó muốn càn thì cho
người đưa ảnh về huyện. Tôi với Cang ở lại đây. Mai chắc nó phục
hướng khác, khỏi lo...
Tôi sửng sốt. Mẫn tiếp rành rọt:
- Anh Năm tìm chú Liệp, yêu cầu góp hết số du kích chạy lên Tam
Trân, cho về chống càn. Hễ chú Liệp không chịu làm... thì đồng chí
tự làm việc đó. Chi ủy đã biểu quyết... đa số... từ nay không có cán
bộ lưu vong, du kích lưu vong nữa đâu.
Mẫn ngập ngừng trước khi gằn giọng nhấn câu cuối. Năm Tuất chỉ gật
đầu, Năm Ri thở sượt một cái. Cô Cang cứ híp mắt cười một mình,
khuôn mặt tròn từ màu cà chua đã ngả về bánh trôi như cũ. Không ai
để ý đến tôi.
Mặt tôi rân rân như áp vào búi cỏ may. Tôi xấu hổ.
Con suối trước mặt, dù được gọi tôn là sông và có những bông bạc dễ
thương, đối với tôi chỉ là một dải nước cạn như trăm ngàn dải nước
khác. Trên đường hành quân, nếu bộ đội không dừng ăn cơm thì tôi chỉ
cần truyền vài tiếng ra sau: ”Qua suối, xăn quần”. Đối với Mẫn, nó
là ranh giới giữa vinh và nhục. Mẫn đã thề sống chết với đất Tam Sa.
Bước qua suối là phản lời thề. Mẫn ở lại để không ai có thể trách du
kích Tam Sa đã bật khỏi xã đến người cuối cùng. Trong những năm xưa
đen tối, những ngày ác liệt bây giờ, cần có những đồng chí sẵn sàng
thắp mình để giữ và truyền ngọn lửa thiêng. Cô em thút thít ban nãy
biến mất. Đồng chí Mẫn ngồi đấy, đôi mày rậm hơi cau nghiêm khắc xốc
lại trên vai cái trách nhiệm chi ủy viên phụ trách quân sự của Tam
Sa, phải bám sát dân, quần sát giặc.
Còn tôi?
Tuy mấy hôm nay rất bực vì phải chạy đua vượt rào, nhưng lúc này tôi
vẫn nghĩ theo hướng tiếp tục chạy dài, như cái xe xuống dốc đứt
phanh. Là phái viên của cấp trên về xã, sao tôi lại định ”đánh con
bài xì chuồn”? Hay là, như vài cậu giỏi kiếm chất tươi hơn kiếm
việc, tôi chỉ xưng chức tước và khoe súng ngắn khi cần các cô ngắm
và các mẹ đãi gà, nay lâm trận thì bỗng trở nên hết sức khiêm tốn,
tự mình bóc cái nhãn dán trên ngực, lặng lẽ vắng mặt? Về ăn nhậu ở
quán bà Liệp, tán phét với những cán bộ cũng ”lánh càn” như mình, cố
bào chữa cho nhau rằng tránh voi chẳng xấu mặt nào – từ đấy suy ra
ai không tránh voi là dại - bày ra mọt việc gì đó để chạy lăng xăng,
tỏ vẻ bận rộn, đợi địch rút khỏi Tam Sa mới quay về làm le(3) như
cũ? Hừ...
Tôi báo vắn tắt rằng tôi ở lại. Mẫn luống cuống can, nhưng tôi đã
bắt chước cái vẻ ”đừng cải mất công” của Mẫn.
Năm Ri cởi dép, bứt cái lá chà là to, tách đôi làm que xỏ lại quai
dép cho vừa chân Mẫn. Chín Cang băng cánh tay bị thương của Năm
Tuất, Mẫn soát các súng, giữ lại một cây còn hai viên đạn. Tuất và
Ri băng ruộng ra đi lúc nhá nhem.
Ba chúng tôi ở lại. Đêm nay ăn no ngủ kỹ lấy sức, không vào làng
vội. Cang đi mò nhổ sắn ngoài gò, Mẫn đào bếp trong lòng con hào
trời cho, cả hai đều cấm tôi động tay. Phụ nữ mà. Tôi treo bi-đông
đun nước ấm, pha thuốc tím, một lần nữa ra lệnh cho Mẫn đưa cặp chân
rách. Mẫn rất hoảng và ngượng, nghe lời tôi mà luôn miệng xuýt xoa
vì ”vô phép quá, làm rầy anh quá”. Tôi băng kỹ, đi tất cho Mẫn và
dặn rất kẻ cả:
- Tôi làm một lần thôi, sau cô phải tự rửa tự băng đúng y vậy. Hồi
nào muốn bỏ băng, cô phải hỏi tôi trước, nhớ chưa?
- Dạ nhớ.
Chúng tôi cùng bật cười, hết ngượng. Thật ra tôi cũng mất tự nhiên
khi cô Cang về với cái miệng không bao giờ ngớt tủm tỉm. Mẫn có nụ
cười xinh hơn Cang nhiều, răng nhỏ đều hiện trắng muốt giữa môi
tươi, kèm một tia mắt tinh nghịch ánh lên qua hàng mi dày. Mẫn không
biết Mẫn đã cho tôi một bài học đích đáng.
Chú thích:
(1)Cây cứt lợn
(2)Núi thăm thẳm
(3)Làm điệu, phô trương
Chương 9
Đạn 105 bay soàn soạt như vò lá chuối khô trên đầu chúng tôi từ gà
gáy nhỉ, bây giờ thêm lũ 155 rống ò ò như bò mở chuồng. Địch bắn dồn
vào Tam Trân.
Bên kia cánh đồng, trong ánh sáng lờn lợt của buổi tinh mơ, những
cột khói phì giữa tre nổi màu trắng rất đặc, hoà vào sương sớm, họp
thành một lớp bông xốp đè xuống làng. Nhìn từ xa, một trận pháo có
vẻ thật dễ sợ: xóm làng co lại nhỏ xíu bẹp gí, mỏng như giấy cắt,
còn những cây nấm khói có lõi lửa thì mọc lên phùn phụt, trên ruộng
và ngoi cao, phủ lấp tất cả, nuốt trời nuốt đất. Không biết bao
nhiêu thằng chỉ huy của địch lỡ dại tin vào cái cảnh lừa mắt ấy, đã
nướng cả đơn vị trong lưới lửa của ta, không mất mạng cũng mất lon.
Trò đời, chẳng có cái dại nào giống cái dại nào, mà không tin ở chất
nổ thì chúng còn biết tin ở thứ gì?
Càn lối cũ thôi. Pháo bầy, rồi máy bay ném bom, rồi hát-u bắn xịt
đùng mở đường cho H.34 đổ quân nhét nút, trong khi M.113 và quân bộ
kéo lên như đàn mối kiếm ăn, mối chúa đi lẫn với mối con. Sau ba
ngày cào bới đất Tam Sa, địch đã càn rộng ra sau lưng chúng tôi. Du
kích Tam Trân mới nhận hai trung liên Mỹ, đang hằm hằm lập công, và
lối cầm quân của chị Bỉnh cũng bề thế vững vàng như cái vóc người đồ
sộ của chị. Lũ trực thăng vừa phành phành bay qua được vài phút, tôi
đã nghe súng nhỏ dưới đất nổ từng loạt rất mạnh và đều, sướng cả
tai, chỉ huy cừ lắm. Một lần nữa tôi muốn trêu cô ”tư lệnh không
quân” ở đây, lại nín được. Cậu Duy Hảo tuyên bố sẽ xây nhà máy thủy
điện mạnh nhất thế giới chạy bằng nước mắt đàn bà.
Ba chúng tôi ăn hết một vác sắn luộc, ngủ gần mười tiếng – chỉ hai
lần bị cối 81 đánh thức – đã khỏe lại. Khoái nhất là chầu tắm giặt.
Tôi còn cạo râu nữa, người cứ mới tinh, mấy ngày bị giặc đuổi lùi
tít ra xa. Bây giờ Mẫn vành tay lên tai, cố gạt những tạp âm của tàu
bay đại bác sang bên, lọc lấy những tiếng động phía làng Cá. Chín
Cang leo lên cây, nhún chân thử từng cành xem có chịu nổi hai phần
ba tạ không, báo rằng các cụm quân đóng rải trên vùng gò đã rút. Tôi
cũng trèo lên cây xem địch càn Tam Trân, cao hơn Cang, bắt được
tiếng xe gì rít rống lộn xộn trong làng Cá, dội nhiều tiếng sắt hơn
M.113. Xuống đến đất tôi mới nghĩ ra: xe ủi đất.
Mẫn cắn môi:
- Lôi thôi to. Nó làm đường ô-tô, chở thép gai tới, rào ấp... Hèn gì
sáng giờ súng nhỏ nổ lốp đốp hoài!
Tôi không hiểu. Mẫn cho biết đó là dân đấu tranh và địch bắn doạ. Bà
con xóm Giữa kéo ra vây lính, chúng mới bắn mấy loạt tiểu liên ban
nãy, còn súng trường nổ tiếng kép nhiều lần là địch dồn đông bào ra
nhổ chông ở bìa làng chiến đấu.
- Để anh coi, lát nữa nó lại bắn ra gò cả thúng đạn. Chắc có cối
nữa.
Mẫn vừa nói dứt, mấy cây trung liên đã xổ đạn rào rào về hướng chúng
tôi, thêm mười trái cối 60. Tôi ngẩn người, chịu Mẫn đoán tài. Thì
ra bà con xóm Giữa đã hù địch cả chục lần rồi. Bị ép đi nhổ chông,
các bà cách chị thập thò bước ra ven đồng, dòm dòm, rồi đâm đầu chạy
và hét: ”Việt cộng bên gò kia!”. Dù tin hay ngờ, địch cũng phải bắn
một mớ ra đồi.
Chúng tôi phải về bám làng bắn bia, không cho địch lùa dân ra phá
chông mìn.
Mẫn nhất định đi đánh với cặp chân quấn băng và đi tất to sù. Cang ở
lại đây phòng có người đến tìm. Cây báng đỏ còn nổ được hai phát.
Mẫn tìm ra ba viên đạn còn sót trong một băng thay vội giữa trận,
mừng hơn được ba thỏi vàng, cây các-bin liên thanh sống dậy. Chúng
tôi len lỏ gần hai tiếng mới đến gò Trúc, chỗ bến phà cứu lụt năm
ngoái.
Bên kia cánh đồng, cụm tre cau nhô giữa lúa như vắng ngắt, nhìn lâu
mới thấy những bóng mũ dưa hấu thập thò sau rào như sâu xanh nhấm
lúa. Mẫn nhảy xuống một hố đất nẻ. Chúng tôi nhìn nhau cười: một kỷ
niệm chung, hai đứa cùng bắn chiếc AD.6 ở đây, tôi giật chân cho Mẫn
ngã nhào tránh rốc-két. Miệng hố phủ cỏ xanh rì, ngụy trang sẵn cả.
Chúng tôi đợi không lâu. Bia thịt dẫn xác ra kia, một nhóm lính ốp
bà con đi phá chông. Nhiều bóng bà ba đen, nón trắng. Tôi chĩa súng
vào thằng địch đang chỉ trỏ, chắc hạ sĩ trung sĩ gì đó. Mẫn đập vai
tôi:
- Đợi đã anh. Rán hạ được cha con xã Chinh hay thằng Ba Thấn, đáng
tiền hơn.
Tôi lại vấp ở chỗ bộ đội chủ lực hay vấp: chỉ chăm chăm diệt lính
địch, quên tụi ác ôn địa phương, đôi khi đánh thắng to mà đồng bào
khó nổi dậy. Nhắc nhau mãi ”đừng cà nhắc một chân” mà vẫn ít nhớ.
