Anh yêu. Gió ngọt mưa hiền đang reo ngoài song cửa. Giờ là buổi
chiều. Buổi chiều đang bước len lén vào tâm hồn mỏng manh cánh chuồn
chuồn của Mai bằng những bước chân lơi lả của thu đông.
Thu đông. Hai mùa trộn lại như cơm chiên trộn với hột gà, vừa ngon
vừa bùi vừa thơm, vừa... chao ơi, khó tả quá!
Anh à. Mai đang ngồi lù lù giữa bầu không gian ngọt bùi của thu
đông. Quay lưng về phía bắc. Hướng mặt về phía nam để nhớ nhung anh.
Chẳng biết lúc nhớ nhau người ta thường quay mặt về hướng nào. Không
biết, nên em đành quay ra hướng cửa sổ vậy.
Nhớ nhung là cái gì đó rất ư hình sương bóng khói. Mai quyết bắt nhớ
nhung phải hiện hình, bắt nó kết thành chữ, bò thành dòng. Viết xong
sẽ gửi cho anh và, yêu cầu anh nên đọc từ từ. Ðọc tham lam ngấu
nghiến quá e không cảm hết, thấm hết, thương hết nỗi nhớ nhung chất
ngất của người ta.
Sao lúc nào anh cũng coi em còn bé thế? Trong khi, cái gương soi bảo
em đã lớn. Chiếc lược, cây trâm thủ thỉ rằng em không còn nhi đồng
giống năm ngoái năm kia. Rằng giờ em chưa khôn nẻ vỏ nhưng cũng khôn
vừa vừa để có thể biết lúc nào nên buồn, khi nào nên giận hay khóc
cười, hát hỏng, nguýt háy v.v...
Ðừng cho người ta dại khờ. Anh có thấy lòng Mai chợt hồng lên khi
gặp anh, bỗng xanh khi nghe anh nói, tim bâng khuâng khi lui tới nôn
nả chờ giờ hẹn và, vàng vọt hẳn lúc tạm chia tay đầu ngõ cuối phố
không? Không? Có? Có hay không đó ai mờ biết!
Mỗi lần anh đổi màu Sớm Mai đều thấy cả. Tin chứ? Ví dụ, lúc hút
thuốc lòng anh màu khói nhạt, lúc uống nước đá chanh lòng anh trong
vắt, và khi lẫy giận lòng anh màu muội khói đèn v.v... và v.v...
Có phải viết như đoạn trên là viết thư tình không hở anh?
Con Cẩm Hương hứa cho em mượn cuốn “Những Bức Thư Tình Hay Nhất Thế
Giới” nhưng rồi hắn nuốt lời hứa ngon ơ như nuốt không khí hoặc kem
ba màu, nên giờ em không có mẫu để bắt chước viết cho hay ho, cho
đúng bài bản, cho ra vẻ... thư tình. Thôi, ráng đọc anh nhé. Ai mượn
bày đặt rủ rê người ta chơi trò “thư đi tin lại” mà chi!?
Giữa lúc ý đang như nước chảy, lời tựa sóng trào chữ câu nối chuỗi
tuôn ra mặt giấy, tưởng chừng viết đến gà gáy trăng lặn, ngày khuyết
đêm méo, kín cả trăm trang cũng chưa hết ý cạn lời, Sớm Mai vụt cau
mày, buông rời cây bút bi dằn lên xấp giấy trắng, nóng nảy đứng bật
dậy đẩy tung hai cánh cửa sổ nghiêng đầu trông ra vườn.
Cơn mưa cuối thu đầu đ cá rơi nhè nhẹ, phủ tấm voan xanh lơ lên hình
cây bóng lá. Ngỡ lắng lòng có thể nghe mưa đang hát tình ca ru dỗ
trăm vạn nỗi niềm vui có tên lẫn không tên.
Không, Sớm Mai không thể lắng lòng được lúc này. Cả tiên lẫn thánh e
cũng phải chào thua thôi! Dưới tán vú sữa chao nghiêng vài cánh lá
rụng duyên dáng khiêu vũ cùng nhạc mưa là hai con chó chẳng biết
đang vờn giỡn hay quần thảo nhau, tám cái chân cày nát cả đám lá úa
sũng nước. Tiếng sủa in ỏi, thô rợ, hàm hồ hàm chứa làm bầu không
khí ngọt bùi thu đông hóa chua hóa khét.
Tiếng sủa cơ hồ ngắt điện làm lòng Mai đang cháy bùng ngọn đèn nửa
xanh nửa tím vụt tối mù. Dòng ý tưởng vừa tới hồi nồng thắm phiêu
bồng tiếc thay, phải ngậm ngùi đứt đoạn.
Ui, đồ du côn du kề! Chẳng lý gì tới mưa gió, Sớm Mai vừa kêu thầm
vừa mở cửa lớn băng ra vườn với thanh củi bự lăm lăm cầm tay.
Hai “võ sĩ đô vật” đang say đòn chẳng nhận ra cơn giận phừng của cô
chủ. Không nghe tiếng còi trọng tài nhắc nhở, chỉ nghe thanh củi bổ
ngang lưng hệt trời giáng, chúng đành buông nhau ra không kịp hẹn
ngày tái đấu.
Ðang ở bên bàn viết với nỗi nhớ hình như rất ngợp, rất nồng, với nỗi
yêu ba phần dịu dàng bảy phần âu yếm, giờ bỗng đứng ngây lặng im như
phỗng giữa vườn mưa hiu quạnh. Sớm Mai tự hỏi không biết nên cười
hay nên mếu? Nên vạch hàng chè tàu truy đuổi hai con chó côn đồ hay
nên ngắt chiếc lá ổi đẫm mưa ngậm cho tan nguôi cơn bực bội bất ngờ?
Mai buông thanh củi thở ngắn. Cảm thấy chưa đã nư, bèn bâng khuâng
buông tiếng thở dài. Mưa ướt dính tóc rồi. Mưa thấm lạnh áo rồi. Mai
đưa tay vuốt mặt, không buồn phủi chiếc lá sầu đâu nghịch ngợm đậu
xuống bờ vai.
Vào nhà. Ngồi phịch xuống ghế. Tờ thư viết dở lấp lánh trêu cợt.
Những chữ g như dài hẳn ra, những chữ o cơ hồ lép hẳn lại. Dấu ơ dấu
ă ngọ ngoạy vểnh lên cụp xuống nom đểu cáng hơn những cọng râu của
gã sở khanh. Sớm Mai cảm tưởng trong trí có cục nước đá trong suốt,
không gợn mảy may ý tưởng nào đang trôi qua trôi lại, rồi trôi tuột
xuống va chạm lanh canh khắp bốn vách thân thể. Cơn lạnh bất giác a
thần phù ôm chầm lấy Mai, âu yếm nhấc Mai đứng lên lau khô tóc, thay
quần áo. Cơn lạnh đẩy Mai nằm lăn xuống giường ôm gọn lỏn cái gối
dài trong đôi tay để trần nõn mượt lông măng.
Ngắm nghía đến chán mắt khoảng trần nhà trắng ngã xám, Sớm Mai kêu
nhỏ Huy ơi Huy ơi! Cái con bé anh thường kêu một cách cưng quý là bé
thơ bé dại, bé nguýt háy thấu trời này quả là yếu bóng nhẹ vía quá.
Mới nghe tiếng chó sủa đã hồn xiêu phách tán, không cầm giữ nổi dúm
ý tưởng nghèo này để tiếp tục cho ra ngòi bút hý lộng trên giấy! Bé
của Huy yếu quá, dở quá!
Giờ cái óc Mai rỗng còn hơn cái vỏ dừa, bé bằng cái hạt dưa. Viết
thư mà bỏ dở nửa chừng có xúi quẩy gì không anh? E tình ta sẽ dở dở
ươn ươn mất? Thình lình, Sớm Mai bỗng nghe cơn nóng đâu từ sáu phủ
năm tạng mưng ngợp đẩy lùi cơn lạnh. Cơn nóng thủ thỉ bảo Mai phải
viết tiếp cho xong cái thư kẻo mai kia mốt nọ hối không kịp. Ăn năn
cũng bằng thừa. Trước đây mai đâu có mê tín dị đoan thế này? Ra vườn
đuổi chó cắn nhau hớp nhằm gió độc chắc?
Lại ngồi vào ghế. Sớm Mai đưa hết mười ngón tay ngà lên bóp trán,
xoa cằm, vuốt chót mũi... suy nghĩ. Ðây là cái thư thứ ba. hai cái
trước viết xong đọc lại thấy sao chữ nghĩa ngổn ngang quá, lủng ca
lủng củng cứ như người nói ngọng hoặc cà lăm. Ðọc lại một lần nghe
lạnh sau ót. Ðọc lại lần hai nghe nhồn nhột đôi gan bàn chân, nhột
sống lưng. Không đủ can đảm đọc lên lần thứ ba. Bèn xé. Lần này ngỡ
sẽ trơn tru. Nhận thư hẳn anh Huy sẽ chắc lưỡi chục lần khen thầm
tài vọc chữ giỡn câu, lựa vần ghép chữ. Bây giờ hóa ra tắc tị.
Ðất ơi chán ghê! Trời ơi rầu quá! Viết thư tình ai dám bảo là dễ
nhỉ? Khó ghê nơi. Nói có cơn mưa ngoài trời chứng giám, lúc này nếu
đọc thấy trên báo, nghe ai mách bảo có chỗ nào mở cour dạy viết thơ
tình chắc Sớm Mai sẽ ba chân bốn cẳng chạy đến xin ghi danh học
ngay. Lớp mở dưới biển cũng xuống. Học trên non cao cũng ráng cơm
đùng gạo bới lên non.
Mắt ơi nản quá! Tóc ơi buồn ghê! Ai dám bảo viết thư tình là không
cần học nhỉ? Nói có con thằn lằn - thất tình? - Ðang ngủ lơ mơ trên
bậu cửa sổ làm chứng, nếu bây giờ có ai giỏi khoa viết thư hạ cố tới
nhà bày cho Mai một hoặc nửa câu thôi, Mai sẽ bày hương án tôn làm
sư phụ ngay.
Bóp trán, xoa cằm vuốt chót mũi suy nghĩ không xong, Sớm Mai bèn dựa
ngửa ra lưng ghế, tay chống cằm, tay đưa cây bút lên miệng ngậm, hạ
rèm mi xuống hệt con mèo ốm đang ngái ngủ. Ai dám bảo phải lòng nhau
là sướng nhỉ? Chán vạn chi cái khổ.
Ðể ý nhau chút xíu, gặp nhau giữa đám đông cho kẹo cũng không dám
nhìn thẳng mặt nhau, sợ thiên hạ bắt gặp: khổ!
Nhận nụ cười tươi rói tình đầu tiên nghe người cứ xiêu xiêu như còng
phải gió dù cả đời chưa hề nhấp một giọt rượu: khổ!
Nhận cuốn sách tặng. Vừa đọc vừa ngẫm nghĩ, những dòng này ta đang
đọc người tặng từng đọc qua. Ðoạn này ta thấy vui, đoạn kia ta nghe
buồn. Không biết tâm cảm người ấy lúc đọc có giống ta? Tư tưởng
người ấy có gặp ta ở điểm nào không? Băn khoăn quá chừng: khổ!
Ði coi phim. Phim hài chẳng nói làm gì. Gặp phải phim có cảnh đời éo
le, chuyện tình tan vỡ. Giương mắt ngó lên màn ảnh mà trí tưởng
tượng mình là nhân vật nữ, người ấy là nhân vật nam và, dù chỉ là
tưởng tượng, cũng vẫn buồn và âu lo không can nổi, có khi còn khóc
ngon lành: khổ!
May một chiếc áo mới. Dù chỉ là áo trắng mặc đi học. Mặc thử áo
trước gương, tức khắc nghĩ ngay đến người ấy. Thắc mắc chẳng biết
chàng có thấy đẹp như ta thấy không? Chàng có thấy duyên dáng như ta
đang mê cái duyên dáng chiếc áo vừa mang lại không? Gặp người ấy cứ
tỉnh bơ, lom lom dòm mặt ta, không lý gì đến chiếc áo mới. Ta bèn
buồn rất bâng quơ: khổ!
Xách giỏ đi chợ với mẹ. Ngang qua hàng vải. Tim bỗng nổi trống trong
lồng ngực chẳng biết vì thất vọng hay vì ghen tương khi thấy người
ấy sóng vai một cô gái khác bước, âu yếm chụm đầu vào nhau nói nói
cười cười, khen chê một mặt hàng nào đó. Sầu muốn xỉu cũng ráng lết
tới trừng mắt nhìn tận mặt gọi là bắt quả tang. Tới gần, hóa ra anh
chàng nào đấy chỉ từa tựa giống, hao hao in chứ chẳng phải chàng. Ta
bèn cứng họng ngậm cục quê. Về tới nhà rồi vẫn còn cảm thấy quê:
khổ!
Thỉnh thoảng ta bỗng thích gặp người ấy trong mơ. Lúc lên giường
ngủ, nhắm mắt mường tượng một cảnh thật thơ mộng. Ví dụ, ta cùng
người ấy dạo chơi trong một cánh rừng đầy hoa. Ta hái hoa còn chàng
đuổi bắt bướm. Mường tượng thật lâu, thật rõ nét để hình ảnh in sâu
vào “bộ nhớ”, ký ức sẽ chiếu lên màn ảnh thần trí cho ta xem lúc
ngủ. Thế nhưng, không ít lần “bộ nhớ” chơi khăm, lúc mơ khác hẳn khi
mường tượng. Ví dụ, trong cánh rừng thơ mộng ấy thay vì chàng, lại
mơ thấy một lão cọp mắt lé đuổi ta chạy sút cả guốc, bay cả nón, la
khóc om sòm. Ui, người mộng hóa thành cọp mơ: khổ!
Gật đầu nhận cái hẹn lần thứ nhất, chợt áy náy nửa muốn đến nửa muốn
không. Hồi hộp, mất ngủ, biến ăn, môi khô miệng nhạt: khổ!
Tới ngày hẹn phải biến báo đủ thứ lý do dối cha mẹ để ra khỏi nhà
vào những giờ giấc bất thường: khổ!
Trước giờ hẹn mười lăm phút còn giữ rịt chiếc gương, dượt lui tới
vài cái chớp mắt, nhún vai, mủm mỉm cười cứ thấy sao mình vô duyên
hơn thường ngày quá. Gặp gỡ, không muốn biến thành tượng đá vẫn ngây
ngô, lưỡi bỗng cứng trong miệng và ngôn ngữ bập bẹ rất giống thuở
thôi nôi mới tập nói tập đi: khổ!
Ðại khái thế, còn hàng lô hàng lốc cái khổ linh tinh hầm bà lằng
khác nữa và, sau những cái khổ ấy giờ đến cái khổ phải viết thư! Sớm
Mai nhả cây bút, vui vẻ buông tiếng thở không dài không ngắn, vuốt
tia nhìn mượt mà lên đọt cây trứng gà ngoài vườn. Phía ấy, một làn
khói bếp lặn lờ bốc lên trên mái nhà láng giềng. Khói. Làn khói. Mai
lặng nhìn làn khói. Và, dòng điện bị ngắt tức tưởi khoảnh khắc trước
vụt liền mạch. Ngọn đèn nửa xanh nửa tím trong Mai bỗng cháy bùng.
Cô hoan hỷ cầm bút lên tay, cúi xuống tờ thư viết tiếp:
Anh ơi! Làn khói bếp nhà láng giềng không dưng gợi nhớ đến “làn khói
bếp” bốc tỏa từ anh. Chính xác hơn là từ môi anh.
Giờ này anh đang làm gì? Ðang lang thang dưới mưa hay đang ngồi trầm
ngâm trong quán cà phê nào đó? Dù ở đâu hay làm gì, hẳn anh cũng
đang phì phà khói thuốc phải không?
Một ngày hai mươi bốn giờ, một nghìn bốn trăm bốn chục phút, hình
như lúc nào miệng anh cũng nhả làn khói bếp, ủa quên, khói độc! Hút
quên ăn quên ngủ. Hút một chặp e anh lú lẫn, quên mất tiêu Mai luôn.
Hôm nọ đọc báo em thấy người hút mất bảy phút đó anh.
Hút thuốc nhiều sẽ mắc bệnh ung thư. Ung thư nơi nào cũng còn tàm
tạm. Ung thư tim thì thâm nguy. Trùng ung thư khoét thủng tim anh
hỏi còn chỗ đâu để đựng hình bóng người ta hở?
Thử tưởng tượng đem những điếu thuốc anh từng đốt từ thuở anh mới
biết hút đến nay nối lại, hẳn sẽ dài bằng con đường từ lục địa lên
các hành tinh. Dễ sợ chưa? Kinh khiếp phải không? Mới thử tưởng
tượng thôi cũng nổi da gà da vịt.
Ðừng hút nữa được không? Biết không, Sớm Mai ghen vơi bè lũ, họ
hàng, bộ tộc thuốc lá lắm đấy. Thuốc lá luôn hiện sừng sững oai linh
ngang tàn trên môi anh, nằm cận kề trong cái túi áo anh, cạnh tim
anh. Còn Mai xa anh quá chừng. Xa tới hàng vạn gang tay. Nếu có
quyền hành em sẽ ra lệnh cho thế gian diệt trừ hết thuốc lá. Hốt
thuốc lá đổ xuống biển hết. Hoặc, tập trung tất thảy mọi kẻ nghiện
thuốc lại, bắt mỗi người hút một điếu thuốc dài cả ngàn cây số. Hút
không cho ăn cho ngủ. Hút đến lúc mệt xỉu, trút hơi thở cuối cùng
luôn.
Có phải vì hút thuốc nhiều nên trông anh có vẻ gầy guộc, ốm yếu ho
hen? Nghe đâu người ta đang mở chiến dịch bài trừ ma túy. Hãy nghe
lời Mai anh nhé. Ðừng có ham lang thang ngoài đường nhiều, có khi
mấy ông chuyên viên bài trừ có thể lầm anh với bọn ghiền xì ke bắt
anh anh vào trại cai mất.
Ui, quen rồi thương anh quả là mệt tim quá. Hết lo gần rồi lại... lo
xa! Lo riết e một ngày hay đêm đẹp trời nào đó em biến thành cái
trái cây chín háp mất.
- Chị Mai ơi mở cửa. Làm gì im ru bà rù như Phật trong chùa thế?
Tiếng kêu léo nhéo của bé Châu làm cây bút dang phăng phăng “trôi
tới hệt thuyền ra cửa biển” bỗng dừng phắt lại giữa trang giấy mênh
mông. Hình ảnh anh Huy - nạn nhân của con ma khói bị áp giải vào
trại cai ngậm ngùi diễn hành qua trí tưởng tượng khiến Mai nghe cay
cay khóe mắt - vụt gãy gập.
Sớm Mai dằn dỗi buông bút đứng lên, phụng phịu lê dép ra mở cửa.
Nhóc Châu ào vào, cởi vội áo mưa tíu tít nói:
- Một tai nạn rùng rợn vừa xảy ra ngoài phố. Một ông đi honda tông
phải một cô gái. Cô gái văng ra xa đụng nhằm bà lão...
Sớm Mai trừng mắt, ngắt lời:
- Biết rồi. Bà lão văng ra xa đụng phải cái cột đèn. Cái cột đèn
tống Châu một đạp, và Châu văng về tới nhà phải không?
Giọng chua hơn chanh hơn giấm. Ðôi mày vòng nguyệt cau lại vẽ đôi
cánh chim nghiêm lạnh trên trán. Chị Mai trông không vui. Chị Mai
đang bực mình. Bé Châu ngỡ ngàng tắt nụ cười, định thủng thẳng kể
tiếp vụ tai nạn nhưng Mai đã bất lịch sự kê ngay cái tủ chè vào
miệng hắn:
- Ði hớt tóc ngay. Gớm, tóc tai trông phát khiếp.
Cái luờm của cô chị làm cậu em ỉu xìu hệt quả bóng bị xì hơi. Châu
đút hai tay vào túi quần lúc lắc đầu tóc dài:
- Em phải làm xong năm chiếc thuyền để còn đua với bọn thằng Kính.
Làm thuyền xong đi hớt tóc được không?
- Ðược được!
Sớm Mai xua tay như thầy pháp đuổi tà. Cậu bé lửng thửng quay ra nhà
sau. Ngồi vào ghế. Dõi mắt xuống trang thư viết dở. Sớm Mai chầm
chậm đọc lại những đoạn đã viết, cảm thấy thú vị như thể một người
tập tành viết đang thưởng thức những dòng mới toanh của tác phẩm đầu
tay. Cô mỉm cười hài lòng, thầm phục mình không biết để đâu cho hết.
Mường tượng lúc Huy đọc thư, hẳn anh chàng nhăn mày nhíu mặt tí
chút, có khi xúc động vỡ thành tiếng cười giòn hơn bánh mì mới ra
lò, hoặc cảm động đến rơi nước mắt lộp độp, mát mẻ hơn mưa thu. Chắc
chắn anh chàng sẽ không thốt tiếng nào ngoài tiếng tuyệt! tuyệt quá!
Ngước ngắm hàng chuỗi kim cương long lanh nối nhau trượt êm qua cành
lá bồi hồi rụng xuống đất, Sớm Mai nghĩ phải đem những hạt mưa khảm
vào thư. Phải tả cho anh Huy thấy những hạt mưa đẹp não nùng mới
được. Ðang loay hoay sắp chữ đặt câu, bỗng nghe bà bán đậu phộng
rang ngang qua ngoài ngõ cất tiếng rao lảnh lót. Mai định ra mua vài
gói nhưng rồi cô mím môi xuống trang giấy. Quên mất những hạt mưa.
Mai viết:
Anh à, trong lúc đang viết thư, bà bán đậu phộng rang cất tiếng rao
dụ khị ngoài cổng.
Ước chi lúc này hai đứa đi rong vào thành nội vừa ngửa tay ngửa mặt
hứng mưa vừa ăn đậu phộng rang thì tuyệt biết mấy. Mưa và sương mù
có giăng bốn phương tám hướng thây kệ mưa sương, vỏ đậu rãi dọc
những con đường mình sẽ dắt dẫn mình quay về, không cách chi lạc
được. Ðậu phộng rang béo ngậy thơm tho, kỷ niệm mang về dấu kín
trong ký ức hai đứa cũng sẽ thơm tho béo ngậy.
Sớm Mai muốn chạy ra mua vài gói hết sức nhưng thôi. Một mình. Không
anh. Hẳn đậu phộng rang đắng nghét.
Uớc chi lúc này anh hóa thành chim bay vào cửa sổ để em bóc đậu
phộng rang mời chim. Ui! Không hiểu tại sao, thỉnh thoảng Mai hay
bắt gặp mình tưởng tượng lẩm cẩm in một bà lão. Theo cách nói của dì
Út Nhã thì bởi vì dạo này thỉnh thoảng em bị con ma nhớ hành!
Dì Út bảo trong mỗi người chúng ta thường chứa lắm con ma nhỏ. Khi
đói bụng là bị con ma đói hành. Lúc khát nước, bị con ma khát
hành... Bây giờ em mới biết thêm ngoài những con ma kia còn có ma
nhớ nữa. Chẳng biết con ma nhớ trong em có họ hàng gì với con ma nhớ
trong anh không? Nó có hành hạ anh như đang hành hạ em không hở?
Những con ma nhớ, dì Út. Sau dì Út rồi kể chuyện gì. Chẳng lẽ liệt
kê hết anh chị em nội ngoại mình cho anh ấy biết? Ui, không nên. Lẩm
cẩm thật! Sớm Mai chơm chớp mắt bối rối. Cây bút dừng sững tựa cây
cày đứng ngu ngơ một cách buồn phiền giữa đồng trống.
Mai lại đưa tay bóp trán, vuốt mũi suy nghĩ. Nên viết gì thêm cho
đầy khoảng trống trang thứ ba? Lá thư mà bỏ trống cả một khoảng dài
nom nghèo nàn sao ấy. Phải chi có tài vẽ, Sơm Mai sẵn sàng vẽ bông
hồng hay chó mèo chim bướm điền thế vào cho xong. Thư tình có bao
giờ kèm theo hình vẽ không nhỉ?
Mưa Tiếp tục chơi nhạc nhẹ ngoài vườn. Những điệp khúc lặp đị lặp
lại ru dỗ nỗi buồn niềm vui nào có tên lẫn không tên. Mưa vô tình.
Mây bay lá rụng cũng vô tình. Nào có ai hay cô gái trong song cửa
không cần soi gương cũng dư biết mình đang mang gương mặt băn khoăn
và lòng bối rối còn hơn tóc rối. Hết ngán ngẩm chiêm bái khoản giấy
trống tên đến thôi miên con thằn lằn ngủ quên trên bậu cửa sổ. Sau
cùng Sơm Mai khẽ lắc đầu đứng lên, thấy mình thong thả mặc áo len,
khoác áo mưa, đội mũ. Ði đâu?
Ðang bị con ma nhớ hành mà. Ði đâu chẳng được? Mai thầm nhủ. Mai mủm
mỉm cười gật đầu.
Cứ bước chân ra đường, gió mưa sẽ mách bảo mi nên đi về hướng nào.
Hướng sáng sáng trưa trưa chiều chiều đạp xe đi học, học về.
Hướng mùa hè giờ giấu mặt đâu đó sau rặng núi dài màu khoai tía.
Hướng mùa xuân giờ xa ngăn ngắt sau hàng mây chùng nặng trên đền đài
lăng tẩm.
Hướng mùa thu đang bàn giao gió mưa cho mùa đông mai này kéo dài lê
thê những màn sương giá buốt.
Hướng nào? Sơm Mai kêu bé Châu nói đại:
- Lát nữa anh Ðạt về có hỏi cứ bảo chị đến nhà chị Cẩm Hương mượn
cuốn sách nghe.
Ðạp xe long rong qua những ngả đường đan dệt bụi mưa và lá úa, Mai
đảo bắt bốn hướng cầu may, hồi hộp Huy sẽ bước ra từ quán cà phê nào
đó. Bất thần xuất hiện ở một ngõ khuất đường quanh nào đó.
Gặp gỡ tình cờ thường là những cuộc gặp thú vị. Kẻ này lang thang
tình cờ gặp kẻ kia như người đi biển lạc đường bỗng gặp được đất
liền, dù đất liền ấy chỉ là một đảo hoang cằn cỗi. Chẳng biết trúng
gió gì mà Mai ví von lạ tặc thế. Phố xa mênh mông, rộn ràng xe cộ
trẻ già trai gái tới lui tấp nập mà là biển hoang vu sao? Mai là
người đi biển trôi dạt sao?
Không thấy Huy đâu. Chỉ thấy toàn là người dưng xa lạ. Sớm Mai
thoáng thất vọng định quay về nhà ngồi đối mặt đìu hiu cùng trang
thư bỏ dở, khấn vái trời đất quỷ thần gì gì đó phù hộ cho cô viết
trọn bức thư... tình. Một “đảo hoang” không trụ yên chỗ, bước ra từ
một hiệu tạp hóa bỗng lên tiếng gọi:
- Sớm Mai, đi đâu mà đạp xe thơ thẩn như người mất hồn vậy?
- Ui, dì Út!
Mai vội vàng tấp xe vào lề, chộp bàn tay búp măng của cái “đảo
hoang” mỹ miều vừa “trôi” tới sát cô lắc lắc, mặt mày rạng rỡ hệt
người sắp chết đuối vớt được phao.
Út Nhã long đôi mắt bất loạn mí - nhiều mí quá đếm không xuể - vuốt
cái nhìn nhọn tợ đuôi tôm từ trán đến ngực cô cháu cười nửa miệng:
- Mi đi đâu suốt tuần không thấy ghé nhà đấm lưng cho ngoại hả? Ðồ
bất hiếu bất mục quá!
Bất hiếu thật. Trong khi ngoại đang mỏi lưng muốn chết mi lại ngồi
lì một chỗ mơ mộng viết thư tình vớ va vớ vẩn. Sớm Mai chớp mắt hai
cái chữa thẹn nói tỉnh khô:
- Cháu định tới nhà ngoại đây mà. Dì đi đâu trông cô đơn ngạo nghễ
thế?
Nhã thấp giọng nửa đùa nửa thật:
- Ðừng, khoan về nhà đã. Dì đang đi trốn thì mi cũng chưa nên về.
- Dì đi trốn à? Trốn ai? Trốn cái gì?
Nhã ngồi lên yên sau, giục:
- Ðạp lẹ đi. Hạ hồi phân giải.
Ði. Những vòng bánh xe quay tít tiếp tục cuốn gió. Mây trên trời dày
hơn nên mưa không rơi xuống mặt đất nữa. Thôi mưa, nhìn quanh thiên
hạ bớt co ro. Cõi trần chợt hừng lên tươi rói. Chút nắng hanh hao
phết lớp vàng nhợt nhạt mỏng manh lên phố xá dễ xui lòng buồn buồn
hơn, lòng vui chỉ vui le lói.
Sớm Mai lắng nghe lòng mình, hình như không buồn không vui, hẫng
hẫng trống trống. Có điều con ma tò mò ngủ yên đâu đó tận hồn trong
bỗng cựa mình vương vai thức dậy đánh lùi con ma nhớ, bắt cái xác
ngoài của Mai cứ nghe gai gai. Trốn? Tại sao dì Út đi trốn nhỉ? Mai
e dè lặp lại câu hỏi. Nhã ỡm ờ:
- Chuyện người lớn. Con nít như mi không nên biết!
Người lớn! Tiếng là dì nhưng dì Út cũng chỉ nhỉnh hơn Mai có ba bốn
tuổi chứ mấy. Bây giờ có ai nói về thuyết nhân quả, luân hồi của đạo
Phật chắc hẳn Sớm Mai sẽ tin ngay. Lúc nãy ở nhà cô đã kê cái tủ chè
vào miệng bé Châu thì giờ đành ngậm cái tủ chè của dì Út vừa kê vào
miệng.
Sớm Mai ngậm miệng, tưng tức nhưng vẫn ngoan ngoãn theo ngón chỉ của
Nhã thong thả đạp xe về hướng Nam Giao.
Trong khi tác giả của bức thư đang rong xe qua phố thì ở nhà tờ thư
viết dở đặt hớ hênh trên bàn học bị lũ gió nghịch tinh lẻn qua cửa
sổ lật giở tứ tung lung tàng. Gió chẳng thèm đọc trộm mà “chu miệng”
thổi cho mấy thờ giấy bay tung xuống mặt sàn.
Xế chiều. Mai trở về nhà chân không run bụng không đói vì đã được dì
Út “hối lộ” một tô bún bò nóng hổi vừa thổi vừa ăn. Lòng thanh thản,
chẳng còn tưng tức nữa bởi bí mật của cái gọi là vụ dì Út chạy trốn
đã được Nhã vui vẻ bật mí khi Mai đã đưa Nhã đến nơi cần đến.
Nhóc Châu với một lô thuyền giấy trên tay và mấy đứa bạn láng giềng
- thuộc loại thứ ba. Nghĩa là nghịch tinh nhất quỷ nhì ma thứ ba học
trò - đang loay hoay vén những dề cỏ chắn ngang dòng mương bên mí
vườn để khai thông thủy lộ.
Thoáng thấy Sớm Mai cu cậu kêu nhặng xị:
- Thuyền tụi em sẽ ra tới sông trôi lên thấu Bến Ngự. Chị có gửi gì
thuyền sẽ chở đi cho.
Sớm Mai cười nụ bao dung đằm thắm, nheo mắt lơ đãng nhìn dòng nước
bềnh bồng những chiếc thuyền giấy cỏn con. Những chiếc bé bé xinh
xinh từng trôi đi trôi lại trong tuổi thơ của mình, nay trôi qua
thời thơ ấu của nhóc tì Châu. Những chiếc thuyền trôi mải miết rồi
khuất dạng bao giờ chẳng hay. Một sáng sương lam hay chiều sương tím
nào đó mình thức dậy và bỗng lãng quên, không còn nhớ đến chúng nữa.
