Mỹ Lệ thấy nàng đang rất trẻ trung và yêu đời như
một thiếu nữ mới ở tuổi đôi mươi. Mỹ Lệ đang hạnh
phúc vì nàng vừa được thừa hưởng gia tài do cha để
lại là một trang trại nơi vùng Phước Sơn.
Nói đúng hơn, Gia Mỹ Lệ cùng ba anh em họ Phan
phải quyết đấu một mất một còn với tên chủ trại
Cao Lục Phát nham hiểm độc ác, một tên đã giết ba
và em gái nàng tàn nhẫn, cuối cùng nàng đã giành
lại quyền quản lý trại Quỳnh Hương này.
Khi mọi người còn vui với chiến công, lão Phan
Minh cùng ba đứa con gồm Ngọc Luân, Vũ Luân và
Nguyên Luân cũng đã trả được mối thù với tên họ
Cao tức Thạch Thiên Phát năm xưa phản bội bang Hoa
Mai. Bây giờ Mỹ Lệ tuy đã thành trại chủ nhưng
nàng đang cô lẽ, vì vậy lão Phan Minh muốn nàng
cùng Ngọc Luân mau chóng kết tơ duyên như hai họ
Gia - Phan hai mươi năm trước từng giao kết:
khi con trai con gái lớn lên sẽ tác hợp thành vợ
thành chồng.
Cho nên đêm nay Mỹ Lệ còn nằm thao thức mơ tưởng
đến ngày cưới, một người nàng yêu thương nhất
trong đời, người mà nàng đã dâng hiến thể xác cho
anh ngay trong đêm đầy biển lửa bịt bùng.
Mỹ Lệ nhớ hoài cái đêm thật thơ mộng đó ...
Khi hai người em của Ngọc Luân là Vũ Luân và
Nguyên Luân theo kế hoạch vào đốt khu trồng cây
thuốc phiện của tên Cao Lục Phát, còn Mỹ Lệ đi tìm
người yêu Ngọc Luân bị tên họ Cao giam giữ ở đâu
đó.
Nàng lần mò đi trong bóng đêm, chợt trông thấy
hình bóng tha thướt của hồn ma Mỹ Tâm hiện đến,
đứa em gái song sinh của nàng đã uổng tử.
Hồn ma Mỹ Tâm cũng trẻ trung nhưng khuôn mặt lại
trĩu nặng những tâm sự thầm kín đau buồn. Mỹ Lệ
từng nghe âm hồn em gái kể, Mỹ Tâm bị tên thầy bùa
Bảy Chà hãm hiếp rồi hắn dùng bùa ếm khiến nàng
phải chết trong đau đớn.
Bấy giờ bóng ma Mỹ Tâm đang bay lơ lững nhìn người
chị gái, đoạn âm hồn lên tiếng:
– Em không xứng đáng làm vợ anh Ngọc Luân, thân
xác em bị tên thầy bùa Bảy Chà cưỡng đoạt đâu còn
trinh nữ. Và khi hồn em đi xuống cõi u linh mới
hiểu chị là mối tình đầu của anh ấy, ngang trái éo
le thay vì cơ nghiệp nhà họ Gia chúng ta, chị hai
đành gạt nước mắt để anh Ngọc Luân cưới em, làm
tròn nghĩa vụ từ trên giao phó.
Rồi hồn ma Mỹ Tâm bình tĩnh nói tiếp:
– Bây giờ em chỉ là một hồn ma bóng quế, còn chị
mới là con người thật để anh Ngọc Luân yêu. Chị
hãy còn dấu “thủ cung sa” trên tay, sẽ hãnh diện
khi làm vợ anh ấy. Vậy chị hai hãy đi về phía
trước, anh Ngọc Luân đang đợi chị đó.
Nghĩ đến lúc gặp lại Ngọc Luân, Mỹ Lệ thật sự cảm
thấy sung sướng sau mấy năm không gặp, nhưng rồi
nàng lại khẽ thở dài vì khi gặp Ngọc Luân nàng sẽ
xử trí ra sao? Bởi giữa nàng và anh, ông tơ bà
nguyệt trước đây đã se lầm làm nàng lâm phải cảnh
tình chị duyên em khiến ba người bây giờ gặp phảí
éo le ngang trái.
Dù cho hồn ma Mỹ Tâm đã mở lời, Mỹ Lệ cũng cảm
thấy có tội trước hương linh đứa em gái, nàng biết
giữa Ngọc Luân và em nàng từng có thời gian sống
như vợ chồng bên nhau.
Lúc này bóng ma Mỹ Tâm sau khi tâm sự xong với
người chị song sinh, hồn ma liền biến mất trong
ánh sáng biển lửa, nơi anh em Vũ Luân vừa đốt cháy
nương rẫy trồng cây thuốc phiện của Cao Lục Phát.
Cũng ngay trong lúc đó, Mỹ Lệ đã thấy một bóng đen
đang phóng người chạy nhanh vào rừng một cách vội
vã. Theo nhận xét của nàng, hình dáng này không
phải anh em Vũ Luân hay bọn đầu gấu của trại Quỳnh
Hương mà rất quen thuộc với nàng.
Và dù màn đêm trong rừng âm u vắng vẻ, Mỹ Lệ cũng
thoăn thoắt chạy đuổi theo. Gần bắt kịp bóng đen
nàng mới cất tiếng kêu to:
– Có phải anh Ngọc Luân? Em là Mỹ Lệ đây!
Tuy đã nghe nhưng bóng đen không trả lời, lại tiếp
tục chạy bỏ xa nàng, và hình như bóng đen đang cố
tình chờ cho Mỹ Lệ đến thật gần rồi lại dẫn dắt
nàng chạy về hướng đã định.
Đến một bãi cỏ bóng đen mới chịu dừng chân. Đợi Mỹ
Lệ đến bấy giờ bóng đen mới lên tiếng:
– Ngọc Luân đây! Nhưng có phải đúng Mỹ Lệ hay hồn
ma Mỹ Tâm giả hình đang đuổi theo anh?
Mỹ Lệ nhận ra Ngọc Luân, anh vẫn không thay đổi so
với hình ảnh mấy năm về trước. Nàng lên tiếng trả
lời ngay:
– Em là Mỹ Lệ, không phải hồn ma Mỹ Tâm. Em đến
trang trại tên Cao Lục Phát tìm anh đây.
Sau câu đáp, Mỹ Lệ quá vui mừng gặp lại người yêu
xưa, nàng vội ôm lấy anh như không muốn xa rời sau
bao năm xa cách nhớ nhung. Nhưng Ngọc Luân đã vội
đẩy nàng ra, đoạn anh nói:
– Em ôm như vầy, anh có lỗi với Mỹ Tâm lắm!
Câu nói làm Mỹ Lệ thấy chết điếng cõi lòng, mới có
trên dưới hai năm mà Ngọc Luân đã muốn quên nàng,
chỉ nhớ đến người đã chết làm Mỹ Lệ không khỏi
ngại ngùng, nhưng nàng đã nói ngay:
– Mỹ Tâm bây giờ chỉ là một hồn ma bóng quế, còn
em mới là người đang sống, là người yêu đầu đời
của anh đây!
Ngọc Luân trở nên ngập ngừng, anh đáp lại:
– Anh với Mỹ Tâm từng sống bên nhau, dù thời gian
chỉ có bốn mươi chín ngày ngắn ngủi nhưng cũng đã
thành vợ thành chồng. Anh không muốn phản bội
người đã chết khi mồ nàng chưa xanh cỏ!
Mỹ Lệ đã nghe âm hồn em gái kể:
“Lúc em bị tên thầy bùa Bảy Chà hành hạ bằng thư
ểm mỗi ngày, em luôn la thét trong oằn oại đau đớn
khiến anh Ngọc Luân đâm bối rối, anh ấy không biết
phải làm sao chỉ còn biết ôm lấy em vào lòng rồi
đặt nụ hôn vào môi cho em bớt thét gào khổ sở.
Đến khi tỉnh người em mới nức nở nói:
– Anh đến muộn rồi, tiết trinh đời con gái của em
đã mất nên đâu còn xứng đáng làm vợ anh nữa!
Ngọc Luân vội khẽ khàng nói với Mỹ Tâm:
– Dù em không còn trinh tiết nhưng cha mẹ hai bên
đã sắp đặt hai ta kết duyên, em vẫn là vợ anh.
Những ngày về sau em thường thì thào nói bên tai
anh ấy:
– Trai đơn gái chiếc sống chung một phòng ôm ấp
nhau thế này, mặc dù em không muốn làm khổ anh
nhưng trong người em cảm thấy bức xúc quá, vậy nếu
anh không thấy ghê tởm trước người vợ đã mất đi
tiết trinh, mỗi khi em đau đớn vì bùa ngải hành hạ
thì xin anh hãy yêu em như đang yêu một người vợ,
cho em dịu bớt cơn đau ...
Lời kể của hồn ma Mỹ Tâm cho chị gái phải chăng là
điều Ngọc Luân muốn nói anh cảm thấy có tội trước
linh hồn người chết? Và mặc dù đau khổ khi tâm hồn
bị tổn thương, nhưng trong lòng Mỹ Lệ luôn nghĩ
đến mối tình đầu với anh, mối tình có thời gian
nồng cháy. Tuy nhiên chưa ai vượt qua vòng lễ
giáo.
Đang mang tâm trạng của kẻ thất tình, bỗng Mỹ Lệ
chợt nhớ chưa kịp nói ra những điều thầm kín, nàng
mới nhìn Ngọc Luân trân trối bằng đôi mắt long
lanh ngấn lệ, rồi nói với giọng đầy cảm xúc:
– Nếu Mỹ Tâm còn sống em không dám phá hạnh phúc
giữa anh và em gái, nhưng nay Mỹ Tâm đã thành
người thiên cổ và hiện về cho biết chỉ mong hai
đứa mình trở lại tình yêu của buổi ban đầu và ...
Mỹ Lệ bắt đầu ấp úng nói qua giọng thẹn thùng:
– Em hy vọng sẽ được anh sưởi ấm cõi lòng sau bao
ngày xa cách, vì em vẫn luôn tha thiết muốn trao
thân gửi phận cho anh ngay trong đêm khói lửa này.
Ngọc Luân chưa lần nào sa ngã vào sắc dục cho đến
ngày có lời yêu cầu của Mỹ Tâm, trong lúc nàng bị
hành hạ đau đớn. Từ lúc đó anh mới biết mùi vị của
tình yêu, chuyện ân ái giữa nam nữ.
Mà đêm nay trong cảnh rừng đêm hoang vắng bên anh
chỉ có Mỹ Lệ, nàng lại đang cảm xúc chủ động tỏ
tình. Tuy nhiên Ngọc Luân vẫn tỏ ra nghiêm túc
ngồi im lặng bên nàng. Trái lại Mỹ Lệ ngồi bên
người yêu, bốn bề là cây xanh cùng những tiếng
chim hót, không gian trở nên lãng mạn. Nàng bắt
gặp thứ cảm giác lạ kì đang xâm nhập vào con tim,
vào cả trong thân xác. Qua giọng thì thầm, nàng
nói với anh:
– Em sẽ thay Mỹ Tâm săn sóc anh để hai chúng ta
quên đi nỗi cô đơn. Đêm nay trong khung cảnh hữu
tình làm em có nhiều cảm xúc trong tình yêu. Em
muốn bây giờ hai chúng ta cùng yêu nhau ...
Ngọc Luân cũng cảm thấy bồn chồn sau câu nói của
người yêu xưa. Anh đâu phải thần thánh có thể bước
qua thứ cám dỗ xác thịt khi mùi hương thơm từ
trong thân thể Mỹ Lệ toát ra ngào ngạt, cùng những
lời tình tứ cứ ngọt lịm bên tai làm Ngọc Luân mất
dần tự chủ và sự thủy chung với người đã chết.
Mỹ Lệ nhận thấy cử chỉ bồn chồn của Ngọc Luân,
nàng mới nhẹ nhàng kéo anh vào lòng, rồi thật
nhanh môi nàng tìm đến môi anh mà đặt lại nụ hôn
nồng cháy của ngày nào lên đó. Ngọc Luân lại quá
bất ngờ trước tình cảm nồng cháy như biển lửa
trước mặt. Mỹ Lệ đang dành cho anh, với nụ hôn còn
nằm trên môi như thứ mồi lửa làm bùng phát nỗi đam
mê. Ngọc Luân không kiềm chế được ngọn lửa lòng
bùng phát, anh ôm lấy Mỹ Lệ mà quấn quýt ... trong
tiếng chim hót, tiếng lá rơi xào xạc trộn lẫn
những hơi thở đầy xúc cảm của hai người đang yêu
...
Đến khi tỉnh giấc, Mỹ Lệ thấy dấu “thủ cung sa”
trên tay nàng đã biến mất tự bao giờ.
Mỹ Lệ cứ nhớ hoài cái đêm lãng mạn cùng với Ngọc
Luân, bây giờ vẫn cảm thấy sung sướng và hạnh phúc
khi nàng ở bên anh.
Đột nhiên căn phòng nơi Mỹ Lệ còn nằm trằn trọc,
bỗng có một cơn gió mạnh thổi đến làm tắt hết các
ngọn đèn, không gian trở nên tối tăm để rồi bóng
ma Mỹ Tâm hiện ra trước mắt.
Hồn ma Mỹ Tâm không tỏ ra hờn ghen với người chị
gái, trái lại âm hồn còn vui vẻ lên tiếng:
“Cái ngày chị và ba anh em họ Phan rượt đuổi tên
Cao Lục Phát, giết hắn tại ngôi miếu hoang, em và
ba mới biết đây là nơi chôn cất viên thái giám tên
Hoàng Bảo Trứ nguyên trại chủ Quỳnh Hương trước
nhà họ Gia chúng ta ...