Địch bắt được hơn hai chục bà con đi nhổ chông, sau thêm mười người
nữa. Hò dằng co với lính chán mới bước xuống bãi, nhổ một cây lại
vặn lưng năm bảy phút, nhưng dần dà cũng phải nhích tới. Ba con mồi
cần bắn nhất không chịu ló mặt. Giữa bãi chông có mìn gài rất kín,
dây mìn nối vào gốc chông. Phải nổ súng cho đồng bào lấy cớ mà rã
đám ngay thôi.
Năm viên đạn tất cả, chi cho trận mở màn phản công này hai viên,
chia hai đợt. Tôi nhường Mẫn bắn phát đầu. Mẫn lắc. Cứ như các cụ
ngồi vào mâm, mời nhau cầm đũa trước. Chúng tôi đều biết rằng viên
thứ nhất rất dễ trúng đích, sau đó người bắn vẫn ung dung, bởi địch
chưa nhận ra hướng ta núp nên chỉ nằm bẹp quét bừa. Người thứ hai
bắn khó trúng hơn, lại hút hết đạn về phía mình. Những thằng địch
rất sợ phát sau, vì nó báo rằng du kích cố bám riết.
Mẫn chặc lưỡi, cười:
- Thì thôi, em nhận. Bộ đội nhường du kích mà.
Phải để dành cái hố lát nữa tránh đạn. Mẫn bò đến một bụi ngũ sắc,
lùi vài bước, giương súng. Động tác khá nhuyễn, chọn chỗ nằm cũng
tốt, luồng khói phụt ra sẽ được lá rậm che khuất. Cô xã đội này
không có chút gì là ”cán bộ làm đẹp phong trào” như con nhà lính
chúng tôi hay ghẹo.
Thằng lính ngồi xổm trên bực đất bỗng chúi sấp xuống bãi chông, giãy
vài cái như bươm bướm, duổi cẳng. Tôi vỗ tay nhẹ vào báng súng, rồi
vẫy cho Mẫn rút trước. Mẫn lại lắc đầu, bò đến hố trong khi đồng bào
bên kia chạy túa vào xóm và địch bắt đầu vãi đạn tơi bời.
Đến lượt tôi.
Trước mắt Mẫn, lỡ tôi ”bắn cảnh cáo” thì ê mặt lắm, chỉ còn nước
mang ba-lô đi tìm đầu ban, nghĩa là cuốn xéo... Tôi cười thầm trong
khi căng mắt tìm địch. Học trò cưng của xạ thủ Ba Tơ không thèm bắn
tụi lính tôm tép đâu nhé. Mãi rồi tôi cũng chọn được con thịt cao
giá: Một thằng cao to đềnh đàng, đứng trong quãng hào xa, đang khom
lưng chiếu ống dòm qua gò. Ba trăm rưởi thước nằm bắn, chơi được,
coi bộ cây báng đỏ này không mắc tật nguyền gì. Tôi bò đến chỗ Mẫn
vừa nằm, tháo bao lưng kê súng cho chắc. Bỗng dưng, đố biết vì đâu,
tôi thấy ngực mình rất ấm như có hơi người truyền sang, gây một cái
gì lẫn lộn cả ngượng, vui, sờ sợ nữa, tựa hồ phát súng lẻ sắp bắn sẽ
định đoạt cho tôi một biến đổi lớn trong đời; nó là trái bộc phá mở
màn một chiến dịch dài ngày của riêng tôi... Tôi mỉm cười giễu mình
lẩn thẩn. Hôm nay tôi thích cười lạ, sao vậy?
Thằng Mỹ cúi dòm mãi đã mỏi mắt mỏi lưng. Con hào của Vi-xi đào chỉ
vừa Vi-xi núp, không vừa xác nó. Nó đứng thẳng lên, lộ ngực... nảy
ngược một cái, úp mặt vào bờ hào, từ từ trụt xuống với hai bàn tay
cào đất. Tôi xách súng xách bao, phi nước đại lập tức, không chơi
trò sĩ diện với địch. Mẫn chạy sau lưng tôi, cười to.
Chúng bắn thôi là bắn. Súng cha súng con đánh trống gõ mõ suốt nửa
giờ tế hai thằng chết, tôi nghe nổ mà phát thèm. Rút một hơi đến chỗ
khuất đạn thẳng, tôi dừng lại đợi Mẫn, cùng chạy việt dã ra khỏi tầm
cối 60 lúc này còn bắn trật bậy. Chúng tôi nắm tay nhau vừa chạy vừa
cười: hai đứa trẻ vừa trị được con chó dữ xồ ra cản đường đi học.
Sau mấy ngày tức ói vì giặc đuổi, hôm nay cười cho thoải mái nhé,
cười bù những lúc không sao cười được, tuy chiến công chỉ là con số
lẻ mà các bản tin của ta thường hớt cho gọn.
Khi pháo 105 bắt đầu ném những tấm tôn trên sườn đồi, chúng tôi nhảy
xuống một chỗ đường trũng, ngồi thở. Mẫn bóp bàn tay tôi, nói không
kịp lấy hơi:
- Em tưởng anh bắn hụt... ngó trật lại, thấy thằng Mỹ gục... chao,
mừng húm...
Mẫn hít mạnh, mặt đỏ rựng, cười một hồi nữa, mắt lóng lánh cười
nhiều hơn miệng. Sao Mẫn xinh vậy ta? Không, phải nói là đẹp. Đúng
cô Mẫn em mà tôi gặp dọc đường Tam Kỳ, ríu rít như chim, vui đến
sáng cả mặt mũi chân tay... Tôi bắt quả tang tôi đang nghĩ lộn xộn.
- Vậy là bà con trong xóm biết rồi đó. Biết tụi mình bám. Để anh
coi, chiều nay nó chặn mấy chũng có người ra gò tìm du kích. Hôm
qua... hồi đó em xấu hổ quá mà. Nói đánh giặc giữ làmg miết, giặc
tới lại chạy có khói có người, tới khi trở vô nhà bà con chắc phải
đưa cái lưng vô trước, lãnh ít cây cán chổi... Bây giờ khỏi lo rồi.
Tôi cười theo, nao nao.
C.215 của tôi vây đồn bắn bia, khi đổi phiên anh em thường xòe ngón
tay báo số địch vừa hạ, cậu nào không xòe được hết bàn tay thì phải
trề môi và lắc đầu một cái để tỏ ra mình đen đủi. Đây hai chúng tôi
chỉ xòe được hai ngón tay, nhưng đó là hai mũi kim chích vào cái
bong bóng Mỹ vẽ hình ông kẹ đang căng phình, là hai tiếng tín hiệu
của du kích gọi dân. Mẫn đùa, làm như chỉ đánh vì sợ cán chổi. Ngay
trong câu đùa Mẫn cũng chỉ nhắc tới phần việc mình phải làm, không
gợi lại buổi chống càn đầu tiên rất ngon, chưa vội tìm lỗi người
khác trong vụ Ba Thấn nhảy theo giặc.
- Ngớt pháo rồi, về kiếm ba củ sắn đi anh, đói khiếp. Chiều mới có
người ra.
Mẫn đi trước, kiểu đi xổng xểnh không cần làm dáng của một cô gái ít
nhớ mình là gái. Tôi ngắm dáng bàn tay Mẫn đánh xa lui tới, rất là
thú khi thấy hai ngón trỏ và giữa hơi xòe ra. Hai ngón tay búp măng.
Hai cánh bông bạc sống qua cơn lũ bùn vẫn trắng muốt nhô lên vẫy
giữa dòng nước, mềm mại dễ thương mà không biết cúi đầu. Thế đấy, có
những cái đẹp phô mãi trước mắt mà tôi chẳng thấy, đến một phút nào
đó chợt hiện lồ lộ như được luồng nắng rọi vào.
*
Mẫn lại đoán đúng.
Trong buổi chiều, mấy bà con làng Cá ra sục gò tìm chúng tôi. Một bà
lão còng lưng chống gậy đi lụm cụm, vừa thấy Mẫn bỗng trẻ lại vài
chục tuổi, vất gậy thẳng lưng chạy tới. Đó là mẹ Sáu ở bên nhà Mẫn,
đang nuôi giúp Mẫn thằng cháu Hoàn hai tuổi. Mẹ khóc sùi sụt, nắn
khắp người Mẫn tìm chỗ băng: ”Mày bị thương đâu nói thiệt đi!”. Mẫn
đỏ mặt cố gỡ tay mẹ, tôi tạm lánh một phút.
Tiếp chị Biền có chửa đầy một bụng gạo muối. Rồi ông thầy Mười say
rượu gật gà hôm nọ cũng đến, cầm một túm lá thuốc nam. Từng người
lấy cớ tìm con nít chăn trâu sợ pháo chạy lạc, tìm con bò sẩy mũi,
giằng co riết tụi lính mới cho ra khỏi xóm. Thằng Chinh con vừa khịt
mũi vừa khoe bắn du kích chết ráo, ”con Hai Mực trương như bò trôi
lụt, nằm úp mặt xuống mương nước chỗ hóc Môn, thối quá không chôn
được, thôi để quạ tha mối đùn lâu lâu rồi ai lấy xương cứ lấy, tôi
cho làm phước”. Bà con bắt Mẫn kếu hết ”sắp nhỏ” ra coi thử ai còn
ai mất. Mẫn đáp gọn trơn: ”Du kích lo bám địch chớ ở đâu đây!”. Tình
cờ, một lát sau phía Nhơn Thọ bật lên hai tiếng mìn muỗi, rồi súng
địch đổ bão, chắc du kích bí mật đánh trong làng. Tới đó bà con mới
hết băn khoăn. Tôi cầm súng ngắn đi gác, cô Cang chặn: ”Anh ở lại
cho cô bác nhớ mặt nhớ giọng, sau mới dễ vô làng”.
Một trăm thứ chuyện xoắn xuýt kể lấy được qua tiếng nổ rền đằng
trước đằng sau, tiếng máy bay và đạn pháo bay qua đầu, chen những
tràng cười dài và đôi giọt nước mắt.
- Nó đặt máy a-lô trong nhà tao đó Hai. Cũng hay, thằng Chinh con
quẹt lửa đốt nhà mày, tao nổi la làng, tụi lính sợ cháy lây đổ ra
dập lửa, doạ cho thằng Chinh nếm kẹo đồng. Nó kêu trong máy “đại
bàng gọi diều hâu” miết, rồi xì xầm với nhau tụi càn Tam Trân chết
quá đi, tàu bay y tá chở không kịp. Sợ mất máu hết!
- Cái thằng Chinh Thiệt quá chó dại. Dạo trước Tết nó còn sợ mình,
đi năn nỉ cùng xóm, coi xuống nước hung. Giờ lính về đông nó lại
hỉnh mũi lên râu. Tao nói: nhơn chi tương tử kỳ ngôn giả thiện, ông
nghe tôi phân một câu thử coi phải trái, sách có chữ chủng qua đắc
qua chủng đậu đắc đậu…
- Thôi ông, nói chữ với nó uổng miệng, nó vỗ ngực rồi đó: tửu là
một, sắc là hai, tiền xài là số dách!
- Bà Tám Lư nhào vô ôm xác con, bị nó đạp bữa nay còn tím rịm bên
hông. Cố tổ nó chớ, thà nó là con bọ hung ở đống cứt rúc ra, đây nó
cũng là người mà chẳng biết mẹ thương con là sao. Bà con kéo tới đủ
số ngàn, nó mới chịu để chôn.
- Kể đi bác Sáu, bác hăm thằng Thấn cách sao mà nó sợ dữ vậy?