Ơi những chiếc thuyền giấy tội tình đã trôi qua kẽ đời mất hút, các
người có trách giận con bé “bạc tình” này không? Ngày nào Châu sẽ
lớn bổng lên thành chàng trai không biết hắn có dứng ngẩn ngơ nhìn
dòng chảy để tưởng niệm, để buồn đúng một phút rưỡi như mình lúc
này, cay cay cuối khóe mắt, định nói cái gì đó nhưng Châu và lũ bạn
đã theo thuyền trôi đến tận cuối vườn.
Thoạt bước vào nhà, đến bên bàn học Sớm Mai tái mặt.
Sớm Mai muốn hét cho rung chuyển trời đất. Ðổ hết nhà cửa. Gãy hết
cây cối. Sập hết cầu cống tháp chuông.
Sớm Mai muốn khóc một trận cho cả thành phố tha hồ ngập lụt.
Không hét. Không khóc nổi. Mắt rỗng. Trí rỗng. Lòng rỗng. Nỗi buồn
pha giận dồn nén muốn vỡ buồn gan túi mật.
Sớm Mai ngây ngẩn nhìn mặt bàn trống trơ. Cây bút bị lẻ loi lăn rơi
dưới gầm ghế.
Lá thư đầy đặn từng chữ yêu, mềm mại những dòng thương dành cho anh
Huy ngàn lần thương mến đã mọc cánh bay đi đằng nào rồi?
Lá thư dở dang Sớm Mai định nối dài thêm bằng nhiều tình lắm tứ bắt
được khi long rong ngoài đường dưới bầu trời vừa tạnh mưa, thưa gió,
nhạt nắng chiều nay thế là tiêu diêu về miền cực khổ hay cực lạc nào
rồi?
Bất động ba mươi giây, bốn mươi giây rồi Mai thảng thốt gọi:
- Châu, Châu ơi!
Tiếng kêu va vào vách nhà, bàn ghế tủ giường, chui tót ra vườn không
mảy may âm vọng. Tiếng kêu mất hút vào lòng đất, bay biến vào thinh
không.
Mẹ và anh Ðạt chưa về. Cơn mưa đã đến, đã đi. Mùa thu sắp tạm biệt.
Mùa đông sắp ngự. Bốn phía quạnh hiu vây ngợp.
Sớm Mai thẩn thờ bước ra vườn. Ðứng nhìn dòng nước chảy. Ngẩng nhìn
bầu trời quang tạnh. Dưới đất không có bé Châu. Trên trời không có
bé Châu. Thằng nhóc chắc đã theo thuyền “trôi” lên tới Bến Ngự rồi.
Mây chùng thấp bên ngoài cửa kính. Không khí trầm xuống trong cái
lạnh buôn buốt đầu mỗi ngón tay ngón chân. Lạnh thấm lan từ ngoài
vào trong, từ trong ra ngoài.
Thu lặng nhìn những bóng lá long não quay múa ngoài cửa sổ, rồi như
thể không chống chọi nổi với sự tuyệt vọng, nàng chầm chậm quay tia
nhìn buồn bã sang Hạo.
Khung kính in đậm gương mặt bất chợt nhòe đi của chàng trai. Những
nét quen thuộc cơ hồ xô lệch hẳn, rung động, lung linh sau màn sương
ảo dị.
Thu đăm đăm nhìn Hạo. Từ ba ngày nay mỗi lần Hạo đến thăm, nàng
thường đăm đăm nhìn và đau ngầm với ý nghĩ, lần sau có thể không bao
giờ còn nhìn thấy Hạo nữa.
Lần sau Hạo đến có khi Thu đã là cái xác lạnh giá mất rồi. Ý nghĩ ấy
hình như không bao giờ rời. Nó ám ảnh mọi lúc. Nó vây ráp Thu từ mọi
phía. Và, mừng xiết bao, cho đến bây giờ, phút này, sự chia lìa chưa
tới.
Rời mắt khỏi tờ báo mở rộng trên lòng, Hạo phá vỡ im lặng:
- Bà Bền nhắn chị đừng có bận tâm về số tiền chị nợ bà ấy. Bao giờ
chị khỏe rồi hẵng tính.
Thu vẫn không thể rời mắt khỏi chàng trai, thấp giọng gần như thì
thầm:
- Có lẽ kiếp sau chị có thể trả nợ cho bà ấy.
Hạo gấp tư tờ báo kẹp giữa hai đùi, cười buồn:
- Có vài ngàn bạc đâu lớn lao gì, mai mốt em sẽ trả cho bà ấy thôi!
- Không, ý chị muốn nói là... chị sắp chết.
Thu đưa bàn tay gầy guộc lên che miệng như vừa lỡ lời, đoạn bật
tiếng ho khan. Bao lần trước, mỗi khi cô chị buộc thốt câu ấy ra,
cậu em, thường trách nhẹ chị nghĩ quẩn, và khẳng quyết thế nào Thu
cũng sẽ lành bệnh. Lần này Hạo im lặng. Cái đầu tóc lòa xòa, khuôn
mặt đen đúa lắm góc cạnh cúi xuống trong dáng trầm ngâm già cỗi.
Cô gái khẽ để tuột tấm mền da màu cứt ngựa quấn kín quanh người, kê
gương mặt trắng xanh lên cánh tay vắt ngang đầu gối trong dáng ngồi
co ro như cố thu nhỏ mình lại trên chiếc giường không rộng. Ðôi mắt
trống rỗng hướng về mặt đệm trũng dấu người nằm bỏ trống bên cạnh,
tiếp tục giọng yếu mệt:
- Ðừng giấu nữa. Có phải chị sắp chết không? Cách đây ba hôm cô sinh
viên ấy chết rồi. Cô Diễm ấy, cậu còn nhớ chứ?
Bắt gặp tia nhìn của Thu chợt ngước lên đau đáu ngắm ngẩn những bóng
lá ngoài cửa, Hạo thoáng rùng mình nghe luồng ghê gai thuốn dọc sống
lưng, lặng lẽ đứng lên, mở rộng tờ báo, loay hoay lấy vài hạt cơm
trong cái gà mên để trên chiếc tủ thấp đầu giường. Hạo dán tờ báo
lên khung kính cửa sổ, đoạn quay lại gắt khẽ:
- Chị sẽ không còn thấy những chiếc lá quái quỷ ấy nữa. Cô ấy đã
mang cái chết đi theo, sao chị mãi nghĩ về nó thế! Ngủ một giấc có
phải hơn không?
Chạm phải tia nhìn trách cứ nóng nảy của Hạo, Thu nín lặng. Ngoan
ngoãn nằm xuống, kéo mền lên tận cổ và, riu ríu nhắm mắt lại. Ðôi
mắt tựa hai vệt mực tàu kẻ hờ hững trên vuông giấy trắng tinh trái
xoan.
Cô ấy đã mang cái chết đi theo! Hạo không trở lại ngồi trên chiếc
đẩu cạnh cửa sổ mà ngồi xuống mặt đệm trống trải trên chiếc giường
Diễm từng nằm.
Diễm đã mang cái chết đi theo hay thần chết đã mang Diễm đi xa cũng
thế thôi! Hơi hướm tan bay hết rồi, có chăng một chút tóc tơ linh
hồn còn vương lại trong chiếu chăn chốn này?
Chốn này. Căn phòng hẹp bề dọc lẫn chiều ngang với khoản mươi chiếc
giường kê song song trên tầng hai của khu bệnh viện lớn nhiều tầng.
Chốn này. Ðịa chỉ tạm trú của những con bệnh trẻ và già. Chóng, dăm
ba tháng. Chầy, có khi non hay quá năm, để rồi trở lại với cuộc đời
thường nóng hổi ngoài kia hoặc lên xe tang đi chuyến cuối về đất
lặng lẽ.
Chốn này. Ba tháng trước đây Thu được chuyển tới sau hai lần đổi
phòng. Ban đầu xa lạ sau quen dần rồi đâm ra thân với người đồng
bệnh nằm giường bên cạnh. Hai chiếc giường kê sát chân tường cuối
phòng. Biết bao lần Hạo quen nhìn chiếc bóng cô ấy in trên vách,
quen thấy cái thân hình mỏng manh tựa chiếc lá lả vắt trên chồng gối
kê cao đầu giường. Biết bao lần anh đã không cất nổi cái nhìn nửa
chiêm bái nửa xót xa khỏi gương mặt có đôi rèm mi dày rủ bóng xuống
cặp má lúc trắng đến mênh mông lúc hồng đến nao lòng người. Gương
mặt thanh khiết ấy như thể được sanh ra để mọc cạnh những bông hoa
hồng bạch, cúc vàng hay hải đường thường xuyên cắm trong chiếc ly
thủy tinh đặt dưới bậu cửa sổ. Gương mặt hòa những nét mong manh
cùng những bông hoa chúc phúc, chúc lành và, những trang sách mở im
lặng giữa lòng.
Không chỉ yêu hoa, Diễm vốn mê sách. Trừ những lúc bị bệnh hành đến
rũ riệt, khoe khỏe một chút là Diễm vớ lấy một cuốn sách nào đó trên
chồng sách xếp đầu giường và say mê đọc. Những cuốn sách người nhà
hoặc người tình của nàng mang vào từ các hiệu sách hoặc các nơi cho
thuê.
Diễm trẻ hơn Thu gần mười tuổi. Hoàn cảnh gia đình, vị trí xã hội họ
khác biệt nhau. Thu học hành dở dang, vào đời trước tuổi vào đời, đã
từng nếm trải ít ngọt bùi cay đắng từ đời. Diễm còn hồn nhiên tung
tăng, dò dẫm từng bước vào đời quanh quẩn trong sân trường đại học.
Thế mà Thu vẫn rất thích nghe chuyện của Diễm. Ðúng hơn, nghe cô ấy
kể lại những gì đã đọc trong sách.
Từ tiểu thuyết tình cảm, trinh thám, đến võ hiệp kỳ tình... Ðọc
xong, Diễm thường nhẩn nha kể lại cốt truyện cho Thu nghe. Ðôi khi
gặp cuốn nào hấp dẫn thú vị, nàng lớn tiếng đọc hàng đoạn dài.
Chưa bao giờ bận tâm đến sách vở, thậm chí hoàn toàn xa lạ với sách
vở. Ban đầu Thu nghe để cho qua thời gian nhàm chán, tạm nguôi quên
ám ảnh bệnh hoạn, riết đâm mê đâm nghiền. Hóa ra - Thu nghĩ - ngoài
phim ảnh, cải lương, coi ti-vi v.v... đọc sách cũng là một cái thú.
Ðơn giản là cái thú thôi, Diễm bảo là nhã thú thì nhất định Thu
không hiểu! Cơ man nào là tình tiết người ta viết trong sách đâu
khác gì mấy với ngoài đời thực. Có thiện có ác hẳn hoi. Có người
lành, có đứa đểu cáng, đủ cả. Người ta phải đi đây đi đó để viết,
mình nằm hay ngồi một chỗ, chỉ cần đọc là biết hết. Có tình tiết éo
le bi lụy nghe Diễm kể hay đọc Thu không thể cầm được nước mắt. Có
tình tiết tréo ngoe hay hài hước. Thu không thể không mỉm miệng hoặc
bật cười thành tiếng. Thu hoàn toàn đồng ý với Diễm, sách cũng là
một loại thuốc an thần.
Khoảng một tuần trước ngày “đi xa”, sau một cơn đau kịch liệt Diễm
bỗng tỉnh táo lạ lùng, Diễm bảo nàng đặc biệt thích một truyện ngắn
trong một tuyển tập truyện nước ngoài. Thu tò mò hỏi:
- Truyện gì?
- Chiếc lá cuối cùng. Hay lắm chị ạ!
Thu háo hức:
- Nào, em kể hoặc đọc cho chị nghe đi.
Diễm chậm rãi kể. Rồi Diễm cao hứng đọc cho Thu nghe vài đoạn nàng
thích nhất. Thu chẳng thấy có gì là thú vị. Theo Thu, câu truyện có
vẻ đơn giản và tẻ nhạt quá, thua xa những truyện của Khái Hưng, Nhất
Linh.
Diễm cười nụ bao dung đằm thắm:
- Chị không quen suy nghĩ nên không cảm được cái hay cái đẹp cuả
“Chiếc lá cuối cùng” đấy thôi.
Sợ cô bạn mếch lòng, Thu giả lả:
- Có lẽ vậy thật. Chị vẫn nói với em là cái óc chị như mít đặc ấy.
Diễm mở rộng cuốn sách áp chặt vào ngực như chợt lạnh, đôi má đang
trắng xanh bỗng phơn phớt hồng. Nàng thở dài, đoạn đưa tay chỉ cành
lá long não lòa xòa, lắt lay ngoài cửa sổ nói tưng tửng, nói như
không phải cho Thu nghe mà chỉ cho mình nghe:
- Mấy hôm nay trời trở lạnh. Mùa đông đã gần kề. Sang đông những
chiếc la kia sẽ rụng hết thôi. Em sợ khi chiếc lá cuối cùng rụng
xuống đất em cũng sẽ chết thôi chị Thu à!
Âm hao lạnh lẽo phảng phất trong giọng Diễm làm Thu nghe lạnh toát
cả người. Thu lạ lùng nhìn cô bạn trẻ, thấy Diễm như vừa bọc trong
làn giấy bóng trong suốt, bất động hệt con búp bê âu sầu, xinh đẹp.
Chớp mắt nhiều lần, Thu cố chọn một giọng nói vui để an ủi bạn,
nhưng thật ra là để tự trấn tỉnh mình:
- Ðừng nói nhảm. Cô quá lãng mạn nên nghĩ mình giống cô gái trong
truyện ấy thôi. Ðược rồi, nếu ngày ấy lá rụng thật, và nếu chị chưa
“đi” trước em, chị sẽ nhắc anh chàng của em vẽ lên bức tường bên kia
một chiếc lá y như thật. Chiếc lá cuối cùng không bao giờ rụng và em
sẽ không chết, như cô gái trong truyện ấy, được chưa?
Diễm hướng tia nhìn mông lung vào khoảng không lẩm bẩm:
- Chàng của em đâu biết vẽ vời gì chị!
Cả hai cùng cười. Thu cười nửa buồn nửa vui, còn Diễm lại quay mặt
ra cửa sổ, đăm đăm nhìn những chiếc lá, cười buồn. Buồn đến nẫu
lòng.
Thu làm sao biết được, từ khoản khắc ấy, những chiếc lá lắc lay vô
tình ngoài khung kính kia trong mắt nhìn của Diễm, trong chính tưởng
tượng của Diễm chính là mảnh hồn xanh lướt của nàng đang treo lơ
lửng trên miệng vực, cheo leo giữa đôi bờ thăm thẳm tử sinh.
Anh chàng của Diễm rất mực cưng chiều nàng, ngày nào cũng tới, và
không bao giờ quên mang cho nàng một món quà, một cuốn sách kèm một
bó hoa.
Họ thật đẹp đôi. Mỗi khi chàng tới, Thu nằm tế nhị quay lưng ra
ngoài giả vời ngủ để “đôi trẻ” khỏi thấy sự thừa thải của kẻ thứ ba.
Dù thế, Thu vẫn hóng chuyện. Thu lắng nghe và uống lấy từng tiếng
nói tiếng cười của hai người như uống thứ nước giải khác nào đó rất
ngọt ngào. Thu ao ước mình cũng có một mối tình đẹp nồng như thế. Ao
ước để rồi hết thở ngắn than dài. Bởi Thu thừa biết không bao giờ có
được vài miếng chứ đừng nói là cả một khối tình ngọt bùi như thế.
Thu từng nửa đùa nửa thật bảo Diễm là, sự lẻ loi hình như đã đeo bám
lấy Thu đâu từ lúc mới sinh ra và, hẳn nó sẽ không từ bỏ cho đến
ngày nàng xuôi tay khép mắt.
Hóng chuyện của họ, lắm lúc Thu mường tượng thấy ngày Diễm lành hẳn
bệnh, anh chàng của Diễm sẽ đến đón nàng không chỉ với một bó hoa
như thường ngày mà cả một chục tràng hoa rực rỡ đủ bảy sắc cầu vòng.
Tiếp theo, Diễm sẽ nhí nhảnh, tươi vui, diễm lệ trong trang phục cô
dâu yểu điệu bước đi giữa vô vàn xác pháo! Sâu xa tận đáy lòng, Thu
chân thành mong cái ngày tươi đẹp đó sẽ tới. Và, dù chỉ mới mường
tượng, Thu cũng đã cảm thấy buồn đến thắt ruột bởi e ngày ấy mình
vẫn còn nằm ở đây.
Bây giờ cái ngày tươi đẹp ấy đã hóa hư huyền, xa xôi. Không bao giờ
có thật nữa rồi.
Mùa đông đã đến. Chiếc lá cuối cùng chưa rụng. Người tình vẫn còn
đó. Diễm đã “vội vã” ra đi.
Bây giờ đến lượt Thu nhìn ngắm những chiếc lá bay múa hồn nhiên
ngoài cửa sổ, và không khỏi cảm thấy nao lòng, chột dạ.
Từ ngày không còn Diễm, những chiếc lá quái quỷ kia cơ hồ phát ra ma
lực quyến rũ cứ bắt Thu chong mắt ngắm chúng. Ðành rằng Thu không hề
bị ám ảnh bởi nỗi âu lo đẫm tính siêu hình hay hoang tưởng như Diễm,
nhưng mỗi lần nhìn thấy chúng, Thu lại thốt nhớ đến câu chuyện
“Chiếc lá cuối cùng”, nhớ cô bạn nhỏ nhắn dễ thương không còn nữa.
Lúc này những chiếc lá lẳng lơ cợt gió đã bị che khuất sau tờ báo
Hạo dán chồng lên khung kính, trời ạ, nguy thay, dù nhắm mắt Thu vẫn
thấy chúng quay múa ngờm ngợp trong trí tưởng của mình. Muốn chúng
bay biến hết đi, Thu bồi hồi mở mắt. Thấy Hạo lặng nhìn mình, nàng
hắng giọng:
- Cậu chưa về sao?
Hạo lảng mắt xuống hai bàn tay sạm màu nắng nguội đan nhau ôm đầu
gối:
- Chị không ngủ được à?
Thu khẽ lắc đầu, mái tóc xác xơ bung tràn che mửa mặt, nói trang
trọng, dè sẻn, chậm rãi như sợ bất thần bị hụt hơi:
- Hạo à! Thật tình lắm lúc chị ao ước ngủ một giấc dài không bao giờ
thức dậy nữa. Một giất ngủ không chút đau đớn, khó quá. Người ta
mong trúng số lô độc đắc thế nào thì chị thèm được ngủ một giất dài
không hề đau đớn thế ấy! Chị hối hận vô cùng là đã quay về để bây
giờ làm khổ em. Giá chị chết rấp ở một xó xỉnh nào đó trước đây thì
hay biết mấy!
Hạo nhăn mặt:
- Chị lảm nhảm đọc kinh gì thế?
Thu đưa hai bàn tay xương xẩu ôm mặt, nấc nghẹn:
- Kinh xá tội. Chị mong em xá tội cho chị.
Hạo dịu giọng dỗ dành:
- Em chỉ còn có mỗi mình chị. Nhớ lấy điều đó. Ðúng là có lúc em đã
buồn chị, nhưng hôm chị cho em chiếc đồng hồ em nhận, tức là em đã
xá tội cho chị rồi, không còn buồn chị nữa, nhớ không?
Ắng lặng một lúc, Thu nói tiếp, giọng não nuột:
- Hứa đi Hạo. Nếu chị có chết em đừng bỏ học nhé. Ðừng phụ ơn mẹ!
Hạo thở phào nhẹ nhõm, lảng chuyện:
- Ngày mai học cả hai buổi. Có lẽ đến chiều tối em mới vào với chị
được.
- Ngày mai...
Thu đột ngột lật nghiêng người lại, quay mặt vào vách, đôi vai rung
khe khẽ. Câu nói bỏ lửng của người bệnh Hạo dễ dàng đọc tiếp là,
biết ngày mai chị có còn nữa không!?
Hạo thọc sâu hai tay vào túi quần, mím chặt môi rồi buông thõng:
- Chị nghỉ nhé. Em về!
Ra khỏi bầu không khí ngột ngạt của phòng bệnh, Hạo cảm tưởng mình
hệt con cá bị lèn chặt trong chiếc hộp chật chội vừa giẫy thoát.
Trong chiếc hộp ấy, thời gian tưởng chừng dừng sững lại, hóa ra trôi
khá nhanh làm mình già ngắt, gìa đắng hẳn đi. Bây giờ hít thở không
khí lạnh giá ngoài trời, Hạo cảm thấy mình trẻ lại.
Không nhìn xiên ngó xéo. Người thanh niên băng qua đường, cắm cúi
bước lên lối mòn khu công viên rợp bóng, lác đác vài đôi cặp lặng lẽ
chụm đầu vào nhau thỏ thẻ trên ghế đá, bước lặng lờ dưới bầu trời
lắm mây.
Ra đến bờ sông, Hạo dừng lại khum tay che gió đốt điếu thuốc nghe có
nỗi gì khô khốc cứ vò cục trong lòng không bay thoát ra nổi theo
những cụm khói thuốc thổi liên tục lên những vòm cây.
Người đàn bà đội chiếc nón lá cũ sờn ngồi thu mình sau chiếc tủ kính
thuốc lá bên bến đá thấy Hạo lững thững bước tới, mỉm cười thân mật:
- Sao? Thu nó đỡ chưa cậu Hạo?
- Dạ, đỡ lắm rồi chị!
Thấy chàng trai lầm lì bước dài tới, không dừng lại. Chị nói với
theo:
- Ngày mai nhớ giao củi cho bà Xinh dưới Ðập Ðá. Bà nói không lấy
của người khác, chỉ câu thôi đó.
Hạo “dạ” nhỏ. Ngập ngừng chút đỉnh, quay lui mua một gói thuốc đen.
Chị bán thuốc nhỏ giọng:
- Có người đợi cậu dưới đò ấy.
Hạo ngạc nhiên:
- Ai?
Người đàn bà nheo mắt lấp lửng:
- Ðoán coi.
- Chịu.
- Con Nga Mèo Hoang. Bộ hai đứa bây ưng nhau hả?
Hai người cùng cười. Trước khi quay đi Hạo bất thần đưa tay kéo sụp
chiếc nón lá úp chụp xuống mặt người đàn bà, chị ta càng cười dữ.
Trên bến. Hai chiếc đò kề mạn sát nhau bập bềnh trên sóng. Ðợt gió
từ mặt sông phất lên làm tóc bay xấp xõa khi Hạo nhún chân nhảy
xuống chiếc đò bên phải.
Loay hoay tháo dây lòi tói, định nhổ sào đẩy đò ra nhưng rồi Hạo
dừng lại. Một cái cùi bắp từ trong mui ném vụt ra trượt qua chân rơi
tỏm xuống mặt nước. Một giọng cười con gái khúc khích nổi lên:
- Này, không trả công người ta giữ “nhà” cho, còn muốn chở người ta
đi luôn hở?
Hạo bước qua đống củi và than đẩy đệm kỹ càng dưới lớp ny lông màu
vàng bẩn, đến đứng chống tay lên vòm mui trông vào nói tưng tửng:
- Ai đấy?
Từ khoảng tối mờ, cô gái chun qua nách anh ra ngoài, ngồi chân co
chân duỗi trên đống củi, nói đỏng đảnh:
- Ði đâu cửa nẻo phải khóa cẩn thận chứ. Có ngày trộm vào nó quơ cho
không còn một miếng giẻ rách.
Hạo ném mẩu tàn thuốc xuống sông, nửa đùa nửa thật:
- Khóa cửa làm sao chị Nga vào được?
Cô gái lườm:
- Xí, thua người ta có một tuổi rưỡi cũng bày đặt chị chị! Quần áo
sách vở nồi niêu soong chảo lung tung in cái ổ chuột, người ta đến
dọn dẹp giúp cho không một lời cảm ơn!
Hạo nheo mắt cười:
- Cảm ơn chị Nga lắm lắm!
- Không thèm.
- Thế thì cảm ơn... Nga! Ðược chưa?
Tóc tém cụt ngủn hệt tóc con trai. Chiếc áo len màu hồng phấn rộng
thùnh thình không cài cúc để gió đánh phần phật lộ chiếc áo sơ mi
phong phanh bên trong. Quần jean đắp hai buông vải bạc phết trên hai
đầu gối, sát gấu đính hình một con mèo đen thắt nơ đỏm dáng, Nga Mèo
Hoang nom đẹp như con mèo hoang chính cống. Nhìn vẻ mặt phụng phịu
rất đáng yêu của cô gái, Hạo lại chỉ cảm thấy buồn cười. Anh lặp lại
câu hỏi. Nga chun mũi:
- Tạm được! Sao? Tối nay quay về đây chứ?
Hạo ỡm ờ:
- Không rõ.
Chợt thấy cô kẹp cuộn vải kaki cũ mèm bên nách, Hạo bửng lửng, vờ
nạt:
- Này, bộ ăn cắp hả?
Mặt mày đỏ lựng, cố nuốt giận, Nga cầm cuộn vải ra tay:
- Ăn cắp mà cầm khơi khơi trước mặt anh vậy hở con bò? Ngu vừa thôi
chứ bạn? Thấy cái quần rách người ta định mang về vá giùm...
Bỏ lửng câu nói, Nga ngước nhìn Hạo. Nhìn gương mặt dầu dãi lắm góc
cạnh của gã con trai in trên nền trời thẫm, Nga thoáng băn khoăn như
thể đang phân vân không biết có nên ghét gã hay không. Không, ánh
mắt chàng âu yếm thế kia thì làm sao nàng ghét gã được!
- Không cần vá đâu. Cảm ơn Nga. Chị... Nga!
Hạo nói bỗ bã, phũ phàng giằng lấy chiếc quần màu nâu cũ mèm ra khỏi
tay nàng. Nga ngượng chín, đứng bật dậy co cùi chỏ thúc nhẹ vào bụng
Hạo:
- Thấy mồ côi mồ cút người ta không nỡ ghét còn làm bộ!
Vừa kéo dài giọng cô gái vừa nhanh nhẹn tựa con mèo nhảy phóc sang
chiếc đò bên cạnh. Hạo bối rối với vát:
- Bộ giận à?
- Còn khuya!
Bứt khỏi cái nguýt nửa nồng nàn nửa sắc lẻm của Nga, Hạo lẹ làng nhổ
sào, bước lui đằng lái tra chèo vào cọc, khuấy nước quay mũi đò tách
bến.
Ðò lướt êm. Dòng sông phẳng lặng trôi giữa đôi bờ cỏ mượt. Dưới bầu
trời nặng mây, ánh nắng bàng bạc xỉn màu như là ánh sáng giả.
Hạo vừa thong thả chèo vừa vẩn vơ nhìn mông lên dãy phố không ngớt
rùng rùng chuyển động phía tả ngạn, nhưng thật ra Hạo đang đẩy ngược
cái nhìn vào bên trong mình. Lòng dạ Hạo đang cồn cào một mối lo.
Chị Thu lên bờ lần này có khi vĩnh viễn không quay về nữa. Chị ấy
yếu lắm rồi. Chị Thu sẽ nối bước theo Diễm trước khi chiếc lá cuối
cùng của mùa đông chưa kịp rụng?
Qua khỏi chợ Ðông Ba, mây không chùng thấp nữa, cái lạnh buôn buốt
đầu mỗi ngón tay ngón chân khuây vợi bớt phần nào. Nắng đẩy bật mây
lên. Bầu trời lại cao lồng lộng. Ðò tiếp tục trôi về hía Cồn Hến Vĩ
Dạ, thỉnh thoảng tấp ghé vào một cái bến nào đó của dãy nhà san sát
mọc ven sông. Hạo đưa củi, than lên theo lời dặn trước của các bà
nội trợ hoặc thoạt thấy Hạo ngang qua, người ta ngồi trên bến ngoắc
vẫy anh chàng bán than, củi đã quen mặt.
oOo
- Ô, ê! Có ai ở nhà không?
Ðang lúi húi chôn con mèo chết dưới gốc cây cau già nhất vườn, nghe
tiếng gọi thông thống từ dưới bến sông đưa lên, Sớm Mai vun vội nắm
đất thành cái nấm con con, đoạn tất tả đi xuống bến.
Dưới tán sung cổ thụ xen tre pheo rợp bóng, Hạo ngồi trên mạn đò
thòng chân xuống bậc đá lấp xấp nước tréo mảy đu đưa. Thoạt thấy cô
gái hiện ra giữa lối mòn, không dưng nghe trái tim phải gió trong
ngực bỗng trở chứng đập rộn, Hạo thốt giật mình thả cái chân bắt
chéo xuống, đăm đăm nhìn cô.
Sớm Mai cong cớn:
- Ngỡ ai! Làm gì mà anh hét lớn tiếng thế?
Vẻ mặt cau có. Ðôi mắt đỏ hoe. Hai bàn tay lấm đất. Chưa hết, cô
tiểu thư con nhà vườn lại “điểm trang” thêm cái áo veston cũ rộng
rinh, dài thậm thượt chắc là của ông già, trông chẳng giống ai. Cô
nàng đang đóng dở tuồng công chúa lọ lem chăng? Hạo cố nhịn cười,
câng câng hất hàm:
- Có ai nhận củi không cô bé?
Mai lắc đầu:
- Chiều hay mai ghé lại đi. Chỉ mình tui ở nhà làm sao chuyển củi
được.
Tiếng gọi giật giọng lúc nãy nghe gấp như nhà cháy. Lúc này Hạo lại
cố tình nhẫn nha. Ngại hồn sẽ bị xiêu hay vẹo, chẳng dám nhìn lâu
gương mặt sáng trăng rằm của cô chủ nhà, Hạo lảng mắt xuống nhìn đôi
bàn tay đầy vết chai của mình cho đỡ khớp, thủng thẳng nói:
- Tui là ai?
A! Ăn nói cắc cớ nhỉ? Hình ảnh con mèo dễ thương cóng lạnh trong
lòng đất chưa rời khỏi tâm trí, Mai bực bội gắt:
- Tui là tui chứ còn ai nữa!
- Cô tên Buổi Trưa phải không?
Dợm quay bước vào nhà, Sớm Mai lại thấy mình dùng dằn đứng lại, như
là có ma quỷ xui khiến gì ấy. Cô đĩnh đạc cải chính:
- Không phải, Sớm...
Phút choáng đầu tiên qua rồi, Hạo anh dũng nhìn thẳng cướp lời:
- Biết rồi, Sớm Mai. Nhưng bây giờ đang là buổi trưa đứng bóng, tôi
thích gọi cô là Buổi Trưa được chứ?
Ui, ngày này trong lịch ghi xấu hay tốt, cát hung thế nào mà hết con
mèo cưng ngoẻo lại đụng phải tay thích đùa dai, ngang in cua gạch
thế này? Sớm Mai kêu thầm, ức thầm, đoạn ức công khai. Cô xẵng
giọng:
- Này, ăn nói đàng hoàng nhé. Tui bảo không mua là dứt khoát không
mua. Có tức thì chở củi lên rừng lại đi ông Hạo... Trương Chi ạ!
Hình con mèo chết biến mất. Vẻ mặt cô gái tươi lên một chút. Hạo -
Trương Chi: Ngày xưa có chàng Trương Chi. Người thì thậm xấu, hát
thì thậm hay! Anh chàng trông tuềnh toàng thật nhưng không xấu chút
nào, tay chân mắt mũi miệng nom cũng kha khá, hẳn còn khuya mới hát
thật hay giống chàng Trương Chi trong truyện cổ. Mai phục Mai không
biết để đâu cho hết. Vào giây phút này sực nhớ rồi bỗng thốt được
cái hỗn danh của gã bán than củi trơ tráo này thì hay quá, hay quá!