Mỹ Lệ ngạc nhiên khi nghe hồn ma em gái hiện về
chỉ báo cho nàng biết đến phát hiện này. Nàng hờ
hững nói:
– Vậy cớ gì em hiện hồn về báo cho chị biết đến
phát hiện này?
Bóng ma Mỹ Tâm vẫn lặng lẽ nói tiếp:
– Có chứ chị hai! Vì hồn ma mới biết gặp ma còn
con người làm sao thấy được hồn ma. Em và ba mới
thấy nới đây có rất nhiều bóng ma xuất hiện, các
oan hồn hiện ra giằng co lôi kéo vong hồn hai tên
gian ác Cao Lục Phát và A Lền trước bọn quỷ Hắc
Bạch vô thường đưa cả hai về cõi âm ty chịu tội.
Bọn quỷ âm ty hăm dọa các oan hồn:
– Bọn bay sao dám lôi kéo hai tên gian ác này
không cho chúng xuống âm ty chịu tội? Vậy bọn bay
không sợ ta đưa hết xuống mười tám cửa địa ngục
chịu tội lăng trì hay sao?
Lúc đó một bóng ma mang đầu tóc bạc phơ hiện ra
trước hai con quỷ Hắc Bạch và nói:
– Hai tên quỷ Hắc Bạch vô thường kia chắc không
biết đây là miếu thờ ngài Phúc Đức Chánh Thần và
ta là chủ từ ở đây sao?
Tên quỷ mặt trắng người cao lêu khêu như đi cà
kheo, nhìn ông lão xưng chủ từ ngôi miếu mới đáp:
– Ta biết ông là viên thái giám tên Hoàng Bảo Trứ
người có nhiều công đức, được ngài Phúc Đức Chánh
Thần xin lệnh Diêm Vương cho ông tìm người phụ
giúp trông coi ngôi miếu này, nhưng ...
Tên quỷ mặt trắng chưa nói hết câu thì tên quỷ mặt
đen người mập lùn xấu xí đã vội nói xen vào:
– Vong hồn hai tên gian ác này phải được bọn ta
đưa xuống âm phủ chịu tội, không thể cho ở lại
dương trần, nếu ở lại bọn chúng sẽ quấy nhiễu dân
lành, sinh tai kiếp cho mọi người khiến bọn ta sẽ
bị khiển trách.
Hồn ma ông lão có tên Hoàng Bảo Trứ vẫn ôn tồn nói
với hai tên quỷ Hắc Bạch:
– Ta biết tên họ Cao tức Thạch Thiên Phát này, nó
giết trại chủ Gia Viễn người thay ta trông coi
trại Quỳnh Hương đo ta từng bỏ công gầy dựng. Nó
tranh đoạt trang trại rồi giết cả con gái ông ta,
tội ác đó trời không dung đất không tha. Nhưng ta
cần đến chúng!
Hai tên quỷ Hắc Bạch vô thường với vẻ ngạc nhiên,
chúng nhìn hồn ma viên thái giám hỏi:
– Vì sao ông cần đến bọn ác ôn côn đồ này?
Hồn ma họ Hoàng liền trả lời:
– Để canh giữ một kho tàng!
Hai con quỷ Hắc Bạch bèn tròn xoe mắt ngạc nhiên,
chúng lên tiếng hỏi lại:
– Một kho tàng ở ngay trong ngôi miếu này?
Hồn ma viên thái giám Hoàng Bảo Trứ mặt vẫn lạnh
như tiền, ông lão đầu bạc phơ ung dung đáp:
– Thiên cơ bất khả lậu nhưng ta có tâm nguyện sẽ
giao kho tàng này cho người có tâm đức, biết làm
việc thiện nhưng đã bao năm chưa có một ai. Còn kẻ
tham lam gian manh ở chốn trần gian lại quá nhiều,
chúng luôn rắp tâm tìm đến để chiếm đoạt và toàn
những tên tham lam độc ác. Ta phải có người như
tên Thạch Thiên Phát hay tên A Lền này mới có thể
giữ kho tàng chờ đến ngày tìm ra người tâm đức ấy.
Sau khi nghe hồn ma viên thái giám Hoàng Bảo Trứ
lên tiếng, bấy giờ hai con quỷ Hac Bạch mới chịu
để vong hồn tên Cao Lục Phát và A Lền ở lại.
Trước khi kéo bọn đầu trâu mặt ngựa trở về cõi a
tỳ địa ngục, tên quỷ mặt trắng nói với ông ta:
– Bọn ta nễ tình ngài Phúc Đức Chánh Thần và tâm
nguyện của ông, nên để lại vong hồn hai tên này
làm ma giữ cửa. Nếu chúng đi phá rối mọi người thì
ông phải chịu trách nhiệm trước Diêm Vương đó.”.
Kể đến đây hồn ma Mỹ Tâm mới nhìn người chị gái
song sinh nói tiếp:
– Vậy chị hai có nhận ra điều gì về câu chuyện em
vừa kể không?
Mỹ Lệ hiểu hồn ma em gái muốn nói với nàng về một
kho tàng của viên thái giám tên Hoàng Bảo Trứ. Kho
tàng đang cất giấu trong ngôi miếu hay ở đâu đó có
rất đông oan hồn làm ma giữ cửa, trong đó hiện giờ
có cả hồn ma tên gian ác Cao Lục Phát lẫn tên A
Lền.
Mỹ Lệ mới gật đầu tỏ ra đã hiểu, bấy giờ hồn ma Mỹ
Tâm mới chịu tan biến vào cõi hư không.
Ngay vào buổi sáng hôm sau, lão Phan Minh - ba của
Ngọc Luân, Vũ Luân và Nguyễn Luân cho gọi mọi
người đến, ông mới lên tiếng cho biết:
– Đêm qua hồn ma ông Gia Viễn - tức ba Mỹ Lệ -
hiện về báo cho ta biết, trong rừng hiện có một
ngôi miếu bỏ hoang nhưng mang tính lịch sử với
trại Quỳnh Hương và nó còn mang một kho tàng bí
mật ...
Bốn người trong nhóm “Thiên tinh tứ trụ” gồm Mỹ Lệ
và ba anh em Ngọc Luân ai cũng biết về ngôi miếu
hoang, nơi đây mang dấu ấn kết liễu cuộc đời tên
gian hùng Cao Lục Phát. Tuy nhiên ba anh em họ
Phan không hề biết ngôi miếu có liên quan với trại
Quỳnh Hương và có một kho tàng bí mật như lời lão
Phan Minh mới tiết lộ.
Mọi người đều chăm chú lang nghe, chỉ riêng Mỹ Lệ
là nôn nóng và buột miệng ngắt lời:
– Vậy thưa bác Phan Minh, bác có biết lịch sử của
ngôi miếu hoang đó không?
Lão Phan Minh nhìn Mỹ Lệ, rồi ông nói:
– Ta cũng không biết gì nhiều, chỉ nghe hồn ba con
hiện về nói rằng ...
Trước khi ông Gia Viên được bang hội Rồng Xanh
phái qua quản lý trại Quỳnh Hương, nơi đây đã trải
qua một đời trại chủ - tức ông Hoàng Bảo Trứ, mà
nhân thân ông ta nguyên là một thái giám sống
trong Tử Cẩm Thành thời còn chế độ phong kiến.
Sau cuộc đối đầu liên quân tám nước đánh vào hoàng
cung sau đó chế độ phong kiến sụp đổ, nước Trung
Hoa thành nền Cộng Hòa. Viên thái giám Hoàng Bảo
Trứ cùng phải từ giã hoàng thành ra làm dân dã như
mọi người, đi theo ông còn có bà “giám hậu” tức vợ
ông ta về dưới trướng bang Rồng Xanh, bởi cả hai
người mong sống yên ổn quãng đời còn lại.
Mỹ Lệ nghe kể đến đây, nàng lại thắc mắc hỏi:
– Thưa bác Minh, đã làm thái giám bị tịnh thân sao
ông Hoàng Bảo Trứ có vợ? Và “giám hậu” là gì sao
con chưa từng nghe nói đến?
Lão Phan Minh vẫn từ tốn giải thích:
– Kể ra cũng dài dòng nhưng ta có thể giải thích,
các vị thái giám từng sống trong nội cung thời bấy
giờ thường được Lão Phật Gia - tức bà Từ Hy Thái
Hậu ân sũng cho cưới các nàng nô tỳ cung nữ làm vợ
hoặc làm thiếp - được mọi người gọi bằng giám hậu
- để săn sóc cho nhau sau tuổi về già.
Nói đến đây, lão Phan Minh định không nói tiếp khi
thấy có Mỹ Lệ là giới nữ ngồi nghe nhưng không
hiểu sao lão tiếp tục giải thích:
– Chuyện thái giám lấy nô tỳ cung nữ trong nội
cung làm vợ, làm thiếp thường xảy ra vào thời bà
Từ Hy Thái Hậu, bà cho họ lấy nhau để tránh hiện
tượng đồng tính luyến ái hay diễn ra nơi cung cấm,
giữa các cung tần mỹ nữ, giữa các thái giám với
nhau mà bà ta từng tận mắt chứng kiến. Bởi những
người sống trong chốn thâm cung như thái giám, nô
tỳ cung nữ thường ở một mình rất cô quạnh, bà Từ
Hy mới hiểu tại sao có hiện tượng tâm sinh lý đó.
Trong cung không cho các cung phi, thái giám, nô
tỳ được xuất cung cho đến chết nhưng con người thì
không ai có thể diệt dục khi tuổi đang thanh xuân,
thân thể tráng kiện mà không được bù đắp cho sự
thiếu thốn mà trời đất đã ban, nên họ thường cùng
nhau luyến ái nhằm thỏa mãn cơn thèm khát hành hạ
trong thể xác. Hiện tượng luyến ái đồng tính đã
làm ô uế, mất tính trang nghiêm của nền phong kiến
bảo thủ, vì vậy mà bà Từ Hy mới cho bọn thái giám
cùng cung tần, tỳ nữ lấy nhau để tránh hiện tượng
tiêu cực này. Nhưng là thái giám bị tịnh thân nên
dù mang danh nghĩa vợ chồng, họ không thể có con.
Rồi lão Phan Minh tiếp tục kể:
– Hồn ma ông Gia Viễn nói tiếp, khi hoàng cung
hoảng loạn mọi người lo thoát thân thì vợ chồng
viên thái giám họ Hoàng còn ở lại có gom góp một
số của cải quý giá mới ra đi. Sau khi được bang
Rồng Xanh giao nhiệm vụ qua đây xây dựng trại
Quỳnh Hương, vợ chồng họ Hoàng cũng mang hết số
của cải ra đi. Số của cải ông Hoàng Bảo Trứ chôn
giấu trước khi nhắm mắt có thể chỉ là hoang tưởng,
vì ông Gia Viễn cũng chỉ nghe theo lời đồn. Nhưng
lúc nhận bàn giao trang trại, ông mới thực sự cho
là có thật. Lúc đó họ Hoàng có tặng ông một số đồ
trang sức quý giá mà chỉ người sống trong hoàng
cung hay phú gia phú hào mới có được.
Khi giao xong trang trại, viên thái giám cùng bà
giám hậu thường đi lập chùa miếu ở khắp nơi nhằm
tích đức, nên giả thuyết nói ngôi miếu hoang là cơ
ngơi họ Hoàng cất giấu của cải trước khi vợ chồng
họ qua đời có thể là sự thật. Cũng theo hương hồn
ông Gía Viễn, tâm nguyện của viên thái giám muốn
dùng số của cải này vào việc từ thiện chứ không
phải để hưởng thụ cá nhân.
Nghe xong lời lão Phan Minh kể, bấy giờ Mỹ Lệ cũng
cho mọi người biết:
– Đêm qua con cũng được âm hồn em gái Mỹ Tâm hiện
về cho hay, ngôi miếu hoang này thờ ngài Phúc Đức
Chánh Thần hiện giờ có rất đông oan hồn làm ma giữ
cửa, vong hồn hai tên gian ác Cao Lục Phát và A
Lền cũng ở đó.
Nhưng về kho tàng có chôn giấu ổ đây không thì hồn
ma ba và em con không được rõ.
Ngọc Luân lúc này mới lên tiếng:
– Chúng ta đã có một số dữ liệu về viên thái giám
Hoàng Bảo Trứ, nhưng để tìm ra số của cải này phải
biết thêm ít nhiều về vợ chồng ông ta, lúc đó
chúng ta mới có thể tìm ra số tài sản đang vô chủ.
Lão Phan Minh vừa suy nghĩ vừa nói:
– Không biết chuyện này có thật không, ta chỉ được
hồn ma ông Gia Viễn hiện về cho biết đến vậy. Còn
thực hư các con nên đến ngôi miếu để tìm hiểu.
Nghe lão Phan Minh đề nghị bốn người đến ngôi miếu
hoang tìm tung tích số của cải của viên thái giám
họ Hoàng, Mỹ Lệ không tin tưởng lắm:
– Dù hương hồn ba và em con báo mộng, nhưng con
không tin số của cải họ Hoàng nằm ở đây. Vì ngôi
miếu bị nhện giăng bụi bám bỏ hoang đã từ lâu,
cũng không thấy có hầm quách gì hết.
Lão Phan Minh liền lắc đầu rồi nói tiếp:
– Ta cũng không tin có kho tàng ở đây, nhưng vì
hồn ma ba và em con đã hiện về nói ra, các con nên
đến đó tìm hiểu hư thực ra sao mới rõ được.
Ngọc Luân đồng tình với cha, anh muốn trở lại ngôi
miếu để xem có đúng lời hồn ma ông Gia Viễn và Mỹ
Tâm đã báo mộng không. Anh lên tiếng thúc giục:
– Dù gì ngôi miếu không xa, chúng ta cứ đến để
hiểu rõ thực hư ra sao đã!