- À, à, chút xíu nữa quên thằng liếm đít. Con Hai nghe thử chỗ nào
trật chánh trị thì sửa… Tao đợi trưa tròn bóng tụi nó nghỉ xăm hầm,
nắm tay thằng Thấn mời gắt vô nhà, quấn thuốc, pha chè nhỏ, hét con
đi cắt cổ vịt nữa. Nó nhịp nhịp cái cẳng vậy nè, như ông huyện về
làng, chắc nó tưởng tao nịnh cho khỏi ở tù. Tao khen nó thiệt là gan
to hơn cóc. Nó rung cẳng hỏi: “Gan sao hử?”. Tao nói: “cái xã mình
coi vậy chớ khó, xưa nay ai làm việc quốc gia, cố gây thù kết oán
thì trước sau cũng đạn một viên, cáo trạng một tờ hết. Giữa hồi chộn
rộn này mà ông dám đứng ra gánh vác, tôi chịu ông giỏi đó. Nó đổi
nước da, còn cải gượng: “Ấp rào kỹ, quân đóng dày, tụi thằng Luân
với con Mẫn gãi ngứa chớ làm gì, xớ rớ nữa thì nghoẻo củ từ”. Nó mới
nuốt củ sắn bẻ đôi của du kích đó, bây giờ nói vậy chẳng có mắc
nghẹn mới lạ. Tao không ngọt được nữa: con Mẫn ở ngoài ấp mà dân ở
trong. Dân đây ông biết rồi, nói tới rào ấp thì mười người ghét đủ
chục. Hồi ông đi phá ấp thì dân cho trứng với chuối, giờ ông đi xăm
hầm rào ấp chắc họ mời ông ăn bí ăn lựu quá. Tôi đãi ông con vịt cho
trọn cái ngãi lâu nay… Nó đổ mồ hôi hột đó Hai. Cẳng nó cứ rung, mà
rung kiểu khác!
Chúng tôi cười một trận líp ba-ga(1)
Thằng Ba Thấn bị vây chắc cứng. Bà con gặp nó là con mắt lườm dài,
cái nón úp sấp, nước miếng nhổ phẹt. Nó vào nhà ai cũng nghe chửi
chó nhảy bàn độc, mèo ăn mâm ỉa bếp. Nó sợ lưng tim lưng mật. Sau nó
mò tới nhà ông thầy Mười, nơi trước đây nó quen ăn ngủ - ông già sẵn
rượu và đồ nhậu – tuôn một hồi kể lể. Rằng nó bị ủy ban nghi ăn cắp,
tức mình bỏ đi, bây giờ như con gái lỡ dại chửa hoang rồi, ông Chinh
biểu gì nó phải nghe. Rằng nó không khai bà con trong làng, chỉ khai
vài cái hầm của đội du kích đã chạy ra ngoài. Rằng lãnh thưởng vài
ngàn nữa mà bị ghim cáo trạng trên ngực thì lỗ vốn to, bây giờ nó về
thị xã lo buôn bán thôi. Ông Mười bồi thêm một mớ chữ thánh hiền,
thì thào mách cho nó biết “bộ đội ông Thiêm” tới tiếp sức du kích
rồi đó, trái nổ thứ một ký đeo dày chung quanh bụng. Rốt cuộc, nó
cuốn gói về “trại hồi chánh” của tỉnh sáng hôm qua. Con buôn mà, nó
đã tính ra mạng quí hơn tiền.
Ông thầy Mười trao nắm thuốc dấu, hẹn sẽ để gạo trong miếu Thổ thần
sau vườn, ra về trước. Mẹ Sáu cầm nón lại đặt nón, quấn quít không
rời được.
- Thằng Hoàn đòi mày miết Hai à. “Mẹ Mẫn âu? Hoòng chỉ chơi mẹ Mẫn”.
Bữa nay quen hơi bà rồi, vậy chớ nghe con nít ở đâu kêu mẹ là nó
giựt mình, ngó dớn dác.
Tôi thoáng thấy Mẫn đưa ngón tay gẩy khoé mắt. Mẹ Sáu dặn tôi lần
nữa:
- Trăm sự nhờ anh bày biểu cho con Hai, đường đi nước bước nó chưa
am tường, con nít mới lớn lên, xa cha mất mẹ thiệt tội đó anh.
Các bà mẹ bao giờ cũng vậy. Dù Mẫn vừ giao công tác cho mẹ xong, bắt
lặp lại cho nhớ, mẹ vẫn thấy Mẫn là con nhỏ láng giềng thiếu nơi
nương tựa mà mẹ phải lá lành đùm lá rách. Đợi mẹ ra về, chị Biền mới
kéo Mẫn đi riêng, báo cáo về ban cán sự và du kích bí mật làng Cá.
Tôi đã làm việc với cán bộ xã đủ nhiều để không thấy khó chịu khi bị
gạt sang bên.
Mặt trời lặn. Chúng tôi trở lại chỗ núp. Cang nấu cơm dưới mương,
Mẫn quạt khói. Tôi xách ăng-gô đầy rau má từ sông Rù Rì lên, bỗng
nghe nhiều tiếng hú ngắn, hối hả. Cang rón rén bước ra. Vài phút
sau, một bóng nhỏ đâm sầm qua bụi cây, nhào tới ôm Mẫn khóc hu hu.
Út Liềm! Cô bé gầy đen, liên lạc riêng của chi ủy, rất ít khi hé
môi, lúc này vừa nói vừa nấc vừa thở. Chúng tôi đều hoảng, tưởng anh
Luân gặp nạn. Không sao cả. Lo nhiều nhớ lắm, vậy thôi. Anh Luân bắt
Liềm ở lại ấp Lộc Chánh, khi biết chắc thằng Thấn đã cút mới cho lên
tìm Mẫn. Liềm đạp xe về nhà, gặp mâm giỗ cha bày trên bàn thờ. Chẳng
đợi mẹ khấn, em trải tấm ni-lông, trút tất cả các món khô vào, thêm
hai chai bia, buộc túm, luồn đường hẻm ra gò, vác bao giỗ đi lùng
Mẫn từ trưa đến tối, vừa khóc vừa lau nước mắt thật nhanh để thấy
đường mà sục, vừa lo tìm lại vừa lo đụng xác các anh chị nằm trong
bụi.
Liềm nói dồn, giọng khản đặc:
- Em ở đây với chị. Hay chị nhắn gì ông Tư, em đạp xuống Lộc Chánh
lần nữa, mua tăng võng, rồi em bất hợp pháp luôn. (Liềm giẫm chân
kiểu con cưng). Ở làng tụi nó bắt. Lỡ mai kia thằng Thấn chỉ mặt em
thì sao? Lỡ em chịu đòn không nổi thì sao? Thiếu gì người chạy giấy
mà chị cứ cấm em vô du kích?
Ồn ào khá lâu. Cơm khét, lửa tắt, rồi Liềm chịu ấm ức về làng. Coi
trẻ con vậy đó mà Liềm đi liên lạc khắp nơi, xuống biển, lên căn cứ,
ra Tam Kỳ, Đà Nẵng, đâu cũng lọt.
Mẫn cười với tôi:
- Anh cứ khen nó ít lời ít tiếng, từ chuối trồng tới chuối trổ không
mở miệng. Bữa nay nó nói khiếp chưa!
Liềm véo chị Hai một cái, chạy biến. Tôi vẫn phải nghĩ mới nhớ ra
ông Tư là anh Luân bí thư. Chao, lần cho ra những mối họ hàng dây mơ
rễ má trong làng cũng khó gớm! Chúng tôi hỏng nồi cơm, được bù một
bữa giỗ chưa khấn, ông bà thương con cháu chắc cũng xí xoá cho.
*
Chị Biền đã gọi móc xích các tổ trưởng du kích bí mật ở lại trong
làng. Đêm nay chúng tôi họp liên tiếp ba nơi trền vùng gò để họ đỡ
lộ vì đi xa và biết nhau quá rộng. Mới có một tổ xóm Đình lựa lúc
địch đang bắn ầm ào, giật một trái mìn đạn 81 kiếm được bốn khiêng.
Một chị xóm Đuồi ném lựu đạn, bị xịt. Quân chính trị làm ăn khá hơn
nhiều.
Anh chị em lâu ngày quên mặt ôi, bây giờ che tay quẹt lửa xem lại,
thấy tôi giống một thằng trung úy về đóng trong ấp năm ngoái, trước
lụt. Chuyện thường thôi. Đến mỗi nơi tôi lại giống một ai đó: thầy
giáo, cán bộ ở hầm dạo bí mật, sĩ quan ngụy, nhà báo Sài Gòn, anh bộ
đội hồi chín năm, gay nhất là khi các chị nhầm tôi với ảnh.
Giữa lúc bàn cãi, thỉnh thoảng Mẫn ngoái cổ lại hỏi rất nghiêm:
- Tụi tôi tính vậy đó, anh Thiêm coi được chưa?
Mẫn hỏi đến lần thứ ba tôi mới hiểu ý. Giữ lúc địch túa tràn lan,
lòng người dễ rối, anh chủ lực có mặt là rất quý. Dù mình trần thân
trụi, tôi vẫn là chút móng chút lông của trái đấm thép, từ đâu đó sẽ
nện xuống đĩa làm cán cân nảy ngược, thằng địch văng ra ngoài. Bà
con làng Cá còn nhắc mãi trận gò Mù U lính rằn ri chết như xếp củi,
cả cái trận cò con diệt hai tiểu đội trong đình, trầm trồ rằng lần
này tôi về làng Cá “chắc có chuyện”, kèm con mắt nháy cho thêm phần
bí mật. Tôi thấy mình phải đóng kỹ cái vai ly kỳ mà đồng bào gán
cho. Lâu lâu tôi cố ý chen vào một câu hỏi về chỗ địch dồn xe, đặt
pháo. Nói cho đáo lý, cũng chẳng phải Mẫn và tôi muốn lòe anh chị
em: góp lại được trung đội du kích, chúng tôi đủ sức đánh những đòn
mạnh hơn cú đình làng Cá nữa kia.
Mẫn gằn giọng nhắc mấy lượt, bàn tay phải chém xuống nòng các-bin:
- Líp lại à? Ai cho nó líp? Đấu lý gắt, không đi rào ấp, không cử ấp
trưởng, liên gia trưởng. Tụi xấu ngóc đầu thì cảnh cáo, bắt cải tạo,
lì nữa thì cho ăn chì. Trong đánh ra, ngoài đánh vô, ngày đêm đánh
tuốt. Kiểm thảo miết cái chuyện bỏ lỡ thời cơ hồi đảo chánh Diệm
rồi, bây giờ không được nằm im chờ thời, rút lui chiến thuật, xin
lực lượng trên về giải phóng! Dứt khoát!
Có cái gì vụng đến chối tai trong các nói của Mẫn. Vừa gặp nhau mừng
mừng, tủi tủi, Mẫn cũng xúc động như mọi người, sao vội ném đánh đốp
những hòn đá tư tưởng ấy ra giữa mâm? Mà lại sao không nói cho dễ
nghe: “Ủy ban kêu gọi các đồng chí…”. Mẫn cứ một mình ra lệnh tới
tới. Tôi đoán trong những người đến họp, phần đông lớn tuổi hơn Mẫn,
sẽ có đồng chí cãi bằng cái giọng giễu cợt của kẻ lớn trước một đứa
trẻ ưa lý sự. Hoặc tất cả sẽ im lặng nghe và ra về, nếu thương hại
không muốn Mẫn bị bẽ mặt… Tôi lầm. Anh chị em hỏi kỹ, bàn ngược xuôi
thật nát nước, hứa sẽ làm kỳ được. Tôi sửng sốt khi một bác có râu
ba chòm trịnh trọng lên tiếng:
- Đồng chí xã đội nói phải. Tới năm sáu lăm rồi, đi đâu cũng thấy
giành dân giành đất rầm rầm, mình ở đây chịu cho nó nhốt thì thiệt
là cha làm thầy con bán sách. Thôi thì vầy, đồng chí Mẫn cứ thưa lại
với thượng cấp một lời cho chắc: chết lụt trong ấp một lần cũng đủ
ngán rồi, cái làng Cá này không chịu vô lờ vô nơm nữa đâu, trầy vi
tróc vẩy tới mấy cũng phá ra cho được!