Nghe thấy, hẳn gã phải giận đến đứng tim!
Cô bé quả là khờ khạo, cô đâu biết tim Hạo bằng chì nên đếch đứng.
Anh chàng không thèm thót tim mà còn nhếch miệng cười lạnh lùng:
- Mẹ của Buổi Trưa - Hạo vẫn cứ ngoan cố xài cái tên nghe dễ mếch
lòng và không êm ái chút nào ấy - dặn mỗi tháng giao củi một lần.
Tôi cứ y hẹn. Năm phút nữa tôi sẽ chất củi lên. Ai không mang vào
nhà chiều nay mưa uớt thì ráng mà chịu đòn.
Sớm Mai hơi dịu giọng, nhưng nghe vẫn chua lè và rất.. lì:
- Ai chất cứ chất, còn đây không có tiền trả đâu!
- Dở ẹc! Mẹ của Buổi Trưa ở trên chợ hàng ngày, lúc nào ghé lấy chả
được!
Bí tịt. Sớm Mai chưa biết phải đối phó với vụ củi ra sao, Hạo bỗng
lái ngoặt câu chuyện qua hướng khác. Ðâu phải hướng nào xa lạ. Câu
chuyện “đập” ngay vào chính cô. Hạo nói giọng tử tế:
- Bộ bữa nay đẹp trời hay sao mà cả nhà rủ nhau đi chơi cả vậy?
Ngỡ anh chàng bắt đầu biết điều, quay ra nói chuyện đứng đắn. Sớm
Mai cười nụ nhỏ:
- Ði ăn đám giỗ bên nhà ngoại.
Giọng thỏ thẻ của cô nàng không dưng phất qua lòng chàng ngọn gió
ấm. Hạo cười nửa miệng:
- Trả lời dịu dàng vậy có nghe lọt lỗ tai hay không. Mặt mũi tươi
tắn vậy nom đẹp gấp trăm lần lúc nãy cứ chung búng như cái thúng! À
à, cả nhà đi ăn đám giỗ, thảo nào ở nhà một mình nên cô làm biếng
nấu cơm bèn bốc đất ăn trừ cho bõ ghét phải không?
Trời ạ, đất ơi! Câu khen nghe đã chướng, câu hỏi nghe càng chướng,
càng ứa gan hơn. Mắt găm im xuống đôi tay lấm đất, Sớm Mai lặng nghe
hàng chục triệu hồng huyết cầu mắc cở mai phục đâu đó trong lục phủ
ngũ tạng nhất loạt kéo nhau lên họp mặt... ứng chiến. Môi má nóng
ran. Mắc cỡ quá, Mai bèn dằn dỗi gom hết ngôn ngữ trên tái đất thành
một câu lí nhí:
- Ông, à, anh là chúa suy diễn bậy. Người ta vừa chôn con mèo chết.
Hạo vờ xoe tròn mắt kinh ngạc:
- Nó bị cô... cắn chết hả? Bộ ngứa răng lắm sao?
Ngữ điệu tỉnh khô. Nói đùa ba lơn ba cợt nhưng vẻ mặt như thể đang
biểu trong hội nghị gì đấy. Cái gã bán than củi này ngộ thật, tỉnh
thật. Sớm Mai rất muốn làm thinh, không thèm cãi. Nhưng rồi cô bảo
mà cô không nghe, cứ ấm a ấm ách thế nào ấy, nên Mai lại nghe Mai
thỏ thẻ:
- Hắn ham chơi lang thang ra đường bị xe cán chết chứ bộ!
Hạo đưa mắt nhìn trời như thể đếm coi có bao nhiêu bè mây trôi qua
bến nhà nàng, đoạn bất thần níu mắt xuống nhìn cô gái dịu dàng hỏi:
- Còn mắt cô sao đỏ hoe sắp viền vải điều thế kia?
Sớm Mai kêu thầm Huy ơi, Huy à! Anh nết na đằm thắm bao nhiêu thì
cái gã bán than này ngang ngược rắn mắt bấy nhiêu. Ðồng thời là con
trai cả, là cục đất sét do Chúa nặn ra rồi hà hơi vào cả, sao anh
đáng yêu kẻ này đáng ghét quá! Mai đến tựa vào gốc cây sung, nghĩ
nên hỗn một chút mới vừa với tay mồm mép này, bèn cao giọng:
- Sao anh ngốc thế! Thì tại khóc. Tui thương con Tam thể lắm, anh
biết chưa?
- Nghĩa là thương một đứa lêu lỏng, ham chơi, ham bị xe cán! Thương
vậy thì thương ông Ngáo ọp hay thương cái trụ đèn còn hơn. Tôi không
thương bậy thương bạ như cô đâu. Sao tôi nghi quá. Chưa chắc cô đã
chôn con mèo Tam thể, có khi cô vừa chôn một con bướm hay một cánh
hoa gì đó rồi khóc om sòm. Ai mà biết. Các cô là chúa mơ mộng, lãng
mạn vớ va vớ vẫn. Tôi ấy à, tôi chẳng thèm mơ mộng cốc gì cả.
Sớm Mai lại réo thầm Huy ơi, Huy à! Anh nói năng từ tốn lịch sự bao
nhiêu thì cái gã bán than này bốp chát bấy nhiêu. Ðồng thời là con
trai cả... Mai bậm môi rồi bật thốt:
- Anh không thèm thương bậy thương bạ, không có thèm mơ mộng. Anh
giỏi vậy nên anh mới đi bán than, bán củi!
Tuyệt vời! Lúc này tung cái hỗn danh ra - Hỗn danh. Chẳng có gì bí
mật cả, có lần Mai nghe anh Ðạt gọi Hạo như thết - gã không hề ngán,
giờ tung thêm cái nghề mạt hạng của gã ra hẳn gã phải đau lòng! Sớm
Mai thấy mình ác quá, nhưng đành vậy thôi. Ai mượn gã trêu người ta!
Hạo giả ngơ như không nghe thấy cô gái vừa “đạp”, âu yếm nhìn chiếc
áo rộng dài quá cỡ cô đang khoác:
- Này, bộ sắp đi ăn cỗ cưới hay sao mà diện veston trông oách vậy?
Hạo cười. Nhe răng ra cười. Sớm Mai nghe hàng chục triệu hồng huyết
cầu mắc cở vừa nằm im lại rùng rùng vùng dậy. Bối rối chẳng biết làm
gì, biết gọi thầm anh Huy suốt bốn mùa cũng chẳng ăn thua, bèn cười
theo. Sợ nhe răng giống anh chàng bán than củi, cô ý tứ chỉ cười
chúm chím. Gã đúng là tên vô duyên nhất thế giới. Chẳng lẽ bây giờ
Mai phải khai huỵch toẹt rằng “gia tài” cô chỉ có bảy cái áo len bảy
màu khác nhau... chứ mấy! Mùa lạnh, mỗi ngày trong tuần thay một sắc
cho tươi duyên con gái. Ði học hay đi chơi về là treo ngay vào tủ. Ở
nhà mặc đỡ cái áo veston màu cháo lòng của ông già để chóng lạnh thì
cũng có chết... con kiến nào đâu chứ! Sớm Mai nghinh mặt:
- Từ cha sinh mẹ đẻ tới giờ tôi chưa thấy ai vô duyên như anh.
Hạo xuề xoà:
- Từ cha sinh mẹ đẻ tới giờ tôi chưa thấy ai ăn mặc modern trông đẹp
đến nhức răng như cô. Thôi, huề nhé! Nói chuyện với cô riết tôi mệt
tim quá!
Bộ tui khỏe lắm hả?
- Khỏe! Nào tiếp một tay mang củi vào nhà đi cô tiểu thư... con nhà
vườn.
Sớm Mai lừ mắt:
- Còn anh là công tử con nhà...
- Con nhà... chùa!
Mặc cô gái cứ đứng trơ mắt ngó với vẻ mặt kênh kiệu, khinh khỉnh rất
ra dáng tiểu thư con nhà vườn, Hạo lặng lẽ chuyển củi từ đò lên bến,
rồi từ bến khệ nệ ôm vác vào nhà bếp. Suốt thời gian ấy Hạo chẳng
nói chẳng rằng, vẻ mặt nom xa lạ và phớt tỉnh như vừa rồi hai người
chưa từng có một trận đấu bóng chuyền giao hữu bằng miệng.
Trời lạnh. Thấy anh chàng vã mướt mồ hôi, ban đầu Sớm Mai lấy làm
thú vị lắm, nhưng rồi thấy anh chàng hơi tội tội, cô vội vào nhà rót
một tách trà nóng bưng trang trọng lên hai tay đưa mời. Mủm mỉm
cười, cố chọn ngữ điệu hòa bình nhất, Mai nói:
- Anh uống miếng nước cho đỡ khát.
Ngoài dự tưởng của cô chủ nhà, Hạo hắc nước trà xuống sông, đặt tách
trà rỗng vào tay Sớm Mai rồi lẳng lặng vào múc một gáo nước mưa ở
cái lu dưới bếp. Uống cạn gáo nước, Hạo mỉm cười cay đắng:
- Cái hạn bán than như tôi không xứng uống nước trà ở nhà cô đâu!
Nói xong, nhanh như sóc, Hạo nhảy xuống đò. Sớm Mai giật thót. Cô
hoàn toàn không ngờ Hạo còn nhớ cái câu cô nhắc cái nghề mạt hạng
của anh lúc nãy. Cô gái sượng tái, xấu hổ giấu mặt sau thân cây sung
lạnh giá. Khi cô ngẩng nhìn ra bến, con đò đã khuất bóng từ bao giờ,
như là nó chưa hề đến.
Sớm Mai đã tìm thấy lá thư mất tích. Nhưng chỉ thấy nó... trong mơ.
Ðêm qua Mai đã nằm mơ. Không mơ thấy hoa lá cành, trăng gió, bong
bóng đỏ xanh. Không mơ thấy bánh ngon kem ngọt. Mai mơ thấy lá thư
viết dở hóa thành bướm với đôi cánh chi chít những gạn từ nỗi nhớ,
lọc từ lòng yêu của mình.
Từ cửa sổ nhà nàng, bướm bâng khuâng bay đến cửa sổ nhà chàng, vào
đậu trên trang sách chàng đang đọc. Mai hồi hộp nín thở xem Huy sẽ
đón bướm thế nào. Thoạt thấy con bướm lạ, anh chàng mỉm nụ cười
duyên đáo để, đoạn cau mày chăm chú đọc từng chữ từng dòng trên đôi
cánh và, trời ạ, thay vì nâng niu bướm trên tay, đặt bướm trên vai,
ôm ấp bướm vào ngực ngay chỗ trái tim hoặc âu yếm hôn bướm chùn
chụt, cảm động nói vài lời cảm ơn sứ giả nhỏ bé của tình yêu đã mang
tin nàng đến cho chàng như Mai thầm mong muốn, thầm dàn dựng trong
trí theo cái kịch bản tưởng tượng - Mắt Huy vụt ánh vẻ nanh nọc của
một cậu bé độc ác, anh chàng bất thần gập mạnh cuốn sách lại, ép
bướm chết dí giữa những trang chữ in. Và, Mai đã kêu thét lên nức nở
lúc thấy con bướm chết. Mai kêu thét trong mơ. Mẹ lay vai kêu Mai
dậy.
Sáng nay thức dậy. Mơ tan rồi. Hình ảnh con bướm chết còn ám ảnh mãi
chưa nguôi. Sớm Mai nghe chút buồn hanh hao tản mạn chợt bay chợt
đậu rối trong tóc, rờn rợn dọc bờ vai, rưng rưng đầu mày cuối mắt.
Chút buồn nhẹ nhàng tựa thoáng hương bay cứ đuổi miết theo những
vòng quay xe đạp, dọc đường đến trường.
Mơ như thế là lành hay dữ? Ui, phải chi gặp dì Út để nhờ dì “đoán
điềm giải mộng!” Sao lại có kiểu bỗng dưng mất tích lạ lùng vậy nhỉ?
Mấy trang thư chẳng lẽ bốc hơi thành mây bay đi?
Phải chi hôm ấy đừng gặp dì Út dọc đường, đừng mắc lừa chở dì ấy lên
chùa Hải Ðức lạy Phật xin xăm. Dì Út quả là đáng tội cần phải xách
tai véo mũi bắt đền. Khi không chợt buồn duyên buồn phận gì chẳng
biết, bèn bốc hứng khăn áo lên chùa xin xăm, bày đặt úp mở bảo đi
trốn, làm người ta tò mò muốn chết, hăng hái đạp xe muốn sụm bà chè
để rồi cười ha hả an ủi, có mỗi tô bún lảng xẹt. Bộ chú Vũ lạc lòng
theo ai, hay làm buồn dì điều chi mà dì đi tìm tận chốn am thiền?
Phải chi hôm ấy mình về nhà sớm hơn, cái thư không hề mất! Thôi đừng
lải nhải phải chi, phải chi, phải chi nữa. Lá thư mất đi chỉ là tổn
thất nhẹ. Tình yêu của Huy và mi vẫn còn. Ngày nào đánh rơi mất tình
mới là tổn thất nặng! Mai cười nụ tự dỗ, trí bỗng choáng ngợp vẻ mặt
khó hiểu của nhóc tì Châu. Chiều ấy sau chuyến đua thuyền về, cu cậu
hoảng hồn thấy chị Mai nôn nóng đứng chờ trước ngõ với gương mặt
buồn rất tàn thu, nếu không muốn nói là khá chằm vằm. Nhưng rồi dỗ
dành, tra gạn, dọa dẫm cách chi hắn cũng lắc đầu nguầy nguậy. Thằng
nhóc còn láu lỉnh đưa cao tay thề:
- Từ mẹ đẻ tới giờ em chưa hề biết cái gọi là thư từ nó ra làm sao
cả, huống hồ là “thộp cổ” chúng để gấp làm thuyền. Chị nghi thì cứ
nghi. Em mà nói láo í à? Ông táo xé rách áo!
Hắn nói không nghiêm trang chút nào, môi cười trông phát ghét, phát
nghi thêm nhưng đành chịu. Ức quá! Rầu ghê!
Sáng nay con đường Mai đi trải dài dưới bầu trời Vỹ Dạ rộng thoáng.
Cây cỏ, phố xá còn ngái ngủ dưới màn sương lạnh tê tê. Con đường Mai
đạp xe đi chầm chậm sương tan, nắng tới. Thiên nhiên sáng nay trông
tươi ngon muốn cắn. Lòng Mai không vui.
Ngang qua nhà Huy, Sớm Mai nghiêng nón liếc mắt dòm vào. Không thấy
anh chàng tha thẩn trước sân hay ngồi ở cái quán cà phê trước nhà.
Huy muốn khác thiên hạ phần đông nên không thích kiểu đưa đưa đón
đón hàng ngày. Dù hai đứa đã cùng đồng ý thế nhưng mỗi lần ngang qua
nhà, Mai vẫn không nỡ giữ yên cái cần cổ.
Ngoài các cuộc hẹn hò bí mật chỉ riêng hai đứa với tiếng nhạc nhè
nhẹ trong một quán cà phê yên tĩnh nào đó, với trời đất thành quách
Ðại Nội thâm u, hay với thông reo ngút ngàn chập chùng đồi Thiên An,
Từ Hiếu... Họa hoằn lắm Huy mới e lệ đến đứng xa xa cách cổng trường
chừng vài vạn cái gan tay vơ vẩn nhìn lá me bay và điềm đạm chờ giờ
nàng tan trường.
Hôm kia, ở lần hẹn trước, không biết trúng phải gió gì Huy bảo Mai
viết thư. Mai kêu không biết viết. Anh chàng nhăn mặt mà rằng, viết
thư như làm luận thôi, có chi khó! Thế là Huy điềm đạm đưa cho Mai
hai mươi cái bì thư, một xấp giấy trắng, hai mươi con tem, dịu dàng
phán kể từ ngày mai anh bắt đầu trông thư bé! Mai bối rối lắc đầu,
Huy cứ tỉnh khô. Mai ức lắm nhưng không dám cãi sợ Huy giận, ngại
Huy lẫy. Anh chàng hễ giận lẫy bao giờ cũng dai như... con gái lẫy
giận. Ui, khi không anh Huy nghĩ ra cái trò “thư đi tin lại” làm chi
thêm phiền! Sớm Mai vừa nhấn đều bàn đạp cho hai bánh xe tha hồ cuốn
gió vừa thả cái nhìn mượt mà lên người ngợm, cảnh vật dọc đường,
nghe tan nguôi dần chút buồn trong dạ.
Qua Ðập Ðá. Gió từ mặt sông lộng lên tung đôi tà áo trắng. Gió mơn
man hôn môi, vuốt má, nghịch tóc. Gió là loài hỗn hào nhất nhưng
cũng đáng thương nhất. Hỗn hào vì dám vuốt ve, nựng nịu người ta mà
chẳng thèm xin phép. Gió đáng thương vì không nhà gió lang thang
muôn phương. Lang thang từ thiên thu này đến vạn đại kia. Vũ trụ lắm
bụi quá. Gió thổi hoài không sạch hết bụi nên cứ thổi liên miên. Mệt
quá phải không? Mai thương gió thương mưa, thương chim chóc muông
thú, còn Huy? Anh chàng long trọng, điềm đạm tuyên bố, chỉ thương có
mỗi mình Sớm Mai lắm lúc muốn phát bệnh, còn hơi sức đâu mà thương
vẩn thương vơ! Lòng Huy coi vậy mà hẹp quá nhỉ? Có chách chi nới
lòng Huy rộng thêm ra chút nữa được không? Sớm Mai lắc đầu cười nụ
tự diễu.
Ngang qua trường Ðại học Sư phạm, đang lẩm ca lẩm cẩm ngẩm ngợi cách
nới rộng lòng Huy, Mai suýt cho xe hôn vào gốc cây bởi lòng chợt mất
thăng bằng khi thấy Huy từ hướng cầu Trường Tiền lững thững đạp xe
tới.
Vóc dạc nom ốm yếu ho hen như Mai từng “mô tả” trong cái thư mất
tích. Bốn mùa tám tiết người ta quen thấy Huy đội chiếc mũ bêrê đen
nghiêng nghiêng trên mái tóc dài dịu dàng ôm gáy. Chiếc kính trắng
không độ lấp lánh ánh mặt trời hoặc ánh trăng sao. Ðiếu thuốc ngậm
chếch bên khóe môi lúc nào cũng như chực rơi xuống đất. Quần áo màu
sáng tươm tất, thẳng nếp. Gặp anh chàng lang thang qua các nẻo đường
với dáng đi hơi điệu người yêu văn nghệ chắc mẫm Huy là thi sĩ đang
khác thơ, đi tìm thơ, hái vần gặt tứ, dù Huy chưa từng viết câu thơ
nào. Gặp anh chàng ngồi ngắm hoa cỏ trong công viên co ro dưới chiều
gió lộng - như Sớm Mai hằng lo sợ - các chuyên viên bài trừ ma túy
rất có thể lầm Huy với bọn nghiền xì ke, dù Huy chưa bao giờ đùa với
món này.
Ði đôi với ngoại hình ỉu dịu, lời ăn tiếng nói của Huy luôn nhỏ nhẹ,
rất mực từ tốn, đôi khi hơi văn hoa cầu kỳ. Nếu có ai cắc cớ thống
kê những người tình điềm đạm nhất hành tinh thì xin cứ yên trí ghi
thên Huy vào danh sách hàng đầu.
Hai đứa tấp xe vào lề. Bốn ánh mắt cùng nhấp nhóa in đèn pha. Huy
nhảy vội xuống xe đứng thẳng băng trước mặt Mai tựa lính đứng trước
bà... tướng, đưa tay khẽ khàng cầm ghi đông xe bạn nom như vịn một
cành hoa. Tiếng Huy mượt và mềm hơn gió thoảng:
- Sao bữa nay đi học trễ thế? Huy đạp lui tới mấy vòng không thấy bé
của Huy đâu cả.
Bé của Huy! Sớm Mai đã từng nghe hàng chục lần kiểu xưng hô ấy, bữa
nay sao nghe hơi choi chói lỗ tai. Ðôi mày nguyệt khuyết thoáng hơi
cau lại:
- Bộ có chuyện gì à? Còn sớm mờ anh!
Huy cong ngón tay út khẽ nâng chiếc kính trắng lên dù nó không hề
trụt, thở hắt:
- Không dưng thích đón bé dọc đường.
Mai lườm:
- Ðể coi có “cái đuôi” nào theo Mai không chứ gì?
Huy đốt thuốc, giấu mặc sau đám khói, cười chúm chím:
- Sớm Mai, bé của Huy đâu phải là sao chổi hay con chồn tinh quái
trong truyện cổ tích mà đòi có đuôi? Này, sáng nay cúp cua được
không?
Lời đề nghị e dè kèm thêm ánh mắt khẩn nài minh họa, Huy vẫn nơm nớp
lo “bé của Huy” từ chối. Sớm Mai ngập ngừng:
- Chưa bao giờ Mai dám cúp cua cả.
Huy trong nỗi nhớ của Mai hình như luôn luôn bọc trong làn sương
huyền ảo. Huy ngoài đời thực không đẹp bằng trong mộng tưởng? Huy
đó. Gã con trai tầm thường như bao gã con trai khác có chi hấp dẫn
hay ho mà có lúc mi nhớ da diết? Sớm Mai nhìn mông lên trời rồi
thình lình nhìn xoáy vào mắt bạn. Ðôi mắt đêm qua trong mơ Mai từng
thấy ánh lên vẻ nanh mọc khi gập mạnh cuốn sách ép chết con bướm
mang những dòng tin yêu trên đôi cánh mượt mà. Dù bây giờ ánh mắt
đáng ghét ấy không còn, Mai cũng mơ hồ cảm thấy giần giận. Mai mát
mẻ:
- Thôi để người ta đi học chứ. Nợ nần chi mà cứ giữ ghi đông xe
người ta như vậy... ông!
Giọng nhiễm lạnh. Vẻ mặt lạnh lùng của bạn làm Huy thoáng chột dạ.
Con gái bất thường còn hơn nắng sớm mưa chiều. Mới trông ngoan như
con thỏ đó, vụt gầm gừ gay cấn in con hổ ngay. Bếp lửa nào đang ngún
khói trong Mai mà mắt cô bé mơ huyền thế kia? Tiếng đàn êm ả nào
đang ngân trong tim Mai rồi thốt đứt phựt làm cô bé ỉu xìu thế ấy?
Cô nàng tên Sớm Mai nhưng thỉnh thoảng nhan sắc bỗng hoàng hôn rất
bất chợt. Người già trái tính trái nết rất khó thương. Thiếu nữ trái
tính trái nết chút xíu trông càng duyên đáo để. Huy nói ngọt ngào
như giọng có ướp đường phèn:
- Sáng nay anh tính rủ Mai đi chùa!
Mai hứ nhỏ trong mũi. Hết dì Út lên chùa giờ đến phiên anh chàng này
muốn lên chùa. Ði chùa bộ là cái mode đang thịnh hành chắc? Mai châm
chọc:
- Anh tính lên chùa mời Phật đi uống cà phê với tụi mình hở?
- Trên chùa Từ Ðàm vừa có một loại hồng màu xanh da trời rất đẹp.
Mai dấm dẳng:
- A di đà Phật, tui không yêu hoa.
Huy nửa đùa nửa thật:
- Tiếc nhỉ! Thôi để anh đi hái tặng người khác.
- Tùy!
Sớm Mai dằn xe khỏi tay bạn, thong thả nhấn bàn đạp. Ơ hay, khi
không sao mình trở chứng thế này? Xa, mong gặp. Gần, thấy ghét hay
sao? Mai lật tay coi đồng hồ, còn nửa giờ nữa mới vào lớp. Cô chợt
hối hả bỏ đi để anh bạn đứng lớ ngớ trông theo. Ngẩn ngơ một chút,
Huy lên xe đuổi kịp Mai. Cô gái thở ra, anh chàng cũng không đến nỗi
ngốc lắm. Mi làm bộ làm tịch cũng không đến nỗi hớ, hỏng lắm! Huy
nói nhỏ nhẹ:
- Sáng nay bé của anh kỳ kỳ sao ấy!
Mai liếc xéo bạn buộc miệng:
- Ai mượn đón đường người ta làm chi?
- Không đón làm sao gặp!
- Gặp rồi thấy ghét lắm hả?
- Ghét không nổi!
Vừa đối thoại theo kiểu ngẩu hứng, chàng vừa rình chờ từng biểu hiện
nhỏ trên mặt nàng. Thấy cặp môi mim mím của nàng thoảng nhẹ nét
cười, chàng vội lanh tay chụp lấy cơ hội nịnh nọt:
- Một nụ cười bằng mười liều thuốc bổ, mỗi ngày Sớm Mai nên cười vài
ba chục nụ nhỏ, nụ to, nụ choai choai sẽ tăng được vài ba ký.
- Ờ, cười chừng một tuần sẽ thành cái thùng tô nô.
Mai bật cười tiếng ngắn. Huy rạng rỡ ngay như lân nghe pháo:
- Sao? Cúp cua đi chơi nhé?
Giọng nghe tội đã đành, ánh mắt khẩn nài đìu hiu sau kính trắng
trông càng đáng tội hơn. Sớm Mai hơi siêu lòng nhưng chưa hẳn lạc
dạ, lấp lửng:
- Anh quên cái tội ép chết con bướm của người ta trong sách rồi sao?
Huy ngơ ngác nhìn Mai như người trong mộng đang nói mê:
- Bướm nào? Bé nói nhăng nói cuội gì thế?
Mai ra vẻ bí hiểm, phóng đại tô màu:
- Ðêm qua có cơn gió lạ thổi bạt tới nhà một con bướm lạ, cánh rộng
bằng tập vở. Mai bèn nẩy sáng kiến viết lên cánh của nó một bức thư
gửi anh và, mang nó đến trước cổng nhà anh thả cho nó bay vào. Bướm
vào đậu ngay trên cuốn sách anh đang đọc. Anh cóc thèm đọc thư trên
cánh nó, lại gập sách ép bướm chết đi. Sao anh ác quá vậy Huy?
Tai ù ù hệt có con ong phải gió nào vừa bất thần lọt vào đập cánh vù
vù trong ấy. Huy ngỡ mình nghe nhầm. Anh chàng lắp bắp:
- Lạ quá, anh thề là tối qua chẳng có con bướm nào bay vào nhà cả.
Bé của Huy không đùa đấy chứ?
Vẻ mặt ngay ngẩn của anh bạn làm Mai phì cười:
- Xin nói lại cho rõ là cơn gió lạ thổi bạt con bướm thần ấy lạc vào
giấc mơ của Mai đêm qua lúc gà vừa gáy sáng.
Chợt hiểu, Huy thở phào nhẹ nhõm:
- Liếng khỉ. Chuyện mơ bé cứ kể y như chuyện thật.
Sớm Mai nghiêm mặt:
- Ở ngoài trông anh hiền lành sao trong mơ anh ác thế Huy?
Huy đỏ mặt lúng túng:
- Trong mơ ai mờ biết. Cầu trời cho đừng bao giờ Sớm Mai thấy Huy
trong mơ nữa. Thế bé đã viết thư cho anh chưa?
Thư! Mai cố nuốt tiếng thở dài xuống buồng gan vẫn nghe có sợi dây
nào quấn quanh tim siết nhè nhẹ. Cô nói dài giọng:
- Thư với từ. Anh khéo vẽ chuyện làm người ta muốn khùng luôn.
- Khùng? Anh thấy bé vẫn tỉnh mà!
Buột thốt rồi gã trai chợt hối mình đã nói một câu khá vô duyên. Anh
chàng đánh trống lãng:
- Hôm kia thấy bé đèo dì Út đi đâu mà đạp xe như bay như biến thế?
- Ðưa dì Út chạy trốn nỗi buồn duyên phận, tìm an ủi nơi mấy que xăm
ở chốn am thiền.
Huy cau mày:
- Bé lại nói chuyện mơ nữa rồi.
- Thật mà. Thế anh thấy Mai lúc nào mà chẳng nghe anh kêu?
Huy ngậm miệng, ngậm luôn chiếc lá me nhỏ xíu vừa từ trên không
liệng xuống bay bướm, lẳng lơ đáp vào môi chàng. Phút im lặng bỗng
gãi, bỗng quàu nhè nhẹ lòng cô gái làm vẩn lên sợi khói nghi ngờ.
Khói lặng lẽ bốc lên làm Sớm Mai nghe cay cay khóe mắt. Cô nóng nảy
giục:
- Sao anh bỗng câm như tượng thế? Bộ nói sợ lạnh răng à?
Ðôi tai núp dưới vành mũ bêrê, ẩn dưới tóc dày óng ả đỏ lựng như vừa
bị ai búng. Huy khẽ nhăn mặt ấp úng:
- Anh không dám kêu Sớm Mai tại vì, tại vì hôm đó đang đi cùng bà
già chọn may áo sơ-mi. Kêu sợ mẹ quở.
- Vậy mà dọc đường đã có lúc Mai ngu ngốc ao ước tình cờ gặp anh.
Con gái luôn luôn si ngẩn si ngốc hơn con trai. Thôi anh về đi kẻo
mẹ quở, đừng gặp tui nữa!
Huy giật thót rồi tưởng chừng cả trái đất cùng giật thót theo mình.
Cơn giận phừng phừng như thể bất thần từ vòm cây ập xuống tưới dầu
vô đám cháy trong lòng Mai làm cô run cả giọng, tái cả mặt. À ra
thế! Trong khi mi khờ khạo mong gặp anh chàng một chút cho bõ thương
bõ nhớ. Thấy mi ngang qua anh chàng vẫn tỉnh như sáo sậu, vẫn trơ in
đá vững in đồng. Người đâu lại có người vô tình và cao đạo thế nhỉ ?
Anh chàng sợ mẹ hơn là sợ... mình? Sợ mẹ quở, mẹ bợp tai hơn sợ mình
giận! Thích ngậm nỗi sợ hơn mừng rỡ gọi tên mình! Con trai gì mà
“oai” thế chẳng biết!!!
Sớm Mai nhấn mạnh bàn đạp, lạng xe tránh xa Huy, suýt tông phải hai
cô bạn cùng lớp đang song song dong xe giữa lộ. Một cô hớt hải kêu:
- Sớm Mai, gấp gáp chi mà lạng xe cao bồi vậy mi?
Cô kia liếc xéo xiên bắt gặp Huy đang tiu nghỉu rẽ nắng tìm đường
vượt lên, la khẽ:
- Coi kìa, hắn đang bị cây si săn đuổi.
Hai tiếng cười trêu chọc hòa giọng xao xác cỡi gió bay theo làm Huy
nghe lạnh gáy. Cổng trường con gái khép lại để gã trai đứng hệt trời
trồng dưới tán phượng thưa lá.
Ngôi trường trọng tuổi màu hồng thẫm đứng trầm tư sau những tàng lá
xanh cao, chân viền bãi cỏ xanh thấp.
Sân trường lác đác những áo trắng tới lui nghiêng nón, tay cầm nón,
nở rộ những mái tóc uốn, tóc kẹp, tóc xõa ngang lưng ngang vai, chơm
chớp những đôi mắt một mí, hai mí, và bất loạn mí.
Ba tiếng trống nện dập dồn làm cây cối giật mình trút lá, kéo hoa
nắng rụng theo. Sớm Mai ôm cặp lững thững theo bạn bè xếp hàng,
ngước mắt nhìn thẳng cột cờ. Mai lí nhí hát quốc ca trong miệng, làm
như mở miệng hát to ngại gió lùa lạnh răng. Lá cờ chầm chậm trườn
lên đỉnh cao chót vót. Rợp trời mây trắng hàng đàn hàng lũ nối nhau
bay.
Lễ chào cờ chấm dứt. Sớm Mai đủng đỉnh leo thang lên lớp với đôi
chân nặng trịch. Cẩm Hương ngồi cạnh huýc cùi chỏ vào mạn sườn Mai
cái nhẹ:
- Sao cái mặt như đưa đám thế?