Mọi người không ai phản đối trước ý kiến Ngọc
Luân. Mỹ Lệ và ba anh em họ Phan cùng nhau đi ngay
đến ngôi miếu, nơi chôn xác tên Cao Lục Phát và A
Lền.
Bốn người gồm ba nam một nữ nôn nóng đến
ngay ngôi miếu, tất cả không ngờ là lúc nắng chiều
đang ngã về Tây, không gian bắt đầu trầm lắng
trong cảnh tranh tối tranh sáng.
Nhìn ngôi miếu hoang không lớn lắm, chỉ như một
ngôi nhà có ba gian. Mái lợp ngói, hai đầu hồi có
gắn hình rồng nhìn về hướng Đông Tây, hai phần đầu
rồng giao nhau ngay giữa tâm nhà nâng theo một quả
cầu mang hình Thái Cực.
Vào bên trong miếu, mọi người thấy nhện giăng bụi
bám chứng tỏ nơi đây từng không có người ở đã lâu.
Tuy nhiên nơi chánh điện hãy còn nguyên trạng dãy
tượng thờ nằm trên các bậc tam cấp. Bậc trên cùng
có tượng Phật Bà cùng tiên đồng ngọc nữ đứng hầu,
phía dưới bên trái tượng ông Bổn còn gọi Phúc Đức
Chánh Thần, bên phải là tượng Thánh Mẫu Thiên Hậu
trông rất uy nghi.
Dưới bậc thấp có các tượng văn võ như tượng Đức
Quan Thánh Đế Quân, tượng mười hai Bà Mụ Sanh,
cùng tượng hai ông Thiện Ác nhìn ra cửa miếu.
Ngoài những tượng thờ trong miếu còn đủ chiêng
trống, mõ gõ.
Mỹ Lệ cảm thấy lạ, liền nói suy nghĩ của nàng cho
anh em nhà họ Phan nghe:
– Ngôi miếu này có lẽ chính là nơi trại chủ họ
Hoàng đã ở. Miếu còn đủ tượng thờ, nơi ăn chốn ở
của vợ chồng ông ta không hề mất mát thứ gì, nhưng
tại sao ngôi miếu không có người ở trong coi việc
nhang khói mà bỏ hoang phế?
Thắc mắc của Mỹ Lệ cũng là thắc mắc chung của ba
anh em họ Phan, làm Ngọc Luân vội nhìn ra sau vườn
cổ tìm kiếm một hai ngôi mộ nào đó được chôn nơi
đây. Cuối cùng anh phát hiện một ngôi mộ to và một
ngôi mộ nhỏ cùng nhiều bộ xương người phơi trắng
sắp lớp khắp nơi ...
Bốn người mừng rỡ vội vàng chạy ra. Đúng là ngôi
mộ của viên thái giám vì có tấm bia mang tên Hoàng
Bảo Trứ, còn ngôi mộ nhỏ như một gò đất cao không
chứng tỏ bà giám hậu đã chết.
Ngọc Luân liền nói ra thắc mắc:
– Viên thái giám họ Hoàng đã chết, còn bà giám hậu
hiện đang ở đâu? Tại sao bà ta không ở lại chăm lo
ngôi miếu cũng như phần mộ của chồng? Hay ngôi mộ
nhỏ là của bà ta? Vậy còn các xương cốt kia là ai?
Sau câu hỏi của Ngọc Luân, bỗng có một giọng nói
nghe the thé ở sau lưng mọi người phát ra:
– Ta còn đây, ai nói ta không ở lại chăm lo cho
ngôi miếu và mộ của phu quân?
Bốn người đều nhìn lại rồi tám con mắt phải mở to
vì ngạc nhiên lẫn cả sự sợ hãi. Trước mắt họ, một
bà già ốm yếu, xấu xí không khác hình dạng quỷ dạ
xoa.
Bà ta đứng ngay cửa hậu liêu, tóc để xõa bù xù,
mũi cong như phù thủy trong cổ tích, và nhất là
đôi mắt lồi to chăm chú nhìn bốn người không hề
chớp.
Mỹ Lệ mới bạo dạn lên tiếng hỏi:
– Bà có phải là “giám hậu” của ông Hoàng?
Bà già xấu xí trả lời ngay:
– Phải! Ta là giám hậu của đức phu quân Hoàng Bảo
Trứ. Các người tìm có việc gì?
Ngọc Luân đành thành thật đáp:
– Hồn ma ông GiaViên và Mỹ Tâm tức ba và em gái Mỹ
Lệ đây có hiện hồn về báo cho biết, nơi miếu có số
của cải ông Hoàng Bảo Trứ để lại, chúng tôi đến
tìm để sử dụng vào chuyện công đức cho bá tánh
thập phương được nhờ.
Vừa nghe xong tức khắc sau bà già xấu xí tiếp tục
hiện ra rất đông các hồn ma lớn nhỏ. Có âm hồn
đang khóc thê thiết, có hồn ma lên tiếng thét gào:
– Bọn ta là những con ma giữ cửa, ai đụng đến kho
tàng của chủ nhân đều phải chết!
Bà giám hậu cũng đã trở thành một hồn ma nữ, nhưng
hình dạng không còn xấu xí như trước đây, trái lại
mang hiện thân của một người đàn bà ở tuổi trung
niên. Sắc đẹp tuy không mặn mà nhưng duyên dáng
trong bộ sườn xám cũ kỹ may bằng lụa đỏ giờ đây đã
rách vá nhiều nơi.
Thấy các hồn ma đang la hét xua đuổi bốn người lạ
mặt vừa vào miếu. Hồn ma bà giám hậu vội vàng
khoác tay cho chúng im lặng, đoạn lên tiếng:
– Hãy khoan, ở đây có con gái ông Gia Viễn, người
của trại Quỳnh Hương đấy.
Câu nói của hồn ma bà giám hậu làm cho không khí
bớt căng thẳng, lúc này bốn người mới cảm thấy yên
tâm khi đứng đối diện với các hồn ma bóng quế.
Mỹ Lệ mới dám lên tiếng hỏi tiếp:
– Vậy bà biết ba và em gái của con?
Lúc này hồn ma bà giám hậu đà tỏ ra cởi mở, âm hồn
bà trả lời nàng:
– Ta tên Thôi Oanh Oanh, là vợ ông Hoàng Bảo Trứ,
tức chủ đời thứ nhất của trại Quỳnh Hương, làm sao
không biết ông Gia Viễn người được phu quân ta bàn
giao lại trang trại để thành đời chủ thứ hai.
Mỹ Lệ vẫn còn thắc mắc, nàng lại hỏi:
– Theo hồn ma Mỹ Tâm, em gái con đã thấy hình bóng
ông Hoàng Bảo Trứ nơi đây, tại sao bây giờ chỉ có
mình bà xuất hiện?
Âm hồn bà Thôi Oanh Oanh đã đáp lại:
– Phải! Ở đây còn có đấng phu quân ta nhưng vì nơi
kho tàng đang có biến động mà đấng phu quân đã
cùng đám oan hồn đi đến giữ của.
Lời đáp của hồn ma bà Thôi Oanh Oanh cho hay kho
tàng không nằm tại ngôi miếu. Và Ngọc Luân không
biết khi nhắc đến kho tàng sẽ trở nên điều nhạy
cảm đối với các hồn ma ở đây, anh hỏi bâng quơ:
– Chúng tôi nghe hương linh ông Gia Viễn lúc hiện
về cho biết, khi ông bà rời khỏi Tử Cấm Thành có
mang theo nhiều vàng bạc châu báu nhưng tại sao
chúng tôi thấy hương linh bà lại khắc khổ thế này?
Nghe Ngọc Luân hỏi đến đây chợt hồn ma bà Thôi
Oanh Oanh thay đổi ngay sắc mặt lẫn giọng nói,
liền nhìn anh với ánh mắt đầy sự nghi ngờ:
– Cậu là người của tên gian ác Trần Thành? Muốn đi
tìm số của cải này?
Ngọc Luân không biết phải trả lời hồn ma bà giám
hậu như thế nào vì giọng nói cùng thái độ của âm
hồn khi nhắc đến tên Trần Thành nào đó bằng cả sự
căm hờn, khiến anh phân vân. Ngọc Luân nghĩ đến vợ
chồng viên thái giám Hoàng Bảo Trứ chắc có oán thù
sâu nặng với người này, anh vội phân trần:
– Chúng tôi không hề biết gì về ông Trần Thành,
chỉ nghe hồn ma ông Gia Viễn và Mỹ Tâm chỉ dạy mà
tự đến đây tìm hiểu thôi.
Nghe qua câu nói trần tình của Ngọc Luân, trên
khóe mắt bà Thôi Oanh Oanh bắt đầu có những giọt
nước mắt tuôn rơi, hồn ma nức nở khóc nói:
– Vợ chồng ta chờ đợi giờ phút này đã lâu lắm! Bây
giờ có nói ra cũng không còn ảnh hưởng gì. Biết Mỹ
Lệ là truyền nhân của Gia Viên có biệt danh “Bà Ch
Mười Tám Cửa Ngục” cùng các cậu là những người
đang sống trên cõi dương trần có thể thay chúng ta
trừ diệt tên Trần Thành có lòng tham không đáy,
nên ta sẽ kể hết những sự thật đã diễn ra ...
Đúng lúc vợ chồng ta lúc rời khỏi Tử Cấm Thành khi
liên quân tám nước tràn vào hoàng cung, không
riêng gì vợ chồng ta bỏ chạy mà cả Thái Hậu lão
Phật gia cùng Hoàng Đế cũng bỏ trốn. Mọi người
trốn đi hết, hoàng cung trở nên hoang vắng không
người canh giữ, bọn cẩm y vệ lại đổ xô vào các
cung hôi của.
Lúc đó trong đầu vợ chồng ta mới nghĩ chế độ cung
đình từ đây không còn, mỗi người sẽ đi mỗi ngã.
Nếu ra đi với hai bàn tay trắng làm sao sinh sống
khi bổng lộc tích lũy từ trước đến giờ chẳng có là
bao nên cả hai cùng đi hôi của như mọi người.
Nhưng được cái may mắn vợ chồng ta từng phục vụ
nơi cung cấm, biết các cung hoàng hậu, vương phi,
cung phi được Hoàng đế sủng ái nằm đâu, nên vào
xem có ngân lượng hay thứ của cải quý báu nào còn
để sót thì lấy làm của hộ thân.
Hai vợ chồng chỉ lấy được một số ngân phiếu, một
ít vàng bạc châu báu vào đủ mỗi người một tay nải
rồi mới ra khỏi hoàng thành. Sau đó vợ chồng ta
theo dòng người lên thuyền chạy tị nạn. Thuyền
rong ruổi cập đảo Đài Loan, lúc lên bờ đức phu
quân có quen một người trong bang Rồng Xanh nên
xin gia nhập vào bang hội, hy vọng được bang hội
giúp đỡ khi hai vợ chồng còn chân ướt chân ráo vào
đời, chẳng biết gì trong cuộc sống mới.
Đến một ngày nọ, vợ chồng ta gặp một người quen
cũng từ kinh thành chạy tị nạn. Vừa gặp mặt, ông
bạn đã hớt hơ hớt hải báo tin:
– Này Hoàng Bảo Trứ ơi, ngài Công Công Trần Thành
đang tìm mi, ông ta cho rằng vợ chồng mi đã lấy
nhiều vàng bạc quý giá trong nội cung nên phải đi
tìm lấy lại số của cải trả về cho nhà Thanh.
Đấng phu quân ta mới ngạc nhiên nhìn người bạn vừa
vượt biển đến, ông nói:
– Ta có lấy gì nhiều đâu? Chỉ một tay nải đủ sống
qua chuỗi ngày còn lại.
Người bạn đó mới nói tiếp:
– Vậy mi không biết rồi, ngài Trần Thành cho rằng
mi lấy đi một tấm bản đồ có ghi kho báu nằm tận
bên Đông Dương, nó to tát gấp ngàn lần tay nải của
mi đó!
Vợ chồng ta biết rõ Trần Thành, ông ta cũng là
quan thái giám nhưng hơn một phẩm, tính tình độc
ác ích kỷ, tham lam và cố chấp. Nếu ông ta biết vợ
chồng ta có số vàng bạc lấy từ trong cung và nhất
là tấm bản đồ về kho báu, thể nào cũng đến tìm đòi
lại hay chia phần.
Nhưng đòi lại để làm gì khi Trần Thành cũng như vợ
chồng ta, giờ đây không còn làm thái giám và đang
sống cuộc đời dân dã như mọi người? Làm gì còn nhà
Thanh trên đất Trung Hoa! Còn về tấm bản đồ kho
báu chỉ là hiểu lầm, đấng phu quân và ta có giữ
tấm bản đồ nào ngoài số của cải lấy lúc hôi của
như mọi người đâu?
Tuy vậy đức phu quân ta vẫn tỏ ra lo lắng khi phải
giáp mặt với ông ta, nếu Trần Thành tìm ra chỗ ở
sẽ sinh ra rầy rà, đôi khi còn bỏ mạng. Vợ chồng
ta biết Trần Thành có nhiều vây cánh trong nội
cung thì bây giờ ra ngoài vẫn thế, vẫn còn tàn
nhẫn độc ác ...
Hàng đêm phu quân không sao ngủ được, ông cứ nằm
thao thức suy nghĩ.
Nểu tính về những thứ hai vợ chồng lấy được, số
ngân phiếu cũng chỉ đến ba trăm vạn lượng bạc
nhưng cả tiền trang không ai chịu đổi thành tiền,
họ cho rằng các tờ ngân phiếu từ kinh thành không
có giá trị trên đất Đài Loan. Còn vàng bạc châu
báu nếu bán đi cũng chỉ hơn vài trăm lượng vàng
cộng với số ngân lượng tiết kiệm đủ cho vợ chồng
ta hưởng tuổi về già.