Chung quanh gật đầu cả. Một chị bỗng chen vào, rất chua:
- Dân quyết, ủy ban cũng phải quyết. Ông chủ tịch đeo con thỏ sau
lưng vướng quá, sao cấp trên không để ổng nghỉ luôn trên quán bà
Liệp cho khỏe, cứ giữ ổng làm chủ tịch hoài vậy hè?
- Nặng lời chi thím Bảy? Năm ngón tay có ngón ngắn ngón dài…
- Ngón dài thiếu gì mà để ngón ngắn cầm đầu?
- Ờ, ờ, ngang như cua vậy mà cứng vỏ đó bà con!
Giữa những lời xôn xao, chị kia càng nói gắt:
- Ngang à? Hễ ông Luân tê thấp miết không lãnh cái chủ tịch, tôi cứ
bầu con Hai đây nè. Nó con nít mới sạch mũi mà đánh giặc được, cầm
quân chánh trị được, nói đâu dân tin đó, còn gấp mấy ông Tám Liệp.
“Khen ông cán bộ đại tài, hễ nghe giặc tới chạy dài lên non”, khiêng
trả huyện cho xong trớt!
- Thôi thím Bảy, để ta lo việc chính.
Mẫn cố can, lảng chuyện, nhưng bà con vẫn xói vào trách ông chủ tịch
bỏ dân, tin dùng đứa xấu như Ba Thấn để nó đục khoét phong trào. Sau
Mẫn phải cắt rất phũ, cuộc họp mới trở lại bàn việc sắp tới.
Tôi đã hiểu cách nói của Mẫn ban nãy. Dân Tam Sa chán cái lối thậm
thụt tránh né của Tám Liệp. Mẫn bị đẩy vào cái thế phải tỏ thái độ
trước dân, không thể nước đôi ba phải theo kiểu “các đồng chí đúng,
chú Liệp cũng chẳng sai”. Rõ rang Mẫn cực lòng lắm mỗi khi nghe chú
Liệp bị đả. Mẫn cố tránh nêu tên chú, nhưng phải đập thẳng tay vào
những điều tầm bậy mà chú đã truyền cho một số người khác, phải đứng
hẳn về phía những ai làm ngược lại chú. Mẫn cũng không thể mượn lời
ủy ban tự quản, khi người đứng đầu ủy ban lại là “cây bàn ra”. Rắc
rồi quá mất!
Chúng tôi về sông Rù Rì khi gà bắt đầu gáy sáng, mỗi đứa cõng một
bao của ngon trên lưng, nhiều nhất là xôi, dưa bở, đường, cá nục.
Những con cá nục to bằng cổ tay, kho ngọt, cuốn với bánh tráng và
rau sống, ái chà chà, ngậm mà nghe chứ không muốn nuốt! Bộ ba chúng
tôi ngả ra ăn sáng, đùa nở phổi. Tôi buồn cười khi Mẫn xưng em như
cũ, thay tiếng tôi rất nghiêm ban nãy. Mẫn trở lại là cô du kích
ranh mãnh, vui ồn ào, dám thách tôi khi ăn xôi và chỉ thua tôi một
nắm con.
Chú thích:
(1) Tha hồ
Chương 10
Em nhỏ chăn trâu trên gò xoay cái nón lá, ngó phía biển, quay lại
kêu lanh lảnh:
- Mô-ranh(1) lên đó mấy chú!
Tôi vừa xong phần lý thuyết về mìn lõm. Cả đội du kích nhấp nhổm,
Năm Ri mau miệng hỏi:
- Cho bắn chớ, anh Thiêm?
- Tuỳ ông thôi!
Cậu ta cười toét miệng, kéo các tổ săn máy bay luồn cây chạy xuống
bờ sông Rù Rì. Ri vẫn chưa quen với vai xã đội phó mới được giao.
Thêm cái nếp tôn sư trọng đạo của dân mình mạnh đến nỗi từ khi tôi
mở lớp đến nay, cả Mẫn và đội du kích đều coi tôi như ông thầy, như
cấp trên.
Anh chị em tản vào các bụi rậm, tập chôn mìn. Anh Luân đã khập
khiễng cặp chân thấp khớp đi tìm số trai trẻ Tam Sa lánh nạn quân
địch ở các xã trên, mộ được bốn chục du kích mới. Các cô gái làng
đòi thoát ly nhiều, nhất là các cô xinh đẹp dễ bị ghẹo bị hiếp, anh
chỉ chọn hai chục “Tụi bây ra hết thì lấy ai vừa đánh vừa đấu! Hồi
nào địch bắt lình đờn bà, tao cho Hai Mẫn góp một đại đội con gái,
mặc sức bây gõ đầu thằng Mỹ“. Cộng với số du kích cũ, Tam Sa đã đủ
mỗi thôn một tiểu, nhưng mới được ba người một súng, đang cố kiếm
thêm võ khí.
Chiếc tàu rà lên tiếng từ xa. Một hồi trẻ em khóc eo éo, mấy tiếng
ru hời rầu rĩ. Tôi nhìn nó sao cứ nhoè nét mãi. Tôi dụi mắt, chợt
thấy bả vai nhức mỏi. Chắc tại thức đêm lội cát nhiều, hay lại trở
trời. Để coi tổ Năm Ri bắn ra sao, tập bắn máy bay bốn ngày liền
rồi.
. …Cấp thiết hiệu triệu ông Nguyễn Luân và bà Phạm Thị Mẫn và toàn
thể anh chị em cán bộ và du kích đương nhiên hoạt động Việt cộng hãy
cấp thời hồi chánh...
Máy bay kêu rè, giọng thằng xã Chinh cũng rè rè đọc cái bài ghi âm
dốt hay nói chữ. Mắt tôi vẫn hoa. Tôi rùng mình liền mấy cái. Bậy
rồi. Những con phát-xmô-đi-om trong máu đang phá quấy. tôi đã đưa
liều thuốc sốt rét cuối cùng cho hai cậu du kích chia nhau hôm kia.
Biết làm vậy là sai, dễ hỏng việc, nhưng tôi không cưỡng nổi...
Chiếc tàu rà xuống thấp, bay dọc sông. Một loạt súng trường lốp đốp.
Nó rướn lên. Loạt khác đuổi theo. Nó bay gấp qua đầu tôi, bên cánh
trái hiện một mảng sáng. Cô Cang giẫm chân:
- Mẹ cha nó, rách miếng cánh lòng thòng mà cứ bay!
Tôi quay lại, định ném một câu đùa, nhưng hàm dưới bắt đầu lập cập
không nói được. Rét. Trong mỗi đốt xương tôi, chất tuỷ đã đông thành
những giọt thủy ngân nặng và rất lạnh, chạy qua tràn lại. Tôi không
chịu nằm cố động đậy chân tay, làm cái gì đó để đè bẹp cơn sốt.
“Lướt sốt“ nhạy nhất là khi địch đánh úp. Tôi lê ra ngồi chỗ sáng,
cái nắng nung người trước đây mươi phút còn đáng sợ, bây giờ chỉ
sưởi được một chút những chỗ da để hở. Pháo bắn lên sông Rù Rì, trả
thù cho cái cánh rách tụi nó nã hàng giờ là ít. Tiếng nổ lọt khó
khăn vào tai tôi đầy hồ đặc.
Năm Tuất đập vai tôi nói gì không rõ, chỉ tay vào bụi rậm. Anh nhắc
lại to hơn, tôi bắt được từng đoạn cụt ngủn như văn điện tín:
-..Phơi nắng …nhập vô xương khó lành...nằm võng...chỗ thấp, lỡ văng
mảnh...
Anh đã lấy võng tôi buộc vào chỗ trũng có bóng cây. Cô Cang xoắn
xuýt hỏi tôi ăn cháo hay cơm, tôi chỉ để ý rằng giọng nữ thanh xói
vào lỗ tai ù dễ hơn giọng nam trầm; hèn gì các cậu bị bom ép thích
nói chuyện với cô hộ lý hơn với thủ trưởng... Không nên để anh em dỗ
mãi vì một keo nhớ rừng. Tôi vào nằm võng lặng lẽ run, thu hình thật
nhỏ cho người khỏe khỏi vướng. Năm Tuất vét bốn cái võng nữa đem
trùm lên người tôi. Tôi thò đầu ra thở, thấy anh lại chúi vào đống
sổ sách và hành hạ cây bút chì: cắn đầu bằng để nghĩ, mút đầu nhọn
để ghi. Anh vừa được chỉ định vào ủy ban nhân dân xã, nắm kinh tế,
đang lo gỡ đống bòng bong của thằng Ba Thấn để lại. Cô Cang áo trắng
nón trắng, xách nồi gạo xuống chân đồi nhen lửa nấu cơm, lẫn trong
những bếp đun nước và lò đốt than của đồng bào trong ấp chiến luợc
ra kiếm củi cắt lá, róc vỏ sim, giấu gạo đem cho chúng tôi, đưa tin
địch và gác cho chúng tôi từ bảy giờ sáng đến năm giờ chiều. Phải
mất bốn ngày đấu tranh và hai người bị thương nhẹ, cha con thằng
Chinh mới chịu mở cổng ấp, còn hẹn năm giờ trở đi chúng sẽ kêu pháo
bắn vào bất cứ một bóng người, một búng khói nào trông thấy trên
vùng gò đã “bàn giao cho Việt Cộng“.
Ai ra gặp du kích cũng nói:
- Cha con xã Chinh lên râu lên nước hung rồi đó.
Theo lời tả thì thằng xã Chinh nó tinh ma đến nỗi ốm teo ốm nhách,
mặt bằng hai ngón tay chéo;bộ râu ba chòm thưa cứ ngọ nguậy quanh
năm vì hắn nhai trầu không ngớt miệng. Mới lên bảy, hắn đã biết
tránh sai vặt bằng cách “dạ” một tiếng thật to và chạy biến, như có
ai gọi ngoài ngõ. Tên cúng cơm là Chàm, đặt tên con đầu là Chình,
sau đổi tên chữ mới, bỏ dấu huyền. Đời Việt gian của hắn cũng chẳng
xuôi chèo mát mái, ông thầy Mười nhớ kỹ lắm. Thời Tây, nắm triện
đồng chưa nóng tay đã bị kiện lạm thuế, bán hai mẫu ruộng đút quan
mới khỏi tù. Lên lý trưởng thời Nhật chỉ kịp ôm sổ ra nộp ủy ban
nhân dân cách mạng. Mắc kẹt trong vùng tự do dạo chín năm, hắn vô
Quốc dân đảng làm điệp, bị ta giam hai năm. Sau Giơ-ne coi như mả
phát, hắn vọt lên quận phó được đâu sáu tháng, lập công giết luôn
tám người kháng chiến cũ. Vẫn bị phe Diệm đá phốc, phải dắt con vô
Phan Thiết trốn ít lâu, rồi về nhận một chức bạc nhạc là chủ tịch
Phong trào(2) xã. Năm 63 Diệm đổ, hắn bị Quốc dân đảng xếp loại
“thiếu lập trường”, chỉ kiếm được cái ghế đại diện xã, ít lâu sau
mới giành được chân cảnh sát trưởng cho thằng con lêu lổng.
Con chó bị đánh mãi còn nhe răng gừ với chủ, hắn không gừ. Chẳng
phải vì “mả ông nội chôn trúng đất bài ngà, sanh ra máu ưa lãnh việc
làng, bị cái chưa đứng số“ như hắn nói khi nhậu lai rai với đám
quen. Hắn làm tề chỉ vì ruộng.
Những đời cao tằng tổ khảo đã truyền lại cho hắn tám chục mẫu ruộng
cùng với cái khát ruộng, mê ruộng, say ruộng khó tưởng tượng nổi.