Mai lẩm bẩm:
- Lạy trời sáng nay cô Hài bị trúng gió đau nặng.
Lời khấng không thiêng. Cô Hài vào lớp với nụ cười nửa miệng, ba xâu
chuổi hạt hyền đen láy dài ngắn khác nhau thõng thệu làm duyên trước
ngực, và chiếc kính cận trễ xuống gần chót mũi như thường lệ. Hương
khúc khích:
- Trời không chứng cái lạy của mi rồi. Sao mi mong cô Hài đau, ác
nhơn ác đức vậy?
Mai đáp liều:
- Tu nhơn tích đức để chi?
- Ðể cho con cháu mai sau.
- Lỡ tao không con không cháu thì sao?
- Ðể đức cho tình.
- Mi tiến bộ gớm ghê!
- Thua mi. Sáng nay đi học tao đâu có thấy cây si nào rượt theo như
mi.
Thầm thì tán láo với nhỏ Hương, Sớm Mai cứ nghe tim đánh lô tô, nhảy
à go trong ngực.
Cô Hài đã chễm chệ ngồi vào bàn và, Trời có can, Phật thánh có quở
cô cũng sẽ cứ hiên ngang lật sổ “phong thần” gọi các “chị” lên đọc
“kinh”. Ôi, mỗi lần cô Hài gọi học trò lên bảng đen sao lịch sự đến
lạnh lùng, âu yếm đến phát sốt? Khóe mắt cô nhìn những “chị” không
thuộc bài tình tứ đến sảng hồn bạt vía. Suýt soát “tam thập” chưa có
xe hoa nào rước nên cô khó tính chăng? Tụi nhỏ lớp Mai mê tín rằng,
có chồng chắc cô Hài sẽ bớt khó, nên đứa nào cũng ngày ngóng đêm
mong, lâu lâu lại phỏng vấn nhỏ Kim Sa ở cạnh nhà cô để rồi cả bọn
cùng buồn thiu, buồn rất thật tình, buồn hết mình khi con nhỏ liến
láu này lắc đầu bảo, chưa, tao chưa thấy cô có bồ, tụi bây yên chí
tới tết công gô mới có xe huê tới rước cô mình đi!
Cô Hài có sốt ruột như bọn nhỏ không nhỉ? Chưa đứa nào dám uống mật
gấu để phỏng vấn cô, nên đứa bảo có đứa bảo không.
Ðêm qua, bài “kinh” Vật lý mai “tụng” lui tới khoảng ba mươi sáu lần
không thuộc được một đoạn nhỏ, bởi mãi ra ngẩn vào ngơ, hết soi
gương đối bóng đến nhìn trời sao hiu quạnh, nhớ Huy thì ít, tiếc
thầm lá thư viết dở ngọn gió vô tình chết tiệt nào đã mang đi thì
nhiều. Giờ trái tim đang đong đưa những nhịp không bình thường là
phải, còn oan ức chi? Không đọc thấy nỗi lo đang nhoi nhói trong tâm
khảm bạn, Cẩm Hương cứ đấu tơi tới:
- Này, bộ mi ghét cô Hài lắm hở?
- Không, tao chỉ sợ cô hát bài “gọi tên bốn mùa”.
Hương thật thà:
- Gọi ai?
Mai chất phác:
- Gọi tao lên đứng chết trân như Từ Hải đối diện những bản mặt mốc
của tụi bây.
Hương khôi hài:
- Hồi hôm làm chi không tụng cho xong. Chắc giụt vở xuống gầm bàn,
khom lưng dòm kiến bò hở?
Mai cười như mếu:
- Hồi hôm tao nhức đầu sổ mũi ho hen.
- Ngộ gió à?
- Không, ngộ... tình.
Hương lăn tia nhìn tròn vào mắt Mai:
- Hấp dẫn thật, kể mau kẻo nguội.
- Tình mang tới một con ma bỏ vô đầu tao.
Hương vờ thè lưỡi:
- Như bỏ bạc lẻ vô con heo đất hở? Ma à? Mi có khùng không Sớm Mai?
- Con ma nhớ.
- Ậm à? Khỉ, tưởng ma gì.
- Con ma nhớ bắt tao vô ra tha thẩn, biếng uống nhác ăn, quên cả học
bài. Mi từng bị con ma nhớ hành lần nào chưa?
Hương đá lông nheo con mắt bên phải:
- Chưa. Tao chưa ngộ tình làm sao biết được.
- Nên ngộ một lần cho biết.
- Thôi thôi. Xin can chị. Em còn nhỏ nhít dại khờ lắm, đêm ngủ còn
măng vú mẹ mà. Ðừng xúi dại người ta.
Hương đưa bàn tay tháp bút đàn áp tiếng cười khúc khích, kèm theo
cái rụt cổ, nhún vai điệu đàng. Cuộc vấn đáp đang tới hồi hấp dẫn,
bỗng một tiếng sét đánh vù ngang tai Sớm Mai. Tiếng sét êm ái phát
từ bục gỗ, từ đôi môi hình trái tim đỏ thắm của cô Hài:
- Chị Tôn Nữ Sớm Mai!
Mai đứng lên bàng hoàng như đứng trong mộng. Cầm cuốn vở trên tay
tựa cầm cục đá nặng. Mai đến trước bảng đen cứ ngỡ đang đứng trước
vành móng ngựa, ước bất giác có phép lạ nào đó biến thành con kiến
hay hạt bụi hay biến mất cho rồi.
Phép lạ nào chẳng thấy, chỉ thấy tấm bảng đen chợt dềnh lớn lên úp
chụp lấy mình. Trí Mai đen thui hệt tấm bảng. Cô giáo đăm đăm nhìn
gương mặt chợt đỏ rồi chợt tái của cô học trò. Thời gian hình như
chẳng buồn trôi. Lâu lắm, chừng cả một hai trăm năm gì ấy. Mai mới
nghe Mai lí nhí:
- Thưa cô, hôm nay em không thuộc bài ạ.
Găm im tia nhìn ngượng ngùng xuống sàn gạch, Mai vẫn cảm tưởng đôi
mắt nghiêm khắc của cô Hài đang xoi xoáy vào tinh mũi mình, dù giọng
cô vang lên nghe rất dịu dàng:
- Dạo này tôi thấy chị lơ là lắm đó. Sao vậy hở chị Mai?
Mai run giọng đáp liều:
- Thưa cô em bệnh.
Lớp học im phắc tựa có bàn tay vô hình nào vừa bí mật phát cho mỗi
“chị” một cây tăm im lặng để ngậm. Mai thầm mong cô Hài sẽ cầm bút
khuyên tròn hai con số không vào sổ điểm rồi đuổi cô về chổ ngồi.
Ui, được quay về chỗ ngồi lúc này Mai sẽ mừng còn hơn ông Bụt thoắt
hiện ra cho thêm vài tuổi thọ. Không, cây bút vẫn nằm im trên cuốn
sổ điểm mở rộng. Cô Hài nói như cắn rời từng tiếng ngọt. Ngọt ngào
đến đắng gắt:
- Sớm Mai. Tôi không tin chị bệnh đâu. Nào, nói thật đi, tại sao cô
không chịu học bài?
Lớp học dường biển hoang vu. Không một tiếng sóng. Biển đông cứng để
chỉ mỗi mình Mai đứng chóc ngóc tựa cái cọc chèo ai bỏ quên trên
bãi. Chẳng lẽ cứ đứng thế này đến lúc mình biến thành cây, trổ lá,
đơm hoa, kết trái xấu hổ luôn hay sao? Thóang liều lĩnh vụt cháy
bùng trong trí in dúm lửa nhỏ, đoạn cháy lan khắp hồn trong xác
ngoài, Mai nghe giọng mình vang lên tuy ấp úng mà rền như phát qua
chiếc loa khuếch đại:
- Thưa cô, tại vì, bởi vì em bận...
Môi vẫn mím chặt, nhưng thoáng cười dìu dịu trôi qua ánh mắt cô Hài.
Hai người, kẻ ngồi người đứng cách nhau cả hai ba chục gang tay, tai
Mai ù ù nên cảm tưởng cô ghé sát tai mình hỏi nhỏ:
- Bận gì? Nếu không quá bí mật chị có thể cho cả lớp biết được
không?
Xấu hổ, tẽn tò pha nghẹn ứa. Mai bối rối vặn xoắn hai bàn tay ngỡ
muốn gãy rời từng ngón và, buột thốt cái câu sau này mỗi lần cô nhớ
lại cô còn rỡn cả ốc, không ngờ mình đã táo gan dám thưa thốt như
vậy:
- Thưa cô, em bận, bận... Yêu!
Biển không đông cứng nữa. Sóng lại ì ầm vỗ khắp bốn hướng. Các cọc
chèo ngỡ ngã sấp vẫn còn đứng vững. Cô Hài giật thót. Cả lớp giật
thót. Trán Mai biến thành cánh đồng mồ hôi và cơ hồ có cả trăm con
kiến bò tới lui trong xốn áo. Năm năm dạy học hẳn chưa bao giờ cô
giáo Hài nghe học trò “trả bài” kiểu này?! Khó tả cô đang nghĩ gì,
chỉ thấy mắt cô chớp chớp. Và, lạ thay, cô bỗng mỉm cười, lắc đầu:
- Ðược rồi, về chỗ, lần này tôi tha!
Sớm Mai trở về chỗ ngồi với đôi chân mỏi rời như là chân của kẻ
khác. Bên phải nhỏ Ðoan Dung im thít. Bên trái nhỏ Cẩm Hương nín
câm. Hai đứa vờ vĩnh như thể từ lâu là học trò ngoan, không bao giờ
lảng mắt khỏi cuốn tập mở trước mặt. hai đứa ngầm dang xa ra như
ngại cái bện Yêu Mai vừa tự bạch lây lan sang. Như thế càng hay, bởi
sẽ không ai thấy cánh mũi Mai phập phồng theo từng nhịp tim thổn
thức trong ngực, và nước mắt chợt ứa ra giấu sau bàn tay vờ vuốt
tóc.
Hai giờ Vật lý trôi qua dù chậm thế nào cũng đến lúc chấm dứt. Giờ
ra chơi. Sớm Mai rảo chân đuổi kịp cô Hài trước cửa văn phòng. Cố
nén nhịp tim trống chầu, Mai đỏ mặt ấp úng:
- Thưa cô, em có chút chuyện muốn thưa với cô ạ!
Ngạc nhiên quay nhìn cô học trò rụt rè, lọng cọng, yểu lả tựa cành
lá đang ngước đôi mắt âu sầu nhìn mình như nhìn đấng cứu thế, thay
vì vào văn phòng uống nước giải lao, cô Hài nắm nhẹ khuỷu tay Mai
bước xuống sân, điềm đạm bảo:
- Sao trông ỉu xìu thế? Em cần gì ở tôi nào?
Tiếng em thân mật quý hiếm, cái từ xưng hô cô Hài không thường dùng
với lũ môn sinh lúc này bỗng thốt ra từ môi cô khiến Mai nghe nhẹ
lòng như vừa được uống một liều thuốc khỏe. Mai tươi tỉnh hẳn:
- Thưa cô, chắc vừa rồi cô giận em lắm. Xin cô tha lỗi cho em.
- Nhưng vừa rồi em đã bảo thật cơ mà!
- Dạ, vì, vì em quýnh quá.
Cô Hài cười nụ nhỏ:
- Vì bị cô dồn đến chân tường, vào phút nói thật chứ gì? Dù sao nói
thật như thế cô vẫn thích hơn là em nói dối. Cô không giận em đâu.
Chỉ buồn em thôi. Mai à, phải học chăm trở lại trước khi quá muộn.
Yêu, chẳng có gì xấu cả. Nhưng tuyệt đối không nên để tình yêu kéo
tuột mình xuống thang xếp hạng hằng tháng. Càng không nên để trường
đại học đóng cửa trước mũi mình vào kỳ thi cuối năm. Hiểu chứ?
Hoa nắng rọi loanh quanh nhập nhòa bóng cây hình lá. Cô Hài khép kín
đôi vạt áo len màu hồ thủy như chợt thấm lạnh. Mùa đông chưa ẩm ướt
lắm nhưng cái lạnh đã đủ đầy.
Sớm Mai chớp mắt liền năm sáu cái. Thang vị thứ hàng tháng. Cửa
trường đại học sẽ mở rộng hoặc khép kín trước mũi mi! Mùa đông giá
băng sẽ ở mãi cùng mi hay mùa xuân ấm nồng rồi sẽ đến? Do mi, bởi mi
và tại mi cả thôi Sớm mai à. Ghê chưa? Khiếp không? Tình yêu níu áo
lôi mi bước lùi trên thang học vấn. Tình yêu sẽ khoèo chân cho mi
trượt ngã chỏng gọng ở sân trường thi, khỏi cần đạp nhằm vỏ chuối.
Tình yêu sẽ túm tóc mi quay mòng trong cơn lốc mù mê hôn ám. Chao ơi
là tội tình. Tình quả là cái tội. Dễ sợ quá, đáng run in thằn lằn
đứt đuôi quá!
Sớm Mai nổi gai sởn ốc nghe giọng mình bở rợi, ướt sũng ăn năn tựa
ruột bánh mì ngâm nước:
- Em xin hứa với cô từ rày về sau em không dám yêu nữa!
Cô Hài bật cười tiếng ngắn, vuốt tia nhìn âu yếm vì không thể không
dưng đặt một chiếc hôn lên đôi má đỏ au nom rất đáng yêu của cô học
trò. Giọng cô nghe bâng khuâng như lọc qua mành sương mỏng mịn:
- Ngày xưa, vào tuổi em, đôi ba lần cô cũng từng tự nhủ, tự hứa với
mình như thế...
Mai nghiêng tai nghiêng lòng uống từng tiếng rồi chưng hửng vì cô
Hài bỗng bỏ lửng câu nói nữa chừng. Mai thở mạnh vì không thể nén
nổi hồi hộp:
- Thưa cô, và cô đã thực hiện được chứ, phải không ạ!
Cô Hài khẽ lắc đầu nhún vai như thể muốn giũ bỏ trùng trùng hoa nắn
bám đậu trên tóc trên vai, má hồng hơn má búp bê nhựa Nhật Bản, cô
cười chúm chím:
- Không, cô đã thất bại!
Không cô đã thất bại! Cô Hài xoay ba vòng trên đôi giày cao gót lặp
đi lặp lại ba lần không, cô đã thất bại! Loanh quanh lá hoa chim
bướm xoay theo, cuốn thành những vòng lốc trăm hồng nghìn tía ngoạn
mục.
Và, cô thoắt trẻ trung hệt cô bé mười bảy tuổi khi dừng lại.
Lạ lùng quá. Sớm Mai cứ xoe tròn mắt đứng ngắm. Cô giáo ôm vai cô
học trò chầm bước trên lối mòn không phải ở sân trường mà ở giữa một
cánh đồng đầy hoa thơm cỏ lạ. Tiếng nói cô Hài bay liệng trong không
nghe êm hơn tiếng suối reo:
- Vâng, cô đã thất bại và nói chung, ai cũng phải chào thua tình yêu
thôi. Nhà thơ Huy Cận từng than thở: Vậy đó, bỗng dưng mà họ lớn.
Tuổi hai mươi đến có ai ngờ. Một hôm trận gió tình yêu lại. Ðứng
ngẩn trông vời áo tiểu thư! Tình yêu, thoạt tiên nó chỉ là một trận
gió nhè nhẹ chiếm hồn ta thoang thoảng in làn hương, rồi thình lình
thành trận gió kinh thiên thổi hồn ta xiêu, phách ta tán.
- Thưa cô, em hiểu rồi. Nhưng em chưa tới hai mươi mà! Ông Huy Cận
trông vời áo tiểu thư, còn em trông vời áo gì nhỉ? Lạ quá, chắc
không đúng trường hợp của em đâu!
- Ðúng!, ngay chóc em ạ! Rồi em cũng sẽ tới tuổi hai mươi thôi. Ông
Huy Cận trông vời áo tiểu thư, còn em, em trông vời cái... áo sơ mi
của người ấy, được chứ? Ngó nước da em, ngó cái tịch lúng túng hệt
gà mắc tóc của em, khỏi cần bắt mạch hay nghe tim cô cũng biết ngay
rằng em đã bị gió tình yêu thổi cho ngất nga ngất ngư rồi đấy tiểu
thư của cô ạ!
- Em sẽ dùng tay xua trận gió ác ôn côn đồ ấy đi.
- Tay em yếu làm sao xua, có mở quạt máy hết ga cũng không xua nổi.
Nếu không lầm thì gió đã lậm vào tim vào phổi em lâu rồi, muộn rồi
em ạ!
- Chưa lâu đâu thưa cô. Em mới bị “cảm” từ mùa hè vừa rồi thôi.
Giống hệt Sớm Mai, trong cô Hài cũng có con ma tò mò mai phục. Nó
bỗng thức dậy bắt cô tò mò.
- Nếu không quá e lệ, không quá bí mật, em có thể cho biết trường
hợp nào bên A gặp bên B không?
Mai cười nụ thẹn thùng:
- Ðơn giản lắm, thưa cô. Hè vừa rồi em về biển Thuận An. Em và mấy
nhỏ bạn bơi ra khá xa bờ. Anh ấy muốn làm quen nên liều lĩnh bơi
phao ra theo. Giữa chừng gặp sóng lớn phao lật úp và cu cậu chìm
nghỉm. Hóa ra cu cậu không biết bơi. Em bơi khá giỏi nên nhào đến
túm tóc anh chàng lôi lên phao. Thế là sau đó về phố anh chàng cứ
đeo theo xin đền ơn cứu tử riết. Anh ấy tuy chân yếu tay mềm nhưng
tính tình rất mực điềm đạm nên dần dần lòng em hơi xiêu xiêu.
- Em bơi giỏi lắm à?
- Dạ, ở Vỹ Dạ nhà nào cũng có bến, đứa nào bơi cũng giỏi vì quanh
năm tắm sông mà cô!
- Ậm à, thế là từ mùa hè. Từ mùa hè sang đông, thời gian không ngắn
lắm, nhưng hẳng tình yêu cũng bắt em lắm lúc phải thở ngắn than dài?
- Dạ!
- Bắt em vô ra tha thẩn bao nhiêu lần!
Sớm Mai mím môi, định đưa tay bóp trán, nắn cằm, vuốt chót mũi suy
nghĩ, nhưng rồi cảm thấy ngượng quá nên cứ xua hai bàn tay trước mặt
tựa... đuổi ruồi. Cô Hài kiên trì lặp lại câu hỏi như nhà báo phỏng
vấn gặp phải tay đại lãn. Bị dồn vào phút nói thật khẩn cấp quá, Mai
thật thà buông thõng:
- Dạ, em quên đếm.
- Hẹn hò mấy buổi, giận hờn mấy phen rồi?
- Em có ghi trong sổ tay, tiếc quá bữa nay chả mang theo.
- Thế em đã trao tay cho tình yêu nắm chưa?
Mai đỏ mặt:
- Dạ chưa!
- Ðã trao môi trao trán cho tình yêu cụng chưa?
Mai tía tai:
- Dạ chưa ạ!
Cô Hài mủm mỉm cười lăn tia nhìn soi mói vào đôi mắt trong veo của
cô học trò như để đo lường xem những câu trả lời vừa rồi có mấy phần
trăm sự thật, đoạn khẽ gật đầu hài lòng cho rằng Sớm Mai không hề
nói dối. Cuộc phỏng vấn tiếp tục:
- Em đã viết cho tình yêu lời nồng ý thắm nào chưa?
Sớm Mai nghe nóng ran đôi má:
- Dạ có nhưng chưa viết xong. Lần đầu viết thư tình nên em lúng túng
quá. Nói cô đừng la đừng giận em, có lúc bí tịt không biết viết gì
em đã mạo muội nghĩ, nhân loại quả rất đáng kính, gặt hái cơ man nào
là thành tựu khoa kỹ thuật, riêng nghành giáo dục lại cố tình bỏ
quên môn dạy viết thư tình cho các cô cậu mới lớn! Thiếu sót quá!
Cô Hài cười nụ nhỏ kèm hai nụ to:
- Em có ý nghĩ ngộ thật đấy. Các ông giáo dục nghe hẳn cũng chỉ lắc
đầu cười trừ, bởi vì nghĩ cho cùng chẳng ai dạy ai viết thư tình
đượd đâu. Theo cô, khi viết thư cho người mình cưng quý, người viết
là nhà văn riêng của một độc giả. Lá thư ấy, tác phẩm ấy là duy
nhất, không có bản thứ hai.
Sớm Mai nửa đùa nửa thật:
- Ðúng vậy. Khi yêu người ta có thể trở thành nhà văn, nhà thơ, nhạc
sĩ, thậm chí có thể trở thành cả tu sĩ hay thượng đế của chỉ riêng
và duy nhất một người thôi!
Mai lắc đầu, lè lưỡi nói vui:
- Tình yêu khiếp thật!
Cô Hài đính chính:
- Không, phải nói là tình yêu rất diệu kỳ. Em hãy nhìn xem, tình yêu
đang đưa ta lên tới chín tần mây.
Sớm Mai ngó quanh, nửa sợ nửa thích thú khi bỗng nhận ra cánh đồng
hoa thơm cỏ lạ đã biến đâu mất. Hai người không bước trên lối mòn mà
đang thả bộ trên chiếc cầu vòng bảy sắc lơ lửng giữa thinh không.
Dòm xuống, một vùng sương khói mênh mang. Trông lên, bên phải là mặt
trời, bên trái là mặt trăng. Ðôi vầng nhật nguyệt tựa hai trái cây
tròn vành vạnh thi nhau tỏa sáng. Lạ quá, đẹp quá! Cô Hài nắm tay
Mai lắc khẽ:
- Nãy giờ vòng vo dài rồi, bây giờ cô yêu cầu em hãy hỏi kỹ lòng
mình, có thật em muốn đuổi tình yêu đi chỗ khác chơi không?
Sớm Mai gật đầu không quả quyết lắm:
- Dạ!
- Thật nhé?
- Dạ, thưa vâng.
- Em dạ yếu, hẳn còn lưỡng lự chăng?
- Dạ, dạ, dạ, dạ........
Nếu cô Hài không đưa bàn tay đẹp áp lên môi Mai hẳn Mai đã “dạ” đúng
một trăm tiếng cho cô tin. Cô cười buồn:
- Ôi, em ngoan cường biết bao? Cô luôn luôn thất bại. Mong em sẽ
thành công. Nếu muốn thế thì em hãy nhắm mắt lại.
Mai ngoan ngoãn nhắm mắt và, cô Hài nhẹ nhàng đưa tay xô kẻ muốn
khước từ tình yêu rớt khỏi cầu vồng.
Mai quay mòng trong cơn lốc, và bàng hoàng thức dậy.
Cô gái thức dậy, mừng muốn mếu máo, muốn bật khóc khi thấy mình vẫn
nguyên lành, chưa tan xương nát thịt. Ui, giấc mơ đẹp quá nhưng
khủng khiếp quá. Phải chi mơ dài hơn chút nữa, Mai đã có dịp phỏng
vấn ngược lại bao giờ cô Hài mới chịu lên xe hoa về nhà chồng? Rằng
hồi bằng tuổi Mai, cô có chào thua tình yêu rồi bị nó dẫn dắt đến
tận cõi nào, bị hành hạ ra sao? Nó đã biến cô thành kịch sĩ, ca sĩ
hay tu sĩ? Cô đã trao tay cho tình nắm thế nào? Ðã trao môi trao
trán cho tình cụng mấy lần? Ðã viết cho tình bao nhiêu lời nồng ý
thắm v.v... và v.v...?
Chiều sẫm màu. Cơn mưa không biết đến tự bao giờ đang nhẹ nhàng dệt
sợi đan mành ngoài cửa sổ. Căn nhà chìm trong yên lặng gợi nhớ không
khí chùa bà Ðanh.
Cuốn sách lúc ngủ quên vẫn còn úp trên ngực, Mai cầm nó lên tay với
lòng tin mới là, dù chỉ bị xô khỏi cầu vồng - Chiếc cầu tình quyến
rũ cũng đã bị đuổi đi chỗ khác chơi, lúc này mà học bài chắc mau
thuộc lắm! Và trời ạ, đúng thế thật, bài sử thế giới mới đọc lại vài
lần Mai đã thuộc ro ro, có thể đọc ngược đọc xuôi không hề vấp.
Sớm Mai hài lòng quá, suy nghĩ đến vưng váng cả óc chẳng biết nên tự
thưởng cho mình cái gì. Một tô cháo lòng hay ba dĩa bánh bèo chăng?
Ðội mưa ra quán lúc này chẳng khác nào tự hành mình chứ đâu phải
thưởng? Ngẩn người ba mươi giây, chớp mắt khoảng mười cái, sau cùng
Sớm Mai vui vẻ tốc mền bật dậy đến trước tấm gương lớn, áp môi hôn
lấy hôn để cặp môi giá lạnh trong gương. Mình hôn mình cứ ngỡ bị ai
hôn, mắt cở đến đỏ mặt và buồn cười hết biết! Có ai bất chợt dòm vão
sẽ tưởng mi sắp hóa dại. Mai bẽn lẽn cười nụ chữa thẹn, quơ vội cây
lược vừa chải gỡ đầu tóc rối vừa mắng thầm, ui con gái ngủ ngày là
con gái hư! Ngủ rồi còn bày trò mình tự hôn mình in mèo giỡn bóng là
con gái lãng mạn ba xu, thậm xưng mình là đào cải lương, đào hát
bội.
Chun mũi, lè lưỡi, chế giễu chiếc bóng trong gương. Mai lặng ngắm
chiếc áo veston rộng dài quá cỡ, thốt nhớ câu Hạo chọc quê hôm nào.
“Này, bộ sắp đi ăn cỗ cưới hay sao mà diện veston trông oách vậy”?
Ngắm đôi mắt dài có đuôi, đôi mắt từng phát hàng trăm cái nguýt và
lườm làm tội làm tình anh chàng Huy điềm đạm, Mai thốt nhớ cơn giận
còn nguyên, chưa sứt mẻ một ly ông cụ nào bởi anh chàng dám sợ mẹ
hơn sợ “bé của Huy”. Hai gương mặt vụt thoáng qua trí hệt tia chớp,
Mai nhún vai kênh kiệu phủi hình ảnh hai chàng khỏi trí như phủi hai
hạt bụi.
Lắng nghe âm thanh mưa rả rích không xua tan nổi khối câm lặng lớn
trong ngôi nhà đang ngậm kín, khi không Sớm Mai bỗng cảm tưởng có
đôi mắt nào đang trộm nhìn mình, cô quay ngoắt ra phía cánh cửa
phòng đóng chặt. Không, chẳng có ma nào cả. Nhưng rồi, Mai chợt “đắm
đuối” nhìn như thôi miên cái thư màu xanh da trời lặng lẽ nằm trên
sàn chẳng biết từ lúc nào. Nó - cái thư - đã đến trước hay trong cơn
mưa?
Hẳn nó đã được ông phát thư mang đến khi Mai còng yểu điệu cùng cô
Hài vừa đi vừa “nói chuyện tình” trong mơ. Anh Ðạt hay bé Châu đã
nhận giùm rồi “lịch sự” ném qua cửa sổ!
Ngạc nhiên pha bối rói, Mai cầm thư lên tay. Góc bên trái và cả mặt
sau bì thư không thấy đề tên người gởi. Góc bên phải, con tem nằm
chết dí dưới dấu nhật ấn còn tươi rói. Tên và địa chỉ Mai được viết
bởi lối chữ không đẹp không xấu, rõ nét và nom lạ hoắc lạ huơ.
Rón rén bước lùi, ngả người tựa vào chồng mền gối kê cao đầu giường,
nén hồi hộp đến tức thở. Mai run tay bóc thư và đọc:
Sớm Mai nửa quen nửa lạ!
Rất vui nhận được thư em. Những trang thư đã đến với tôi như thể tôi
chẳng mua vé số nhưng đã tình cờ lượm được vé của người khác và,
trúng lô an ủi.
Chắc ngỡ ngàng lắm phải không, thưa cô Sớm Mai - người dưng thương
mến?
Mấy trang thư rời chẳng biết cô định gởi ai. Từ đầu đến cuối em chỉ
gọi người ấy bằng tiếng “anh” chung chung. Tôi mạo muội nghĩ “anh”
rất có thể là tôi, bèn hồi âm, để lâu sợ nguội.
Tác giả bức thư thì đã rõ rồi. Trong thư lúc thì Mai, lúc thì Sớm
Mai, em xưng hô nghe ngọt ngào, bùi và dẻo quẹo còn hơn kẹo mè xửng.
Ở Vỹ Dạ theo tôi biết chỉ có một cô gái tên gọi Sớm Mai, nên thư này
đến địa chỉ em chẳng có gì là đường đột phải không?
Không dưng nhận được hồ âm có vẻ như đến từ hư không thế này em cảm
thấy thú vị chứ? Tôi chỉ ngại em mừng quá rồi đứng tim mất. Có mừng
cũng chỉ nên mừng vừa vừa thôi. Mai nhé, em nhé, người dưng nhé!
Chết rồi! Hóa ra cái thư mất tích đâu có tàng hình hay bốc hơi thành
mây bay đi. Nó đã được gửi chẳng biết theo đường ma lối quỷ nào, và
có người đã nhận được. Ai nhỉ? Tuồng chữ lạ quá, chưa từng thấy bao
giờ. Là ai đi nữa thì kẻ ấy cũng hiện ở trên mặt đất này, không phải
là người hành tinh khác. Dấu nhật ấn chỉ rõ anh ta ở Huế, chẳng đâu
xa. Tai hại thay cái tật lật đật ra khỏi nhà mà quên đóng cửa phòng
khuê lại.
Rất vui khi nhận được thư em! Anh ta ba hoa vậy nhưng có khi không
phải vậy. Ai gửi đâu mà nhận cơ chứ? Hay anh ta là kẻ trộm chăng?
Hôm ấy mãi theo mấy cái thuyền giấy phải gió ngoài mương vườn, nhóc
tì Châu cóc thèm ngó ngàng đến nhà cửa và, thế là anh ta đã lẻn vào
định trộm gà, dòm qua cửa sổ thấy mấy trang thư hay ho quá nên quơ
đại về làm kỷ niệm chơi? Sớm Mai ngẩn người suy nghĩ nửa phút, định
vò nát cái gọi là “hồi âm, để lâu sợ nguội” ném vàp sọt rát, nhưng
rồi con ma tò mò trong cô bao giờ cũng thức dậy khá đúng lúc, bắt
Mai đọc tiếp:
Cô bảo cô không còn bé nữa. Tôi gọi cô là em cho ra vẻ người lớn.
Ðồng ý chứ? Không đồng ý cũng ráng chịu, bởi tôi lỡ gọi ngay từ đầu,
và không chừng tôi đã gọi ròng rã suốt bao xuân hạ thu đông, mùa
tiếp mùa rồi, nhưng em đâu có hay!
Em thắc mắc lúc viết thư không biết nên quay về hướng nào. Từ nay em
cứ quay mặt về hướng tôi cho chắc ăn. Tôi ở khắp bốn phương tám
hướng. Buổi sáng tôi ở hướng Ðông, chiều ở hướng Tây, đêm không
trăng tôi ở hướng Nam, đêm có trăng tôi ở hướng Bắc, vân vân. Tôi
lang thang khắp chốn như là gió ấy.
Tôi hoàn toàn đồng ý với em, trong mỗi người chúng ta đều có lắm con
ma nhỏ. Con ma nhớ trong em chắc chắn có họ hàng, thậm chí là anh em
sinh đôi của con ma nhớ hiện cư ngụ trong tôi. Từ lúc nhận thư em,
tôi đâm ra nhớ em da diết, dù suốt bao mùa rồi tôi đã nhớ em da diết
mà em không thèm hay.