Nhưng còn tấm bản đồ kho tàng nằm trên nước Đông
Dương hiện ở đâu? Tại sao Trần Thành cứ cho vợ
chồng ta cất giữ cho người đi tìm đòi lại?
Phu quân không biết tính sao, trước mắt việc kinh
doanh ở Đài Bắc không thành đạt, còn phía sau Trần
Thành theo truy đuổi đòi của và cả tấm bản đồ ảo
tưởng.
Vì thế phu quân đâm quẫn trí mới xin bang chủ Rồng
Xanh cho qua nước Đông Dương lập trang trại. Trước
an dưỡng tuổi già, sau cho Trần Thành không tìm ra
tung tích và cuối cùng để tìm dấu vết về một kho
tàng như Trần Thành đã nói.
Nhưng không hiểu tại sao Trần Thành vẫn tìm ra nơi
vợ chồng ta sống ở nơi khỉ ho cò gáy này. Một ngày
nọ Trần Thành tìm đến nơi và nói với phu quân:
– Ta hiểu mi hôi của trong nội cung không được bao
nhiêu, nhưng có một thứ lại quý giá vô cùng!
Trần Thành dù chưa nói hết câu nhưng phu quân biết
hắn ta muốn nói đến cái gì, bèn đáp lại:
– Trần Công Công muốn nói đến tấm bản đồ kho báu?
Hỏi xong ông tự trả lời ngay:
– Thật tình tôi không hề biết đến tấm bản đồ kho
tàng nó tròn méo thế nào, nằm ở đâu trong cung để
lấy. Trần Công Công đã lầm vợ chồng tôi rồi.
Trần Thành thấy viên thái giám dưới quyền mình cứ
phân trần chối cãi về tấm bản đồ làm hắn ta giận
dữ lên tiếng nói thẳng:
– Vợ mi Thôi Oanh Oanh làm trong cung của Lệ Châu,
tức cháu gái quan Tổng binh Lê Kiệt, người được
Hoàng đế phái đến Vân Nam vùng ba biên giới Trung
- Việt - Lào trấn thủ. Trước khi qua đời ông ta
cho người đem chôn giấu một số của cải để dành cho
con cháu về sau hưởng thụ nên có vẽ một tấm bản
đồ.
Phu quân rất ngạc nhiên nên đã đáp lại lời nói của
Trần Thành:
– Đúng! Thôi Oanh Oanh từng làm nô tỳ trong cung
bà Lệ Châu, nhưng phu nhân tôi người thất học đâu
biết chữ nghĩa mà hay biết có tấm bản đồ kho báu
để lấy? Cũng như bà Lệ Châu thuộc cháu gái đới thứ
hai của Lê Kiệt, hẳn Trần Công Công cũng biết “nữ
nhi sinh ngoại tộc” làm sao được giữ tấm bản đồ
kho tàng của dòng họ Lệ? Công công suy diễn thái
quá rồi đó!
Thấy phu quân cứ khăng khăng nói không biết tấm
bản đồ kho báu càng khiến Trần Thành giận dữ.
Trước khi ra về hắn ta buông ngay lời hăm dọa:
– Ta đã điều tra ba đời họ hàng nhà quan Tổng binh
Kiệt, số mạng ông ta hẩm hiu nên chỉ sinh ra được
một con gái tên Lệ Hằng, và hình như do di truyền
nên sau này và Lệ Hằng cũng chỉ sinh ra có một con
gái tên Lệ Châu vào làm thiếp trong cung. Bây giờ
gia đình Lê Kiệt, Lệ Hằng không có ai ngoài Lệ
Châu. Ta còn biết khi Lệ Châu được tiến cung, bà
Lệ Hằng đã cho con gái cái hộp sơn mài mà trong đó
có tấm bản đồ kho báu để Lệ Châu dùng làma vật
trang điểm hay đồ trang sức mà bà ta không hề biết
nó quý giá ra sao. Trong lúc hoàng cung chạy loạn
ta nghe bà Lệ Châu nói, bà ta để quên cái hộp
trang điểm bằng sơn mài trong cung. Ta liền vào
nội cung tìm cái hộp sơn mài ấy nhưng không còn
thấy nữa. Vậy chỉ có vợ mi lấy nó, cho nên ta muốn
trong một hai tuần lễ mi phải đưa ra cái hộp sơn
mài có tấm bản đồ kho tàng để cùng ta hợp tác đi
tìm kho báu rồi chia nhau.
Sau khi Trần Thành ra về, phu quân cứ suy nghĩ mãi
về chiếc hộp sơn mài dùng chứa đồ trang điểm của
cung phi Lệ Châu, ông mới hỏi ta về cái hộp và
được ta trả lời:
– Thiếp lấy cả chục cái hộp sơn mài đem đi lúc
trong cung hoảng loạn, nào nhớ cái hộp nào là của
ai. Để thiếp mang ra cho chàng xem xét.
Nói xong ta đưa cho ông xem gần chục hộp sơn mài,
cái nào cũng giống như cái đó:
đều hình Mai Lan Cúc Trúc, bên ngoài lẫn bên trong
không có lấy một chữ hay một hình vẽ cho thấy có
bí mật về tấm bản đồ.
Còn đang chán nản trước lời hăm dọa của Trần Thành
và nhìn thấy mấy hộp sơn mài không có gì khác
biệt, phu quân ta ngồi than ngắn thở dài:
– Tên Trần Công Công chết tiệt, hắn ta sẽ không để
vợ chồng mình được sống yên thân rồi!
Vì thế ông đánh điện với Đài Bắc xin bang chủ Rồng
Xanh cho người qua thay trông coi trại Quỳnh
Hương, rồi mang tâm niệm để đời:
– Ta nguyện sẽ sống một cuộc đời trong sáng như
ngài Châu Đạt Quan, đi chu du khắp nơi cùng chia
ngọt sẽ bùi giúp đỡ bá tánh, xây chùa miếu thờ tự
ông Bổn để tích đức. Và nguyện rằng, trong cơ may
nếu ta có tấm bản đồ kho báu ấy sẽ dùng hết vào
việc công đức từ thiện cho người nghèo khó, còn
hơn để một tên độc ác gian tham như Trần Thành
chiếm dụng.
Ý của phu quân muốn như Châu Đạt Quan - người tỉnh
Phúc Kiến, làm quan dưới thời nhà Nguyên - thường
có tiền hay giúp đỡ người nghèo được dân chúng
sùng bái lập miếu thờ, và tôn làm Phúc Đức Chánh
Thần hay còn gọi ông Bổn. Về sau dân chúng nghe
ông được phong sắc lên thượng đẳng thần nên đổi
cách gọi là Tài Thần, có người đọc trại ra Thần
Tài ...
Tượng nhân thần Châu Đạt Quan không cởi cọp nên
khác với tượng nhiên thần tên Thiệu Huyền Đản -
người nước Tần - là vị bồ tát mặt đen râu dài tới
rốn hay cởi cọp đen, tay trái cầm đồng bạc tay
phải cầm gậy kim tiền cũng chuyên đi cứu nạn cứu
khổ giúp đỡ người nghèo, nên được mọi người cung
kính gọi là Thần Tài.
Sau ngày phu quân không còn làm trại chủ, bàn giao
trại Quỳnh Hương cho Gia Viễn, ông mới đưa hết các
hộp sơn mài lấy được cho Trần Thành, bắt đầu sắp
xếp đồ đạc ra đi. Lúc đó ta cứ nâng niu một cái
tráp sơn mài nhỏ nhắn đẹp đẽ mà ông không biết vợ
chứa đựng gì trong đó, cũng như ông chưa từng thấy
bao giờ.
Hồn ma bà giám hậu Thôi Oanh Oanh kể đến đây lại
òa lên khóc nức nở, còn Mỹ Lệ bắt đầu hiểu ra cái
tráp sơn mài kia chính là hộp có chứa tấm bản đồ
kho báu. Nàng tò mò nói với hồn ma bà ta:
– Rồi sao nữa thưa bà giám hậu?
Hồn ma vừa khóc xong lại chợt mỉm cười sau câu hỏi
của Mỹ Lệ. Bà liền lấy từ trong người ra một túi
vải, bên trong có chiếc tráp sơn mài nhỏ nhắn đáp:
– Nó đây! Đúng là cái tráp này rất quý giá và hiếm
có trên đời. Đây các người cứ nhìn ngắm nó và muốn
biết nó chứa thứ quý báu gì thì cứ mở xem, chỉ duy
nhất một điều, sau khi xem xong mọi người phải trả
lại cho ta, vì nó là của ... phu quân ta.
Bốn người trong nhóm Thiên tinh tứ trụ lại tò mò,
Mỹ Lệ đưa tay ra nhậu cái tráp sơn mài đoạn nàng
mở ra xem. Vừa trông thấy một vật nằm trong tráp,
mặt Mỹ Lệ đã đỏ bừng rồi vội vàng đưa cái tráp ra
xa khỏi tầm mắt, miệng ấp úng:
– Kỳ quá!
Ba anh em họ Phan vội nhìn vào trong tráp rồi cùng
cười phá lên. Ngọc Luân bèn giải thích:
– Đây là cái tráp dùng chứa vật “tịnh thân” của
ông Hoàng Bảo Trứ khi vào làm thái giám trong cung
cấm. Trông nó vẫn bình thường dù trải qua mấy chục
năm. Có lẽ được thứ dược thảo nào đó ướp để không
bị phân hủy biến dạng.
Đúng là thứ báu vật quý hiếm. Hương hồn bà Thôi
Oanh Oanh nói cái tráp rất quý giá và hiếm có trên
đời là vậy.
Mỹ Lệ có giác quan thứ sáu, nàng nhạy bén trong
nhận xét cho nên không thể lầm nếu cái tráp nhỏ
này có tấm bản đồ kho báu. Vì thế nàng lại lên
tiếng hỏi:
– Lúc nãy âm hồn bà kể, ông Hoàng Bảo Trứ không
biết bà chứa đựng vật gì trong đó, cũng như ông ta
chưa thấy bao giờ. Vật chứa trong đó đã rõ, nhưng
con nghĩ trong tráp còn có tấm bản đồ của ngài
Tổng binh Lê Kiệt vẽ đường đi đến kho tàng?
Hồn ma bà Thôi Oanh Oanh liền gật đầu xác nhận,
rồi âm hồn bà ta kể tiếp:
– Khi phu quân nhìn vào cái tráp, ngoài việc thấy
vật “tịnh thân” của mình làm ông ta cảm động mà
nói với vợ:
“sao nàng có được vật “tịnh thân” của ta, mà có
đúng nó không? Thứ này như giấy chứng nhận ta là
một thái giám thực thụ, nó còn được ngài Tổng Quản
Nội Thị quản lý chặt chẽ lắm?
Bấy giờ ta mới nhìn chồng trả lời:
– Chàng biết không, lúc hoàng cung hoảng loạn, mọi
viện mọi cung vắng người, thiếp mới chạy vào cung
nội thị tìm lại vật quý của chàng để làm kỷ niệm,
bởi mỗi vật đều có thẻ ghi tên làm sao thiếp lầm
lẫn được!
Phu quân ta thắc mắc:
– Theo ta biết thì vật “tịnh thân” chỉ được treo
trong cung để dễ dàng cho quan nội thị kiểm soát
các thái giám thật giả, đâu để trong hộp sơn mài
sang trọng thế này?
Ta cũng thành thật đáp lại câu hỏi của chồng, ta
nói:
– Thiếp biết, cho nên không lẽ cứ cầm vật “tịnh
thân” của chàng trên tay mà đi lại trong cung? Vì
thế sẵn trong tay nải có chiếc hộp nhỏ nhắn đẹp đẽ
này nên thiếp đã bỏ vào trong tráp từ đó cho đến
nay.
Nghe ta trả lời làm phu quân chợt nhớ lại câu nói
của TrầnThành:
“ta đã điều tra ba đời họ hàng nhà quan Tổng binh
Lê Kiệt, biết bà Lệ Hằng cho con gái cái hộp có
tấm bản đồ dùng để chứa vật trang điểm mà không hề
biết nó quý giá ra sao”. Có thể đây là chiếc hộp
sơn mài mà Trần Thành đang bỏ công tìm kiếm chăng?
Tuy vậy phu quân vẫn chưa tin cái tráp là của bà
cung phi Lệ Châu, ông tiếp tục hỏi ta:
– Mấy hôm trước sao nàng không đem cho ta xem, có
phải cái tráp để đồ trang điểm của cung phi Lệ
Châu không?
Ta vội tình tứ lườm chồng đáp:
– Theo thiếp nghĩ đây là vật kỷ niệm của chàng, và
là vật bất ly thân của thiếp nên giữ làm của
riêng. Hôm nay vợ chồng ta sắp xếp đồ đạc nên
thiếp mới đem ra. Còn nó có phải của cung phi Lệ
Châu không, bây giờ nghĩ lại chắc là đúng. Vì lúc
bỏ vật “tịnh thân” của chàng vào trong tráp, thiếp
đã đổ ra ngoài mấy thỏi son môi, mấy hộp phấn
hồng.
Phu quân như bắt được vàng, ông ta không ngờ trong
tay lại có tấm bán đồ kho báu quý giá mà Trần
Thành đêm ngày mơ ước. Ông mới xem xét từng bề mặt
hộp tráp, vẫn không thấy có gì khác biệt ngoài hoa
văn được vẽ kiêu kỳ công phu tranh thủy mạc, có
hàng dương liễu buông rũ và ánh trăng lập lờ trên
sóng nước, xa xa thêm một vài ngọn núi có áng mây
che trên đỉnh.
Phu quân bắt đầu chán nản, bức tranh sơn mài không
nói được điều gì về kho tàng của quan Tổng binh Lê
Kiệt. Ông cứ soi mói nó dưới ánh đèn dầu suốt đêm,
cốt tìm cho ra mấy chữ hay hình vẽ hướng dẫn nào
đó.