Qua hơn năm chục tuổi đời, trải năm trào chánh phủ- hắn tính các
thời Tây, Nhật, Việt-minh, Diệm, và chưa biết đặt tên gì cho cái
thời láo nháo hiện nay- hắn càng tin có ruộng là có tất cả. Thẻ bài,
đồng triện có thể mất, nhà có thể cháy, vàng bạc có thể bị cướp,
trâu bò và cả lũ con nữa có thể chết, chỉ có ruộng là ngàn năm không
suy suyển, mỗi năm đều dặn đẻ cho hắn nhà gạch trâu cái. Hắn còn
đứng trên ngọn đống lúa tô là còn nhiều người đến van vái xin làm
rẽ, vay lãi; nắm nhân tâm bằng chén cơm là chắc nhất. Mỗi chuyến lên
voi dù rất ngắn, đều giúp hắn cấu chỗ này véo chỗ kia, đắp cho ruộng
hắn tròn hơn, liền bờ hơn, ít ra cũng bù một chỗ sứt mẻ khi xuống
chó, hay cùng lắm hắn vẫn dựa chức mà giữ được vốn cũ, chờ thời ngoi
nữa. Khi một số nhà giàu bán ruộng để làm giàu kiểu mới, hắn cười
khẩy vét tiền mua ngay, rất khoái chí khi các công ty lần lượt vỡ
nợ, máy hỏng xe trúng mìn. Đã nói nhứt điền nhì thổ mà!
Cái bệnh nghiện ruộng ấy, cái đạo thờ ruộng ấy chỉ có thể so với nỗi
căm ghét dữ dội đối với những ai định lấy ruộng hắn. Từ thượng cổ
đến nay chưa hề bao giờ xảy ra một chuyện nào quái gở như vậy, bốn
ngựa xé thây không ác bằng trăm tay xé ruộng, hắn kêu vậy. Hắn xuýt
lồng lên khi nghe Diệm ra dụ cải cách điền địa, đọc kỹ hắn lại thấy
khoái: không động đến gia sản một trăm mẩu tây trở xuống, không động
đến những ruộng đất canh tác bằng cơ giới, to mấy cũng được. Ngon
quá rồi, thiếu gì mánh lới do gian, chia nhau đứng tên, đặt một máy
bơm cũng gọi là cơ giới! Đến thời con cháu hắn vẫn còn ruộng đường
làm giàu. Càn đường hắn lúc này chỉ có Việt cộng.
Em ruột hắn chủ, mấy chiếc ca-nô chạy sông, một lần về thăm quê vui
miệng nói rằng chánh sách ruộng đất của “bên kia “ bây giờ coi bộ
mềm dẻo. Giữa đám giỗ mà hắn ném luôn miếng bã trầu vào mặt em, chửi
cha thằng chó đẻ tuy cả hai chung một cha một mẹ:
- Mềm với dẻo! Đền với bù! Tụi nó rượt tao chạy xịt khói đen khói
trắng, mày ăn gì mà đi bốc thơm cộng sản?
Thằng em chẳng vừa, túm cổ cái chai lít thủ thế, cười mũi:
- Thằng này có miệng ăn cũng có miệng nói, đứa nào hót chánh phủ cứ
việc hót thử coi: sát nhơn thì giả tử, ăn đất, còn chống đò chở gạo
thì ăn cơm uống nước thiên hạ!
Mối thù âm ỉ từ ngày chia gia tài đến nay mới xì ngọn, lại bị giập
ngay, chưa ai đủ sức hại ai.
Hắn không chịu nổi ý nghĩ mất ruộng, dù được bồi thường bằng nhiều
cách. Cầm một nắm giấy bạc hay cổ phiếu trong tay, ù ù cạc cạc giữa
những cỗ máy và những bài toán, hắn chỉ thấy hắn là cái cây đứt rễ
tróc gốc, mớ lá còn dính đấy nhưng sẽ khô dần rụng dần. Hắn chống
cộng với cái điên rồ của ông nội hắn bóp cổ vợ lấy tiền mua thuốc
phiện, cái đần độn của cha hắn đi ăn cắp từng nắm lúa mót mà để thóc
mục từng cót một, cái cuồng tín của hắn đã keo đã quánh lại trong
tim óc. Ruột thì vậy, nhưng vỏ hắn lại trơn, hay đổi màu. Tùy lúc,
hắn biết cười hề hề, lau nước mắt, mắng một tay sai, dám hỗn với cô
bác, khề khà kể tâm sự như cởi ruột ra, và cho giết hết người này
đến người kia.
Thằng Chinh con có khác. Hắn cao hơn cha một đầu, biết chút tiếng
Anh đủ làm le với các cô chiêu đãi viên, ưa chơi vất tiền qua cửa
sổ, quanh năm mặc áo quần lính dù và đi bốt tuy không phải nhà binh,
đánh người giết người như chơi thể thao, hay tấm tắc khen cộng sản
gan và giỏi để chọc tức cha. Cha con chửi nhau lắm trận ra trò, chỉ
vì cha ham ruộng còn con ham rượu ham gái, cha chưa nã hết của chìm
mà con đã rạch bụng “đương sự“, cha xỏ lá mà con du côn. Hình như
thằng này hoảng sau khi chết hụt ở làng Cá, mất vùng Tứ Nhơn, lại
được ủy ban gửi liền hai lá thư khuyên nhủ và cảnh cáo. Cách đấy vài
tháng hắn còn than thở với bà con dưới Nhị Lộc rằng mất của hơn mất
mạng, tình thế này trước sau gì hắn cũng nhảy vô Sài Gòn, Phan Thiết
kiếm ăn, cái xã này “cảnh đã khó, sát nữa càng mau chết“. Hắn gửi
hai tút thuốc Ru-by kèm một thư phân trần đến ủy ban trong dịp Tết.
Đến nay, tin Mỹ vào và trận càn lớn đã sửa gân lại cho hắn. Hắn dẫn
lính đi phục như cũ, bắn bị thương hai chị đấu tranh trong mấy ngày
qua, đang mộ lâu la để ráp lại trung đội dân vệ bị đánh nát.
Tôi nằm co con tôm, kẹp tay giữa hai đùi cho đỡ lạnh, vẫn nghe những
khúc câu hụt đầu đuôi như đánh điện qua võng kaki. Năm Tuất cần chắc
thằng Chinh cha đi trên tàu rà, cứ nhè thằng ngồi sau mà bắn, không
rớt máy bay cũng giết được ác ôn. Một cô cãi bằng giọng ồm ồm. Ấy là
Rốt chị tức Hồng Lan, tức Lan B, bí thư chi đoàn của đội du kích xã.
Mẫn hay kéo Rốt chị đi cặp kèm để làm loa hô lệnh chiến đấu, tha hồ
mà quát đại đội bên phải tiểu đoàn bên trái cho giặc rúng xương. Mẹ
cô đẻ sáu con, đặt cậu thứ sáu là út hơi sớm vì sau đó còn cả chuỗi
nữa: Thêm, Thừa, Sót, Rốt chị, Rốt em, Hết, vị chi chẵn là một tá.
Những tên đẹp trong tiếng ta có hạn, số cô muốn đổi tên lại nhiều vô
kể, nên tôi mới tính qua loa đã thấy từng gặp đến tám cô Hồng, năm
cô Ngọc, bảy cô Lan, còn Mai thì đủ các màu: Hồng, Bạch, Thanh,
Hoàng, Tuyết...
Năm Ri về thở hổn hển, cười, hỏi tôi. Đội du kích gom lại, bàn rất
hăng về chầu phá ấp tối nay, tôi cố nghe để nhắc một chỗ bỏ sót nếu
cần. Cái giọng the thé kia là của cô Thúy tức Kim Hương, xinh và
hiền, rõ thật là tiếng phản người. Còn cậu Chừng nói khàn khàn lại
mới mười bảy tuổi, má phính bấm ra sữa. Cả một lớp trẻ rất bốc, táo
bạo, dễ thương, phải cái còn vụng, chưa đủ chín chắn. Họ sẽ giật lại
Tam Sa từ tay địch.
Quân địch dồn về đây đông nghịt, đông đến phát ớn.
Trong sáu thôn của Tam Sa có hai tiểu đoàn đóng giữ. Kiểu lấn chiếm
của chúng ở đây kỳ cục lắm, na ná như nằm vạ. Chúng không càn rộng
nống mạnh như mấy ngày đầu, cũng không chịu rút, rào ấp thì uể oải,
tuần gác hay phục kích chỉ lấy lệ. Bọn này bị đánh cho đui què mẻ
sứt ở Việt An, chạy về đây nghỉ tạm lấy hơi, dựa lưng vào cái căn cứ
gần An Tân đã được tên là Châu Lai hay Chu Lai. Các xã chung quanh
Chu Lai đều đầy nhóc những đơn vị rệu rã như vậy, vùng này biến
thành cái túi đựng lính thất trận của tỉnh Quảng Tín. Chúng chửi tụi
sĩ quan như hát hay, tát tai bọn tề và dân vệ, gào đòi ăn, đòi mặc,
đòi về ở phố.
Thằng đại úy sẹo má đóng trong nhà mẹ Sáu nhờ mẹ ra gò năn nỉ mấy
ông Giải phóng đừng cắc bụp nữa:
- Theo Mặt trận cực lắm, tụi tôi không dám. Rút đi nơi khác thì còn
chỗ nào nữa mà rút! Cái Châu Lai sắp sửa giao trụm cho Mỹ rồi, thành
phố chật ních, đồn bị hốt... Bà nói giùm các ổng chia tạm cho tụi
tôi mỗi thôn một liên gia thôi, ăn ngủ ít lâu cho tỉnh hồn, còn mấy
liên gia khác các ổng mần tuồng hát bội mặc sức. Lâu lâu tụi tôi bắn
lên trời một mớ, Mỹ nghe mới chịu trả lương.
Chúng tôi nhắn bảo hắn ra gò cắm lều mà ở. Hắn lừng khừng, sợ “ở dồn
cục, các ổng bứng cả cụm”. Dù bị bắn tỉa không ngớt, quân hắn vẫn
chết ít hơn ở những cái lò nướng lính như ngã ba Việt An. Hắn còn
đóng trong làng, cha con xã Chinh còn đốc dân xây ấp, chúng tôi còn
đánh cả ngoài lẫn trong. Chị em binh vận đã dắt ra gò được mười một
lính, có bảy súng, còn đạn, lựu đạn, mìn thì lấy đủ cho du kích
dùng. Ta đang ém địch lại, mỗi ngày một ít.
Còn một chút lấn cấn nữa: nhóm anh Liệp.
Anh với bốn năm cán bộ ngành nằm lì trên Tam Trân với nhiều thứ bệnh
thình lình nổi dậy trong người. Chỗ đồng chí ai lại truy nhau cái
khoản sức khoẻ! Anh Bảy quai nón về họp chi bộ Tam Sa bên sông Rù
Rì, khuyên chúng tôi cứ đánh tới tới, để nhóm “đau ốm “ kia nghỉ dài
hạn. Bây giờ thằng địch đang duỗi đang nống, chưa nên vội xốc xới
lại đội ngũ. Cũng được. Cố kéo họ về sẽ lắm cái phiền: đang vật lộn
với địch mà vướng mấy anh treo võng nằm dài, động mở miệng là bàn ra
bàn rùn, “ cản mũi kỳ đà “, chỉ thêm cực.Còn đỡ hơn mấy năm trước,
hồi anh Liệp làm bí thư, anh Luân với Mẫn mỗi tí lại phải chạy lên
quán bà Liệp để “xin ý kiến “, mà nào có ra hồn cái ý kiến!
Tuy tạm chịu vậy, nhưng thỉnh thoảng chúng tôi bị vấp. Hôm kia vấp
nặng nhất.
Ban cán sự Nhơn Phước ra hỏi về việc tạm cấp ruộng công còn mấy chỗ
dở dang. Mẫn bí, anh Luân cũng không nắm được, hứa sẽ hỏi lại anh
Liệp. Nhân khi Mẫn sắp về huyện họp, tôi bàn thẳng:
- Không để rụng cái đuôi nòng nọc, con cóc đừng hòng nhảy. Kỳ này đề
nghị huyện cử người thay các ổng cho xong.