Em lo sợ anh ấy hút thuốc nhiều có ngày trùng ung thư đục thủng tim
không còn chỗ để đựng hình ảnh em nữa. Tôi long trọng tuyên bố, sẵn
sàng dành trái tim rất mực phiêu bồng của tôi để lộng hình ảnh em vô
điều kiện.
Em ghét và ghen với họ hàng, bè lũ, bộ tộc thuốc lá vì thuốc lá hình
như đã “gọt” anh ấy thành một người ốm yếu ho hen. Tôi âu sầu khẳng
quyết, em ghen với thuốc lá bao nhiêu, tôi ghen với anh ấy bấy
nhiêu. Em sợ một ngày đẹp trời nào đó sẽ biến thành cái trái cây
chín háp mất bởi hết lo gần rồi lại lo xa cho người ấy. Cách duy
nhất để hết lo là em quên phứt người ấy đi. Ðuổi hắn ra khỏi đền
thiêng trong trái tim khờ khạo của em. Tôi sẵn sàng làm ông từ giữ
đền cho em đế chín kiếp. Và mãi mãi em vẫn là trái cây xanh tươi
trong ngôi vườn cô độc của tôi.
Em ao ước được đi rong trong thành nội vừa ngửa tay ngửa lòng hứng
mưa vừa nhai đậu phọng rang cùng người ấy. Sao lại cùng người ấy mà
không phải là tôi? Nếu cần, tôi sẵn sàng đến vào một chiều mưa, vác
theo cả tạ đậu phọng rang để đôi ta cùng đi rong và ăn đến lúc...
mệt xỉu!
Ui, trơ trẽn đến thế là cùng. Hàm hồ hàm chứa đến vậy là hết ý! Ðọc
thư không phải người ta gửi mình dã là quá ư tồi tệ, còn dám muối
mặt cao giọng đòi “rẽ thúy chia uyên” để mình chen vào. Trong số
đông người thích trò mua gian bán lận tình cảm trên thế gian này
chắc chắn có anh chàng này. Trong số ít người không tin kiếp sau
phải đền tội ăn lơ nói láo ở kiếp này, chắc hẳn cũng có anh chàng
mất! Sớm Mai kêu thầm, cố mường tượng ra một gương mặt vô cùng xấu
xí, đoạn bực bội đọc tiếp:
Sớm Mai - người dưng thương mến!
Ðầu thư tôi đã bảo rất vui nhận được thư em. Bây giờ lại cảm thấy
vui hết nổi.
Sau đây là những cảm tưởng thật thà khi tôi đọc xong cái thư đi lạc
của em mà số mệnh không oái oăm chút nào đã đưa đến tận tay tôi:
Cảm tưởng một: cái thư, có vẻ dở dang - Trang thứ ba còn trống một
khoảng dài. Hẳn lúc đang viết em ngủ gục? Hay đang viết thấy mẹ đi
chợ về bèn quẳn bút, ra giành giựt quà bánh với cậu em trai? Ôi, có
cả một nghìn lẻ hai lý do vớ vẩn nhẹ hoặc vớ vẩn nặng để các cô bỏ
dở những cái thư đang viết, bỏ dở những cuộc chơi trốn tìm tình yêu
và các thứ vân vân.
Ngủ gục, giành giựt quà bánh? Tay này quả có óc siêu tưởng tượng!
Thế có lần nào mi giành quà với nhóc Châu không? Có, vài chục lần,
hồi còn nhỏ! Mai mỉm cười suýt đỏ mặt ngượng. Nhìn lui tới chỉ có
một mình trong phòng bèn không thèm ngượng nữa. Nào, để xem anh ta
còn vẽ rồng họa rắn thêm gì nữa?
Cảm tưởng hai: Tôi khá buồn lòng thấy em rời bỏ hàng ngũ “nữ thực
như miêu” và có vẻ sẵn sàng nhập phe “nữ thực như hổ” - Các món ăn
luôn được em nhắc tới rất thiết tha. Chưa đầy ba trang thư em đã
nhắc đến ba món. Này nhé, em viết: Hai mùa thu đông trộn lại như cơm
chiên trộn với hột gà vừa ngon, vừa bùi, vừa thơm thơm, vừa... Con
Cẩm Hương hứa cho em mượn cuốn “Những Bức Thư Tình Hay Nhất Thế
Giới” rồi hắn nuốt lời hứa ngon ơ như nuốt kem ba màu. Ðậu phọng
rang béo ngậy thơm tho, kỷ niệm mang về giấu kỹ trong ký ức hai đứa
cũng sẽ thơm tho béo ngậy.
Thực phẩm là những dưỡng chất của trần gian. Nó đến với ta dưới trăm
hình nghìn vẻ. Rất phong phú và rất quý. Nhưng than ôi, không nên
bao giờ cũng nhắc đến chúng. Viết thư cho anh ấy, Mai cứ gọi tên
thực phẩm bốn mùa như vậy, chàng dễ nghĩ em là người ham ăn ham
uống. Không nên, rất chi không nên. Xin can em nhé!
Cảm tưởng thứ ba: Em nói trạng một cây xanh rờn. Nếu có cuộc thi nói
trạng chắc em sẽ đoạt giải xuất sắc đấy - Rằng, mỗi lần lòng anh đổi
màu Sớm Mai đều thấy cả. Nếu có quyền hành em sẽ ra lệnh cho thế
gian diệt trừ thuốc lá. Hốt thuốc lá đổ xuống biển hết, hoặc tập
trung tất thảy mọi kẻ ghiền khói lại, bắt mỗi người hút một điếu
thuốc dài cả ngàn cây số...
Nói trạng là biểu hiện cao nhất của những tâm trạng thích cường
điệu. Tật này các ngài trạng sư ưa dùng khi ra trước tòa binh vực,
cởi trói cho thân chủ của mình ra khỏi những lời cáo buộc. Viết thư
tình mà nói trạng, người nhận sẽ nghi ngờ em muốn chạy tội gì chăng?
Không nên. Xin can nhé Mai!
Cảm tưởng thứ bốn: ở đoạn trên suy nghĩ chưa thật chín chắn tôi đã
vội vã đồng ý với em là trong mỗi chúng ta đều có lắm con ma nhỏ.
Giờ nghĩ kỷ lại tôi không thèm đồng ý với em nữa rằng thì là, em quả
có óc tưởng tượng mê tín khi viết: lúc đói bụng là bị con ma đói nó
hành, khi khát nước bị con ma khát hành... Bây giờ em mới biết ngoài
những con ma kia còn có con ma nhớ nữa!
Tưởng tượng dễ đi đôi với mê tín lắm. Nếu cứ tưởng tượng riết sẽ
thấy chẳng có gì thực nữa hết. Tất thảy đều là ma quỷ cả. Thư cho
chàng, em tưởng tượng kiểu đó có khi chàng sẽ nghĩ mình cũng là một
con ma. Ma cà bông chẳng hạn. Thôi chớ nên. Xin can em nhé!
Sớm Mai nắm bàn tay nhỏ nhắn thành quả đấm nhỏ nhắn đập xuống chiếu
khe khẽ. Hết ham ăn đến nói trạng rồi thì mê tín. Lếu láo thật. Anh
ta chắc thuộc loại hẹp bụng, bụng lép in con tép, suốt đời không
thèm khen ai lấy một tiếng? Ai mượn đọc thư của người ta cơ chứ! Ðọc
rồi phân tích, bình luận quàng xiên, méo mó quá thể. Ui, ước chi nhà
ngươi hiện ra cho ta bợp tai vài cái cho đỡ ức! Ám ức là vậy, nhưng
Mai không thể không tiếp tục cúi xuống trang thư với nỗi tò mò còn
rất đầy đặn:
Với bốn cảm tưởng trên, tôi có thể tạm kết luận rằng, Sớm Mai rất
đáng yêu nếu bớt ham ăn một chút, bớt nói trạng một chút, và bớt mê
tín một chút.
Chúc vui. Chào tạm biệt!
Trời đất! Không vĩnh biệt luôn cho rồi còn tạm! Cả nhập đề, thân
bài, kết luận đều ba trợn. Lá thư là sự tổng hợp ồn ào của giọng
điệu vu khống, sự phóng đại tô màu, bóp méo sự thật, cố tình châm
chọc trắng trợn. Anh ta có mối thù gì với mình chăng?
Không cần soi gương Sớm Mai cũng thừa thấy dung nhan mình đang rầu
héo pha phẫn nộ ra sao. Chưa biết nên thở dài hay thở ngắn, bất giác
Mai bỗng nhoẻn miệng cười một nụ cười tươi hết cỡ khi đọc thấy chũ
ký ngoằn ngoèo - Chữ ký thôi, chẳng thấy tên - thêm dòng tái bút:
Ðừng tin những gì đã đọc ở trên. Thỉnh thoảng tôi thích nói ngược
lại những gì mình nghĩ cho... đỡ buồn. Tôi đang buồn. Buồn rất thật
tình và rất hết mình. Vì, nhân vật mà em âu yếm gọi là anh trong thư
không phải tôi! Bức thư dù hãy còn dang dở của em thuộc loại dễ
thương nhất thế giới! Sao, phổng mũi chứ?
Phổng mũi? Không, chưa đến nỗi phổng mũi lắm. Nhưng Sớm Mai cảm
tưởng đang khát cháy cổ bỗng được uống ly nướt mát rượi. Ỡm ờ thật.
Nói xấu, chê ỏng ẹo người ta, lên mặt thầy đời dạy dỗ, can ngăn
người ta đủ điều rồi đính chính tỉnh queo! Hóa ra anh ta cũng không
đến nỗi hồ đồ, bất lịch sự lắm.
Có thật anh ta đang buồn? Có trời hoặc đất họa may biết anh ta buồn
thật hay buồn giả. Nhưng anh ta là ai? Quen hay lạ nhỉ. Có khi nào
anh Ðạt bày ra cái trò hồi âm quỷ quái này để trêu mi không?
Ví dụ, hôm ấy tình cờ thấy cửa phòng mi bỏ ngõ, anh ấy bước vào,
thấy mi viết thư cho bồ, anh ấy bèn tịch thu, đọc rồi phịa ra một
“bài” trả lời viết bằng tay trái để mi không nhận ra tuồng chữ?
Không, có lẽ không phải. Bởi vì, chẳng hiểu sao dạo này nom anh Ðạt
lạ lạ, kỳ kỳ sao ấy. Suốt ngày không tìm thấy một nụ cười trên vẻ
mặt trầm tư, làm sao anh ấy còn hứng để đùa!
Hễ đi thì thôi, về đến nhà là Ðạt rút vào phòng im lìm hệt một nhà
tu kín. Bé Châu hoặc Sớm Mai lỡ làm ồn chút xíu, Ðạt lại gắt ôm lên.
Có hôm Mai ái ngại bảo mẹ:
- Mẹ thấy anh Ðạt dạo này có cái gì khác thường không? Con thấy anh
buồn buồn sao ấy!
Mẹ cười:
- Hắn buồn à, đâm ra ít nót à? Thì nhà đỡ ồn chứ sao! Nội mi và
thằng Châu họp lại đã thành cái chợ nhỏ.
- Hơn nữa kia. Có hôm con thấy anh ấy ra bến ngồi chóc ngóc, cú rũ,
bất động in pho tượng. Ngồi và cứ đăm đăm nhìn xuống mặt sông như
chờ con rồng hay con thuồng luồng gì nổi lên để rước anh đi du lịch
ấy.
Mẹ dí ngón tay trỏ vào trán Mai nạt khẽ:
- Mi ăn nói chi giống ma nhập thế?
- Chưa hết. Ai đời anh mang võng ra mắc giữa hai cây cau, không phải
ngủ mà nằm lẩm bẩm nói huyên thuyên như đang trò chuyện với ai. Mùa
đông ai lại ra nằm ngoài vườn, có họa là điên! Nhóc Châu còn mét với
con có đêm hắn thức dậy đi tiểu...
Mẹ đổ quạu, ngắt lời:
- Lại nói bậy nói bạ, tao hớt cái mỏ mi bây giờ.
Mai cười, không buồn câu đe của mẹ bằng ngán vẻ lầm lì của anh Ðạt.
Hết chín mươi chín phần trăm cái gọi là “hồi âm, để lâu sợ nguội”
không phải trò đùa của anh Ðạt. Vậy của ai? Sớm Mai suýt đưa tay bóp
trán, nắn cằm, vuốt chót mũi tiếp tục suy nghĩ, thốt nhớ mẹ sắp về,
cơm chưa nấu, đành vui vẻ buông tiếng thở ngắn, giấu kỹ cái thư dưới
gối, mở cửa, tất bật đi như chạy ra nhà sau.
Bảo là lần thứ một trăm thì hơi quá. Chừng chín chục lần Huy toan đi
vào nhà Sớm Mai rồi cứ ngập ngừng dừng lại, cứ nghe tim đập dồn,
chân nặng nề không cất bước nổi.
Dưới tán dừa lả ngọn sát hàng rào khu vườn bên kia đường xéo cổng
nhà nàng, chàng đứng chôn chân bên chiếc xe đạp lòng dạ bồn chồn như
thể có bàn tay phải gió nào chốc túm lấy ruột vò từng khúc.
Mưa tha hồ lất phất bay xiên bay xéo. Lá tha hồ rụng ngả nghiêng.
Cổng nhà nàng cứ đóng im ru bà rù. Chàng hết hy vọng nàng sẽ từ ngõ
bước ra, đến ngong ngóng ngó xuôi trông ngược thắc thỏm mong nàng đi
đâu đó về bất thần xuất hiện.
Cái lạnh ngoàin trời chẳng thấm tháp gì với cái lạnh trong tưởng
tượng. Nếu bây giờ vào nhà, nàng ngoảnh mặt làm ngơ hoặc không gặp
được nàng mà đụng phải một ai đó trong nhà hẳn chàng sẽ lạnh đến ná
thở mất!
Những mẫu thuốc tàn ném dưới chân rã dần theo nước mưa, trên môi lại
nối tiếp những điếu khác đốt liên tục. Hút một chặp, Huy cảm tưởng
mình là ống khói của con tàu đang mắc kẹt ở sân ga, chờ giờ khởi
hành chưa biết bao giờ mới tới. Con tàu với mỗi cái toa duy nhất chở
nỗi bâng khuâng chẳng rõ màu xanh lơ hay ngã xám. Toa tàu chính là
tâm hồn Huy đang để ngỏ cho thênh thang gió lùa.
Thỉnh thoảng vài người bộ hành ngang qua. Người mà Huy cho có duyên
là nghững người nhìn thẳng bước đều. Kể vô duyên cứ soi mói nhìn
chàng làm Huy bối rối, cúi xuống vờ săm soi chiếc xe đạp như thể nó
bị tuột sên hay xẹp lốp gì ấy.
Nhớ gần rồi hóa nhớ xa. Một lúc nào đó Huy thốt nhớ câu ca dao:
Thương em chẳng dám vô nhà. Ði ngang trước ngõ hỏi gà bán không! Huy
phân vân tự hỏi cónên làm theo câu ca dao nghịch ngợm này không nhỉ?
Ngập ngừng nửa muốn bước, nửa chôn chân. Phân vân cới câu ca hỏi gà
hỏi vịt. Cứ thế, có lẽ anh chàng âm thầm “mọc” bên đường cho đến tận
sáng đêm nếu không tình cờ gặp nhóc tì Châu.
Khúc đường đang yên ả bỗng náo động cả lên. Từ hướng chợ, bầy trẻ
tan học về tung tăng đứa chạy đi men theo vệ cỏ, cười nói, chòng
ghẹo nhau ỏm tỏi. Ðang héo rũ tựa cái cây khô nước, Huy chợt sáng
mắt sáng lòng ngay khi thấy một bé trai rẽ bầy xăm xăm bước vào nhà
Sớm Mai. Huy cười xởi lởi:
- Em là em của chị Sớm Mai hở?
Châu nghiêng đầu vuốt cái nhìn chầm chậm từ đầu đến chân Huy, nhã
nhặn:
- Ðúng rồi. Là em, chứ sức mấy là anh của chị ấy.
Giọng nói không giốnglắm, còn đôi mắt - Trời ạ, đất ơi! - Giống mắt
nàng đến nỗi chạm phải cái nhìn đầu tiên của thằng nhóc, Huy lập tức
nghe lòng mất thăng bằng.
- Sớm Mai có nhà không em?
Buột miệng rồi thấy mình ngốc quá. Thằng nhỏ đi học làm sao biết
được chị nó còn ở hành tinh này hay có khi đã dời sang hành tinh
khác? Châu lắc đầu:
- Không biết. Trước lúc em đi học chị ấy còn ngủ.
Lạy Phật, thế thì nàng chưa đến nỗi mất tăm tích. Huy run giọng:
- Chắc chứ?
Châu nheo mắt dí dỏm:
- Chắc mà. Lúc ông phát thư đến đưa cái thư em ném thư vào cửa sổ
cho chị ấy, chị vẫn còn ngáy o, o, ò mờ!
Huy bật cười thành tiếng rồi bất giác ngậm miệng mím môi, bất giác
ngây người tựa vừa nuốt phải cái đòn gánh. Cái thư! Huy chợt nghe có
nỗi gì thuốn dọc sống lưng, nghe khí hậu trong người không dưng đổi
khác, oi không oi, nồng chẳng ra nồng, lạnh cũng cóc phải lạnh. Ai
gửi thư cho Mai nhỉ? Huy thầm mong mình vừa nghe lầm:
- Có đúng là thư của Mai không em?
Bé Châu lạ lùng nhìn gã trai cao lênh khênh, gầy guộc như cây sậy,
xa lạ vì mới gặp lần đầu, thầm hỏi anh ta là ai mà thích gạn hỏi kỹ
thế. Cậu bé cười mĩm:
- Tên chị ấy viết rõ ràng trên bì thư.
Huy cố nén hồi hộp:
- Và tên người gửi?
- Không thấy ghi.
Thôi đủ rồi! Thết là rõ rồi. Huy thở liền một lúc hai cái thở dài
kèm ba cái thở ngắn. Chắc cả tuần nay mãi chơi trò thư đi tin lại,
tìm bạn bốn phường, tham gia câu lạc bộ làm quen khỉ gió gì đấy với
ai, nên đi học Sớm Mai cứ căng một đường ngắm thẳng băng từ nhà đến
trường, từ trường về nhà, mình có kêu đến khản cổ cô nàng cũng cóc
thèm liếc mắt hay quay đầu ngó lại. Mùa đông lạnh một, “bé của Huy”
lạnh mười.
Thấy mặt chàng trai lúc đỏ lúc trắng bệch nom kỳ quá, Châu e dè hỏi:
- Thế còn anh, anh...
- À, anh là bạn của chị Sớm Mai!
Cậu bé nghinh mặt ra vẻ sành sỏi:
- Bạn sao anh không vào nhà chơi lại đứng đây?
Huy lúng túng đáp lại:
- Anh sợ bị chó cắn.
- Con chó nhà em hiền lắm. Con mèo Tam thể cưng của chị Mai mới dữ
nhưng hắn bị xe cán chết rồi, chị khóc sưng cả mắt. Anh vào nhà nhé?
Huy xoắn mười ngón tay vào nhau như muốn bóp nát sự e dè chết tiệt
lúc nào cũng đeo bám lấy mình in chiếc bóng.
- Phiền em vào nhắn Sớm Mai ra cho anh gặp một chút, có chuyện gấp
lắm.
Châu tròn xoe mắt tò mò:
- Gấp à?
Huy sốt ruột:
- Ờ thì... cũng không gấp lắm đâu. Bảo Mai ra liền nhé.
Cậu bé khẽ tung tẩy chiếc cặp sách trên tay như muốn bảo chẳng có gì
phải gấp vội cả.
- Anh tên là gì nhỉ?
- Huy!
- Anh ở đâu?
- Qua khỏi Ðập Ðá một đoạn.
Châu quay nhìn chiếc xe đạp Peugeot mới cáu cạnh:
- Chà, anh có cái xe đạp hết sẩy.
- Ờ, ờ...
- Anh đến đây lâu chưa?
- Hơi lâu rồi!
Châu ngước nhìn cái mũ bêrê:
- Mũ anh ướt rồi kia, lấy xuống vắt bớt nước đi cho đỡ lạnh.
Huy kiên nhẫn lấy cái mũ xuống vặn xoắn rồi giũ giũ đội lên đầu.
Nóng lòng muốn chết, nhưng tính vốn điềm đạm, Huy không dám thúc
giục thằng nhỏ, Châu tiếp tục nhởn nha:
- Anh học trường nào?
- Anh học mỹ thuật, học vẽ ấy!
- Mai mốt anh vẽ cho em một tấm tranh để treo trên bàn học được
không?
- Ðược, dư sức, nhưng bây giờ em vào nhắn giùm Sớm Mai cái đã, anh
hứa, một chục bức anh cũng vẽ.
Ðủng đỉnh mở chốt gài cổng. Châu vào khuất sau bức bình phong đắp
nổi hình con hổ xanh xỉn màu rêu phong cổ kính, dưới chân bình phong
hàng chuối tây trổ hoa đỏ chói. Huy kêu thầm, đúng là chị nào em
nấy! Thằng nhóc cũng lắm chuyện y như Sớm Mai. Cà rà chút xíu nữa
hắn dám hỏi tới mình bao nhiêu tuổi, nặng mấy ký, con ai, mỗi bữa ăn
mấy chén cơm lắm!
Năm phút rồi mười phút dài đăng đẳng trôi qua mới thấy Châu quay ra
thủng thẳng bảo:
- Chị Mai bảo anh nói xạo. Chị không có bạn nào tên là Huy cả. Chị
mắc bận nấu cơm không ra được.
Ðất dưới chân cơ hồ sụt lở. Trái tim trong ngực chàng trai cơ hồ là
cái trái chín cây chỉ dính với cành có mỗi chiếc cuống nhỏ xíu. Trái
tim đong đưa tưởng chừng sắp rụng, sắp chui tọt qua hoành cách mô
xuống ở chung với bộ tiêu hoá! Tráo trở đến vậy là cùng, bạn thân
bạn thương không biết để đâu cho hết giờ bảo là người dưng. Quá quắt
đến thế là hết ý. Người ta đã cất công đến tận cổng nhà như Lưu Bị
đến xin bái kiến Khổng Minh thế này cũng chẳng thèm ra. Chuyến này
nên giận đúng ba tháng cho bõ ghét chẳng? Ui, cái món võ giận võ lẫy
thi triển hoài có lẽ đã đến lúc nhàm rồi. Dạo này không biết cô bé
uống phải thuốc Mường thuốc Mán gì mà gồng mình quá! Lỳ quá! Huy
nhăn mặt:
- Mai đùa đó, đừng tin, đúng anh là bạn của chị em mà.
Nhìn vẻ buồn rất tàn thu của chàng trai, Châu áy náy gắt khẽ:
- Anh kỳ ghê, đã là bạn thì cứ vào nhà gặp chị ấy đi. Em ấy à, đến
nhà bạn là chạy ào vào, khỏi cần nhắn gửi ai hết. Không vào hả? Thì
anh cứ đứng cho tới tối, em phải vào kiếm cái gì bỏ bụng mới được,
giờ này mà cơm chưa chín, rõ chán!
Thấy cậu bé dợm quay lưng bước đi, tựa người sắp chết đuối trên cạn.
Huy chụp vội tay Châu níu lại, thoáng ngẫm nghĩ, đoạn nói giọng dụ
khi:
- Anh tính rủ Mai đi ăn bánh bèo bánh nậm. Cô ấy làm phách không đi,
thôi bây giờ mời em nhé. Em tên gì nhi?
- Châu! “Bà” Mai chuyên môn gọi em là nhóc tì Châu, thấy ghét!
Hình ảnh những chiếc bánh nậm nóng hổi vừa thổi vừa ăn bật sáng
trong trí. Châu thèm muống chết còn làm bộ từ chối:
- Thôi, ăn bánh rồi bỏ cơm chị Mai la chết!
- Thì ăn in ít thôi. Ăn nửa bụng thôi. Ði nhé!
Chẳng xa xôi gì. Huy đèo Châu đi một quãng ngắn bằng khoảng cách từ
cùi chỏ tới bàn tay là tới cái quán ẩn mình sau tàn trứng cá sum
suê.
Quán đông khách. Nhìn những đôi cặp âu yếm bóc lá, chia bánh mời
nhau ăn, Huy nghe tủi thân như vừa bị tước quyền được bóc lá mời
bánh. Không Sớm Mai, Huy đành âu sầu thực thi cái quyền ấy với nhóc
Châu vậy.
Bánh nậm, trước hết phải ăn bằng mắt. Lớp lá nóng hổi vừa bóc ra lồ
lộ miếng bột trắng nõn mỏng dính quyện lấy giải tôm chấy lấm tấm màu
hồng điểm lơ thơ vài miếng hành lá tươm mỡ béo ngậy. Chén nước mắm
chanh tỏi cồm cộm những miếng ớt xanh xé nhỏ ngửi thấy tức khắc nghe
nước bọt tươm ứa ra chân răng.
Trong khi Huy bận thưởng thức bánh bằng mắt trước khi ăn bằng miệng
thì Châu chẳng thèm khách khí đã “hóa kiếp” gần sạch nữa dĩa bánh.
Nhìn Châu ăn ngon lành Huy phát thèm. Huy nhỏ nhẽ nhai nuốt bởi cảm
thấy có cái gì cứ nghèn nghẹn trong cổ.
Sau một tá bánh nậm, hai dĩa bánh bèo. Châu vừa hít hà vì ớt cay vừa
nói vui:
- Ý chết! Bánh ngon quá em quên chừa bụng để ăn cơm. Còn anh sao ăn
nhin nhín như con gái thế?
Huy nói mà như đùa:
- Không có Sớm Mai anh ăn không ngon.
- Thật à? Còn em, có chị ấy em ăn càng lẹ, vì chậm là thua chị mất.
Cả hai cùng cười. Giọng cười Châu trong veo. Giọng cười Huy đùng
đục. Ngập ngừng chút đỉnh, đoạn Huy “móc” lá thư nãy giờ cứ trôi lui
tới, làng đãng hoài trong trí ra:
- Này, chiều nay Mai mới nhận được thư à?
Lại thư! Quanh đi quẩn lại cũng chỉ mỗi chuyện cái thư. Mình quên
mất tiêu rồi, sao anh Huy nhớ dai quá nhỉ? Thư với từ đâu có ngon
như bánh nậm bánh bèo mà hỏi hoài hỏi hủy thế? Anh Huy bị ma nhập
rồi chăng? Châu khẽ chun mũi:
- Thật chứ! Bộ cái thư ấy do anh gửi à?
Huy định lắc đầu rồi bỗng gật đại:
- Ờ, thế Châu thấy Mai có hay nhận thư không?
Cảm thấy không còn hứng thú lắm để tiếp tục trò chuyện với nhóc tì
Châu, nhưng Huy cũng chưa muốn chia tay vội. Không gặp được nàng,
nhìn cặp mắt sóng mũi, cái miệng chum chúm của cậu em hao hao giống,
từa tựa in nàng, chàng cũng thấy đỡ nhớ phần nào. Châu không hiểu ẩn
ý ấy, mỗi lần thấy Huy đau đáu nhìn mình, thằng nhóc cứ lảng mắt ra
chổ khác.
Bụng gần căng cứng, cậu bé còn thòm thèm, bèn gắp cái bánh bèo mem
múp chấm nước mắm cho vào miệng nhai từ tốn. Thấy anh Huy chợt buồn
thiu buồn chảy, Châu muốn buồn theo, nhưng không quen buồn nên không
buồn nổi. Châu nghĩ nên nói chuyện cho anh Huy... đỡ buồn.
- Nói chuyện thư em bỗng sực nhớ. Một hôm không biết chị Mai viết
thư cho ai rồi để lạc đâu mất, cứ khư khư bảo em “thộp cổ” chúng xếp
làm thuyền giấy.
Giọng cậu bé thỏ thẻ nghe khá êm tai, êm tim, Huy lại nghe có cây
kim nào vụt châm chích trên da mặt. Hôm nay xuất hành không coi giờ,
bị sao quả tạ chiếu ngay cung “thê thiếp” hay sao ấy! Vừa được tin
cô bé nhận thư của tay cha căng chú kiết nào đó nửa hồn Huy đã hóa
dại hóa khờ, giờ thêm tin cô bé viết thư cho tay chú kiết cha căng
nào nữa, phần hồn còn lại của Huy e xiêu vẹo hay đổ sụp!
Mai viết thư cho ai nhỉ! Trong khi mình mong dài cổ không có lấy nửa
chữ. Xấp giấy, xấp bì thư, xấp tem đưa cho cô bé thế là tiêu diêu
sang hướng khác, lạc sang địa chỉ khác mất rồi! Thèm hút thuốc nhưng
Huy không dám hút, ngại bật quẹt châm thuốc mình sẽ bắt lửa và nổ
tung mất. Cả người Huy giờ nén chặt nỗi ghen tương giống chất nổ dồn
nén trong quả mìn vậy. Vờ tỉnh như không, Huy hờ hững góp chuyện:
- Sớm Mai lẩm cẩm quá nhỉ? Thư để lạc mất lại đổ thừa cho người ta.
Châu thấp giọng:
- Em nói nhưng anh để bụng đừng kể cho chị Mai nghe nhé. Hôm ấy thấy
mấy tờ giấy rơi giữa sàn, em tưởng giấy bỏ bèn lấy xếp thuyền chơi.
Lúc chị ấy hỏi, sợ quá em chối biến. Nào, ngoéo tay đi, anh hứa đừng
kể lại nhé!
Huy uể oải đưa ngón trỏ ngoéo lấy ngón tay nhóc tì Châu vừa đưa ra:
- Bộ Châu sợ Mai lắm hả?
- Không sợ bằng sợ anh Ðạt.
- Anh Ðạt thì sao?
- Anh Ðạt là ông tướng trong nhà. Nghiêm lắm. Cả chị Mai và em đều
ngán. Có chuyện bực mình hả, anh Ðạt không chỉ bợp tai mà còn tặng
thêm cái đá đít nữa cho đủ cặp.
Huy thở phào nhẹ nhõm. Mình thật có lý. Lúc nãy nếu đường đột vào
nhà cô nàng, xớ rớ gặp phải tay Ðạt không chừng đã nhận đủ một
“cặp”. Bữa nay ngỡ xui hóa ra cũng còn hên! Thấy Huy không dưng mỉm
cười, vẻ mặt bỗng tươi tỉnh, nhóc Châu thấy hơi mên mến anh chàng
chị mình không muốn nhận là bạn. Nhìn mông lên tàng cây trứng cá lại
ngắm dĩa bánh bèo còn vài va cái thưa thới. Châu kể tiếp:
- Anh Ðạt thường ngày đã nghiêm, lúc này càng nghiêm hơn. Tối ngày
em chẳng nghe anh ấy nói tiếng nào. Có đêm nửa khuya thức dậy ra
vườn đi tiểu, tình cờ ngang qua phòng anh ấy còng sáng đèn, em tò mò
nhìn qua khe cửa và, sợ muốn chết luôn...
Cậu bé bỏ lửng câu nói, thích thú nhìn vẻ chăm chú bất chợt của Huy,
Huy bỏ nhỏ:
- Bộ em thấy cái gì ghê lắm sao?
Châu gần như thì thầm:
- Em thấy anh ấy ngồi trước một bát hương cắm cây hương tỏa khói và
hai ngọn nến, sau hai ngọn nến là tấm ảnh của ai đó lồng trong khung
kính em không nhìn rõ. Anh Ðạt lầm thầm nói như là đang đọc kinh
hoặc trò chuyện với ai. Em định vào kêu chị Mai dậy cùng xem nhưhng
vì hồi hộp và sợ quá, lật đật vấp nhằm cục gạch ngã dúi. Nghe tiếng
động, đèn trong phòng tăt phụt và anh Ðạt đóng chặt hai cánh cửa sổ
lại.