Trong lúc mày mò ông lại nhớ đến lời từng tâm
nguyện:
“trong cơ may nếu ta có tấm bản đồ kho báu, ta sẽ
dùng hết vào việc công đức từ thiện giúp đỡ người
nghèo, còn hơn để tẽn độc ác gian tham Trần Thành
chiếm dụng”, rồi lại nghĩ đến một tâm nguyện khác:
“ta nguyện sẽ sống cuộc đời trong sáng như ngài
Châu Đạt Quan đi khắp nơi, cùng chia ngọt sẻ bùi
giúp đỡ bá tánh, xây chùa cất miếu thờ ông Bổn
tích đức ...”.
Phải chăng lời nguyện đã thấu đến tai ông Bổn
thượng đẳng thần, mà ngay sau đó qua độ nóng của
ánh đèn dầu, dưới lớp đáy hộp sơn mài bỗng nhiên
nứt ra một khe hở. Thì ra cái tráp có hai đáy,
giữa có tấm bản đồ được nhét bên trong!
Có tấm bản đồ kho báu, hai vợ chồng ta liền tìm và
thật sự bọn ta đã làm chủ được một kho tàng vô
giá. Như tâm nguyện của mình, phu quân chỉ đến lấy
một ít của cải để đi đến đâu cho xây chùa cất miếu
đến đó, hay giúp đỡ bá tánh nghèo khó mà không vụ
lợi.
Đến khi vợ chồng ta vào khu rừng này xây ngôi miếu
nhỏ để an dưỡng tuổi về chiều, thì bắt đầu có
nhiều biến động xảy đến cho cuộc đời hai vợ chồng
ta, từ Trần Thành cho đến tên nghĩa tử bất nhân
thất đức, vong ơn bội nghĩa ...
Ngày chúng ta còn ở Đài Bắc ông cứ suy nghĩ đêm
ngày. Ông ta và ta mang danh nghĩa vợ chồng nhưng
không làm sao có con để có người sau này lo hương
khói khi cả hai về chầu tiên tổ, bởi ông chỉ là
một thái giám đã bị “tịnh thân”.
Đứa con nuôi sẽ mang tên Hoài Tữ có ý nghĩa vợ
chồng ta mơ đến có đứa con. Nên khi đến Đài Bắc
lập nghiệp, vợ chồng ta may mắn xin được một đứa
con trai mới chập chững biết đi về làm nghĩa tử.
Vậy mà lớn lên nó trở thành tên bất nghĩa ...
HỒN MA NƠI KHO BÁU Trần Thành tuy tuổi trên sáu
mươi nhưng thân thể hắn ta vẫn quắc thước tráng
kiện trong nước da trắng trẻo hồng hào, nhưng lại
có hàng lông mày mọc ngược trên đôi mắt to như
loài cú vọ, và giọng nói y như đàn bà lúc ẻo lả
nhả nhớt, lúc chanh chua đanh đá nghe rất khó ưa.
Ai mới nhìn Trần Thành cũng đều nghĩ hắn ta thuộc
người ái nam ái nữ hoặc một thái giám về chiều.
Mọi người còn biết rằng, tuy Trần Thành là một
viên thái giám nhưng tính tình gian hùng, độc ác
và có nhiều tính toán cá nhân.
Trần Thành đến đất Tourane đã mấy năm nay, hắn ta
thu nạp nhiều tên đầu gấu có máu mặt trong giới
giang hồ địa phương với mục đích theo dõi vợ chồng
Hoàng Bảo Trứ - chủ trại Quỳnh Hương, cũng như
chuẩn bị đi tìm một kho tàng vắng chủ.
Trước cái ngày hắn đến gặp Hoàng Bảo Trứ tại trang
trại, một người trước đây còn nằm dưới hắn ta một
phẩm bậc, một người mà hắn ta đã bỏ công đi tìm từ
Đài Bắc sang tận đây mất nhiều công sức, cuối cùng
chỉ nhận được từ viên thái giám gần chục cái hộp
sơn mài toàn cẩn hình Mai Lan Cúc Trúc giống hệt
như nhau. Lúc đó viên thái giám còn nói:
– Đây là số hộp sơn mài Thôi Oanh Oanh lấy từ nội
cung mà Trần Công Công muốn tôi giao lại. Và tôi
nhận thấy những hộp sơn mài này không có điểm gì
đặc biệt, như vậy làm sao có tấm bản đồ kho tàng
nằm trong đó như lời công công nói.
Nhìn qua mấy cái hộp sơn mài và câu nói mỉa mai
của họ Hoàng nghe cũng có lý. Tuy vậy Trần Thành
sẵn tính đa nghi, hắn ta vẫn cầm lấy chúng đem về
thị trấn để mày mò tìm hiểu, cuối cùng cũng không
thấy có điểm đặc thù nào hiện ra trước mắt.
Không phải Trần Thành đã hồ đồ cho rằng vợ chồng
viên thái giám Hoàng Bảo Trứ đang cất giữ chiếc
hộp sơn mài của cung phi Lệ Châu. Bởi ông ta nghi
ngờ họ Hoàng là có cơ sở.
Trong thời gian người sống trong hoàng cung chạy
loạn liên quân, Trần Thành cũng như mọi người phải
bỏ chạy ra ngoài hoàng thành sinh sống. Đến một
ngày ông ta tình cờ gặp một người hành khất già
đang lên tiếng ăn xin:
Tôi xin ngài làm ơn làm phước bố thí rồi tôi sẽ
trả ơn cho ngài thật hậu hĩnh!
Câu nói ăn xin bố thí của người hành khất nghe ra
mâu thuẫn, nếu không phải kẻ điên khùng ăn nói rồ
dại thì cũng thuộc người có đầu óc hoang tưởng,
cho nên Trần Thành mới đưa mắt nhìn ông ta tỏ vẻ
khinh thị rồi nói:
– Mi đã đi ăn mày mà còn có thể trả ơn cho ta hậu
hĩnh được sao? Không lẽ mi là thần tiên giả dạng
để thử lòng người như trong truyện cổ tích? Thật
mi ăn nói điên khùng quá!
Nhưng người hành khất già nói lại ngay:
– Nếu ngài không tin, xin cứ bố thí cho tôi một xu
xem tôi có trả ơn được cho ngài hay không?
Kể ra một xu đối với Trần Thành nào có nghĩa lý gì
khi ông ta có hàng vạn lượng bạc, hàng trăm lượng
vàng trong tay? Giá trị một xu chỉ đủ mua một ly
nước uống cầm hơi. Vì vậy Trần Thành đâm hiếu kỳ
liền móc túi đưa ra một xu để bố thí, rồi lên
tiếng:
– Đây! Một xu ta bố thí cho mi, vậy hãy trả ơn cho
ta coi. Nếu thấy được ta sẽ bố thí thêm.
Người hành khất già cầm lấy tiền đoạn ông ta mới
nói tiếp:
– Tôi cũng xin nói trước, cứ một xu ngài bố thí sẽ
được nghe một câu nói trả ơn đáng giá ngàn vàng!
Một xu bố thí đầu tiên này tôi xin nói, ngài Tổng
binh Lê Kiệt có chôn giấu một kho báu, đến nay đã
vô chủ.
Đúng một câu nói đáng giá ngàn vàng, ở kinh thành
ai không biết đến quan Tổng binh Lê Kiệt có một
thời vang bóng. Tuy nhiên vợ chồng ông ta đã chết
từ lâu, gia cảnh có đứa con gái độc nhất đi lấy
chồng khi sinh ra đứa con đầu lòng cũng đã qua
đời.
Cháu gái Lê Kiệt tức Lệ Châu khi lớn lên được đưa
vào làm cung phi sống trong Tử Cấm Thành. Có thể
nói dòng họ nhà quan Tổng binh Lê Kiệt thuộc danh
gia vọng tộc, quyền quý cao sang, có thể có số của
cải được cất giấu đâu đây không ai biết được.
Cái tin này quả thật đáng giá gấp ngàn lần so với
một xu mà Trần Thành vừa bỏ ra bố thí, nhưng ông
ta vẫn giả như người không tin nên lại nói:
– Mi làm sao biết được? Nếu biết mi đã đến đó lấy
đi để trở thành một đại gia giàu có, đâu làm thứ
hành khất đi ăn mày ăn xin thế này?
Người hành khất già lại chìa tay ra như tiếp tục
xin của bố thí, còn miệng nói:
– Tôi đã nói với ngài, cứ một xu ngài bố thí sẽ
được nghe một câu nói trả ơn đáng giá ngàn vàng.
Thấy người hành khất già rất ma mãnh, nhưng bây
giờ Trần Thành nào có tiếc gì một xu, ông ta liền
móc ngay một đồng rồi nói tiếp:
– Đây ta cho mi một đồng. Hãy kể hết cho ta nghe,
nếu thấy hay ta sẽ đem mi về nuôi dưỡng trong nhà
khỏi đi ăn xin nữa!
Bấy giờ người hành khất già mới bắt đầu kể:
– Tôi tên Vĩnh Kim, trước đây là thợ thủ công mỹ
nghệ hành nghề tại một huyện trong tỉnh Vân Nam,
nơi quan Tổng binh Lê Kiệt trấn thủ ...
CÂU CHUYỆN CỦA VĨNH KIM Lúc đó tôi còn là một
thanh niên chưa quá tuổi ba mươi. Vào một hôm quan
Tổng binh Lê Kiệt cho mời tôi vào dinh thự đoạn
nói:
– Ta muốn mi làm một cái tráp nhỏ sơn mài cho thật
xinh xắn dành cho vợ ta dùng cất đồ trang sức.
Nhưng ta muốn cái hộp này thật đặc biệt, dưới đáy
có hai ngăn mà không ai nhận ra được.
Ttôi làm nghề thủ công mỹ nghệ rất khéo tay đã
nhiều năm, gặp nhiều khách hàng đưa ra lời yêu cầu
tương tự cốt để nhét thư tình gửi người yêu hay
cất giấu ngân phiếu cho kín đáo. Cho nên tôi liền
gật đầu rồi ra về làm ngay cái tráp, nhưng làm
luôn mấy cái mà quan Tổng binh vẫn chưa hài lòng,
lúc chê hoa văn lạc hậu, lúc nói ván hộp quá mỏng
manh hay chê đáy hộp thô thiển dễ nhận thấy ...
khiến tôi rất mất nhiều công sức lẫn thời gian.
Tôi biết sửa đổi mẫu mã theo ý quan Tổng binh sẽ
không bị thiệt hại về tiền công cán, nhưng với các
khách hàng quen thuộc họ sẽ bỏ đi tìm nơi khác khi
anh không giao hàng đúng hẹn, tức câu được con tép
mất đi con tôm, không thể lấy ngắn nuôi dài được.
Vào một đêm, tôi mới sắm một mâm cỗ thịnh soạn để
cúng cô hồn, đứng ra van vái:
– Tôi tên Vĩnh Kim, làm nghề thủ công mỹ nghệ. Đêm
nay xin có mâm cúng chúng sinh gồm quần áo, giấy
tiền vàng bạc cùng cháo thí phẩm gởi đến các oan
hồn uổng tử, các cô hồn các đãng đang khuất mặt
khuất mày đến hưởng qua chút lòng thành của tôi.
Sau xin phù hộ cho tôi sớm hoàn thành cái tráp sơn
mài cho ngài Lê Kiệt được hạnh thông nhanh chóng,
vì nếu kéo dài tôi sẽ mất đi nhiều khách hàng quen
thuộc lâu năm. Mọi sự được sở cầu như ý, lần sau
tôi xin cúng hậu tạ đến các vị một con heo quay
...
Tôi không ngờ sau lời van vái trước mâm cúng chúng
sinh, bầu trời bỗng nhiên trở gió và âm u khác
thường, mọi vật trước mắt đều như tối sầm lại rồi
bắt đầu có nhiều ánh ma trơi lập lòe xuất hiện.
Người ta nói ánh ma trơi là âm hồn của các hồn ma
bóng quế đang sống vất vưởng ở cõi trần gian, tôi
tự hỏi như vậy lời van vái của tôi đã đến tai các
oan hồn uổng tử và bọn chúng đang đến để thụ lộc
đây sao?
Mà thật vậy, những ánh ma trơi sau khi bay lượn
lập lòe bắt đầu hiển hiện thành hình bóng. Tôi
nhận ra bọn chúng toàn những người mặc áo lính
trận vùng biên phòng. Cả bọn cô hồn các đảng không
nói không rằng xúm nhau tranh lấy phẩm vật mà tôi
đang cúng cho chúng ăn.
Trong đó có một hồn ma vừa ăn vừa nói:
– Mi hãy bình tĩnh đừng sợ hãi, bọn ta đã nghe lời
mi van vái rồi, vì bọn ta chính là lính của tên
độc ác Lê Kiệt đây!
Lúc này tôi mới bớt kinh sợ, lấy lại bình tĩnh
trước các hồn ma bóng quế đang hiện trước mắt,
nhưng cũng hết sức ngạc nhiên khi nghe chúng hằn
học nói về quan Tổng binh. Tôi hỏi:
– Tại sao các vong hồn lại đói khát rách rưới đến
như vầy? Tại sao các vong hồn cho rằng quan Tổng
binh Lê Kiệt là người độc ác?
Tức thì bọn ma đói đã nhao nhao lên nói:
– Bọn ta thấy mi đang mắc vào tai kiếp khi nhận
làm cái hộp sơn mài cho tên Lê Kiệt, vì mi cũng sẽ
phải chết như bọn ta!
Tôi nghe bọn ma đói lên tiếng hăm dọa bèn thất
thần hỏi lại ngay:
– Tôi thấy quan Tổng binh là người ăn ở có nhân
tâm, tính tình hiền lành, đâu độc ác như các vong
hồn vừa nói? Và tại sao các vong hồn lại nói tôi
mắc vào tai kiếp sẽ phải chết?