Mẫn trách tôi nóng. Phải chịu khó đợi họ chuyển chứ. Giằng co một
lát, tôi nổi nóng thật:
- Ừ thì tôi là người ngoài không hiểu những chỗ lắt léo, tôi thô
bạo... Tôi tàn nhẫn với ông Liệp vì tôi thương bốn ngàn bà con Tam
Sa bị ông ta bỏ rơi. Các đồng chí chỉ sợ mất lòng ông Liệp, không sợ
mất lòng dân phải không?
Mẫn kêu lên, giọng đã hơi nghẹn:
- Anh làm như chú..như họ là địch hay sao á...
- Họ là máu thịt của ta nhưng mà là thịt thối máu hư vẫn phải mổ để
thân mình lành bệnh mà đánh giặc! Bộ đội chúng tôi liều chết cứu
nhau, vậy chớ ai rụt cổ không tiến thì xin mời giao chức lại cho
người khác lập tức, còn chuyện tình cảm để đó nói sau! Hay các đồng
chí tưởng không có ai thay nổi mấy ông “rùa hành chánh“ đó? Hay là
lỡ ăn mì uống bia ở quán bà Liệp, bây giờ há miệng mắc quai?
- Anh Thiêm!
- Phải, tôi nóng. Nóng mà có lý. Bây giờ viết thơ không kịp, nhờ
đồng chí Mẫn báo cáo miệng cho tôi điều này: chi bộ có một đảng viên
sinh hoạt ghép tên là Tư Thiêm, hắn đề nghị cách chức Tám Liệp và
một số cán bộ khác vì tội không chấp hành nghị quyết bám dân đánh
địch mà lại còn hoạt động bè phái. Hễ huyện không ưng thì cứ ghi
biên bản, đến khi phong trào Tam Sa nát bét thì lật lại coi hắn có
trung thực với Đảng với dân hay không!
Tôi bỏ đi luôn đến chỗ đội du kích tập bắn. Không có cái chén ngọc
nào để uống bảy chén nước cho nguôi giận-hình như sách Luân lý giáo
khoa thư thời Tây bày vậy – tôi bứt nhai tạm những chùm chà là
non,dẻo và chát. Nói toạc móng heo một lần lại hoá hay, giữa lúc
hằng ngày máu đổ mà cứ cù nhằng cù nhẩy...Nửa giờ sau anh Luân vào
ấp, Mẫn mới ra đi. Tôi nhìn theo cái bóng mảnh khảnh băng đồng một
mình, chợt hối đã quá nặng lời. Suốt hai hôm Mẫn đi vắng, tôi cồn
cào nhớ Mẫn, thương Mẫn. Trong đợt thử thách mới này, Mẫn chịu khổ
hơn ai hết, và Mẫn cũng bị chạm đau nhất mỗi khi “ khúc đuôi” phá
quấy. Dù đúng đến mấy, tôi vẫn không có quyền đốp chát với một đồng
chí như thế...
Cùng với mối lo hỏng việc chính từng lúc giày vò- Năm Ri mới dẫn tôi
xuống Chu Lai được một đêm, may sao tụi Mỹ chưa kéo đến- cái nắng
đầu mùa cũng nung cho tôi sốt ruột sốt gan.
Từng bước, mùa hè lấn tới khắp nơi với bông trang đỏ tươi, bông vây
đỏ sẫm, đọt sim đỏ bầm, với tu hú lảnh lót trên cành và cuốc kêu
khắc khoải trong bụi. Chúng tôi lao đao vì nắng. Những chỗ trũng
nhiều cây rậm thường bị trực thăng và pháo bắn, chúng tôi phải ở rải
trên gò cây còi, có hôm phơi lưng như dân Quảng Ngãi phơi đường.
Nắng trưa rót xuống thẳng đứng, chạm mặt đồi sỏi thì toé thành lửa
hàn, bốc lên những chùm bong bóng vàng bay theo mắt người vào chỗ
râm, vào cả giấc ngủ. Ngày trở nên đáng sợ, ngày sau nóng và dài hơn
ngày trước. Đêm đã co mình thu ngắn lại, vẫn không thoát hơi nóng
của ngày bao vây hầm hập, một thứ nắng đen. Gió nồm là luồng hơi phả
từ miệng lò. Năm ba hôm một lần, trời kéo mây khói đen và đổ một
trận mưa dông rất to hột, sấm sét đủ cả, nhưng chỉ vài phút đã tạnh,
để lại làn hơi đất trắng đặc rất nồng mũi làm chúng tôi chóng mặt và
đổ mồ hôi như xông cảm.
Mệt mấy chúng tôi cũng đêm đêm vào làng, không ai chịu ở “nhà“. Đánh
bọn lính gác tuần, phá rào ấp, rút kinh nghiệm đợi đấu lý vừa rồi,
nhận đạn của các em góp, xử cả những vụ kiện trâu ăn lúa và hàng xóm
mất gà, khối việc. Nằm ngoài gò một mình rất chán. Muốn ngủ cũng
phải đợi đến một hai giờ sáng mới chợp mắt được. Lúc ấy, mồ hôi ngấm
ướt sũng áo quần và võng đã bắt đầu gây một cảm giác dễ chịu như gió
mơn trên da, rõ nhất là dưới lưng, nơi vải ép nhiều lớp lại thấy mát
hơn tay chân để trần. Những đám mây muỗi đã tan, vòi muỗi chích qua
ba lần vải nhoi nhói dưới mông nghe chừng đã no máu, pháo địch bắn
bậc thang lùi về giã chung quanh căn cứ. Thiếp được vài tiếng xong
phải dậy cuốn võng nấu cơm vắt và ăn luôn thật no phòng địch càn
phải đánh suốt ngày, sau đó có thể ngủ ngồi thêm một lát nữa, súng
gác ngang đùi và bao đeo trên lưng.
Ban ngày, chúng tôi vượt những giờ thử lửa bằng cách động tay động
chân liên miên. Ham làm thì quên nóng. Hết phiên bắn tỉa lại về học.
Bài học ngó lên trời mà xếp. Nắng gắt. Lên lớp lý thuyết quân sự.
Nắng dịu, ra thao trường. Mưa, căng nhựa ngồi xúm chùm ôn chính trị.
Hở ra lúc nào anh em lại đào hầm tránh pháo, đạn phên để đưa xuống
lát các hầm bí mật vùng cát, vót chông, nấu thuốc bom đúc mìn, men
vũng lầy tóm những chú ốc bươu ngoi lên bờ cỏ tránh nước nóng, tìm
những chùm chà là non về nấu canh với thứ rau má già đắng cố ăn để
giải nhiệt.
Nhờ không ngớt “vừa báng vừa mài sừng“, đội du kích vẫn hăng sau
ngót nửa tháng bật ra khỏi làng, tránh được cái nạn mỗi người một
võng nằm thở dài sườn sượt như tôi gặp ở vài nơi. Cô Rốt chị có
giọng đàn ông và cậu Sung cao kều được vào Đảng, bảy anh chị em nữa
vào Đoàn, ai nấy đều thoải mái cả. Phải cái sức khoẻ xuống nhiều.
Bụng đói mà suốt ngày không ăn được,” cơm ứ, nước ừ “, chỉ còn bữa
khuya bà con mời trong xóm là chén đẫy bụng. Khắp người nổi sẩy, sẩy
biến thành những mụn con đỏ lấm tấm, rồi giữa vạt mụn nẩy cái nhọt
cứng, nóng và rất đau. Mặt hóp và đen, nổi lên toàn là răng vêu và
mắt thô lố. Bà con các ấp ra thăm cứ la trời anh em cực qua, riêng
tôi hay bị trỏ ngón tay nhất: “Thì coi thằng Thiêm đó, bộ đội nuôi
nó mập trắng mập mềm, về ta mới mấy bữa hoá con cóc đen!“. Tất cả
của ngon trong làng theo ngõ tắt kìn kìn đi tìm chúng tôi trong
những ngày đầu, rồi cạn dần. Đang lúc giáp hạt, thêm bị bắt đi rào
ấp, bị tụi lính cướp ngày trộm đêm, số lớn bà con than thở một lát
rồi dặn chúng tôi cứ đến vạt sắn, vườn dưa bở, chỗ đặt nò tôm, kiếm
được gì ăn nấy. Đội du kích lại động lên vòn vọt. Ít thầy đầy đãy,
nhiều thầy chia bảy chia ba, nồi cơm của chúng tôi bây giờ mỗi lát
khoai khô chỉ cõng được năm ba hột cơm gọi là có. Gặp hôm hụt bữa
chúng tôi đem cô Chín Cang ra trêu để ”thêm phần lạc quan tin tưởng“
bởi cô vẫn trắng và tròn quay như khúc sắn luộc, chỉ ước sao cho
xuống bớt ít cân cho dễ chạy và nhỏ bớt mục tiêu.
Cái thú ngâm mình dưới sông Rù Rì phải tạm dứt. Như chim gõ kiến,
tụi trực thăng rỉa đại liên vào từng hốc đá bên bờ hiện ra dưới gió
cánh quạt, trúng một cậu núp khá sâu. Chúng tôi dời chỗ vài lần nay
về đóng chung quanh giếng Tiên. Một con suối cạn phơi lòng đá trắng
mốc còn giữ lại một giếng nước mạch rất trong, mát lạnh, nắng mấy
cũng không cạn, chẳng của tiên thì của ai nữa. Chỉ tiếc rằng nàng
tiên nào ấn gót sen thành giếng lại có bàn chân nhỏ xíu, nên cứ nửa
giờ giếng mới rỉ đủ nước cho một người tắm hà tiện, giá được một vó
ngựa Phù Đổng thì hay hơn. Tôi thử tính, thấy đây là cái giếng tiên
thứ tư đã gặp.
Những làng quê ta rải dọc miền trung, nằm giữa núi cao biển rộng,
bao giờ cũng có một giang sơn thu nhỏ bên mình như chơi non bộ. Làng
Cá này chẳng chịu kém ai. Con suối nhỏ có những bông bạc vẫy người
kia được đề bạt vượt cấp lên sông. Núi Chúa chỉ là một trái đồi
nhỉnh hơn đám bạn bè đôi chút, trên đầu chứa một chỏm rừng cấm. Nếu
nó lùi về Tây chừng mười cây số thì mất ngay tên Chúa, cũng không ai
gọi là núi nữa. Tôi qua lại vùng gò hoang nhiều lượt, gần đây mới
biết dọc đường có tới ba cái đèo, riêng một cái được thổi phồng là
đèo Trâu Lăn, nghe mà dựng tóc!
Dù đã quen cảnh mến người, tôi vẫn thấy cần đi nơi khác.
Tôi biết mình là đứa hay sa đà, dễ bị những xúc động một lúc cuốn xa
công việc chính. Ở với xê mình không sao, nhiệm vụ với tình cảm cứ
xoắn vào nhau như hai tao(3) đánh thành một sợi dây. Khi đi lẻ mới
phiền. Áo, quần, thuốc, gạo, gặp ai quá thiếu tôi trút dần ra cho,
sau đó lạnh run không có mặc, ốm không có thuốc, đói chảy nước miếng
trong. Về xã gặp việc gì cũng ham, cũng lao vào, từ dạy hát cho các
em đến kẻ khẩu hiệu phòng bệnh, được bà con khen đấy nhưng giờ nghỉ
mất sạch. Bậy nhất là chuyến chuẩn bị chiến trường năm kia. Tôi đưa
một tổ về ở xóm gần đồn 96, sửa soạn cho xê mình một đòn hốt xe tiếp
tế. Địch càn, chúng tôi rút, bị một ông già mắng: “người ta tay
không đánh giặc, các anh súng ống đầy mình mà chạy cong đuôi vậy
à?“. Cả tổ cùng nổi tức khí, đằng sau quay, đánh suốt buổi, hạ mười
ba khiêng địch. Tôi với một cậu nữa bị thương, phải về đơn vị để
lãnh thêm một keo vò đầu rất đáng kể.