Huy nghe ơn ớn dọc sống lưng:
- Thật chứ? Không lẽ anh ấy luyện bùa ngải. À, à, phải rồi, chắc là
luyện võ thần quyền.
- Có bao giờ em thấy ánh ấy múa võ hay đi quyền gì đâu?
- Thôi, bỏ chuyện anh Ðạt đi, nói chuyện Mai hay hơn. Thế dạo này em
thấy Sớm Mai thế nào? Vui hay buồn?
Châu trả lời thật thà quá làm Huy thất vọng:
- Vui! Chị ấy hát tối ngày. Bài nọ xọ bài kia, có khi làm anh Ðạt
gắt om lên.
Con gái là vậy đấy! Chẳng thèm buồn một chút cho người ta yên lòng,
mát dạ. Nhận thư. Viết thư. Hát tối ngày. Thế mà suốt tuần nay mi cứ
ngỡ cô nàng âu sầu đến tàn tạ nhan sắc, khô héo dung nhan, sụt ít
nhất vài ba ký.
Suốt tuần, mi - cái thằng khờ khạo khù khờ khật khùng khốn khổ - cứ
loay hoay tưởng tượng rồi soạn ra giấy, học thuộc lòng cơ man nào
lời hay ý đẹp để hễ gặp là điềm đạm “mở máy” vuốt giận làm lành.
Rằng từ nay nếu có đang đi với bất cứ ai, kể cả ông nội lẫn bà ngoại
chết rồi thình lình sống dậy, thấy bé đi ngang qua anh sẽ ba chân
bốn cẳng chạy ra níu xe lại, gọi tên Mai đến lúc Mai can mới hết
gọi.
Rằng mỗi tuần hẹn gặp mặt một lần anh thấy lâu lắc quá. Từ nay gặp
nhau hàng ngày đi. Anh thề sẽ thôi mắc cở, tự thắng e dè, siêng năng
in con ong đưa đón bé hàng ngày, để bé không còn lẻ loi giữa bao đôi
cặp dập dìu đi đi về về nhởn nhơ dòng áo trôi theo nắng, lướt theo
mưa.
Rằng bé biết không? Mấy hôm nay anh ít ăn ít uống làm mẹ ít ăn theo.
Anh buồn làm mẹ buồn lây. Mẹ buồn anh chừng nào anh nhớ Sớm Mai
chừng nấy. Anh phác thảo nỗi nhớ ra giấy và, bé hiện ra trong cả
chục bức chân dung. Cái nào mẹ cũng khen con bé trong tranh đẹp hơn
mẹ thời con con gái. Mẹ luôn cưng chiều, nâng anh như nâng trứng,
hứng anh như hứng hoa. Mẹ luông coi anh là kim cương, bảo ngọc, là
“thiên tài” của bà. Còn em, em thấy anh ra sao?
Rằng vân vân và vân vân. Huy buồn bã cắt ngang dòng hồi tưởng:
- Vậy mà anh cứ ngỡ Mai buồn lắm chứ!
Cứ thế, câu chuyện lan man nối dài từ giờ hợi sang giờ tý, nhóc tì
Châu uống hết nửa bình chè xanh vì ăn bánh lỡ húp nhiều nước mắm
quá. Lúc chia tay Châu không quên nhắc anh Huy về vẽ cho hắn ta một
bức tranh tuyệt đẹp để treo trên bàn học, Huy điềm đạm hỏi:
- Em muốn anh vẽ tranh gì nào? Cảnh, người, hay chim hoa bướm chuột?
Thằng nhóc ngớ ra đúng một phút rưỡi rồi chật lưỡi:
- Chậc! Tranh gì cũng được, miễn đẹp thôi anh Huy!
- Chân dung chị Mai của Châu nhé?
Chấu rối rít xua hai tay:
- Thôi, thôi, treo “bà” Mai trước mặt em học bài lâu thuộc lắm.
- Sao vậy?
- Vì cứ nhìn chị ấy em sẽ tự hỏi chị Mai nấu cơm chưa, đói bụng thấy
mồ rồi đây nè!
Cả hai cùng cười. Giọng cười nhóc tì Châu đầy đặn. Giọng cười Huy
meo méo. Huy thèm sự hồn nhiên của cậu bé ham ăn này quá. Ước chi
thằng nhóc xuất kho hồn nhiên của hắn chia cho Huy chừng một phần
trăm!
Châu vào khuất trong nhà rồi, Huy còn đốt thuốc đứng trước cổng nhà
nàng. Hơn mười lăm phút con tàu mới rời khỏi sân ga. Con tàu chỉ có
mỗi toa duy nhất chở nỗi bâng khuâng còn nguyên như lúc đến.
Ra khỏi cổng bệnh viện, định băng qua đường. Hạo bỗng gặp Ðạt đi trờ
tới. Hạo nói giọng không buồn, không vui:
- Ðịnh vào trong ấy à? Sao không đến nữa?
Ðạt ném mẩu thuốc tàn xuống lề đường bập bềnh xác lá chết trên dòng
nước mưa cống rãnh chưa tháo kịp, đáp hờ hững:
- Ờ, cũng định thế.
Hạo cười nụ méo xệch:
- Ði kiếm ly cà phê có hơn không?
- Ờ, đi thì đi!
Quần Jean bạc phếch. Áo khoác nhàu nhượi. Cây dù xếp kẹp bên nách và
chiếc túi xắc đeo xệ bên vai. Cả người Ðạt như bọc trong sự lặng lờ,
toát ra vẻ lặng lờ nom phát chán. Rủ rồi Hạo chợt hối sao không để
hắn biến đi đàng nào thì biến, mắc mớ chi phải giây vào. Nghĩ thế
nhưng Hạo không đành lòng.
Sánh vai nhau đi xuôi vỉa hè một quãng rồi họ băng qua đường, vào
cái quán cà phê dựa kề mé sông.
Quán ế khách. Cô chủ quán ngồi sau quầy vừa đọc tiểu thuyết vừa ngáp
vặt. Nghe cái búng tay đánh tróc rất bụi của Hạo, nàng ngẩn lên:
- Ủa anh Hạo, than vẫn còn, vài ngày nữa mang tới nhé.
Hạo cau mày gắt:
- Than với củi. Sao hễ thấy mặt tôi là cô nhắc than thế?
Cô gái cười tỉnh khô:
- Thế anh chả bán than là gì?
- Hai cái đen, lẹ lên.
Tiếng nhạc nổi bập bùng. Giọng hát quen thuộc của Hà Thanh vang lồng
lộng trong bầu không khí đắm hơi nước. Dư âm cơn mưa từ buổi sáng
vừa tạnh chưa tan bay hết, giờ lại gờn gợn trong lời một ca khúc
mưa. “Em đến thăm anh một chiều mưa!”
Khoảnh khắc trước, Ðạt như thả hồn theo những cánh mây phiêu lãng
bay qua vòm trời màu thiếc, bây giờ anh chàng mơ màng nhúng chìm hồn
vào khúc ca.
Ðạt ngỡ Hà Thanh đang hát riêng cho một mình Ðạt nghe. Tiếng hát sủi
tăm, tiếng hát chao cánh bay lượn như là cái cớ mỏng manh để bao kỷ
niệm lắng sâu đâu đó tận cùng tâm khảm chợt vật vờ mưng ngợp.
Kỷ niệm óng ánh từng giọt sương, đọng mờ ngoài cửa kính mùa thu xa
nào từ tàng gác hai em nhìn thấy anh đứng đợi dưới tán lá trạng
nguyên đỏ rười rượi trước ngõ, nhưng em nhất định không xuốn, bởi
đang bận... giận. Là ánh trăng non đêm mùa hạ rong qua phố chập
chùng bóng người nhòa bóng cây, đi cạnh nhau thỉnh thoảng ta như lạc
mất nhau. Là chút nắng hanh làm áo vàng thêm trăm buổi chiều em bâng
khuâng chờ anh tới dưới tàng cây muối già trong công viên, chiều nào
lá cũng rụng đầy vuông cỏ hẹn. Là những giọt mồ hôi li ti dễ thương
trên chót mũi em ngày đầu năm theo nhau bước lên mấy chục bậc cấp
chùa Linh Mụ hái lộc, thở không khí hạnh phúc mà hào hễn như hít
nhằm khí độc tai ương. Là triệu triệu giọt mưa rập ràng hát hoan ca
ngoài hành lang thư viện vắng, lúc em nhắm mắt trao đôi môi tẩm
hương huyền bí cho anh để bắt đầu nghi lễ của sự thuộc về, sự ràng
buộc...
Tiếng hát, kỷ niệm đan rối nhau bay qua Ðạt tựa qua ải qua đèo. Cái
còn và cái mất lặn lặn chìm chìm, rồi bỗng vỡ tan hư hão.
Tiếng hát chẳng gợi gì ở Hạo cả. Hạo vẩn vơ nhìn ba bông hải đường
nhụy vàng cách hồng thắm thò ra ngoài miệng chiếc túic xắc của Ðạt
để trên bàn, nom ngơ ngác tựa ba đốm lửa không phát hơi ấm mà tỏa
hương lạnh lẽo. Thoáng ngập ngừng, đoạn Hạo vói lấy cánh hoa ra cầm
tay, ngắm nghía như thể xem chúng là hoa thật hay giả.
Cô chủ quán mang cà phê ra đặt xuống bàn, dợm quay bước. Hạo đưa
cành hoa về phía nàng nói giọng bông phèng:
- Bạn tôi có mấy bông hoa định tặng người đẹp, nhưng hắn run quá
không dám nói, này cầm đi Băng Sâm!
Cô gái - mặt mày phấn son tươi rỡ. Phấn thoa hơi lạm dụng nên tưởng
chừng chỉ cần một làn gió phất qua có thể rơi lả tả từng mảng – nhìn
vẻ mặt trầm lắng của Ðạt mủm mỉm cười, mắt ánh tia dò hỏi. Thấy
chàng trai vẫn làm thinh, Băng Sâm chơm chớp mắt điệu đàng:
- Có đúng là anh muốn tặng Sâm không?
Ðạt găm lặng tia nhìn xuống bàn như không phải lắng nghe tiếng hát
nữa mà đang nghe từng giọt cà phê rời đít phin rơi buồn nản xuống
đáy tách. Băng Sâm lườm Hạo:
- Anh là chúa nói bậy. Anh ấy đâu thèm tặng em.
Hạo nhăn nhở cười:
- Thì tôi tặng cô, không được sao?
Biết rõ mình cũng là một loại hoa thường mọc... sau quầy, bên cạnh
cái tủ kính chưng thuốc lám cô gái cầm cành hoa vuốt ve ra chiều
trìu mến, ra vẻ nàng cũng thuộc loại người rất mực yêu hoa. Nàng thỏ
thẻ:
- Nhưng hoa của ai mới được cơ chứ?
Hạo nhún vai buông thõng:
- Của hắn. Hắn định mang tặng một người nhưng giờ không tặng nữa.
Không bao giờ tặng nữa. Có phải thế không Ðạt?
Ðạt nhấc phin ra bàn, cho đường vào tách, lặng lẽ uống, lặng lẽ đốt
thuốc nhả khói, coi như hai người ở cạnh đang nói với nhau bằng thứ
ngôn ngữ xa lạ nào đó. Ðạt không hiểu, không muốn hiểu.
Một đôi trai gái vào quán. Băng Sâm mang theo cành hoa đi về phía
họ, rồi biến mất sau quầy.
Hết chịu nổi sự lặng lờ câm nín của Ðạt. Hạo dấm dẳng:
- Ðạt à, mi vẫn chưa bỏ được cái trò tự mê hoặc mình ấy sao?
Tiếng hát vụt nghẹn. Kỷ niệm bay biến. Ðạt vừa sực tỉnh:
- Trò gì?
- Lúc nãy nếu không gặp tao, mi lại mang hoa hải đường vào bệnh viện
phải không nào?
- Cũng đâu có sao!
- Bây giờ ở đấy ai cũng bảo mi bị bệnh tâm thần.
- Kệ họ.
Không định xẵng giọng. Hạo bỗng nghe giọng mình vụt cao lên một cách
riết róng:
- Bây giờ là cuối thế kỷ hai mươi, chả còn ai lãng mạn kiểu cổ điển
như mi đâu.
Ðạt lừ đừ:
- Rõ rồi. Tao là thứ đồ lạc hậu.
Hạo uống ngụm cà phê đậm đặc không đường dịu giọng:
- Mi vẫn tin cô ấy còn quanh quẩn ở chiếc giường ấy sao?
- Có khùng mới tin vậy.
- Thế mang hoa vào để làm gì?
- Ðơn giản như là một thói quen chưa bỏ được!
Thói quen! Ðạt nói mà như mỉa mai, cay đắng. Hạo châm chọc:
- Lặp lại mãi, thói quen dù đẹp đẽ đến đâu riết cũng thành trò rởm.
- Ờ thì rởm! Ðể tao yên.
Lảng mắt nhìn ra mặt sông phẳng lặng dưới bầu trời mây xốp, Ðạt lại
sẵn sàng chìm xuống tận đáy im lặng. Sông ơi, sông ơi! Người chết
thôi thở đã đành. Người sống đang thở rồi cũng đến ngày tắt hơi. Chỉ
có dòng sông là sống mãi, xuôi chảy mãi! Ðời người ngắn hơn đời
sông. Sau cùng thì mọi buồn vui cũng sẽ theo sông trôi ra biển mịt
mù thôi! Ý nghĩ bất chợt làm Ðạt muốn bật cười. Không cười nổi. Nhìn
bạn trơ lì như thể rút trốn sau chiếc mặt nạ buồn. Hạo ngao ngán lắc
đầu.
Bây giờ là cuối thế kỷ hai mươi, chẳng còn ai lãng mạn theo kiểu Ðạt
nữa? Lãng mạn? Si tình? Tâm thần? Không, hình như Ðạt không cần biết
mình đang ở trạng huống nào.
Chừng một tuần lễ sau đám tang Diễm. Vào một buổi chiều Hạo đang
ngồi với Thu trong phòng bệnh, ngạc nhiên thấy Ðạt lững thững bước
vào. Y phục khá chỉnh tề nhưng thần sắc phờ phạc rầu rĩ như người
vừa trải qua một trận ốm liệt giường. Với bó hoa đồng tiền trên tay,
Ðạt đến đứng lặng bên chiếc giường Diễm từng nằm. Giường không còn
bỏ trống nữa mà đã được phân cho một người bệnh khác. Một bà cụ.
Trong đôi mắt mộng du của Ðạt lúc ấy hồ như Diễm vẫn còn đó nhưng đã
hóa già lão đi.
Gương mặt lạ thiếp ngủ đóng khung trong vầng tóc bạc của bà cụ chẳng
có nét nào gợi nhớ đến sự trẻ trung, vẻ đẹp kiều mị của Diễm xưa,
vẫn mơ hồ gợi trong chàng trai thoáng liên tưởng mịt mờ về cái còn
và cái mất? Ðạt sững sờ buông rơi bó hoa xuống chân bà cụ, thảng
thốt đưa mắt nhìn Hạo như muốn hỏi:
- Tại sao Diễm lại hóa ra một bà cụ thế này?
Hạo không đọc thấy câu hỏi cắc cớ ấy. Hạo chỉ cảm thấy gai ớn, bất
an khi chạm phải tia nhìn đục lờ nọ, vội vã đến ôm vai Ðạt đưa bạn
ra ngoài.
Tuy học chung một khóa trường Ðại Học Tổng hợp, hai đứa học khác
lớp, chơi với hai nhóm bạn riêng, nên trước đây họ gần như không
quen nhau. Từ ngày Thu chuyển phòng đến nằm cạnh Diễm, cả hai hay
lui tới thành ra quen biết nhau, đâm ra có cái người ta thường gọi
là tình bạn. Không thân cũng không sơ lắm.
Ðối với Thu, mối tình Ðạt - Diễm quá đẹp quá nồng. Nồng và đẹp đến
độ nàng không bao giờ dám ước mơ mình có được vài miếng chứ đừng nói
là cả một khối tình ngọt bùi như thế. Dưới mắt Hạo mối tình ấy không
phải là chẳng đẹp. Có điều, cái lối tặng hoa mỗi ngày của Ðạt, sự mê
đắm của chàng và nàng mỗi lần gặp nhau – theo Hạo – có cái gì đấy
vừa mang tính ủy mị của những trang tiểu thuyết diễm tình, vừa cổ
điển một cách bị lụy. Nghĩ thế nhưng chưa bao giờ Hạo nói cảm tưởng
không vui ấy cho Ðạt nghe cả. Và mối tình đẫm nét cổ điển ấy tưởng
đã chấm dứt khi Diễm không còn bị ám ảnh bởi những bóng lá long não
lắt lay ngoài khung kính nữa, mà vĩnh viễn nằm dưới những vòng hoa
tiếc thương tàn rữa, thì chiều ấy Ðạt lại đến.
Từ chiều ấy đến chiều hôm nay trong Ðạt có vẻ khá hơn chút đỉnh, tuy
sắc diện chưa được tươi lắm. Hạo không ngờ là Ðạt vẫn rất tỉnh táo.
Câu nhắc nhở về bệnh tâm thần vừa rồi của Hạo hàm ý trêu chọc, là
báo động, hoặc thực tâm ái ngại.
Chán ngấy sự thinh lặng của bạn, Hạo nóng nảy bẻ gập mấy que diêm
thả xuống bàn, thấp giọng:
- Ðạt à, thật tình tao không hiểu tại sao cái gọi là sự si mê trong
mi lâu tàn đến thế?
Ðạt cười khẩy:
- Loại cục súc thô thiển như mi có lấy búa bổ đầu họa may biết đau.
Mi có biết yêu ai bao giờ đâu mà biết đến sự sâu sắc của nỗi đau!
Bất ngờ bị đập một đòn nặng. Hạo hơi ngẩn người, đoạn cố lấp liếm sự
gai sượng qua giọng nói xuề xòa:
- Nói mi đừng giận, cả vong linh Diễm cũng đừng buồn tao. Có lúc tao
thấy mối tình của tụi bây nặng mùi cải lương bỏ mẹ. Màng sum vầy đã
hết, giờ đến cảnh chia ly cũng sặc mùi tiểu thuyết. Chàng ôm hoa
lang thang đến nơi nàng từng có mặt để đứng chết dở tưởng niệm những
ngày vui ngắn ngủi đã qua. Cứ y như cái thời ông Alexander Dumas mô
tả trong Trà Hoa Nữ tận bên trời Tây.
Ðạt cười nụ nửa bao dung nửa khinh miệt. Nụ cười đầu tiên từ lúc gặp
Hạo:
- Cầu cho mi, cái thằng có trái tim điếc đặc đáng tội nghiệp, ngày
nào đó bị điên đảo bởi một phát tên của ái tình mới trắng xác mắt
ra.
Hạo hài lòng thấy Ðạt không còn ủ rũ lắm nữa. Bây giờ nom Ðạt hệt
con gà ướt vừa được hong khô, lộ dần vẻ “hào hoa” trên lông trên
cánh. Mắt loáng ướt chút mơ màng xa vắng. Hạo nửa đùa nửa thật:
- Cái phát tên mù ấy nếu có nhận tao chỉ nhận ở một người. Nhưng tới
tận giờ phút này chưa có dấu hiệu gì cô nàng sẽ giương cung lên cả.
Buồn thay!
Ðạt nói giọng sầu muộn, ê a tựa đọc kinh:
- Cầu cho ngày nàng giương cung lên bắn mi cũng là ngày tận thế.
Nghĩa là cái ngày ấy có khi không bao giờ đến cả.
Hạo vui vẻ đệm:
- Amen!
Và, Hạo phá lên cười. Hạo thôi cười rồi chợt ngẩn người ra dáng trầm
tư. Phát tên mù và ngày tận thế. Có bao giờ câu nói khơi khơi của
Ðạt bữa nay thành lời rủa độc địa linh ứng không? Ðể mi cứ chạy long
nhong như ngựa, thong thả như rùa đi qua mặt đất này cho đến lúc ra
nghĩa địa vẫn không biết thế nào là sự điên đảo gửi từ một mũi tên
ái tình! Sự điên đảo ấy hiện Ðạt đang phô diễn, trước mắt mi, trông
rất gai và rất chướng?
Thốt nhiên, gương mặt thanh khiết như thể được sinh để cạnh những
bông hoa chúc phúc, chúc lành và những trang sách mở im lặng trên
lòng của Diễm chợt choán ngập tâm trí Hạo. Hạo bỗng ngượng thầm, tự
hỏi phải chăng mình không có được một người nữ xinh dẹp như thế để
“tôn thờ” nên đâm ra đố kỵ nhỏ nhen, nên tâm hồn vốn nghèo xơ xác
càng cằn cỗi hơn, không cách chi phong phú bằng Ðạt để có thể hiểu
Ðạt? Hắn bảo mình thuộc loại cục súc thô thiển là phải, phải lắm!
Chẳng còn cụm từ nào chính xác hơn.
Thoáng buồn pha ân hận vụt đẩy Hạo đứng lên, đủng đỉnh bước lại phía
quầy nói với cô chủ quán:
- Làm ơn trả lại mấy bông hoa phải gió lúc nãy lại đi cô em.
Băng Sâm chun mũi:
- Hay chưa. Sao bảo tặng người ta?
Cô gái vòng hai bàn tay đẹp với mười chiếc móng óng ánh nhũ hồng
quấn quanh cái ly thủy tinh cắm cành hải đường như sẵn sàng giữ nó
đến hơi thở cuối cùng. Cử chí ấy nóm rất đáng yêu nhưng Hạo lại suýt
buột thốt, em không xứng đáng giữ những bông hoa này đâu khỉ ạ, đừng
làm bộ làm tịch nữa! Câu nói giữ lại kịp bởi Băng Sâm ngước nhìn Hạo
lừ lừ, ánh mắt tình tứ đến nao lòng. Hạo mỉm cười tinh quái:
- Thằng bạn của tôi đang rất cần. Những bông hoa hắn dành cho một
người trẻ và đẹp như cô...
Băng Sâm nóng nảy cướp lời:
- Sao không tặng phứt cho rồi, còn bày đặt mang tới đây?
- Cô ấy đã biến thành... ma!
Cô gái xoe tròn mắt:
- Ma?
- Ồ, cô ấy đã chết. Kìa cô ấy đang đứng sau lưng sắp đưa tay lên
siết cổ Băng Sâm đấy!
- Áiii!
Cô gái kêu thé, giật nẩy mình quay ngoắt lại phía sau. Hạo lẹ làng
cầm cành hoa đến đặt vào tay Ðạt:
- Xin lỗi tao đã phá đám mi. Ði đi Ðạt, tiếp tục hưởng cái thú đau
thương của mi đi. Ðúng là tao chưa biết đau bao giờ nên lắm lúc ba
lơn đôi khi hơi tàn nhẫn. Ðừng buồn tao!
Ngữ điệu không có gì là đùa. Hạo lại diễn tả sự ân hận bằng cái nhíu
mày khá đạt. Lạ lùng nhìn thằng bạn có gốc gác sinh thành từ vùng
giang hồ sông nước, tâm hồn hình như luôn luôn trơn lì in cái cọc
chèo. Ðạt làu bàu:
- Mi đúng là thằng cục súc. Tặng hoa cho người đẹp rồi lấy lại thế
coi chả lịch sự chút nào. Mang tới trả cho cô nàng, rồi quay lại tao
sẽ bảo có đi hay không!
Hạo nửa tin nửa ngờ:
- Thật chứ? Mi không cần hoa nữa sao?
Ðạt buông thõng:
- Không cần nữa.
Ðã đến lúc ngấy tận cổ cái trò tặng hoa tới , đòi hoa lui lẩm ca lẩm
cẩm, Hạo ném phăng cành hải đường ra cửa sổ trước đôi mắt ngơ ngác
của bạn, đoạn chìa tay về phía Ðạt:
- Nào, chia tay. Sẽ gặp lại!
Ðạt nheo mắt nhìn vẻ mặt lạnh lùng nom rất thực nhưng rất buồn cười
của Hạo, chậm rãi buông từng tiếng:
- Trong xắc tao không chỉ có hoa mà còn có rượu. Tao định sẽ nhấm
nháp cô đơn một mìnmh ở một xó tối nào đó trong công viên trước bệnh
viện đêm nay. Nhưng thôi, giờ tao muốn “chia lửa” với mi. Ðừng bỏ
tao một mình, không nên. Rất có thể tao sẽ đâm đầu xuống sông ngồi
đối ẩm, nhấm nháp cô đơn cùng Hà Bá.
Hạo ngập ngừng:
- Tao không quen uống rượu.
- Tao cũng có quen đâu. Nào, về cái “biệt thự nổi” của mi được chứ?
Hết hoa rồi tới rượu! Cái thằng yêu theo lối cổ điển này tiến bộ
vượt mức nhỉ? Hắn làm quen với ông thần tửu lúc nào thế? Hoa, rượu.
Cứ như đang ở giữa cõi non Bồng nước Nhược nào. Sao cái gì ở hắn
cũng khang khác mình thế nhỉ? Hai đứa nếu có cùng nhảy chung một
điệu múa chắc không thể rập ràng. Hai đứa lỡ hát chung một bài ắt bè
trầm bè cao lổn nhổn không cách chi hòa giọng. Nếu hắn đánh trống và
mình thổi kèn chắc chắn trống sẽ đánh xuôi và kèn sẽ thổi ngược. Ðể
xem trong cái chân dung mình quen nhìn hắn còn có nét dị thường nào
nữa! Hạo chu miệng huýt sáo tiếng ngắn?
- Ðồng ý! Mi tỉnh tao thấy rồi, còn say chưa biết ra sao? Mi có dám
say một trận không?
- Say một trận túy lúy càn khôn và, kể từ ngày mai mi sẽ thấy tao
không còn tiếp tục cái mà mi gọi một cách dung tục là trò tự mê hoặc
mình nữa. Ðủ lắm rồi.
Hạo nghi ngờ:
- Có đáng tin không?
- Rất nên tin... con ạ!
- Tao chỉ sợ mi không dám say, không dám đoạn tang mối tình hiện mi
đang đội trên đầu trên cổ.
- Say chứ! Mi không thấy trái đất lăn quay vì trái đất say à? Quay,
là cách nhấm nháp cô đơn của trái đất.
Chưa uống, giọng Ðạt đã hơi bông bốc. Chẳng hưởng ứng nụ cười nửa
miệng, và câu nói “thông thái, cô đơn diễn nghĩa” của Ðạt. Hạo đến
bên quầy móc mấy tờ giấy bạc trả tiền cà phê. Băng Sâm nguýt và
lườm, hai động tác thi triển nhuyễn đến độ tưởng chỉ có một.
- Thôi, cất đi, để trừ vào tiền bán than cũng được ông bán than ạ!
Ông Hạo – Trương Chi ạ!
Giọng đỏng đảnh kéo dài cho thấy nỗi bực bội vì bị đòi lại cành hoa
không phải ngắn. Hạo búng tay đánh tróc, câng câng hất hàm:
- Cũng được! Mai mốt trúng số tôi sẽ mua một trăm cần xé hoa mang
tới chôn cô em luôn.
Băng Sâm nguýt dài:
- Xííí, dân bán than cũng bày đặt phách lối.
Hai đứa về đến “biệt thự nổi” khi chiều sà xuống mặt sông, ôm choàng
lấy sóng trong vòng tay thắm thiết, lạnh căm. Sương mù bàng bạc trải
những giải voan mỏng bay chập chùng xoá nhòa bờ bến. Trong màu hoàng
hôn tím tái, sông Hương nom đẹp tựa người mệnh phụ hàng nghìn tuổi
vẫn còn trẻ măng, che mạng, duỗi dài thân ngọc để đền đài phố chợ
tha hồ nghiêng vai vói tay đòi bồng đòi đòi ẵm, vẫn nũng nịu không
chịu cất mình khỏi đôi bờ cỏ mượt. Lác đác nhiều ngọn đèn đỏ dọc như
mắt quỷ chong khắp các thuyền đò đậu nối quẩn quanh.
Hạo mở khóa cửa, chui qua vòm mui hình bán nguyện và khoang trong
thắp đèn. Ánh sáng mờ ấm trải vàng lên chăn chiếu, mùng mền, sách vở
xếp gọn trong một góc. Góc đối diện, trên hai cái bếp lò tro than
còn ủ nóng bốc lên làn khói mảh là nồi cơm, xoong cá đang chờ.
Ðạt tò mò ngắm nghía thế giới nhỏ nhoi của một gia đình gói gọn
trong lòng đò. Các thứ hình như không ở thế tĩnh, luôn luôn lắc lư
bập bềnh theo nhịp sóng nhẹ mà âm ĩ, chuyển động không ngừng. Mùi
nắng mưa lưu cữu quyện trong mùi mồ hôi, mùi khói... thấm đượm trong
bán, trong vòm mui tản mạn thành thứ mùi khá đặc dị, không giống mùi
trong những căn nhà trên phố.
Hạo lay hoay dọn chén đũa, cơm và cá ra chiếu. Nhìn nồi cơm tỏa khói
nghi ngút, Ðạt kinh ngạc:
- Ðâu mà sẵn thế? Mi có cả người hầu nữa sao?
Hạo cười lấp lửng:
- Tao có một nàng tiên không phải giấu mình trong quả thị như trong
truyện cổ tích mà là một con rái cá duới sông. Mỗi ngày lên nấu cơm,
đun nước lúc tao vắn mặt.
Ðạt lấy từ túi xắc ra cái chai xị đầy ắp rượu màu vàng nâu, nói
ngượng nghịu:
- Rượu ngâm thuốc Bắc trị chứng đau bụng, nhức mỏi của bà già, tao
lén lấy một ít. Tuyệt ngon và đại bổ. Sao? Chuyện con rái cá hấp dẫn
đấy, rõ ràng lúc nãy tao vừa thấy cửa khóa, nàng làm sao vào? A,
ngốc thật, hẳn nàng thủ sẵn cái chìa thứ hai?
Mẹ kiếp! Sao mi nhạy với những chuyện lẩm cẩm quá vậy? Hễ cái gì có
man mác chút hơi hướm tình tự là mi ngửi thấy ngay! Hạo rủa thầm.
Biết có giấu quẩn quanh hẳn Ðạt cũng sẽ không buông tha câu chuyện
có vẻ hứa hẹn lắm tình tiết éo le hấp dẫn. Thôi, cứ nói toạc cho hắn
biết đi, hay ho đếch gì phải giấu? Ít ra hắn cũng không nghĩ mình
nghèo đến độ không có được một... chuyện tình! Hắn giọng tĩnh khô:
- Tất cả mọi loại khóa trên thế gian này đối với cô nàng đều là đồ
bỏ. Tao đổi khóa ba lần rồi, thỉnh thoảng nàng vẫn tới làm phúc như
mi thấy. Tao đành chào thua.
Ðạt bất bình:
- Sao lại chào thua? Bộ mi không thích được cô nàng săn sóc sao?
Hiếm có người tốt bụng vậy lắm.
Hạo rót rượu ra ly, nhăn mặt, nói bỗ bã:
- Tao chỉ thích gọi cô nàng là chị hay mẹ. Cô nàng lại muốn tao gọi
bằng em. Bực mình ở chỗ đó. Thôi, nhậu đi!
Ðạt uống ngụm rượu nhỏ thở đánh khà:
- Một “biệt thự nổi”, một con rái cá không biết có xinh đẹp như nàng
Mỵ Nương thuở xưa hay không, nhưng chắc chắn là rất đảm đang, thỉnh
thoảng đến giúp việc bếp núc cho chàng. Nàng là chị, là mẹ, hay là
em thì quan trọng gì đâu. Mi không xứng mang cái biệt danh Hạo –
Trương Chi chút nào. Mi hạnh phúc gấp ngàn lần anh Trương Chi ngày
xưa.
Hạo lí nhí:
- Tao có thích cái biệt danh ấy đâu. Tụi bay kêu bậy kêu bậy bạ riết
thành tên.