Lúc này có một con ma đói lên tiếng trả lời:
– Tên Lê Kiệt ngoài mặt là một ngụy quân tử, còn
bụng hắn chứa toàn rắn rết và dao găm! Hắn thường
giết người vô tội, cướp bóc vàng bạc châu báu rồi
đem đi chôn giấu. Đến bọn ta khi chôn xong số của
cải này đều bị hắn giết sạch không còn ai để diệt
khẩu.
Rồi một hồn ma khác nói tiếp:
– Cái hộp tráp mà hắn nhờ mi làm cốt để giấu tấm
bản đồ kho tàng gởi về cho người thân. Nên sau khi
mi làm xong cũng sẽ bị giết để không ai biết đến
cái tráp có giấu tấm bản đồ kho tàng phi nghĩa đó.
Nên bọn ta nói mi mắc vào tai kiếp là vậy!
Vĩnh Kim sau khi nghe các vong hồn uổng tử nói
xong càng cảm thấy sợ hãi.
Anh không sợ những hồn ma bóng quế đang hiện trước
mặt mà bắt đầu sợ quan Tổng binh giết anh diệt
khẩu như bọn ma đói này. Tuy trong lòng đang sợ
chết nhưng lòng tham con người vẫn trỗi dậy trong
đầu Vĩnh Kim. Anh tính đến một viễn cảnh xán lạn
sẽ xuất hiện trong tương lai. Vì thế Vĩnh Kim lại
lên tiếng hỏi bọn cô hồn:
– Kho tàng này được Lê Kiệt chôn giấu ở đâu?
Ý nghĩ trốn chạy trước cái chết, và khi chạy trốn
anh sẽ đi tìm kho tàng của Lê Kiệt để trở thành
một kẻ giàu sang phú quý. Nhưng bọn ma đói đã trả
lời:
– Thứ nhất thiên cơ bất khả lậu, thứ hai đây là
một kho tàng phi nghĩa, bọn ta làm ma giữ của nếu
ai đến lấy nó mà không có tâm đức, tham lam đều
phải chết! Cũng như bọn ta từng nguyền rủa tên Lê
Kiệt khi chết sẽ không có ai để nối dõi tông
đường.
Nói xong các oan hồn mới dần dần biến thành từng
ánh ma trơi, bay đi tứ tán không còn thấy đâu nữa.
Người còn lại là Vĩnh Kim, anh sững sờ trước các
tin tức mà bọn cô hồn uổng tử tiết lộ. Anh phân
vân chuyện kho tàng, chuyện Lê Kiệt giết anh diệt
khẩu thực hư ra sao?
Nhưng có một thực tế làm Vĩnh Kim phải tin vào lời
các hồn ma nói ra, khi véo tay vào đùi anh vẫn cảm
thấy đau đớn, nên đây đâu phải là giấc mơ huyền
hoặc. Như vậy chắc chắn anh đã mắc vào tai kiếp,
bây giờ chỉ còn con đường là trốn khỏi nơi đây.
Ngay ngày hôm sau Vĩnh Kim liền khăn gói tạm bỏ
trốn. Anh tìm một nơi gần nhà để ẩn thân hòng nghe
ngóng động tĩnh. Mà quả thật, sau mấy ngày liền
không thấy Vĩnh Kim đến, quan Tổng binh Lê Kiệt
cho quân lính đi tìm anh khắp nơi.
Vĩnh Kim bấy giờ đã hiểu, không phải chỉ có cái
tráp sơn mài cỏn con mà quan Tổng binh phải sục
sạo tìm kiếm anh suốt mấy ngày liền, đúng ông ta
đang tìm anh nhằm diệt đầu mối ...
Kể đến đây người hành khất già không nói tiếp nữa,
càng khiến cho Trần Thành nôn nóng tò mò. Ông ta
lại lên tiếng hỏi:
– Mi trốn đi được thì đến nơi khác làm ăn, cớ sao
bây giờ thành kẻ ăn mày bẩn thỉu rách rưới như
vầy?
Người hành khất già lại chìa tay ra xin tiền nhưng
Trần Thành đã nói ngay:
– Ta không bố thí nữa mà sẽ đưa mi về nhà nuôi
dưỡng, nhưng mi phải trả lời câu hỏi của ta trước.
Bấy giờ Vĩnh Kim - tên người hành khất già - mới
tâm sự kể tiếp:
– Con người ai cũng có lòng tham, khi biết lão Lê
Kiệt muốn giết tôi diệt khẩu, mà ông ta đang trấn
nhậm cả tỉnh Vân Nam nên lấy nơi đâu để trốn trong
khi hình của tôi lại dán đầy ngoài phố, ngoài chợ?
Quả là một tên ác ôn, làm tôi muốn trả thù bằng
cách đi tìm kho tàng của ông ta chôn giấu đâu đó
để mong thành một phú gia. Nhưng rồi lúc cúng cô
hồn, Vĩnh Kim nắm được một số chi tiết về các hồn
ma hiện về trong đêm đó, bọn cô hồn uổng tử đều là
lính trận biên phòng. Vì thế anh lặn lội đi dọc
theo vùng ba biên giới Trung - Việt – Lào để hỏi
thăm một số lính biên phòng mất tích.
Vĩnh Kim đi như thế gần cả năm mới phát hiện ở đồn
biên phòng gần huyện Giang Thành, có khoảng mười
tên lính vượt biên giới vào đất Việt, và đã mấy
năm trời không ai còn nghe tông tích.
Nhờ tin tức này Vĩnh Kim lần theo dấu vết, anh đi
xuống phía Nam bắt đầu băng rừng vào các tỉnh Lai
Châu, Sơn La của đất Việt. Nhưng không phát hiện
ra mười tên lính biên phòng đã đi đến đâu. Cuối
cùng Vĩnh Kim nhớ lại mâm cúng cô hồn khi còn ở
Vân Nam, anh mới mua vàng mã, lễ vật đặt giữa rừng
đêm mà khấn vái:
– Tôi tên Vĩnh Kim, làm nghề thủ công mỹ nghệ ở
tỉnh Vân Nam, đêm nay xin có mâm cúng chúng sinh,
xin mời các oan hồn uổng tử của tên Tổng binh Lê
Kiệt đến thụ hưởng, gia ân cho chút lòng thành của
tôi, cho tôi được gặp mặt các người ...
Vĩnh Kim mới vừa van vái xong mấy câu đã thấy các
hồn ma lính trận hiện đến. Bọn chúng vẫn là lũ ma
đói đang giành nhau nhưng phẩm vật cúng kiến mà ăn
lấy ăn để. Ăn xong một hồn ma mới nhìn thẳng vào
Vĩnh Kim nói:
– Mi về đi, đường đến kho tàng của tên Lê Kiệt còn
xa xôi lắm. Và mi cũng đừng mơ tưởng đến nó, bọn
ta đã có lời nguyền làm ma giữ cửa kho tàng phi
nghĩa này. Khi ai đến lấy nó mà không có tâm đức
đều phái chết! Tâm tính mi đã nổi lòng tham cho
nên sẽ không lấy được kho tàng này đâu. Nhưng bọn
ta tha tội chết cho mi mà chỉ nguyền rủa, mi sẽ
không bao giờ được giàu sang phú quý!
Nói xong cả bọn ma đói lại biến mất không nói thêm
một lời nào.
Vĩnh Kim lì lợm không chịu bỏ cuộc, anh tiếp tục
băng rừng đi qua cả bên Ai Lao, đến địa phận tỉnh
Sầm Nứa mà không tìm được dấu tích kho báu, lúc
bấy giờ anh mới hiểu nếu không có tấm bản đồ hay
có các oan hồn uổng tử chỉ lối đưa đường thì kho
tàng này chỉ là ảo ảnh trong mắt kẻ mù mà thôi.
Nghĩ vậy làm Vĩnh Kim muốn quay trở về cố quốc
nhưng không kịp nữa.
Những ngày sống trong cảnh rừng thiêng nước độc
anh bị căn bệnh sốt rét hoành hành làm thân thể
bại hoại. Rồi may mắn anh lê chân đến được một bản
làng người Dao, được mọi người cứu qua cơn bệnh
hiểm nghèo.
Trong những ngày nằm chữa trị bệnh sốt rét tại bản
làng, Vĩnh Kim được một cô gái Dao phải lòng và
cưới anh làm chồng. Cả hai chung sống cho đến ngày
người vợ Dao qua đời mà cả hai người không có được
một mụn con. Khi đó Vĩnh Kim mới nhìn lại chính
mình, thấy tuổi tác đã già tính ra đã xa quê hương
trên ba mươi năm dài, làm anh nhớ đến bà con họ
hàng nên nhất quyết quay trở về Vân Nam.
Với tuổi trên sáu mươi mà trong Vĩnh Kim già sọm,
có lẽ do căn bệnh sốt rét hành hạ triền miên khiến
anh không thể làm việc được, đành đi xin của bố
thí suốt đoạn đường về.
Khi về đến Vân Nam, họ hàng Vĩnh Kim cũng đã tứ
tán thập phương vì loạn lạc. Anh mới nhờ xe đi đến
kinh thành, một nơi phồn hoa đô hội có nhiều kẻ
giàu sang phú quý, hành nghề ăn xin mới khá được
...
Kể đến đây Vĩnh Kim mới kết luận:
– Ngài đã biết vì sao tôi trở thành kẻ ăn mày và
thường ma mãnh nói “nếu bố thí một xu sẽ được trả
ơn đáng giá ngàn vàng”, bởi tôi biết trên đời có
rất nhiều người còn mang túi tham không đáy như
tôi khi xưa, tôi sẽ dễ xin ăn hơn. Và không biết
sau câu chuyện kể sẽ có bao người sẽ động lòng
tham nhỉ?
Trần Thành từng làm quan thái giám trong Tử Cấm
Thành, ông ta biết cung phi Lệ Châu là cháu ruột
của Lê Kiệt và đang ở đâu. Việc lần mò ra cái hộp
sơn mài có giấu tấm bản đồ kho tàng sẽ không khó
khăn lắm.
Trần Thành cũng như Lê Kiệt chỉ là một ngụy quân
tử ngoài mặt, tỏ ra từ tâm bác ái trước một tên
Vĩnh Kim nghèo hèn khốn khổ, ông ta bèn nhìn người
hành khất già với đôi mắt tràn đầy sự cảm thông
rồi ôn tồn lên tiếng nói:
– Ta đã giàu sang phú quý, tài sản ăn suốt ba đời
không hết nên không màng đến cái kho tàng mà mi
vừa kể, và vì thấy nó mơ hồ hoang tưởng quá. Nhưng
ta đã hứa sẽ đưa mi về nuôi dưỡng cho đến hết cuộc
đời, vậy mi hãy đi theo ta.
Ông già hành khất Vĩnh Kim như người từ trên trời
rơi xuống, không ngờ gặp được quý nhân giữa thời
buổi đất nước loạn ly nghèo khó. Và Vĩnh Kim cũng
bằng đôi mất nhìn Trần Thành tỏ sự biết ơn, đoạn
run run giọng đáp:
– Tôi thật đội ơn ngài đã cứu khổ cứu nạn, tôi xin
nguyện làm thân khuyển mã phục vụ cho ngài suốt
cuộc đời còn lại.
Trần Thành không nói gì, ông ta chỉ ve vuốt ông
già hành khất Vĩnh Kim vài cái thân mật rồi đưa ra
xe trở về nhà. Đây là lần đầu tiên trong đời ông
già Vĩnh Kim được ngồi trên xe hơi, bên cạnh lại
là một người giàu sang phú quý không phân biệt
giai cấp sang hèn, không tham cái kho tàng mới
được nghe, làm khuôn mặt ông ta cứ luôn hớn hở.
Vĩnh Kim nào biết trong bụng Trần Thành đang nuôi
dưỡng toàn rắn rết dao găm. Trần Thành đang nghĩ
đến con đường mà quan Tổng binh Lê Kiệt đã đi qua:
giết người diệt khẩu. Bằng cái cung cách ăn xin
của Vĩnh Kim sẽ có bao người sẽ tin như ông ta
đang tin. Cũng vì tính đa nghi như Tào Tháo, ông
ta không muốn để Vĩnh Kim cứ đi xin của bố thí ăn
nói luông tuồng để rồi đây cùng sẽ có người tin.
Mà nuôi dưỡng tuổi già Vĩnh Kim là điều không
tưởng với Trần Thành, khi giá trị sử dụng ông già
hành khất không còn nhiều, ông ta đâu thừa tiền
làm việc công đức từ thiện này.
Còn Vĩnh Kim ngồi trên xe đang vui mừng hớn hở,
chợt nhiên đôi mắt ông ta đã mở trợn trừng nhìn
Trần Thành không chớp, miệng ú ớ nói qua hơi thở
đang sắp tắt:
– Thì ra ông cũng muốn giết người diệt khẩu như
tên Lê Kiệt độc ác. Tôi đã nhìn lầm người, trời
tru đất diệt ông, tôi sẽ làm ma hiện về báo oán!
Miệng Vĩnh Kim nguyền rủa còn chân tay dãy giụa từ
mãnh liệt cho đến lúc phải buông xuôi. Trần Thành
từng nghe nhiều lời nguyền rủa nên chỉ để ngoài
tai, lúc này ông ta đang nở nụ cười nham hiểm và
độc ác khi tay cầm con dao nhọn cứ ấn sâu vào
trong tim ông già hành khất Vĩnh Kim, miệng nói:
– Mi nói nhiều quá, nếu để mi sống ta sợ đêm dài
lắm mộng. Thôi hãy về dưới cõi âm ty sống cùng bọn
lính biên phòng làm thứ ma đói canh giữ kho tàng.
Ta hẹn có ngày sẽ đến kho tàng Lê Kiệt tìm mi!