Cuối lá thư gửi về H.68, tôi viết xin chuyển ra Đà Nẵng, cũng để
tránh một chầu sa lầy mới. Lý sự vững chắc lắm nhé. Được giao tìm
hiểu Mỹ, lại đụng đầu với Mỹ hoài. Dù muốn biết thêm về ngụy cũng
không nên ở đây: cả miền Nam thắng như trẻ che, riêng Tam Sa lui về
cái thời làm ăn rị mọ(4) trước đồng khởi, còn điển hình chỗ nào. Ai
dùng đến kinh nghiệm chống líp của xã này, khi quân ta đang vây các
thành phố? Và mấy nơi đã mắc những rắc rối trong hàng cán bộ như
đây, để hỏi nên gỡ rối cách nào? Tôi cuốn gói là phải. Đà Nẵng là
nơi tôi thuộc kỹ từng phố nhờ những đêm đạp xích lô, nơi tôi quen
với lớp trẻ nhiều, trẻ thích chụp ảnh hơn già. Đà Nẵng ngập dưới
dòng thác lính thủy đánh bộ Mỹ ùn ùn đổ vào. Đà Nẵng ù tai choáng óc
vì phản lực Mỹ ngày đêm lên xuống, Đà Nẵng hừng hực khí thế muốn nổi
dậy...Tôi tự thuyết phục mình rất hăng, nhằm cố gỡ những ngàn sợi
tóc đang buộc tôi vào mảnh đất và nhóm bà con đang một lần nữa mắc
cạn. Tôi cũng sờ sợ khi nhận ra mình thương Mẫn nhiều quá. Phải chi
Mẫn là con trai thì hay biết mấy, chúng tôi có thể thân nhau hết mực
mà không bao giờ vượt qua tình bạn...
Khó tưởng được cái sức bền dẻo lạ lùng của Mẫn. Mẫn làm và học chung
với đội du kích, còn bận thêm trăm thứ việc không tên của người thay
mặt chi ủy và ủy ban nắm xã đoàn, xã đội, còn giữ vai người chị Hai
thu vén tuy không lớn hơn anh em là bao. Tôi không biết cái võng của
Mẫn là cũ hay mới, bởi Mẫn luôn ngủ sau dậy trước. Đi bắn tỉa hay
phá ấp về, Mẫn đợi anh em nắm hết mới đi tắm giặt một mình, chớp mắt
một lát đã dậy nấu cơm. Cánh con trai ngáy giòn đến khi nước uống
rót đầy ống, cơm bày sẵn, tắm xong lại cởi áo rách ném nhờ chị Hai
vá, gạ chị Hai bắt óc hái rao, lén xé sổ tay chị Hai quấn thuốc hút,
đủ trò. Mẫn chỉ cười cười trong khi các cô trẻ nổi cáu.
Mẫn hay nhờ tôi bày thêm một ít lỳ thuyết bắn máy bay và các công
thức tính lượng thuốc nổ phá cầu, phá lô-cốt. Tôi ngả lưng, vừa quạt
vừa giảng bài. Mẫn ngồi ghi trên đầu gối, mồ hôi đọng từng giọt bằng
hột đậu trên mũi, cây bút bi chịu nóng không nổi cứ trào mực ra giấy
và tay. Đôi lần tôi mệt quá thiếp đi nửa chừng lát sau mở mắt thấy
Mẫn đang may cho con nuôi cái áo bằng vải cũ, hoặc chỉnh riêng một
cậu lén bắn gà rừng giữa lúc thiếu đạn. Mẫn cùng anh em gọi đùa tôi
là thầy Thiêm, và không hề giấu vẻ mặt tủi tủi khi tôi nói muốn đi
nơi khác. Cái buồn lộ liễu của đồng chí muốn giữ nhau, vậy thôi.
Nhiều tiếng nổ to đánh thức tôi dậy. Pháo bầy bắn lộn xộn.
Tôi nghiêng đầu, lờ đờ nhìn qua mép võng. Cái gì cũng khang khác.
Tôi nhắm mắt, lại mở, nhận ra chỗ khác ấy. Da trời ngả màu xoài
chín, lá cây vàng như giữa thu, ở cuối võng hòn đá trắng tôi đặt
ba-lô cũng nhuộm nghệ, tựa hồ một cơn nắng quái chiều hôm đang phủ
ánh vàng ủng lên mọi thứ. Tôi chống tay ngồi dậy, thấy trong đầu có
một viên bi sắt của xe tải, hai vai nhức như vừa rán cõng gạo thi
với một cậu miền núi... Tôi lên cơn li bì hệt một chú lính mới bóc
tem, không phải ngây ngấy dun dún một lát rồi hết như lớp kỳ cựu
đường rừng đã chai ra với loài muỗi chổng mông trên trời. Con ma sốt
vừa làm một chầu truy lĩnh. Bây giờ tôi đang nhìn trời đất bằng cặp
mắt đẫm kí ninh vàng, tuy rất thèm được một viên vỗ vào miệng mà
nhai rau ráu.
Lại nổ nữa. Sét, không phải pháo. Trên gò sỏi khô trụi, tiếng sét
dội rất sắc và giòn, như bình thủy rơi xuống nền nhà. Mây đen đằng
Tây đùn lên nhanh, gần đến mặt trời. Lát nữa mưa cầm chắc. Tôi lập
cập mở tấm nhựa ba thước ra căng trên võng, rồi vịn cây lần tới
giếng, xương ống chân lún vào bàn chân mềm nhũn, khá đau. Tôi rửa
mặt, lấy góc khăn cọ lưỡi cho đở đắng miệng, vào lật xem mấy cái
soong để bên võng. Ban nãy Năm Tuất cắt người ở lại trông nom, tôi
gạt đi, sau Chín Cang nấu bữa tối để sẳn cho tôi, À, rất khá, một
soong cháo hành to ăn với cá ngừ kho tiêu. Nhờ trời, tôi sốt nặng
mấy cũng ăn được nên ít mất sức, anh em xê mình hay trêu: “Hừ ừ
ừ..nấu cho tao...hừ ừ..vài lon gạo cháo thôi..” Cháo còn nóng, mồ
hôi túa ra làm tan cơn nhức đầu, người nhẹ hẳn.
Ai đó từ phía sông Rù Rì đi lên theo lòng suối khô, nhảy bước ngắn
bước dài trên tảng đá. Một em gái nhỏ từ ấp ra tìm chúng tôi, vòng
xuống sông tắm, lang thang tìm giũ chà là, giờ mới lên. Tóc xõa quá
vai, áo lót trắng không tay, quần vo cao, tay phải bưng cái nón ngửa
đầy chà là chín đen, tay trái bốc bỏ miệng... Tôi rửa xoong chén
xong trở lại ngồi võng, thấy Mẫn đang đi tới. Mẫn chứ không phải em
nhỏ nào cả. Huyện đóng tít gần chợ Cây Xanh, sao mới hai ngày Mẫn đã
về. Và...làm lành với nhau như thế nào đây?
Mẫn đặt cái nón ngửa bên tôi cười:
-Ăn chà là đi anh. Buồn ngủ gặp chiếu manh, em đụng mấy bụi chín
sớm...Chết cha, sao anh xanh dữ vậy?
- Trả nợ ông thần rừng...
- Mà sao anh Tuất không để ai ở nhà hết? Đêm hôm mưa gió, lỡ trúng
pháo… Con Cang tới phiên trực cũng đi mất, tầm bậy quá!
Tôi xuê xoa nói lảng cho xuôi. Vậy là êm được bước đầu, khỏi ngượng
ngập lựa lời bắt chuyện. Một lần nữa dáng người Mẫn khác hẳn đi: Bớt
cây các-bin và cái mũ tai bèo, tóc xõa và kẹp đuôi vòng lên gáy cho
ngắn bớt, để lộ hai cánh tay trần, trông Mẫn nhỏ lại như mười lăm
mười sáu, cỡ Út Liềm.
Mẫn đi họp nhanh nhờ mượn xe đạp có đèn của chị Bỉnh, khúc ngoài kia
đường tối, đạp ban đêm được, khi về còn kịp ghé huyện đội. Mới thấy
mặt Mẫn các anh đã réo: “Nụ xoè, dây cháy chậm, kíp nổ, bày mâm tiếp
khách đây!“ Mẫn túm nhấc cái khăn tay đựng chà là, lật mấy lớp áo
quần, giơ lên khoe một túi nhựa trắng đựng đầy những đầu nổ thủ pháo
đúc bằng nhôm nhỏ rất xinh, tôi chưa hề thấy. Ưu tiên cho Tam Sa một
ít hàng viện trợ đấy.
Phần tôi được hai lá thư. Tôi nhìn qua nét chữ anh Điển, đoán là
giấy gọi tôi đi Đà Nẵng, bỏ luôn vào túi, nghĩ: “Sắp chia tay rồi,
Mẫn ơi!“. Thư kia của anh Bảy quai nón, viết ngắn, bảo rằng huyện uỷ
đã trao đổi kỹ lời đề nghị của tôi – À, à chuyện ông Liệp đây – và
thấy lúc này chưa nên vội. Cách chức một số cán bộ kém thì dễ, xoá
bỏ được cái luồng tư tưởng sai mà họ gieo tràn lan mới khó, hãy đợi
đến đại hội chi bộ tháng sau...Vậy là tốt rồi. Miễn là cấp lãnh đạo
thấy rỏ sạn rơi vào máy!
Thư anh Điển dài hơn, vẫn cái giọng tửng tửng, đôi lúc châm biếm
theo kiểu cù không cười.
Báo cáo của cậu khá dài. Cậu giúp trên hiểu được tình hình mọi mặt
trong một vùng Mỹ sắp chiếm đóng. Nhiều nhận xét sâu đúng. Đồng chí
Mẫn nói cậu giúp địa phương hết mình, chi ủy Tam Sa đề nghị khen
thưởng cậu, cái đó trên sẽ xét. Riêng mình thấy chỗ khác nhau giữa
một phái viên chịu lao thẳng vô chỗ ác liệt, chung tay làm nên chiến
thắng, với mấy anh chàng ưa xách gói đi khơi khơi, lượm những chuyện
đồn đại ngoài rìa. Mình khuyên cậu nên cắm rễ tiếp ở Nhơn Ái, đánh
địch, xây du kích, giúp củng cố nội bộ, đợi Mỹ vô.
Đưa cậu ra Đà Nẵng cũng có lợi, nhưng ít thôi. Về một xã vững ở Điện
Bàn, Hoà Vang, cậu sẽ tươi phần xác mát phần hồn hơn nhiều. Khi xã
lên báo cáo điển hình trong đại hội thi đua, cậu tha hồ tán thêm cho
mọi người trầm trồ. Có điều tụi mình đã có nhiều phái viên nằng nặc
đòi về theo dõi các lá cờ đầu, còn những nơi trầy trật sần sượng như
Tam Sa thì chẳng mấy ai muốn tới, mà có tới cũng phê người ta hết
hồn, báo cáo về đen thui. Anh em mình hay mắc cái tật đó Thiêm à,
nhìn phong trào cũng như nhìn người, ai tốt sẵn thì xúm vào khen túi
bụi, ai chưa thật tốt thì lảnh, ngại tốn công giúp người ta ngoi
lên, thích lượm sung chín hơn là bón gốc bắt sâu cho sung.
Chắc khi viết anh Điển gặp chuyện bực, có thể bực vì tôi muốn đổi
chỗ, nên triết lý hơi nhiều ớt. Đoạn cuối lại viết rất thực tế:
Nhắc cậu đừng đánh bạc với tổng Giôn, nhớ gửi báo cáo đều, giữ gìn
sức khỏe, trả đủ sinh hoạt phí cho địa phương.
Vậy là đề nghị thứ hai cũng bị bác luôn. Gãy vụn. Tôi cười một mình,
ngó lần nữa nét chữ lởm chởm của anh Điển, chợt thấy một luồng mát
rượi tràn qua người. Tôi ngẩng lên. Mẫn đang nhìn tôi đăm đăm, tay
lơ đãng bỏ từng trái chà là vào miệng, màu đen làm nổi rõ môi tươi.