Ðạt tiếp tục giọng hào sảng:
- Lên đênh sông nước. Sống như mi kể cũng thú Hạo à!
Hạo đáp xuôi vị:
- Ồ, thú thấy mẹ. Nhưng lắm lúc buồn muốn thấy cha luôn.
Nhác thấy ảnh Thu và ảnh bà mẹ lồng trong khung kính nhỏ treo cạnh
cây sáo trúc - Hạo vốn mê thích và thổi sáo rất khá – trên vách mui.
Ðạt trầm giọng ái ngại:
- Ủa quên, chị Thu thế nào rồi?
- Bỗng yếu rồi hóa khỏe. Có lúc tao ngỡ chị ấy sắp đi, hóa ra vẫn
chưa. Có lẽ vì phổi chị không vướng phải ung thư như cô nàng của mi.
Cô nàng! Nghe nhắc tới cô nàng Ðạt suýt buông đũa. Dù sao bữa ăn vẫn
tiếp tục. Hạo ăn theo lối nhanh lẹ của dân quen làm việc nặn. Ðạt ăn
nhỏ nhẻ theo kiểu công tử... con nhà vườn. Nhưng Ðạt uống bạo hơn
Hạo. Chẳng mấy chốc cả hai cùng ngà ngà hơi men.
Sau một lúc vun vít chuyện trên trời dưới đất, sau cùng, dĩ nhiên,
câu chuyện xoay qua những hồi tưởng về Diễm. Hạo nghĩ đã đến lúc nên
để Ðạt trút vơi bầu tâm sự nặng trình trịch trong lòng hắn họa may
hắn bớt rầu, bèn ngồi im thít để chỉ một mình Ðạt nói.
Nói, kể lể là cách đẩy bật nỗi nhớ nhung, si dại ẩn chứa tù hãm
trong lòng ra thành lời. Ðạt say sưa nói về những kỷ niệm của mối
tình đầu non yểu. Ðạt đoan quyết dù có sống thêm hai kiếp nữa, không
chắc tìm thấy được người tình nào tuyệt vời như Diễm. Truớc kia Ðạt
chỉ coi Diễm hiếm quý như vàng ròng, giờ “tôn thờ” nàng in đức bà
Maria hay đức Phật Quan Thế Âm cũng chưa thỏa dạ.
Kỷ niệm nào cũng quý. Trong hàng lô hàng lốc kỷ niệm nhập vào kho ký
ức Ðạt. Hạo đặc biệt thích kỷ niệm ngày Ðạt - Diễm mới quen nhau
nhất.
Hôm ấy bão rớt từ giờ thìn đến giờ ngọ, mưa to gió lớn, cây cối ngã
đổ, dây điện đứt lung tung. Không về nhà được, hai đứa kẹt trong thư
viện. Chàng bắt gặp nàng đứng ở một góc vắng vừa ngắm mưa qua cửa
kính vừa nhâm nhi món quà vặt chờ bão tạnh và, chàng mở mắt lớn hết
cỡ lặng lẽ, chết sững “nhâm nhi” nhan sắc nguyệt thẹn hoa nhường của
nàng.
Phút định mệnh điểm đánh boong trong tim chàng lúc nàng bất thần
quay lại, ngỡ ngàng thấy người dưng mặt mày chợt tái, cứ giương mắt
háu nhìn mình ăn. Ngỡ người dưng đói bụng sắp xỉu, sau nửa phút ngập
ngừng, nàng e dè mời chàng nửa chiếc bánh bích quy.
Từ đó chàng đâm ra thích bánh bích quy hơn mọi của ngon vật lạ khác,
bởi vì sau nửa chiếc bánh ngọt bùi kia, hai đứa quen nhau.
Và, một ngày mùa thu cũng ở trong căn phòng đọc ấm cúng của thư viện
ấy, chàng âu yếm đưa tặng nàng một cuốn tiểu thuyết giấu sẵn lời tỏ
tình bên trong. Lời tỏ tình ngắn gọn tế nhị mà chàng nhờ những chữ
in sẵn trong sách nói hộ mình.
Ở trang thứ mười của cuốn tiểu thuyết, chàng dùng mực đỏ khuyên tròn
chữ “Anh” in sẵn ở một đoạn tự sự. Ðến trang thứ bảy mươi chàng
khuyên tiếp chữ “Yêu” ở một câu đối thoại của nhân vật trong truyện
và, ở trang gần cuối, chàng khuyên nốt chữ “Em” ở phần kết thúc câu
chuyện.
Những chữ anh, yêu, em rải rác ở sách truyện nào cũng có. Ba chữ rời
được đánh dấu riêng ban đầu gợi tò mò để rồi nối lại thành câu khi
đọc xong sách. Dẫu lơ đãng thế nào ắt cũng nhận ra. Chàng hy vọng
vậy và nàng đã nhận ra thật?
Và hôm sau nàng đáp lễ lại bằng một cuốn sách khác tặng chàng. Cũng
với cách ấy, nàng khuyên tròn ba chữ nồng nàn kia theo lối đảo
ngược. Em. Yêu. Anh. Thế là ổn!
Chăm chú nghe như uống lấy từng lời của Ðạt đến đây Hạo không thể im
nín được nữa, bèn buông một câu cảm thán:
- Giỏi, giỏi lắm. Mi nghĩ ra cách tỏ tình thật tuyệt cú. Khỏi phải
đờ lưỡi nói, hay mỏi tay viết thư.
Ðược khen, thay vì phổng mũi, Ðạt lại cười nhạt:
- Mi vẫn chê tao cổ điển, thế tỏ tình như thế có cổ điển lắm không?
Hạo chợt nghe lưỡi dính cứng vào vòm miệng, mất ba mươi giây Hạo mới
ấp úng:
- À hơi... hơi hiện đại. Nói theo kiểu mê tín thì hai đứa, mi và
Diễm là hai con mọt sách, ông thần sách phò hộ bây tỏ tình với nhau
thì cũng chả có chi lạ.
Ðạt uống liên tiếp hai ngụm rượu, mắt úng nước như chực khóc:
- Tụi tao nhờ thần sách, còn mi sống trên sông chắc nhờ lão thần
sông. Thế mi tỏ tình với con rái cá của mi ra sao?
Một thoáng Nga Mèo Hoang vụt qua trí lóe sáng tựa sao đổi ngôi, Hạo
đỏ mặt đã hườm hườm vì rượu, nói như rặn:
- Tình đâu mà tỏ? Tình tụi tao là tình cận lân, tình láng giềng sông
nước, đâu phải tình gái trai.
Ðạt áy náy rất chân tình:
- Hóa ra tới tuổi này mi chưa có được một mảnh tình giắt lưng à?
Hạo nói dối ngon ơ:
- Không ham và tao cũng chả muốn. Kể tiếp đi chứ.
Ðạt lắc đầu:
- Mi đã không ham tình yêu thì kể làm gì. Như là kẻ ngoại đạo nghe
giảng đạo phỏng có ích chi.
Hạo lúng túng, nài nỉ:
- Ờ, thì nghe đạo biết đâu tao sẽ thấm đạo, rồi ngộ đạo... tình như
mi!
Ðạt rót rượu ra ly, nốc cạn, đoạn duỗi người nằm dài ra chiếu, ca
cẩm:
- Càng kể tao càng muốn khóc quá.
- Cứ khóc thoải mái, tao không cười đâu.
Phải rồi! Khóc cho trôi hết mọi buồn vui ra sông. Ðời người ngắn hơn
đời sông mà. Cuối cùng tất thảy mọi hệ lụy đều theo sông trôi ra
biển mịt mù hết! Ðạt rầu rĩ nhủ thầm, óc váng men ngầy ngật. Ðạt nói
tưng tửng:
- Mi cùng khóc với tao cho... vui nhé! Khóc một mình buồn lắm. Người
ta song ca, mi và tao song... khóc!
Hạo cố pha giọng đùa vào câu nói thật:
- Buồn của ai người ấy khóc. Ðau của ai người ấy cứ việc rên. Ai lại
đi khóc hay rên giùm. Không thực bụng. Ðạt à, tao cũng thèm có một
nỗi đau như mi để được khóc một trận cho mắt đỡ khô mà không có.
Nghe mi kể tao chợt thấy tâm hồn tao nghèo quá. Nghèo rớt mồng tơi.
Nghèo cả nước mắt.
- Tim mi thôi điếc đặc rồi sao?
Chẳng nghe bạn trả lời. Ðạt tiếp tục kể những kỷ niệm về nàng. Kỷ
niệm còn nóng bỏng in cục than trong ký ức chàng. Nó chỉ nguội khi
nào được nhúng được tắm trong nước mắt?
Rượu cạn dần trong chai. Kỷ niệm và rượu trộn vào nhau làm ướt sũng
giọng Ðạt, làm ràn rụa mắt Ðạt. Sau cùng thì Ðạt cũng khóc được.
Nhìn bạn khóc, Hạo thấy Hạo trừng trừng nhìn vào khoảng rỗng không
trong lòng mình với đôi mắt ráo hoảnh.
Ðạt khóc. Ðạt say. Ðạt lăn lộn ói mữa. Chẳng biết Ðạt có ói hết nỗi
đau thương dành cho Diễm ra ngoài không? Ðêm lạnh lùng vỗ sóng quanh
mạn đò và, Ðạt rơi tõm vào giấc ngủ sâu hun hút.
Ðạt ngủ say như chết. Hạo nhìn cái thây sũng rượu ngã dài sau phát
tên hoài niệm bạo liệt, thốt rùng mình. Cầu cho sự điên đảo ngày mai
sẽ từ bỏ hắn như hắn đã tuyên bố trên quán cà phê. Ngủ đi con, ngủ
trên chính bãi nôn tanh lợm của chính mi vì mi đã quá bội thực ái
tình! Ngày mai mi không đoạn tang nổi khối tình sầu của mi, ông sẽ
đánh mi bỏ mẹ!
Hạo mỉm cười, tay chợt nắm chặt, mắt ánh vẻ man dại như con thú đang
rình, chực chụp chiếc bóng mình đìu hiu trên vách đò. Mọi âm thanh
vẳng từ phố xuống, từ các ghe thương hồ, đò rước “hoa” bán “hoa”
quẩn quanh nghe ong óng, xa xôi như từ thế giới nào khác. Hạo im
nghe cơn gió tuần du không mỏi ngoài sông thỉnh thoảng lùa vào vuốt
nguội dần cơn say chưa kịp bốc.
Bất động mười lăm phút rồi Hạo chồm dậy dọn dẹp bát đĩa, quăng tõm
cái chai không ra mặt nước, vừa vui vẻ rủa thầm vừa loay hoay lau
rửa tóc tai mặt mày cho Ðạt, lấy chiếc áo sơ mị sạch của mình thay
cho bạn, vo cái áo vây bẩn các thứ do Ðạt ói ra nhét giấu dưới sạp.
Ðêm róc rách vỗ sông quanh mạn đò. Ðạt vẫn ngủ.
Ðịnh lấy cây sáo xuống thổi vài bài cho giãn gân cổ, thốt nhớ phải
đưa Ðạt về. Chàng trai có trái tim điếc đặc lặng lẽ nhỗ sào, đưa đò
ra giữa dòng, quay mũi về hướng Vỹ Dạ.
Ðêm chưa muộn. Ðêm tím như mực và đen như than. Vần trăng lưỡi liềm
trôi qua vòm trời mùa đông nom xanh xao tựa chiếc lá bạc hà uốn cong
dịu oặt. Ngửa mặt cho tha hồ gió lạnh táp, mơn trớn, đùa cợt. Hạo
khoan thai gặt, khuấy mái chèo. Lòng không còn trống trải nữa mà
hình như đầy ắp ngậm ngùi.
Bốn hướng chung quanh cơ hồ xóa nhòa mọi đường nét. Tất thảy mọi âm
thanh biến bặt, chìm lỉm, mất tăm. Ánh sáng non yểu của vầng trăng
không khoang thủng nổi màn sương dày mịt. Thằng người chèo đò giữa
dòng sông như thể con kiến đậu cheo leo trên chiếc lá me nhỏ xíu cựa
quậy trong tách cà phê đen đậm đặc. Ngoài tiếng chèo khuấy nước,
lắng lòng họa may hắn nghe thêm tiếng tim đập khẽ khàng trong ngực
mình.
Không hiểu sao, đêm nay, sau vài ly rượu uống với Ðạt, không dưng
Hạo cảm thấy cả thế gian im vắng không cùng và Hạo cô đơn da diết.
Sự im vắng có khi chỉ là ảo giác. Còn cô đơn?
Trước đây chưa bao giờ Hạo nghĩ một ngày nào đó chỉ còn mỗi một mình
với chiếc đò lẻ loi như thế này.
Thuở ấy – nghe xa xôi quá! – Ba con người còn đủ mặt quây quanh mâm
cơm trên chiếc chiếu trải giữa lòng đò trưa trưa chiều chiều. Ba
mảnh đời phiêu dạt tìm đến nhau do sự run rủi, đưa đẩy của bàn tay
vô hình, người ta thường gọi là bàn tay số mệnh.
Thuở ấy, đứa trẻ cù bơ cù bất, chẳng rõ gốc gác sinh thành, sống
trôi sông lạc chợ từ vạn đò này sang vạn đò kia, từ dạ cầu này đến
bến củi, bãi cá nọ là Hạo được bà Tấm nhận về nuôi, sau khi đứa con
trai duy nhất của bà rời bỏ sông nước đi lính chết trận. Năm ấy Hạo
mới bốn tuổi.
Năm Hạo lên tám, thêm một thành viên, thêm một nhánh rong phiêu bạt,
một con người chẳng biết được sinh ra từ cuộc hôn phối vô danh nào,
gia nhập vào gia đình.
Lúc bấy giờ vào buổi trưa, bà Tấm từ chợ bước xuống đò, tay dắt đứa
bé mười hai nhưng loắt choắt như thể nó mới chín mười tuổi. Con bé
gầy gò hệt con cò hương, tóc lưa thưa ngọn xanh ngọn đỏ, nước mắt
nước mũi tèm lem, gò má bên phải và con mắt bên trái tím bầm. Nó vừa
được người ta tẩn cho một trận ra trò sau một vụ móc túi thất bại.
Bà Tấm nói ngắn gọn:
- Hạo à, từ nay nó là chị con.
Quay sang con bé bà thấp giọng:
- Mi tên chi?
- Dạ, Xí ạ!
Nhổ miếng cốt trầu, bà Tấm cười:
- Mi không đến nỗi xấu xí lắm đâu. Từ nay tao đặt mi tên Thu, nhớ
chưa? Sáng nay tao bán cá thu khá chạy.
Ðoạn vẫn không rời mắt khỏi con bé vừa nhận cái tên mới toanh, bà
gằn giọng:
- Thấy mi mồ côi mồ cút tao nhận nuôi làm phước. Biết ăn ở tử tế thì
được. Không xong tao lại ném mi lên bãi chợ!
Con bé liu ríu “dạ” nhỏ trong miệng, lấm lét nhìn Hạo. Trong suốt
bữa cơm trưa nó im thít, tiếp tục lấm lét nhìn Hạo. Sau bữa cơm, bà
Tấm lại lên chợ.
Hạo không từng có chị. Thu chưa từng có em. Nay bỗng có, hai đứa
cùng cảm thấy lòng lâng lâng vui mà chẳng hiểu tại sao. Vui thầm
kín, đứa này không biết đứa kia đang vui. Dù thế, phải mất chừng một
giờ hai đứa mới tạm gọi là hơi quen nhau. Cuộc làm quen bắt đầu từ
việc Thu định cởi truồng bông nhông xuống sông tắm vì chỉ có một bộ
đồ trên người, thấy thằng bé cứ lom lom nhìn mình như ngại mở mắt ra
là bị mất cắp. Ngượng quá, con bé bèn để nguyên quần áo nhảy xuống
nước. Tắm xong, chẳng có đồ thay, nó đành co ro ngồi trên mạng đò
dang nắng cho khô.
Thấy tội, ngại để con bé cảm nắng, Hạo lục tìm đưa một bộ đồ cũ rộng
thùng thình của bà già, kèm hộp dầu cù là cho Thu thoa mấy chỗ bầm
trên mặt. Thu toét miệng cười, nụ cười đầu tiên từ lúc bước xuống
đò, dịu hỏi:
- Ấy tên chi?
- Hạo!
- Cái tên sao khó kêu quá vậy?
- Trước tui tên là Cu Ðen. Cái anh con của mẹ Tấm chết trận tên Hảo.
Mẹ bảo tên Hảo xui nên anh mới chết sớm, nhưng không muốn bỏ cái tên
đã quen gọi ấy, bèn đặt tui tên Hạo. Gọi trẹo trẹo thế sống mới dai!
Hai đứa cùng cười và từ ấy ngoài việc lo bếp núc, hàng ngày Thu lên
chợ tiếp mẹ nuôi bán cá.
Dọc dài ven sông, từ vạn đò Kim Long đến vạn đò Gia Hội, bà Tấm nổi
tiếng là người đàn bà hàm hồ hàm chứa, mồm năm miệng mười. Những con
buôn, bạn hàng dọc bến kiên nể bà như kiềng mặt các tay trùm sừng sỏ
trên đất liền. Ít ai ngờ người đàn bà cô độc với vẻ ngoài cứng rắn,
nanh nọc ấy cũng có một tấm lòng dịu dàng, thương yêu rất mực đối
với những đứa con nuôi như bất cứ bà mẹ nào trên trái đất này.
Sẵn sàng xắn quần áo chửi bới, cãi vả, giành giựt từng mớ tôm mớ cá
trên tay con buôn, bòn từng đồng xu cắc bạc giữa chợ. Ở nhà, bà luôn
chi xài khá rộng rãi trong việc ăn uống và may mặc cho hai đứa trẻ.
Những năm hai đứa còn bé, bất kể mùa hạ hay mùa đông, đêm ngủ bà
thường úm hai đứa hai bên như gà mẹ xòe cánh ấp con. Nồng nàn và dịu
dàng là thế, nhưng bà cũng sẵn sàng mắng xả vào mặt hoặc thượng cẳng
hạ tay với con chị hay thằng em mỗi lúc chúng phạm lỗi. Chóng nóng
mà cũng chóng nguội. Những lúc nguội rồi bà thường khóc. Khóc theo
kiểu lặng lẽ, ngẩn người nhìn trân trân vào điểm bất định nào đó
trong không gian, mặc nước mắt cứ lăn dài trên má.
Chẳng biết cha mẹ ruột hai đứa con nuôi của mình là ai, còn sống hay
đã chết, bà vẫn chẳng quên họ. Mỗi năm vào dịp đám giỗ Hảo hay người
chồng đã khuất bóng, bà thường thành khẩn thêm:
- Lạy cha mẹ của con Xí và thằng Cu Ðen – Bà tin những cái tên đầu
tiên là do cha mẹ hai đứa đặt! - Sống khôn thác thiêng, các anh chị
có công đẻ, tui góp công nuôi. Xin phò hộ cho ba mẹ con tui được
bình an vô sự , làm ăn phát tài! Phò hộ cho hai đứa nên người tử tế!
Sống đời lên đên trên sông, rất hiếm gia đình cho con cái lên bờ,
lên phố đi học. Nếu có, học hành cũng không đến nơi đến chốn. Bà Tấm
khác thiên hạ láng giềng, buộc Hạo phải vào trường đến lớp và học ra
học, chơi ra chơi!
Từ năm Hạo bảy tuổi, bắt đầu cắp sách đến trường đến lúc bà Tấm mất,
không dưới hai mươi lần, khi ngắn gọn, lúc dài dòng, bà lặp đi lặp
lại mãi những câu này:
- Tao vô phước vô phần, đẻ được thằng con lại ngu dại để súng đạn
nuốt mất. Tao coi mi như con đẻ. Gắng bỏ chữ nghĩa vô bụng mai sau
ấm tấm thân, khỏi dầm mưa dãi nắng. Tao không trông chờ mi nuôi tao
đâu mà lo. Tao bảo học là phải học, lạng quạng ham chơi lêu lổng toa
khẽ cho què cẳng.
- Cả đời tao lỡ cực thì cực luôn không sao. Mi không nghe tao là đổ
thêm cái cực lên đầu tao đó. Không học, lớn lên mi chỉ có nước làm
phu khuân vác, hoặc đứng bến làm ma cô ma cạo như bọn con ranh ở mấy
cái vạn đò quanh đây thôi, nhớ chưa?
- Muốn là thằng Hạo con tao thì đi học, muốn làm thằng Cu Ðen, mi
đừng bước xuống, đừng chun ra chun vô cái đò này nữa!
Quen lăn lóc bụi đời, lêu lổng từ tấm bé, giờ phải ép mình vào khuôn
khổ, phải quẩn chân ngày hai buổi trong lớp, không được nói năng
luông tuồng, ba xí ba tú, ban đầu Hạo rất lấy làm khổ sở, riết cũng
quen dần. Quen và vui ngầm khi thấy mình là dân nốt – đò còn gọi là
nốt – nghèo khó cũng kết bạn được với bọn học cùng lớp thuộc loại
con nhà giàu trên phố, lỡ vui tay đánh lộn, những tên công tử này
thường chạy dài. Quen và hãnh diện ngầm khi sáng sáng chiều chiều ôm
cặp đi về thấy bọn trẻ ở các đò láng giềng thường ngắm nghía mình
với con mắt vừa ganh tị vừa nể phục, bọn chúng hẳn nghĩ đi học là
sướng, là oai lắm!
Cứ thế, mùa tiếp mùa, trường lớn và sách vở dần dần hấp dẫn, thằng
bé bụi không đến nỗi tối dạ. Và Hạo đã không phụ lòng bà mẹ nuôi
lắm. Mỗi lần Hạo mang học bạ về khoe vị thứ hàng tháng thuộc loại
khá, bà Tấm thường sung sướng đến rướm lệ, cung ngón tay khỏ lên đầu
cậu con trai một cái rõ đau, đoạn kéo Hạo lên bờ ép ăn đến hai tô
phở, bún hoặc cao lầu tùy ý Hạo thích, còn bà thì không ăn, ngồi
nhìn Hạo, với ánh mắt âu yếm, nâng niu khôn tả.
Như con thú hoang quen chạy nhảy lung tung lang tang trên thảo
nguyên, nay bị bắt về làm gia súc gia cầm trong nhà, tính tình ngang
bướng, ưa ăn cắp vặt của Thu được đôi “bàn tay sắt” của bà Tấm uống
nắn gần cả năm mới tương đối thuần thục. Có điều, càng lớn, Thu càng
làm bà mẹ nuôi thất vọng.
Từ con cò hương, Thu dần dần thay da đổi thịt thành một cô gái nhan
sắc chẳng mỹ miều gì lắm, nhưng cũng thu hút khá nhiều cặp mắt hau
háu của bọn đàng ông, con trai.
Ðến tuổi biết cầm lược cầm gương, Thu nẩy tật thích đỏng đa đỏng
đảnh, đua theo bạn lứa học đòi ăn diện. Thích chụp ảnh. Ưa đàn đúm
hát ca với lũ con trai con gái láng giềng. Theo các ả gaing hồ đi
coi phim, coi hát và tập tành trang điểm... Năm Thu mười sáu tuổi.
Một hôm cô giả vờ đau xin mẹ ở nhà. Ðang giữa buổi chợ, bà Tấm quay
về đò để lấy một món tiền trả nợ gì đó, bắt gặp Thu tình tự với một
anh chủ tiệm chụp hình.
Buổi trưa đi học về thấy bà ngồi chóc ngóc một mình bên mâm cơm. Hạo
hỏi Thu. Bà mẹ long mắt lên nói chậm rãi:
- Hắn không muốn làm người tử tế, học đòi thói trăng hoa, tao đuổi
cổ hắn đi rồi. Từ nay hắn không còn là chị của mi nữa!
Bữa ăn qua trong không khí nặng nề. Ðôi khi Hạo ngỡ như không nhai
nuốt cơm mà nhai nuốt cát hoặc sạn. Trước khi buông đũa, Hạo sững sờ
thấy bà mẹ nuôi ràn rụa nước mắt, lặp lại cái điệp khúc quen thuộc:
- Tao vô phước vô phần, đẻ được một thằng con lại ngu dại để súng
đạn nuốt...
Không là ruột thịt. Cùng sống dưới một vòm mui do sự ràng buộc tình
cờ. Thu thương yêu Hạo không kém bà mẹ. Ngoài sự chia xẻ ngọt bùi,
Hạo còn dạy Thu học đọc học viết. Bỏ chữ nghĩa vào bụng chẳng biết
ngày sau Hạo có được ấm tấm thân như bà mẹ hằng mong không. Riêng
Thu, Hạo có chút chữ nghĩa nên cô chị vừa thương vừa nể cậu em rất
mực.
Kín đáo hơn Thu, rất ít khi Hạo để lộ tình cảm chị em ra mặt. Sau
ngày Thu bị đuổi đi, lựa lúc bà mẹ vui vẻ, Hạo năn nỉ bà tha lỗi cho
Thu, Hạo sẵn sàng đi tìm Thu về. Năm lần bảy lượt bà Tấm cứ lắc đầu:
- Tao kể như đổ xuống sông công lao bao năm nay đùm bọc nuôi dưỡng
nó mà không dạy dỗ nó nổi. Tao không tiếc sao mi lại tiếc? Hay mi
muốn theo hắn, tao cho đi luôn?
Thế là Hạo đành câm họng. Thời gian đầu, thỉnh thoảng vào đêm Thu
quay về, không dám xuống đò. Ðứng lóng ngóng trên bờ, hoặc ngồi cú
rũ trên bến đá khóc lặng một hồi rồi bỏ đi.
Vắng Thu, Hạo thấy nhớ. Nhớ nhất là các món ăn do Thu nấu. Canh cá
hồng, cá ngạnh nấu với thơm hoặc măng chua, cá nục kho nổi bập bền
những trái ớt xanh mềm múp vừa cay vừa ngọt, cá trê nướng chấm nước
mắm gừng kèm rau răm và dưa món, những chén chè đậu xanh, đậu đen
đậy sẵn trong lồng bàn dành cho cậu em học khuya...
Nhớ Thu may được cái quần, cái áo mới nào về cũng khoe, để rồi cười
tít mắt khi nghe cậu em chê áo quần hệt của mấy bà lên đồng lên
bóng. Nhớ lần nào bị mẹ đánh, Thu cũng nhét cảm nạm tóc vào miện cắn
răng chịu trận, để rồi sau đó khóc lén khóc chùng với Hạo. Chờ cho
cô chị khóc cạn nước mắt, cậu em mới tưng tửng bảo:
- Chị ngu lắm, kheo khéo một chút thì đâu đến nỗi bị đòn.
Thu cười như mếu:
- Ờ, chị ngu thật. Cậu có học có hành hơn chị là cái chắc. Lâu lâu
nhắc chừng chị với.
Hạo lắc đầu cười khẩy:
- Hết nhắc nổi. Chị có còn bé bỏng gì nữa đâu. Dạo này lắm lúc trông
chị giống con ngựa vía bỏ mẹ. Có khi chị lồng lên mà chị không hay!
Thời gian đầu, thỉnh thoảng Thu đến đón Hạo trước cổng trường, sau
đó hai chị em vào một quán nước hoặc vào công viên. Hạo buồn rầu
ngồi nghe Thu khóc nhiều hơn nói. Ðôi lần Thu cứ nằng nặc nhét tiền
vào đôi tay cậu em buộc phải nhận. Thu bảo vừa xin được chân chạy
bàn ở một quán bún nào đó tận ngoài An Hòa. Cầm những tờ giấy bạc
thơm thoảng mùi nước hoa rẻ tiền, Hạo nghe nước mắt cay cay, cảm
thấy lờm lợm và mơ hồ nghi ngờ về công ăn việc làm của Thu mà không
tiện hỏi.
Biệt dạng một thời gian, vài lần Hạo buồn bã giả ngơ khi thấy Thu
cặp tay đi bộ hay ngồi xe với một người đàn ông lạ mặt rong qua phố.
Cô Thu những lúc ấy phấn son lòe loẹt, áo quàn chải chuốt, chẳng
giống con cò hương trên bến cá ngày nào, hay chị Thu của Hạo gần
đây.
Hạo cứ ngỡ Thu vĩnh viễn ra khỏi đời mình. Không bao giờ nàng còn
quay lại trong ràng buộc chị em với mình nữa. Ðâu đó, Thu đang khóc
cười hoặc say vật vã trong vòng tay những gã đàn ông tạm bợ, trong
quán xá, phòng trọ dọc đường ngầy ngật mùi rượu bia, mịt mờ khói
thuốc lá, đẩy đưa, mặc cả, nhận những tờ giấy bạc thoảng mùi nước
hoa hay mùi dầu gió, khai khắm mùi mồ hôi tanh lợm. Ðâu đó Thu còn
đi đứng tựa con ngựa vía hoặc đã bệnh hoạn trầm xuống tựa chiếc lá
rụng sớm, như hạt bụi đã đổi tên. Không thể biết! Ngỡ là thế nhưng
rồi vào một ngày không đẹp trời lắm, Hạo lại bỡ ngỡ thấy Thu quay
về. Hóa ra trong cái ký ức bây giờ hẳn đã lấm bụi của Thu, hình ảnh
con đò, những bến sông và hai con người thân thuộc ở chốn này chưa
hề bị quên lãng.
Ngày ấy vừa xong buổi chợ đang thu vén quan gánh ra về, bà Tấm bỗng
ngã ngất. Các bạn hàng quen đưa bà vào bệnh viện cấp cứu. Tai biến
mạch máu não làm người đàn bà quen dầu dãi nắng mưa mê man bất tỉnh
suốt hai tuần và một tháng sau trở lại con đò của mình với nửa người
bị liệt.
Thu quay về. Vó dạc mảnh mai gói trong chiếc sơ mi hoa tuềnh toàng,
chiếc quần jean bạc phếch, cái túi xắc cũ sờn khoác hờ hững bên vai,
và đôi mắt tim tím vết quầng thâm. Không phấn son, Thu bước xuống đò
với vẻ mệt nhọc tỉnh táo của người vừa vượt qua tâm một cơn bão.
Nàng quỳ ôm, quệt nước mắt vào đôi chân nứt nẻ dấu nắng mưa của
người mẹ, khóc lóc xin thứ tha.
Bà mẹ không cất nổi tay lên để xua đuổi nữa. Giọng lưỡi ngọng nghịu
không thể la mắng nổi nữa. Bà Tấm chấp nhận sự quay về của đứa con
nuôi bị ruồng bỏ bằng cách khẽ gật đầu, mở trừng mắt nhìn lên mui
đò, để mặc hai giọt nước trong vắt lăn dài xuống đôi má vàng màu sáp
nguội.
Năm năm mất tăm tích nay bỗng về. Buổi tối đầu tiên của ngày về, Thu
gọi Hạo ra ngồi trước mũi đò, bâng khuâng ngước nhìn nửa mảnh trăng
cài trên đỉnh núi Ngự, nói vui:
- Tạ ơn Trời Phật, may mà chị về kịp lúc. Về mà mẹ đã mất chắc chị
ân hận, đau khổ suốt đời. Giờ chị chỉ mong mẹ thương chút nào hay
chút nấy, để chị được hầu hạ, chăm sóc bà qua cơn bệnh hoạn. Chị sẽ
không bao giờ đi nữa. Em tin chứ?
Hạo chẳng ừ hử. Ngập ngừng một chút, Thu hắng giọng ho khẽ:
- Có cái này từ lâu chị để dành tặng cậu. Những lúc cùng túng nhất
cũng không nỡ bán. Chả đáng giá là bao nhiêu, cậu nhận cho chị vui
nhé!
Nói xong, thu khẽ dướn người, định âu yếm quăng sợi dây chuyền vàng
vào cổ cậu em. Hạo đẩy tay nàng ra, lạnh nhạt bảo:
- Ðồ của chị dơ lắm, đừng dây vào tui!
Thu chết lặng, bẽn lẽn rụt tay lại, bỏ sợi dây chuyền vào túi áo.