Từ khi Trần Thành gặp được ông già hành khất Vĩnh
Kim, ông ta mới biết cái hộp sơn mài mà cung phi
Lệ Châu dùng chứa đồ trang điểm ở dưới đáy có tấm
bản đồ kho báu của Lê Kiệt đã vẽ nơi chôn giấu ơ
một nơi nào đó trên đất Việt Nam.
Giết xong ông già hành khất, Trần Thành tin rằng
tấm bán đồ kho tàng của Lê Kiệt là có thật vì sau
khi tìm hiểu về gia đình quan Tổng binh, ông ta
biết thật sự có cái hộp sơn mài đã ở trong tay
cung phi Lệ Châu.
Vì không hiểu có phải từ lời nguyền của các hồn ma
bọn lính biên phòng mà Trần Thành được biết, trong
thời gian còn trấn nhậm vùng ba biên giới, quan
Tổng binh Lê Kiệt bỗng nhiên đột tử qua đời. Riêng
về cái hộp sơn mài đã được Lê Kiệt gửi về kinh
thành cho vợ, sau đó trước khi qua đời bà ta trao
cho cô con gái độc nhất là Lệ Hằng lúc đi về nhà
chồng.
Lệ Hằng theo sống cùng chồng và sinh được Lệ Châu,
nhưng khi sinh con bà ta bị băng huyết mà chết tức
tưởi. Lệ Hằng chỉ kịp trăn trối với chồng xin trao
lại kỷ vật tức cái hộp sơn mài nhà họ Lê cho con
gái sau này làm kỷ niệm.
Cuối cùng của hộp sơn mài có giấu tấm bản đồ đang
trong tay cung phi Lệ Châu. Nhưng rồi Trần Thành
lại kém may mắn khi nghe bà cung phi nói, cái hộp
sơn mài đã thất lạc ngay từ lúc chạy loạn liên
quân, có lẽ lúc mọi người vào hôi của con nô tỳ
Thôi Oanh Oanh đã lấy đi rồi, vì thấy cái hộp
không đáng giá nên bà không muốn tìm lại nữa.
Trong nội cung lúc bấy giờ ái cũng biết tỳ nữ Thôi
Oanh Oanh là giám hậu của viên thái giám Hoàng Bảo
Trứ, mà họ Hoàng lại dưới quyền của Trần Thành.
Tức tốc ông ta đi tìm viên thái giám họ Hoàng,
nhưng mọi người đã chạy loạn tứ phía bóng chim tăm
cá biết đâu để tìm.
Qua một thời gian Trần Thành mới biết Hoàng Bảo
Trứ đang sống ở đài Bắc làm việc cho bang Rồng
Xanh, đến khi ông ta đến nơi thì họ Hoàng đã xin
qua Đ6ng Dương hoạt động kinh doanh. Trần Thành
hiểu giá trị cái hộp sơn mài mà vợ chồng viên thái
giám vô tình lấy đi vì thế ông ta cũng qua đấy.
Cuối cùng Trần Thành chỉ nhận được gần chục cái
hộp sơn mài không phải của cung phi Lệ Châu đã
thất lạc. Ông ta còn đang tức giận với bao nhiêu
công sức tiền của bỏ ra, lại nhận được tin:
– Thưa chủ nhân, vợ chồng tên Hoàng Bảo Trứ đã
giao trang trại Quỳnh Hương ra đi, không ai biết
vợ chồng hắn đi đến đâu.
Trần Thành có tính đa nghi, ông ta càng nghi ngờ
vợ chồng Hoàng Bảo Trứ đang trên đường đi đến kho
tàng của Lê Kiệt. Thêm một lần nữa ông ta cho bọn
đàn em đi truy tìm viên thái giám họ Hoàng ...
Hoàng Bảo Trứ như bắt được vàng, ông không ngờ
trong tay có tấm bản đồ kho báu quý giá mà Trần
Thành đêm ngày mơ ước.
Tấm bản đồ kho tàng được vẽ tường tận chi li. Lê
Kiệt muốn giữ khái niệm về vùng ba biên giới, ông
ta cho bọn lính dưới quyền đi giấu kho tàng nằm
tận trong dãy rừng núi Mường Mây tức vùng biên
giới của ba nước Đông Dương.
Lê Kiệt vẽ từ cảng biển Hội An đi theo đường bộ
qua vùng Phước Sơn mà họ Hoàng đã lập trại Quỳnh
Hương, từ đây theo dòng sông đến Xản Xay, rồi đi
bộ về hướng Đông chừng mười dặm đường có dãy núi
sẽ thấy một cây sồi cao và chờ cho mặt trời ngã
hướng Tây sẽ lộ ra một hang đá, mà bên ngoài đầy
cây cối rậm rạp che khuất đường vào.
Hoàng Bảo Trứ không tin rằng vợ chồng ông có cơ
duyên và may mắn đến vậy. Bởi không hiểu tại sao
khi ông qua đây lập trại Quỳnh Hương lại trùng
khớp với đường đi đến kho tàng.
Nhìn bản vẽ thấy xa xăm mà lại thật gần, nếu nhìn
vào tấm bản đồ Đông Dương thì kho tàng của Lê Kiệt
đang nằm trong dãy Trường Sơn gần vùng Daksut
thuộc Gia Lai Kon Tum. Mà từ Phước Sơn vào rừng
rồi đi xuống phía nam không bao xa sẽ đến ngay địa
điểm cất giấu kho báu này.
Khi Hoàng Bảo Trứ từ giã Gia Viễn - người chủ mới
của trại Quỳnh Hương, họ Hoàng nói với vợ:
– Vợ chồng ta được trời đất hay ông Bổn thương
tình, cho làm chũ kho tàng của quan Tổng binh Lê
Kiệt để lại. Nay vợ chồng ta già yếu, đứa con nuôi
còn nhỏ dại, số của cải này không cần thiết phải
lấy để hưởng thụ, nên ta muốn dùng nó để xây chùa
cất miếu nhằm tôn kính ngài Phúc Đức Chánh Thần đã
cho vợ chồng ta gặp nhiều may mắn.
Nói xong viên thái giám chỉ vào một ngôi nhà xiêu
vẹo bên đường, đoạn ông ta nói tiếp:
– Ta phải đi ngay đến kho báu lấy một ít làm
chuyện công đức như vừa nói, nếu không tên gian ác
tham lam Trần Thành biết hắn sẽ đến chiếm đoạt để
hưởng thụ cá nhân. Nhưng đường đi còn xa lạ lại
núi rừng lắm chông gai hiểm trở thêm khí hàn độc
địa, vậy nàng cùng thằng Hoài Tử ở lại đây chờ ta
về.
Nói xong viên thái giám Hoàng Bảo Trứ tất tả lên
đường theo hướng đã định. Ông ngày đi đêm nghĩ,
miệng luôn ngậm ngải để tránh cảnh rừng thiêng
nước độc luôn xâm hại con người, thứ ngải mà dân
đi rừng thường ngậm để tìm trầm hương, kỳ nam rất
có hiệu nghiệm. Loại ngải tìm trầm sẽ khiến cho
thú dữ phải lánh xa, khí hàn không làm tổn bại sức
khỏe và làm cho đôi mắt sáng nhìn thấu cả màn đêm.
Ngoài những đề phòng đó, Hoàng Bảo Trứ vừa đi vừa
cầu khấn đến các vị thần linh từ cõi âm cho đến
cõi dương, nhất là vị Phúc Đức Chánh Thần mà ông
tôn sùng từ xưa đến nay:
– Con lạy ông Bổn, con không vì tham lam số của
cải nhà họ Lê mà dấn thân vào nơi nguy hiểm. Con
chỉ muốn đến nơi xin một chút của cải đó mang về
giúp đỡ người nghèo hay xây chùa cất miếu để tích
đức!
Họ Hoàng đi ròng rã như thế gần một tuần lễ đã đến
nơi. Ông thấy ngay một cây sồi cao hiện ra trước
mắt. Cây sồi lại mọc đơn độc trên một gò đất cao
ráo, phủ bóng mát cả một khu vực rộng lớn. Viên
thái giám Hoàng Bảo Trứ đến nơi thì mặt trời còn
nằm trên đỉnh đầu, ông phải chờ đợi như lời quan
Tổng binh Lê Kiệt dặn trong bản đồ:
chờ cho mặt trời ngã về Tây sẽ lộ ra một hang đá,
mà bên ngoài đầy cây cối rậm rạp che khuất đường
vào.
Quả thật trong lúc này viên tháí giám chỉ thấy
toàn cây cối, không có một cái hang đá hay núi đá
nào hiện trước mắt. Thấy còn gần hai canh giờ trời
mới về chiều, nên ông nằm dưới gốc cây tạm nghỉ
ngơi chờ đợi. Rồi trong giấc ngủ tạm bợ họ Hoàng
chợt nhận ra có người đang lay chân cho ông tỉnh
dậy.
Vừa mở mắt Hoàng Bảo Trứ phải kinh hãi, trước mặt
ông có đến mười con ma mặc áo lính đang nhảy cà
tưng theo sau một bóng ma ông tướng có bộ râu quai
nón tiến đến chỗ ông nằm. Viên thái giám họ Hoàng
không thể không biết, ông tướng có bộ râu quai nón
chính là quan Tổng binh Lê Kiệt, người chủ kho
tàng nơi đây.
Lúc này bóng ma Lê Kiệt nhìn vào viên thái giám họ
Hoàng mà thét lớn:
– Đây là kho tàng ta chôn giấu dành cho người nhà
họ Lê, mi muốn lấy nó sẽ phải chết!
Nói xong các bóng ma mới tiếp tục nhảy cà tưng xếp
thành vòng tròn bao quanh Hoàng Bảo Trứ, chúng
nghe chủ nhân thét lập tức cũng gào thét theo:
– Sẽ phải chết! Sẽ phải chết!
Viên thái giám Hoàng Bảo Trứ lo sợ cuống cuồng khi
thấy các bóng ma càng lúc trở nên quái dị, có tên
mặt tím bầm, có tên mặt vàng nhưng cũng có tên mạt
đỏ như máu, nhưng mười con ma mặc áo lính đều có
thứ giống nhau như mí mắt đen hai mắt lồi trắng
dã, còn đôi môi đen sì cùng với cái lưỡi lè dài
xuống đến tận ngực - là cái chết do treo cổ.
Hoàng Bảo Trứ lúc này đã quá sợ hãi, ông phải lên
tiếng phân trần:
– Tôi không có ý định chiếm đoạt kho tàng, chỉ
muốn xin một ít đem về giúp đỡ kẻ nghèo đang khốn
khó để tu nhân tích đức thôi.
Bóng ma Lê Kiệt vẫn tỏ ra giận dữ, liền quát:
– Ta biết hết, vợ mi - con tỳ nữ Thôi Oanh Oanh
lấy được tấm bản đồ từ nơi nội cung của cháu gái
ta. Vậy mi dám hồ đồ nói đến đây xin một ít để
giúp đỡ người nghèo, ta thật khó tin.
Viên thái giám lại tiếp tục phân trần:
– Thưa âm hồn ngài Lê Kiệt, hãy hiểu cho chúng
tôi. Thôi Oanh Oanh do vô tình cũng như mọi người
khi vào cung hôi của, nàng đã lấy cái tráp sơn mài
của bà Lệ Châu mà không hề biết bên trong có tấm
bản đồ kho tàng mà ngài đang cất giấu.
– Vậy tại sao mi biết mà tìm đến?
Hồn ma Lê Kiệt tiếp tục truy vấn họ Hoàng, còn ông
lại thành thật đáp:
– Do quan thái giám Trần Thành luôn bỏ công đi
truy tầm kho báu của ngài, chính ông ta tìm đến vợ
chồng tôi cho biết bí mật về cái tráp của bà Lệ
Châu, vì vậy tình cờ tôi mới phát hiện ra tấm bản
đồ.
Bóng ma Lê Kiệt vẫn chưa tin, hồn ma cứ thét:
– Ta đã từng thề sẽ giết chết những ai biết đến
kho tàng như mười tên ma cà tưng này. Vậy mi cũng
đã tới số, hãy về làm ma giữ cửa cho ta!
Nói xong tất cả mười một bóng ma đều vươn hai tay
thẳng ra trước, chân nhảy cà tưng tiến sát đến bên
viên thái giám. Có bóng ma đã đưa tay ngay vào cổ
hay nắm chặt lấy chân tay ông, khiến họ Hoàng phải
hốt hoảng thốt lên:
– Đừng giết tôi! Tôi xin đi khỏi nơi đây!
Nhưng những bóng ma vẫn không buông tha, những
cánh tay ma cứ siết chặt lấy cổ ông, rồi đột nhiên
có một thứ ánh sáng chói lòa như ánh hào quang
xuất hiện làm mười một con ma phải rút tay trở lại
và lùi xa khỏi viên thái giám.
Hoàng Bảo Trứ chưa hết kinh hoàng, đôi mắt còn mờ
mờ ảo ảo do các hồn ma vừa bóp cổ, ông chỉ nghe
bóng ma Lê Kiệt nói với bọn ma cà tưng:
– Ngàí Phúc Đức Chánh Thần xuất hiện, đúng tên
thái giám này nói thật, hắn chỉ muốn đem số của
cải trong kho tàng về xây chùa cất miếu hay giúp
đở người nghèo. Bọn ta phải nghe theo lời ngài.
Đến khi đôi mắt họ Hoàng nhìn đã rõ, ông không
thấy hình bóng vị Thượng Đẳng Thần Phúc Đức nữa
còn bọn ma cà tưng cùng hồn ma quan Tổng binh Lê
Kiệt cũng đã biến mất từ bao giờ. Trái lại trước
mắt viên thái giám bóng cây sồi đã ngã về Tây.
Bóng ngọn cây đang đâm thẳng vào một khe núi đá
đang hiện rõ ra sau những bụi cây sầm uất um tùm.