- Bao giờ anh đi?
- Sáng mai xin rút dù, chào xã đội!
Mẫn đang cầm que vẽ nhiều chữ thập trên sỏi. Tôi ước được thấy một
nét cụt làm nên chữ T hoa. Không có.
- Số anh phải chịu cực hoài...hồi xưa đã đành giờ trở lại cũng gặp
khó..công anh vun đắp miết, tụi em chưa giúp được anh gì, nghĩ thiệt
mắc cỡ...
Mẫn hứa với anh Bảy sẽ giúp tôi bủa mạng lưới quân báo chung quanh
Chu Lai, trao cho tôi một số cơ sở vùng cát, cho du kích dẫn tôi đi
bất cứ đâu. Tôi không dám đùa dai, đưa luôn lá thư anh Điển cho Mẫn,
chẳng có gì phải giấu, chống một ngón tay vào cằm, từng lúc chớm
cười trên khoé miệng- lúc ấy trông Mẫn rất ranh ngầm- bật cười to
khi đọc câu cuối, ngửa tay.
- Mỗi ngày hai chục đồng! Mấy khi gặp ông cán bộ lương to, trả gấp
đôi lập tức!
Tôi bốc nắm sỏi thả vào tay Mẫn. Lâu nay tôi ép mãi Chín Cang mới
chịu nhận nửa số tiền ăn tôi được cấp, còn lắc đầu chép miệng hoài
vì đội du kích đang lúc đói, tôi sút cân trông thấy.
Một cơn gió xoáy đổ tới rất mạnh, cuốn lá khô và bụi lên mù trời.
Gió nhám sì. Chúng tôi nhắm mắt bịt mũi đợi con trốt đi qua, phủi lá
đậu trên người, ra giếng rửa. Đến lúc này Mẫn mới thấy mình vô ý,
ngồi trước mặt con trai với áo lót quần xăn. Tay chân Mẫn thon đẹp
mà cũng lạ mắt. Cuối cánh tay trắng muốt, không có vết chủng đậu, là
bàn tay rám nắng như đeo găng màu hồng nâu. Con nhà nông quanh năm
lội ruộng. Mẫn không mắc cỡ khi phơi đùi đỏ au, nhưng hai bàn chân
quấn băng và đi tất lâu lại hoá trắng lốp, trông buồn cười thế nào.
Cổ Mẫn có ngấn nắng của cổ áo bà ba, lắm ngấn ghê. Mẫn luống cuống
rửa vội, mặc áo ngoài, buông ống quần, tháo kẹp cho mái tóc đổ dài
xuống lưng, vừa búi vừa nói bẽn lẽn:
- Qua đồng Tam Trân, cái Mô-ranh quần sát quá, em phải giả làm con
nít đi chăn trâu. Thấy rõ thằng Mỹ ngồi sau anh à, râu mép nó màu
như râu bắp.
Trời tối sầm xuống như cái đèn măng-sông treo phía Tây trời vừa xì
hơi. Mưa nặng bắt đầu rơi lộp bộp, xốc bụi trắng xám. Mẫn vào hốc đá
soát lại đống bao trùm nhựa, rồi chạy đến núp dưới tấm tăng của tôi.
Đội du kích bật khỏi làng giữa mùa nắng, chưa lo sắm tăng nhựa. Hai
chúng tôi nhường mãi cho nhau cái võng, sau đứng cả.
Mưa to dần, ít sét, nổi bong bóng trên các vũng, báo hiệu sẽ kéo
dài. Tôi chóng mặt đành nằm võng, để Mẫn cúi lom khom nhìn chéo lên
mây chép miệng hoài. Mẫn lúng túng rõ. Vào ấp một mình dễ đụng phục
kích hay ta bắn lầm, lại lo bỏ “thầy Thiêm” sốt chẳng ai coi ngó. Ở
lại đây, chà, biết tôi đứng đắn hay không, đằng nào miệng tiếng thế
gian cũng phiền...Tôi thấy cần lấy lại cái giọng ông thầy thuốc gia
trưởng dạo trước:
- Mẫn ơi!
- Gì, anh?
- Tụi mình còn đi với nhau lâu, giữ gìn miết cũng vậy. Nay mai gặp
hồi bí, bộ cô không cho tôi xuống chung hầm bom à? Cột võng nằm nghỉ
đi!
Mẫn tần ngần chút nữa rồi bật cười dài, cười rũ. Nghĩ gì mà cười
ngon lành vậy? Cười chán, Mẫn cũng lấy võng ra. Cây thấp quá không
buộc được võng hai tầng, đành buộc ngang nhau. Tôi nằm bên Mẫn ban
đầu còn ngường ngượng, sau chỉ thấy ấm bên vai như khi ngủ chung với
xê mình. Mẫn im một lát, có lẽ đợi qua mấy phút xấu hổ lại khúc
khích
- Anh nói chuyện chung hầm, em hết hồn, lâu nay chưa tính chuyện đó.
- Địch vây tôi, cô chịu bỏ à?
- Bỏ sao được. Có điều..họ nói chết..., anh là con trai ít mang
tiếng, con gái cực lắm. Để em ghép anh đi với anh Tuất.
Tôi vặn ngay, vặn hơi quá một chút vì muốn cả hai tự nhiên hơn:
- Vậy đó, hồi cần thì người ta dùng tôi mọi việc, khi thấy vướng
người ta đùn tôi cho ông kinh tế, đem tôi bỏ kho!
- Gớm, anh ác miệng dữ …
- Mà ai nói Mẫn con trai không sợ tiếng đồn? Lỡ có tay nào nổi ghen,
gởi đơn vị một lá thơ nói tôi lăng nhăng này nọ, thì giờ đâu mà cho
cán bộ về dây hỏi thử đúng sai? Tôi cũng ngại vấy mực trong lý lịch
lắm chớ! nhưng mà tôi không giữ ý tới mức cản trở công việc. Lâu nay
đi công tác lẻ với cả trăm chị em, tôi chưa nghe tiếng xì xầm nào
hết. Không có ghẻ, chẳng phải né ruồi!
- Nói như sách!
- Nói như sách, làm cũng như sách. Con trai con gái chơi thân với
nhau như bạn, rất tốt, về sau ưng nhau nên vợ nên chồng, càng tốt
chớ chết ai. Cô lãnh đạo anh chị em trẻ vững lắm, mà hễ không thông
cảm chỗ đó chắc họ cũng nói như thằng nhỏ Tâm: “Chị Hai phong kiến
thấy bà!“
- Hừ, phong kiến!
Mẫn quẫy mình, ngồi bật dậy, xoay người đối mặt hẳn với tôi. Giọng
Mẫn bỗng có tiếng rung của sắt đập:
- Anh tưởng em chỉ biết có nụ xoè kíp nổ thôi à? Em làm công tác
Đảng, công tác Đoàn hằng ngày phải khuyên người này dỗ người kia,
phải giúp anh chị em hiểu những chuyện tình yêu tình bạn chớ! Mà dầu
không làm cán bộ, thân gái lớn lên cũng phải tự nghĩ rồi đây ưng ai
lấy ai chớ. Nói ra mắc cỡ, còn sợ người ta cười đang đánh Mỹ mà lo
sự riêng tư, tụi em con gái cứ giấu kỹ, nói quanh, chắc anh nghĩ đám
này khờ lắm, hô đi hét đứng thôi. Lầm rồi. Năm ngoái có anh yêu Chín
Cang, lại nhờ chú Luân nói giùm, nó chối qua loa cho xong, sau đó
tâm sự với em: “Ảnh tốt, dể thương, mình gạt đi cũng tiếc. Bị cái
ảnh coi thường mình, không tỏ thiệt với mình, mượn miệng ông bí thơ
để buộc mình phục tòng cho mau, mình không chịu được cái phong kiến
kiểu mới đó! “. Em phê nó tự ái, nó nhận chắc không chịu sửa. Tụi em
cầm súng đánh Mỹ để giữ nước giữ làng, đúng, mà cũng giữ luôn cái
quyền định đoạt đời mình nữa, có phải phong kiến không?
Tôi sửng sốt nhìn Mẫn, một khối đen khi vắng chớp, một con người sắc
nét và nhiều màu khi trời loé trắng qua mái nhựa. Tôi vẫn tưởng cô
gái này làm nhiều hơn cảm, cảm nhiều hơn nghĩ, nghĩ nhiều hơn bênh
vực ý nghĩ của mình...
- Em quen các anh bộ đội về xã, anh nào cũng vui vẻ, tử tế, đôi khi
chọc tụi em cãi chơi chớ coi phụ nữ bình đẳng lắm. Em quí chỗ đó, mà
cũng nghĩ vậy chẳng biết hay đúng: các anh quen sống trong tập thể
lành mạnh, tiến bộ, luôn luôn được học cái mới, sót ai kém thì chung
quanh rèn hoài cũng ra tốt, cứ vậy miết rồi các anh quên cái khó của
tụi em ở xã. Phong tục, dư luận, bao nhiêu thứ bày nay làm, coi vậy
chớ còn nặng anh à. Cái đó không tránh được. Hai chục năm nay đồng
bào mình đánh tây rồi đánh Mỹ, học đường lối chánh sách nhiều lắm,
thử hỏi có lần nào học kỹ vế thái độ đối với phụ nữ, về tình cảm
trai gái hay vợ chồng hay không? Đạo đức số một như chú Luân đó, về
nhà nói với vợ cũng quanh năm mày tao, con gái chú yêu anh gì ở trại
sản xuất thì chú bắt phải cắt. Thói quen ngàn năm đâu dễ sửa! Tụi em
dỗ nhau: thôi,việc nước là lớn, chuyện vặt dẹp một bên, nước độc lập
trước sau gì mình cũng được tự do, mà cũng đừng sốt ruột xin đi
thoát ly, hồi nào trên cần sẽ rút, cứ ở lại xã lo dồn sức đánh Mỹ đã
…Em giữ ý tới vậy, còn bị tiếng đồn là chửa hoang với bộ đội, đi xã
khác phá thai, anh biết không?
- Biết. Thằng Ba Thấn phản rồi, ai tin nó nữa?
- Một đồn mười, mười đồn trăm, ít ai hiểu đó là thắng Thấn phá rối.
Anh nghĩ giùm làm sao cải chính đây? Hay là em lên trước mít tinh:
“Thưa đồng bào, thằng Thấn gieo tin bá láp, tôi không chửa hoang phá
thai bao giờ“?
Mẫn cười khẩy một tiếng khô và lạnh, nín thinh. Tôi đã nghe anh Luân
kể qua chuyện ấy, tránh không hỏi Mẫn ngờ đâu chính Mẫn lại nói
trắng trợn đến thế. Tôi đợi thấy nước mắt trên khuôn mặt lúc này
trắng mờ. Trời chớp. Chỉ có đôi mày đen nhíu lại gần chạm nhau, cặp
môi mím giận dữ. Một tiếng ực nhẹ, Mẫn nuốt nước bọt hay nuốt cái
nấc trào lên cổ. Hồi lâu Mẫn mới tiếp, giọng rất trầm trong tiếng
mưa rơi ràn rạt:
- Anh hay trách em quá bí mật, máy móc, thân đó rồi sơ đó. Làm sao
được, em là chi ủy viên, không được đem chuyện nội bộ đi kể với
người ngoài. Em mang ơn anh nhiều lắm, mà phải giữ nguyên tắc, anh
ghét thì chịu… Bây giờ anh sanh hoạt chung, chú Luân dặn em nói hết,
nhờ anh giúp cho, anh đi đây đi đó hiểu rộng hơn...
Chú thích
(1) Tiếng nhân dân quen gọi máy bay trinh sát nhẹ.
(2) “Phong trào cách mạng quốc gia” do bọn Diệm tổ chức
(3) Sợi con (để bện chão)
(4) Mò mẫm, tủn mủn