Câu nói bất ngờ như cái tát. Câu nói cơ hồ làm cậu em hóa già cỗi
hẳn đi trước đôi mắt mở lớn kinh ngạc pha sượng sùng của cô chị.
Những ngày xa xứ, bao giờ trong nỗi nhớ của nàng, Hạo vẫn chỉ là một
thằng bé lầm lì, kín đáo, giỏi giang việc nhà. Bây giờ chữ nghĩa đã
giúp cậu ta lớn hẳn. Chỉ cần vài chữ cậu ấy ghép thành một câu ngắn
thôi mà sao mình nghe xấu hổ muốn chết!
- Chị về em không mừng à? Bộ em khinh và ghét chị lắm sao?
Hạo đăm đăm nhìn mặt nước gờn gợn ánh trăng làu bàu:
- Chị nhảy xuống sông tắm ngay đi. Tắm như cái ngày đầu tiên chị mới
đặt chân xuống đò này ngày xưa ấy. Tắm cho sạch hết bụi bặm dọc
đường đi, em lại sẽ coi chị như chưa hề đi!
Thu sẽ không đi nữa? Ban đầu Hạo nửa tin nửa ngờ. Nhưng rồi Hạo tin
Thu muốn tu tỉnh thật. Nàng xin làm công cho một hiệu uốn tóc trong
phố. Luôn lánh mặt mỗi lần có một gã nhân tình nhân ngãi cũ gì đó
đến kiếm.
Lãnh tiền lương tháng đầu tiên, Thu mua cho Hạo chiếc đồng hồ đeo
tay xoàng thôi, nhưng Hạo đã vui vẻ nhận, không chê dơ nữa.
Bà mẹ cố gượng sức tàn, nằm yên để cho Thu hầu hạ, chăm sóc đền ơn
được hơn ba tháng mới mất.
Hai lá phổi của Thu không ổn từ những năm tháng cười khóc, hát hỏng,
đớn đau, hoan lạc, được mê si, bị phụ rẫy dọc đường gió bụi Ðà Nẵng,
Quy Nhơn, Nha Trang nay buộc nàng lên cơn sốt, ho lẻ rồi ho hàng
tràng dài cho đến ngày phải vào bệnh viện.
Ðêm tiếp tục tím như mực, đen như than. Ðò tiếp tục trôi xuôi vì Hạo
không hề chèo ngược. Vầng trăng treo trên mũi đò thầm lặng chơi trò
ú tim, chợt ẩn hiện giữa những vầng mây tối. Ðôi khi trăng chao đảo
như chực rụng.
Dọc hai bên lường hông Cồn Hến, Vỹ Dạ ánh đèn đầm ấm hắt từ những ô
cửa xuyên qua vườn cây rơi lạc xuống sông từng vạch sáng manh mún
đuổi bắt nhau rồi mất hút trên mặt sông. Những bờ bến Hạo thường ghé
lại giao than củi tuần tự lướt qua.
Khuấy chèo cho đò cặp sát vào cái bến đá có cây sung cổ thụ xen tre
pheo rợp bóng sau lưng nhà Ðạt. Hạo loay hoay buộc dây lòi tói neo
đò, đoạn vào đánh thức bạn dậy.
Ðạt ú ớ lăn trở chưa chịu ra khỏi xiềng xích của giấc ngủ mệt mỏi.
Hạo gắt:
- Dậy đi thằng say. Tới nhà rồi.
Theo đà kéo dứt khoát của Hạo, Ðạt ngồi bật dậy, ngơ ngác giụi mắt
lè nhè:
- Ủa, tao đang ở đâu thế này?
Hạo cười:
- Thiên đường chớ đâu.
Thần trí lãng đãng toàn những sương và khói, Ðạt đảo mắt đỏ ké nhìn
quanh, cười khùng khục trong cổ.
- Nhớ rồi. Tao đang ở trong cái “biệt thự nổi” trứ danh của thằng
Trương Chi. Mà sao lại phải dậy nhỉ?
Không dưng Hạo nghe giọng mình cay đắng một cách trần trụi:
- Tại vì mi làm gì có được sự tự do giống những thằng độc thân đúng
nghĩa như tao. Tự do của mi thuộc về mẹ mi, em mi. Mi không dẫn xác
về cả nhà sẽ lo sốt vó.
- Có lý. Có lý!
- Ðạt lẩm bẩm, uể oải vươn vai đứng lên, khom lưng chun qua vòm mui.
Hạo bước theo. Như chực sẵn bên ngoài, ngọn gió buốt xót tốc tới
quàng quấn lấy Ðạt làm thằng say vừa tỉnh loạng choạng suýt ngã. Ðạt
níu lấy vai bạn, ghé sát tai Hạo nhừa nhựa nói:
- Mi đợi tao năm phút lên nhà lấy thêm rượu xuống nhậu tiếp. Bà già
tao còn cả thẩu rượu to đại chang. Ủa, cái chai đâu rồi nhỉ?
Hạo lầu bầu:
- Ðủ rồi. Tao về. Bước lên hay chờ tao quăng mi lên bến?
Ðạt lạ lùng nhìn Hạo như thể hai đứa mới gặp nhau lần đầu. Thấy
dường như có hai thằng Hạo chập chờn trước mắt, Ðạt cố ý nói như
rặn:
- Về hả? Bộ đêm nay có hẹn vơi con rái cá của mi hở?
Hạo phán chắc nịch:
- Ðếch hẹn. Ðơn giản là tao muốn về lại cái bến quen thuộc của tao
thôi!
- Bộ bến này lạ lắm à?
Ắng lặng mươi giây, Hạo mỉm cười, nửa đùa nửa thật:
- Không lạ. Nhưng chả hiểu tại sao dạo này cứ mỗi lần ghé bến nhà mi
tao run quá. Hình như ở đây lạnh hơn các nơi khác.
Và với chút cảm giác là lạ rất khó tả vụt thốn qua người. Hạo đưa
mắt lên bến nhìn lại chỗ cô tiểu thư con nhà vườn trao cho anh chàng
bán củi tách trà nóng hôm nào.
Chưa kịp ước có phép lạ nào giúp nàng tiên hiện ra ngay tức khắc để
chiêm ngắm cho thoả. Hạo bỗng nghe vai mình nhẹ hẫng, chẳng còn bàn
tay Ðạt níu nữa.
Ðạt gập người trên mạn đò rũ liệt hệt tàu lá chuối héo. Hạo thảng
thốt rủa thầm, chết mẹ, hắn bị gió quật trúng rồi! Xốc tàu lá chuối
lên tay, vừa nghe tim đánh lô tô trong ngực vừa quýnh quáng bước lên
bến, xoạc chân rộng hết cỡ. Hạo đi như chạy một mạch vào nhà.
Bà mẹ và nhóc tì Châu đã ngủ. Chỉ còn ánh đèn hắt ra từ phòng Sớm
Mai. Nghe tiếng kêu cửa, cô giật thót, rời bàn học nhẹ nhàng lê dép
ra mở cửa.
- Suỵt! Không sao cả, Ðạt bị trúng gió. Lấy dầu gió lẹ lên!
Hạo nói nhanh không kịp thở. Nói nhỏ như chưa bao giờ nhỏ đến thế.
Dứt khóat phải chiếm “đài” trước, sợ cô gái “phát thanh” một tiếng
kêu hớt hãi, kinh dị cả nhà sẽ thức dậy và rắc rối sẽ không biết
chất đống ở đâu mới hết.
Ðôi mắt cô tiểu thư con nhà vườn thường ngày vốn đã sáng quắc tựa
hai ngọn đèn một trăm watts, bây giờ vụt sáng tới một trăm hai rồi
dần dịu đi. Sớm Mai đưa tay chặn lấy ngực vẫn còn e tim sẽ vọt ra
ngoài, thinh lặng quay vào phòng, mở hộc bàn tìm dầu và thuốc. Hạo
rón rén bước theo vào, “trải” tàu lá chuối héo lên giường.
Suốt thời gian Hạo cạo gió, xoa dầu cho ông anh phải gió của nàng
uống thuốc, Mai ngồi làm thinh vòng hai tay trước ngực với vẻ mặt
chằm vằm, lạnh nhạt nhìn như thể đang xem Hạo cạo lông một con thú
lạ.
Thời gian lặng lẽ đẩy đêm trườn tới, trôi qua những kẽ hở im lặng.
Nỗi im lặng ngát hương dầu khuynh diệp vây lấy ba đứa tưởng chừng
đông cứng lại, đếnlúc Ðạt tỉnh lại cũng hụt hết hơi, chẳng mở miệng
thốt được lời nào, Ðạt bẽn lẽn, lọng cọng móc xâu chìa khóa từ túi
quần, ra dấu nhờ Hạo đưa mình về phòng.
Rắp tâm, lòng dặn lòng chuẩn bị sẵn một cái lườm thật sắc để tặng
anh chàng bê bối dám rủ anh người ta đi đâu đến tận đêm mới “ẵm” về
bèo nhèo in cái xác chết. Vẫn vòng tay trước ngực, Sớm Mai đứng tựa
khung cửa bực bội chờ Hạo.
Tâm sự gì mà dài dòng thế chả biết. Hay hai con sâu rượu ôm nhau nằm
ngủ thắng cắng trong ấy rồi? Ui, thời gian chờ đợi để yêu hay để
ghét gì cũng dài dằng dặc như nhau cả sao? Nhìn điệu dáng chờ đợi
của Sớm mai lúc này, người ta dễ có cảm tưởng hình như cô cố ý ưỡn
ngực ra cho thêm phần bệ vệ, thêm phần kênh kiệu lạnh lùng, gầm ghè
gay cấn. Chờ đợi mới có bảy phút Mai ngỡ bảy năm, suýt bỏ cuộc thì
thấy anh chàng quay ra.
Hạo quay ra nghe mệt bã người. Ngượng ngùng đến độ tính giả ngơ bước
thẳng không chào cô chủ nhà. Ðêm nay trông cô bé ớn quá. Cứ nghiêm y
như là bà phán quan nhỉ! Mắt sắc lẻm đã đành. Chót mũi cơ hồ cũng
nhọn hoắt hẳn ra. Còn miệng thì, ôi thôi khỏi chê, cặp môi mỏng chúm
lại tựa huýt gió không ra tiếng. Bây giờ mà có chiếc máy ảnh chụp
chân dung cô nàng, mang dọa trẻ con, một trăm đứa e hết chín mươi
chín đứa rưỡi phải khóc thét. Nhưng đừng dại đem ảnh dọa những đứa
trẻ lớn cỡ tuổi mình, mười đứa chắc cả mười đòi thương nàng da diết!
Vừa đi vừa nghĩ lung tung lang tang, pha chút màu mè hài hướt cho
đỡ... khớp. Ngang qua mặt cô nàng, anh chàng ngẩng cao đầu vẫn cảm
tưởng chân hơi riu ríu. Bước qua chiếc bóng nàng do ánh đèn trong
phòng hắt ra ngã dài trước thềm, chàng cảm thấy rờn rợn, ngỡ bất
thần nó - chiếc bóng - sẽ bật lên quấn lấy chân quật mình đo ván.
Cái khoảnh khắc bước qua ấy chỉ trong chớp mắt, Hạo thấy sao dài
quá, dài quá!
Nỗi dằn dỗi ấm ách trong ngực còn y nguyên, bởi cái lườm chực sẵn đã
không thi triển được. Sớm Mai ê chề thất vọng thấy anh chàng đi
ngang qua chẳng thèm nhìn mình, dù chỉ với một phần tư con mắt.
Nhưng rồi Hạo chợt quay ngoắc lại. Bất ngờ quá, Mai không lườm kịp,
đành ra vẻ lạnh lùng nghe anh chàng lí nhí:
- Ủa quên, còn túi xắc, cây dù và cái áo của Ðạt dưới đò, Sớm Mai ra
mang hộ vào nhé!
Bước qua cái bóng của nàng rồi, chàng thôi khớp. Khi quay lui, Hạo
định gọi trêu nàng là Buổi Tối như hôm nào từng gọi đùa là Buổi
Trưa. Chạm phải ánh mắt lạnh lùng như ánh thép, chàng bèn gọi đúng
tên nàng cho... đứng đắn.
Ðôi mày liễu dại khẽ cau trên vầng trán lướng vướng mấy sợi tóc tơ
làm duyên. Cặp môi chum chúm vẫn mím chặt như ngại gó lùa lạnh răng.
Sớm Mai đủng đỉnh quay vào phòng tính quơ cái áo veston cũ kỹ máng
trên lưng ghế khoác vào thốt nhớ anh chàng từng châm chọc mình diện
modern hết ý, bèn mở tủ lấy chiếc áo len sọc ngang đen trắng, giống
hệt màu da rắn mai gầm mặc vào, với ý nghĩ khá buồn cười là diện cho
đẹp để anh chàng ngắm cho bõ ghét, nếu cần thì ngất xỉu luôn càng
tốt!
Trước khi ra khỏi phòng, Sớm Mai bật cái contact bên ngách cửa. Ngọn
đèn ẩn dưới cái chao hình nón treo ngoài bến tỏa sáng.
Hạo cố ý đi tụt lại phía sau ba bước. Không sánh vai cô nàng không
phải vì sợ “bất kính” mà để khỏi thấy vẻ mặt sưng sưng tuyên chiến
thầm lặng của cô chủ nhà. Vả lại, đôi khi ngắm từ đằng sau một cô
gái cũng thấy hay hay, cũng rất khó quên như khi ngắm từ phía chính
diện. Màu áo len thoáng ẩn hiện trong bóng lá nom đẹp mê hoặc. Áo
nàng vàng anh về yêu hoa cúc ! Câu thơ của Nguyên Sa đúng là thơ.
Thế nếu nàng mặc áo sọc thì sao? Áo nàng sọc anh về yêu rắn mai gầm!
Ý nghĩ bất chợt suýt làm Hạo phá lên cười, vội đút ba ngón tay vào
miệng. Không phá lên cười không phải vì ngại cô nàng chê mình “mát”
bất tử, mà vì Hạo không muốn phá vỡ bầu không khí cực kỳ nghiêm
trọng cực kỳ căng thẳng nàng đang cố dàng dựng.
Chẳng lẽ cứ ngậm miệng không cho anh ta một bài học sao? Ðể anh ta
ra về yên thấm, ngang tàng vậy sao? Vừa chầm chậm bước, Sớm Mai vừa
lòng tự hỏi lòng một cách “đau khổ”. Tình cờ vấp cục đá bên lối đi,
sực nhớ tách trà hôm nào bị chê, và sự tự ti có vẻ giả tạo cuả anh
chàng khi lên mặt ta đây con nhà nghèo chỉ quen uống nước lạnh. Sớm
Mai mỉm cười rẽ vào chái bếp múc đầy gáo nước mưa mang ra đứng trong
thứ ánh sáng nhập nhòa của ánh đèn và ánh trăng đưa mời khách:
- Xin lỗi, nãy giờ quên mời anh uống nước. Thứ nước anh vẫn thích!
Gáo nước thình lình xuất hiện và ngữ điệu xem trong lịch sự có phần
mỉa mai của nàng thoáng làm chàng khựng hẳng, đoạn đâm ra phục lăn.
Tuyệt vời! Cô bé... thù dai hết biết. Cô bé cũng biết trả đòn ra
phết! Ðòn này rất “môn đăng hộ đối” với đòn tách trà nóng mi hắt đổ
xuống sông ngày nọ! Hoan hỉ than thầm rồi Hạo làm bộ trịnh trọng đưa
tay cầm lấy cái gáo theo kiểu gượng nhẹ như nâng trứng, hứng hoa, ra
vẻ bình thản đưa lên miệng uống ừng ực. Nước tới đâu nghe mát ruột
mát gan tới đó. Còn lưng nửa, Hạo đưa trả. Không cầm gáo, Sớm Mai
nghiêm... nghị nguýt:
- Uống hết đi chứ, ông bán than! Bộ chê nước nhà tui à? Hay các ông
tối nay đi uống rượu no rồi? Các người sặc sụa cả mùi rượu, bộ tưởng
tui không biết hả? Mai tui mét mẹ tui là anh hết bán củi ở đây!
Hả dạ quá! Nhưng như vậy đã là một bài học cho gã chứ nhỉ? Cố tình
xoáy tia nhìn “sát phạt” ghim ngay tinh mũi “đối phương”, Sớm Mai
càng tự tin vào cái “uy” của mình, càng hả lòng hả dạ hơn nữa khi
thấy gã bán than chẳng nói chẳng rằng, lại ngoan ngoãn đưa gáo lên
miệng. Trợn mắt mà uống. Nước tới đâu nghe buốt ruột buốt gan tới
đấy! Cục hầu trên cổ hốt hả lên xuống trông phát tội.
Nghiêm trang nhận lại cái gáo cạn ráo. Sớm Mai mỉm nụ cười mê hồn,
kèm cái chớp mắt lạc vía, tiếp tục giọng chì chiết bọc đường:
- Hóa ra anh yêu... nước quá nhỉ!
Hạo vẫn nín khe. Hạo bữa nay như thể là một Hạo nào khác. Hiền lành,
nết na rất mực. Anh chàng mồm mép, giọng lưỡi ngang in như cua đâu
rồi? Anh ta cho ai mượn hết ngôn ngữ rồi chăng? Lưỡi anh ta dính vào
răng rồi ư? Hay sau cái trán phất phơ mớ tóc nom rất bụi đang sắp
đặt trò trêu chọc tinh quái nào, và sẽ tung ra vào lúc bất ngờ nhất?
Thấy mặt gã con trai trơ lì tựa tảng băng, tưởng chừng bất cứ ánh
mắt nào nhìn vào cũng sẽ bị cong bật trở lại, Sớm Mai hơi chột dạ.
Càng áy náy hơn khi Hạo xuống đò lấy hết các thứ lên đưa cho cô cũng
chẳng thốt hay thưa tiếng nào.
Ðêm nay có lẽ anh chàng không thích nói mà chỉ thích nghe? Ai chẳng
có lúc không dưng bỗng nẩy những ý thích ngang xương, trái khoáy như
thế!
Không khí chia tay lặng lẽ. Không một câu chào. Không cả nụ cười. Cả
hai cùng cảm thấy ngượng ngùng như thể hai diễn viên trên sân khấu
giữa chừng vở kịch, thốt nhiên quên hết lời thoại của vai mình đang
diễn, đang đứng trơ mắt nhìn nhau.
Sớm Mai trở vào nhà với bước chân nặng nề kéo lòng chùng theo. Bàn
tay vô hình nào sắp đặt mà cắc cớ thế nhỉ? Cuộc gặp không mong lại
mang đến cho mình nỗi bực bội lãng xẹt, vô duyên òm! Ngỡ cho anh ta
một bài học rồi nỗi ấm ách trong mi sẽ tan ngay. Hóa ra chưa! Hình
như nó chỉ mới nguôi đi một nửa. Sớm Mai tắt đèn, vào giường ngủ.
Nhưng rồi Mai bảo mà Mai chẳng nghe. Cô muốn ngủ mà cứ thấy mình
thức. Ức quá! Rầu ghê!
Ngọn đèn dưới tán sung tắt ngấm, trả bến lại cho ánh trăng non yểu.
Cảm giác cô đơn lại vây ngợp. Nghĩ đến đoạn đường phải chèo đò quay
về. Hạo ngán ngẩm tưởng như đêm nay có chèo rụng cả tay cũng không
cách gì về tới bến cũ, tưởng như đường sẽ dài lê thê, dài đến vô
tận.
Sự mệt mỏi pha lười biếng ấn Hạo ngồi chồm hổm trên bạc đá, trân
trối nhìn con đò lù lù một đống tựa con quái vật nào từ mặt nước
phẳng lặng vừa trồi lên, đang chờ để nuốt chửng mình. Nuốt vào để
rồi sáng mai lại nhả ra, tiếp tục đi đứng tới lui hệt một con rối!
Con đò, dù đã được Ðạt đặt cho cái tên nửa khôi hài nửa sang trọng
là “biệt thự nổi” lúc này nom nghèo nàn quá thể. Hàng ngày chun vô
chun ra một chỗ nghèo hèn như thế làm sao cất nổi mặt lên với đời?
Thế mà hàng bao nhiêu năm nay mi đã thương yêu nó như thương yêu một
mái nhà, kể cũng lạ thật!
Nào, thử tưởng tượng mi cưới một cô vợ không đẹp không xấu, bình
thường thôi và đặt nàng lên cái con quái vật trôi nổi kia sẽ buồn
cười biết chừng nào. Ðó chỉ là một cô bình thường, còn vào cỡ cao
đạo, đài các, tiểu thư con nhà vườn như Sớm Mai?
Sớm Mai! Sớm Mai! Sớm Mai! Cái tên tự phát rồi tự dội đi dội lại
trong trí làm Hạo vụt giật thót ngoảnh trông lui, ngỡ cô nàng còn
đứng đâu đó trên bến với gương mặt sáng trăng viền vầng tóc tung gió
điệp vào bóng lá hình cây, đôi mắt cháy bỏng ánh lạnh lẽo hòa điệu
cách tuyệt vời với nét môi chàu bạu kiêu kỳ. Không, chẳng có ma nào
cả. Cây sung nghịch ngợm ném một chiếc lá ngay mũi làm Hạo tẽn tò
quay cần cổ về vị thế cũ.
Bất giác, gương mặt thanh khiết của Diễm lồng khung kính chưng trong
phòng Ðạt – lúc nãy Hạo đưa Ðạt vào, tình cờ trông thấy - với bình
hoa và bát hương bỗng hiện rõ mồn một trên màn ảnh ký ức, Hạo thốt
rùng mình. Tưởng tượng một ngày nào đó hẳn là trước ngày tận thế, mi
bị một phát tên mù theo kiểu nói của Ðạt. Yêu chết mê chết mệt cô
nàng nào đó rồi nàng bỗng lăn ra ngoẻo, liệu mi có đâm ra dở dở ươn
ươn như Ðạt bây giờ không nhỉ? Không, chắc không đến nổi tệ hại như
vậy đâu. Ví dụ Nga Mèo Hoang chẳng hạng? Không bao giờ đau đến thế.
Ví dụ Băng Sâm à? Lại càng không thấm thía gì. Cỡ mười Nga Mèo
Hoang, hai chục Băng Sâm có bất thần lăn ra ngoẻo sau khi đã tặng ta
cái phát tên mù phải gió kia, thì thằng Hạo này cũng sẽ không điên
đảo như thằng Ðạt gà chết kia đâu.
Thế tưởng tượng, giả dụ, giả thiết cô nàng xấu số, yểu mệnh ấy là,
là, là Sớm Mai thì sao?
Sớm Mai! Cái tên chợt nổ tung hệt chiếc pháo đại trong đầu và Hạo
bỗng hoa mắt ù tai, xuất hạn dầm mình. Cả người như vụt bị nung bởi
ngọn lửa kỳ bí. Nóng quá. Nóng từ trong ra ngoài, từ ngoài vào trong
dù đêm đông không hề thiếu sương và gió lạnh.
Và, trời ạ đất ơi! Sững người chừng sáu mươi giây, cơ hồ bị động
kinh hay ma nhập, như thể không kềm được mình bởi thấy mặt nước đen
thui lăn tăn gợn sóng trên bến nhà nàng quyến rũ không chịu được.
Hạo thấy Hạo hấp tấp cởi quần áo ném vào lòng đò, nhảy ùm xuống nước
lặn một một hơi dài, buông thả hết cơ bắp, chìm xuống tận đáy sông
với câu hỏi cay nghiệt, nếu Sớm Mai chết? Sớm Mai chết thì sao? Câu
hỏi kín thầm mà nghe như lan dài, lan rộng theo sóng đến tận những
bến những bờ khác, nghe như tất thảy tôm cá, ếch nhái, rong rêu nhất
loại kêu lên, vọng lại. Hạo cố tình nín thở đến tận lúc không thể
nín nổi mới ngóc đầu dậy.
Làn nước lạnh giá ở bến sông nhà Sớm Mai hẳn cả trăm năm qua bây giờ
mới có vinh hạnh ôm ấp một chàng trai vào lúc hai mươi hai giờ. Giữa
đêm đông. Trong cơn điên nộ bất thần, và có lẽ mãnh liệt nhất trong
đời hắn.
Vùng vẫy như cá thêm một lúc nữa, thằng Hạo điên khùng mới chịu để
cho thằng Hạo có trái tim điếc đặc đứng yên. Cơn nóng đột ngột biến
mất thay bằng cơn lạnh. Lạnh cóng từ đầu xuống chân.
Hạo tỉnh táo leo lên đò. Cố kềm cho tay chân đừng run rẩy như những
cành cây phải gió. Trong ánh sáng leo lét của ngọn đèn dầu, thằng
người trần như nhộng quơ đại cái chăn quấn chặt vào mình, đoạn ngồi
thu lu trông ra vòm cửa hình bán nguyệt.
Ðêm tiếp tục lặn sâu vào khuya. Thằng người ngồi bất động ngước mãi
đôi mắt khô không khốc, ráo hoảnh lên bầu trời cao thăm thẳm. Chắng
tìm sao hay ngắm trăng. Nhìn trời nhưng thật ra hắn đang bận đẩy
ngược cái nhìn giễu cợt vào tận đáy sâu lòng hắn, với dấu hỏi móc
ngược tựa cái lưỡi câu cứ bấu chặt lấy tim làm ứa từng giọt mồ hôi
lạnh. Phát lên mu và ngày tận thế đã đến rồi chăng? Hắn nghe lì lợm
cãi lại. Không, chưa đâu! Mi chỉ điên một chút thôi, chưa đâu. Bao
giờ điên đảo mới thậm chí nguy!
oOo
Hôm sau, ngày chủ nhật tương đối đẹp trời. Nắng chưa xua tan hết
sương trên bến, chim non chim trẻ chim già đã ríu rít họp chợ trên
các vòm cây, chí chóe gọi nhau tắm nắng, để rơi hàng chuỗi tiếng hót
xuống mặt sông không hề làm gợn sóng.
Sớm Mai bưng thau áo quần khoan thai bước xuống mấy bậc đá, ngạc
nhiên thấy đôi dép da lạ ai bỏ quên.
Lát sau, Ðạt mang theo cái dấu bắt gió đỏ bầm giữa hai chân mày lừ
đừ xuống bến. Thả nhẹ chiếc áo sơ mi vào thau nước trắng xốp bọt xà
phòng, Ðạt nheo mắt cười nói:
- Giặt giùm anh cái áo!
Lâu lắm, hình như cả thế kỷ rồi, giờ Mai mới thấy lại một nụ cười,
nghe một câu nói thân ái của ông anh. Mai nghinh mặt:
- Áo ai thế?
- Của thằng Hạo. Hôm qua mắc mưa uớt, anh phải mượn áo hắn để thay.
Biết Ðạt nói dối, vì rõ ràng Mai vừa gột sạch những thứ tanh tưởi ở
chếc áo đêm qua Hạo đưa, cô cúi mặt cố nhịn cười, Ðạt tiếp:
- Giặt xong, mi làm ơn làm phước vá giùm chỗ rách trên vai cho hắn
luôn đi. Thằng này về cái khoảng mồ côi và nghèo thì... vô địch.
Sớm Mai hất cằm về phía đôi dép da, dấm dẵng:
- Ðôi dép của anh chàng bán than bỏ quên chắc?
Ðạt bật cười tiếng ngắn:
- Ðúng rồi. May là hôm nay chủ nhật, nếu không hắn sẽ chẳng giống ai
vì đi học bằng chân đất. Không dép, hắn sẽ quanh quẩn dưới đó không
dám lên bờ đâu. Chiều nay Mai mang dép và áo trả hắn giùm anh được
không? Anh chỉ chỗ hắn đậu đò cho.
Sớm Mai giãy nảy, tặng ông anh cái lườm ấm áp:
- Hay chưa! Em đâu có quen biết gì anh chàng gà điên ấy! Mới gặp vài
lần thấy ngông ngông ngang ngang như là du đãng. Nói chuyện nghe cứ
tức anh ách, ứa cả gan.
- Lầm rồi. Hắn hiền còn hơn đất!
- Trật rồi thưa anh. Ba trợn như tay đó cũng hiếm đấy!
- Ba trợn? Sao mi rành vậy?
- Ờ thì em thấy thế, cảm tưởng thế. Ðồng thời là cục đất sét do Chúa
nặn ra rồi hà hơi vào cả. Có khối anh con trai dễ thương, còn anh
chàng này sao khó thương quá!
Buột miệng tía lia xong mới biết lỡ lời, Sớm Mai đành ngượng nghịu
nghe Ðạt vặn vẹo:
- Cô con gái nhà này ăn nói có duyên hết biết! Ai mượn mi thương
hắn?
- Ờ há! Em...
- Chậc! Mi không chịu đi thì để anh mang trả hắn vậy.
Ðạt nói xuôi xị, dợm quay bước vào nhà. Sớm Mai nguớc nhìn Ðạt nói
vu vơ:
- Ðêm qua anh có nghe tiếng sáo không? Nghe gần lắm. Hình như ở ngay
bến này vẳng lên.
Ðạt chưng hửng:
- Thật không? Anh ngủ thẳng ro một mạch tới sáng như chết đâu có
nghe gì. Nếu là tiếng sáo thì của hắn chứ còn ma nào nữa. Ðêm qua có
khi hắn đã neo đò ngủ lại. Hắn thổi sáo khá lắm. Cây văn nghệ của
Ðại học Tổng hợp đấy. Mấy bài ruột của hắn là Thiên Thai, Lá Ðổ Muôn
Chiều, Hạ Trắng... nghe hay chứ?
Ðúng là Hạ Trắng, Thiên Thai và nhiều bái khác nữa. Ðêm qua thao
thức rồi tiếng sáo luồn vào ru ngủ cô nàng lúc nào chẳng hay. Suýt
dại dột gật đầu Sớm Mai vội khôn ranh trề môi buông thõng:
- Cũng tàm tạm!
Ðạt ra chiều tư lự, đoạn vỗ hai bàn tay vào nhau đánh bốp, bật cười
thành tiếng, thủng thẳng uốn giọng trêu chọc:
- Thôi chết rồi! Cái thằng bán than có trái tim điếc đặc này dám
chọn mi làm Mỵ Nương lắm nghe nhỏ. Trương Chi ngày xưa nhờ giọng hát
quyến rũ làm tan nát lòng si yêu của Mỵ Nương. Thằng Trương Chi cuối
thế kỷ hai mươi này cóc biết hát, bèn mượn tiếng sáo để chiêu hồn
thơ dại của mi chăng?
Như bất giác bị ai tinh nghịch đưa cái mẻ than kề bên má. Sớm Mai đỏ
mặt, khoá nước xà phòng tung toé vào Ðạt làm anh chàng nhảy loi
choi.
Tiếng cười từ vài tuần nay vắng bặt lại nổi lên nghe chẳng còn âu
sầu lắm nữa của ông anh khiến cô em chợt nghe lòng nhẹ hẫng.
Nhìn hút theo bóng Ðạt khuất dần trong vườn cây, Mai mủm mỉm cười.
Sáng nay nom anh Ðạt lạ ghê! Anh hình như bớt nghiêm và vui vẻ hơn
cả trước đây nữa. Ui, có trời họa may biết sao anh lại thay đổi in
chong chóng vậy. Lúc dễ thương muốn nựng. Khi dễ ghét đến muốn bợp
tai nhưng mình không dám!
Lá chao nghiên rơi xuống mặt nước vẽ từng vòng sóng loang hẹp rồi
loang rộng thành những vòng tròn đồng tâm trên bến. Một lúc nào đó
cô gái bỗng dừng tay vò xát quần áo bắt gặp mình quên hẳn anh Ðạt,
ngẩn ngơ nhìn những vòng sóng gợn. Mày cau tít, nhưng môi ngơ ngác
nở một nụ cười.
Ðôi khi, Sớm Mai hay bắt gặp mình cười vô duyên như thế!