Dù đã trông thấy đường vào kho tàng, nhưng viên
thái giám Hoàng Bảo Trứ vẫn còn run sợ trước hình
bóng của mười một con ma cà tưng vừa định giết
chết ông. Họ Hoàng đâm phân vân không rõ những
hình ảnh ma quái và câu nói của hồn ma Lê Kiệt và
ngài Phúc Đức Chánh Thần thực hư ra sao ...
Bỗng viên thái giám Hoàng Bảo Trứ nghe văng vẳng
bên tai có tiếng người từ trên cao dội xuống:
– Mi cứ can đảm mà vào lấy số của cải cần thiết
đem về làm theo tâm nguyện. Bọn ma kia không dám
xuất hiện nữa đâu.
Mặc dù không thấy hình bóng ai nhưng họ Hoàng biết
ông Bổn Tài Thần vừa lên tiếng, có lẽ vì nhân thần
đã độ cho ông hoàn thành tâm nguyện mà trước lúc
lên đường ông từng khấn vái cầu xin.
Viên thái giám Hoàng Bảo Trứ bước vào khe núi đá
chỉ vừa đủ lọt một người. Lúc này trời đã về chiều
nên hang đá rất tối tăm, họ Hoàng phải đốt đuốc
lấy ánh sáng mà đi. Ông đi sâu vào bên trong thấy
hang đá càng lúc mở rộng ra trước mắt.
Rồi sự sợ hãi lại kéo đến, lâu lâu Hoàng Bảo Trứ
thấy một bộ xương người treo lủng lẳng như bị treo
cổ, như đe dọa những ai bước chân vào đây. Ông đếm
có tất cả mười bộ xương người bị treo cổ như vậy
mới đến nơi Lê Kiệt cất giấu của cải.
Kho tàng chỉ có ba cái rương gỗ, một rương chứa
vàng nén bạc nén, một rương chứa toàn vật trang
sức được chế tác từ ngọc ngà châu báu với kim
cương óng ánh qua ánh lửa ngọn đuốc và một rương
gồm những cổ vật quý hiếm, đa số thuộc tượng làm
bằng đồng đen hoặc vàng ròng bạc trắng nguyên
chất.
Lúc này viên thái giám Hoàng Bảo Trứ không nghĩ
quan Tổng binh Lê Kiệt lại giàu có đến vậy, số của
cải này không phải do mồ hôi nước mắt ông ta tạo
ra; đây có lẽ thuộc thứ của cải khi làm quan Lê
Kiệt đi đến đâu trộm cắp hay cướp bóc đến đó, tích
lũy lâu năm giờ phải cất giấu của phi nghĩa này.
Như tâm nguyện, viên thái giám họ Hoàng chỉ lấy
một ít của cải trong kho tàng. Trước khi từ giã
kho báu đầy những hồn ma. Hoàng Bảo Trứ liền đốt
luôn tấm bản đồ rồi van vái:
– Tôi xin khấu đầu lạy các cô hồn uổng tử. Tôi xin
đốt tấm bản đồ này và có tâm nguyện, nếu ai có
duyên may, có tâm đức tốt đẹp thì trời đất sẽ dẫn
đường đưa lối còn bằng không như các người đã có
lời nguyền, sẽ giết những ai đụng đến kho tàng cho
làm ma giữ của.
Từ đừ viên thái giám Hoàng Bảo Trứ cùng vợ - bà
giám hậu Thôi Oanh Oanh đi khắp nơi, lúc dừng chân
xây chùa cất miếu hoặc gặp đền chùa miếu mạo nghèo
nàn vào cúng dường làm phước. Đặc biệt mỗi khi
Hoàng Bảo Trứ xây dựng đền miếu, ông chỉ thờ có
một vị chánh thần Châu Đạt Quan tức ông Bổn, hay
còn gọi Tài Thần, là vị nhân thần được các hoàng
đế từ đời nhà Nguyên, Minh đến nhà Thanh phong sắc
Phúc Đức Chánh Thần.
ĐỨA CON NUÔI BẤT NGHĨA Vài năm sau bọn đầu gấu của
Trần Thành mới phát hiện ra vợ chồng viên thái
giám Hoàng Bảo Trứ.
Bọn chúng tình cờ gặp Hoài Tử - đứa con nuôi của
ông. Vợ chồng Hoàng Bảo Trứ xin Hoài Tử về nuôi
khi chỉ mới chập chững biết đi để lo việc hương
khói sau này, bởi ông chỉ là một thái giám đã bị
tịnh thân.
Lúc đó vợ chồng họ Hoàng thấy một bà mẹ dẫn đứa
con mồ côi cha đem ra chợ bán, mà thời loạn ly con
mất cha vợ mất chồng sinh cảnh đói nghèo, chuyện
bán con đi ở đợ thường xảy ra giữa chợ.
Hoàng Bảo Trứ thấy đứa nhỏ khôi ngô và với tuổi
mới chập chững biết đi chưa biết gì sẽ dễ dạy dỗ,
nên vợ chồng ông trả cho bà mẹ một số tiền rồi đem
Hoài Tử về nuôi đến khôn lớn, đã hơn mười sáu năm.
Bà Thôi Oanh Oanh thuộc phụ nữ lấy câu tam tòng tứ
đức làm đầu, những gì chồng muốn bà đều nghe, nên
rất thương yêu nuông chiều đứa con nuôi. Khi đến
khu rừng gần trang trại cũ cả hai xây lên ngôi
miếu. Viên thái giám không thấy Trần Thành theo
dõi nữa nên ông tưởng được yên thân, vì thế lúc
Hoài Tử vừa tròn mười tám, họ Hoàng muốn tìm vợ
cho con do vợ chồng ông mong có đứa cháu bế bồng
để vui hưởng tuổi già.
Nhưng nơi miếu ẩn khuất này đâu có nhiều bá tánh
đến dâng hương, vợ chồng ông khó có thể tìm được
một người con gái xứng đôi vừa lứa với Hoài Tử để
hỏi cưới.
Bà Thôi Oanh Oanh mới nói với con:
– Chốn khỉ ho cò gáy này đâu có xóm làng đông đúc
mà ba má tìm vợ cho con. Vậy con hãy ra nơi bãi
vàng Phước Sơn sống ở đó một thời gian, cố tìm một
người ưng ý rồi ba má đến hỏi cưới đưa về cho con.
Hoài Tử tỏ ra ngoan ngoãn nghe lời, anh khăn gói
ra bãi vàng theo lời cha mẹ nuôi. Ở đờì có câu
trời sinh tánh đâu sinh nết, Hoài Tử vốn thất học
từ nhỏ nên anh luôn nghĩ cha mẹ là người giàu có,
bởi ông bà đi đâu cũng cất chùa xây miếu hoặc giúp
đỡ mọi người.
Ra đến bãi vàng, Hoài Tử thấy mọi thứ đều khác
biệt với cuộc sống trong ngôi miếu nơi hàng ngày
chỉ có ba người. Nơi đây lại đông đảo đủ mọi hạng
người, và ai có tiền đều được người người tâng
bốc, dù nhỏ tuổi nhưng ai cũng kính nể gọi bằng
“cậu hai”.
Bà Thôi Oanh Oanh thường chu cấp tiền đầy đủ làm
Hoài Tử càng sinh hư, anh bắt đầu có tư tưởng trở
thành công tử con nhà nhà giàu. Hàng ngày Hoài Tử
ngồi trong quán ăn uống nhậu nhẹt với bọn người
tìm vàng và huênh hoang nói với mọi người:
– Cha ta là Hoàng Bảo Trứ - người giàu có nhất
vùng này, ai nghèo khổ cứ đến ngôi miếu trong rừng
sẽ được ông giúp đỡ. Còn ta đến đây xem có cô gái
nào ưng ý là hỏi cưới về làm vợ ngay.
Không ngờ câu nói của Hoài Từ được bọn đầu gấu của
Trần Thành nghe được, chúng liền về báo:
– Thưa chủ nhân, ở ngoài bãi vàng có thằng nhóc tự
xưng con Hoàng Bảo Trứ, người chúng ta đi tìm từ
mấy năm nay.
Trần Thành biết vợ chồng Hoàng Bảo Trứ có xin đứa
con nuôi ngày còn ở Đài Bắc, và hắn còn nghe tên
thủ hạ nói thêm:
– Thằng nhóc nói họ Hoàng bây giờ giàu có lắm, cất
mấy ngôi đền miếu cho bá tánh có chỗ cúng bái, còn
bỏ tiền ra giúp đỡ người nghèo. Riêng nó được vợ
chồng Hoàng Bảo Trứ cho ra bãi vàng tìm vợ để
cướí.
Trần Thành thuộc hạng người mưu sĩ, sau khi nghe
xong muốn dùng kế “nội công, ngoại kích”. Hắn ta
hiểu họ Hoàng không dễ đưa ra tấm bản đồ kho tàng
một khi đang làm chủ.
Cho nên một hôm ...
Hoài Tử đang ngồi trong quán nước bỗng thấy một cô
gái đẹp như hằng nga giáng trần, đang bước đến bên
anh. Xưa nay Hoài Từ không gặp được nhiều cô gái
trẻ đẹp, còn bây giờ cứ ngẩn ngơ nhìn không hiểu
người con gái này từ đâu đến. Vì ở khu bãi vàng đa
số đàn bà con gái đều lam lũ, còn cô ta có nét đẹp
duyên dáng đài các và không phải người trong vùng.
Nhìn hình dáng cô gái có làn da trắng muốt, thướt
tha trong bộ quần áo bó sát lấy thân, mái tóc lại
đen nhánh không hề bị cháy nắng dầm sương, được
uốn quăn không để búi tóc ở sau đầu như các cô gái
khác. Chính vì thế khuôn mặt của cô gái càng thêm
nổi bật với hai hàng mi mỏng như lá liễu chạy dài
trên đôi mắt đen, trên mí mắt còn được tô thêm thứ
màu hồng nhàn nhạt mang đầy sức gợi cảm.
Cô gái cứ nhìn Hoài Tử không chớp. Bởi vậy anh
phải lên tiếng hỏi:
– Cô là ai? Tôi nào quen biết cô đâu sao cô lại
nhìn tôi như vậy?
Bấy giờ cô gái mới tỏ ra thẹn thùng lại tình tứ
trả lời câu hỏi của anh:
– Em tên Ý Nhi con gái Trần Công sống ngoài thị
trấn, nghe nói anh không phải bọn người đi tìm
vàng mà đến đây tìm người về nâng khăn sửa túi.
Còn em đã đến tuổi cập kê, ơ nơi rừng rú này không
ai xứng để gửi tấm thân nên em muốn gặp anh để tìm
hiểu, sau nếu được anh để mắt thì xin được về hầu
hạ.
Nghe Ý Nhi nói muốn gặp anh để biết thực hư chuyện
tìm người con gái để cưới làm vợ, nàng còn xin
được về làm vợ anh làm Hoài Tử cảm thấy vui mừng
và lòng cứ lâng lâng dạt dào vì có người con gái
đẹp để mắt đến. Nhưng Hoài Tử cũng tỏ ra ngạc
nhiên, anh mới lên tiếng hỏi:
– Ý Nhi muốn làm vợ anh sao?
Ý Nhi vẫn tình tứ trả lời trong giọng lẳng lơ:
– Mới gặp anh mà em thấy như ông tơ bà nguyệt đã
xe duyên cho hai đứa mình. Nhưng ...
– Nhưng sao em? - Hoài Tử nôn nao hỏi lại.
– Áo mặc đâu qua khỏi đầu. Con cái đâu dám vượt
qua vòng lễ giáo, nếu anh thương thì hãy cùng em
về nhà ra mắt ba em rồi sau đó đưa ba má anh qua
hỏi cưới em ... mình mới thành vợ thành chồng
được.
Giọng của Ý Nhi đầy vẻ mơn trớn nũng nịu, còn thân
hình nàng càng cọ sát vào người Hoài Tử, như muốn
cho anh ngửi thấy mùi hương từ da thịt nàng đang
toát ra cùng nhịp đập trái tim đang dồn dập trong
thân thể.
Hoài Tử xưa nay vốn chỉ ở trong nhà với cha mẹ,
anh chưa từng có dịp tiếp xúc với nữ giới nhiều và
càng chưa được người con gái nào cọ xát da thịt
vào người như thế. Hoài Từ như người mất hồn bị
thôi miên, từ ánh mắt, lời nói và cử chỉ của nàng.
Hoài Tử vội vàng đáp lời ngay:
– Mới gặp mà anh đã thấy thương em, vậy anh về nhà
ra mắt ba em ngay nhé.
Ý Nhi càng thêm lẳng lơ, nàng nũng nịu đáp:
– Chứ để anh ở đây lỡ có cô nào cướp mất, thì em
lâm bệnh tương tư mà chết đó!
Nói xong Ý Nhi đưa Hoài Từ đi về thị trấn, đến một
ngôi nhà rộng lớn. Nơi đây là nhà Trần Thành mà Ý
Nhi nói nhà Trần Công ba nàng. Riêng Trần Thành từ
khi bọn đầu gấu của ông ta về báo có tung tích về
vợ chồng viên thái giám Hoàng Bảo Trứ, ông ta muốn
dùng kế, trước mắt dùng Hoài Tử làm nội ứng trong
nhà viên thái giám, sau nếu có đi đến kho tàng Lê
Ktệt đầy những hồn ma như lời ông già hành khất
Vĩnh Kim kể Trần Thành mới sai người hỏa tốc về
ngay quê hương đến dãy Bắc nhạc Hằng Sơn (một
trong năm ngọn núi thuộc “Ngũ Nhạc Trung Sơn” gồm
Trung nhạc Trung Sơn, Đông nhạc Thái Sơn, Tây nhạc
Hoa Sơn, Nam nhạc Hoành Sơn và Bắc nhạc Hằng Sơn).
Núi Hằng Sơn nằm phía Bắc, từ đời nhà Minh thường
là nơi trú ẩn của các đạo sĩ tu thuật bùa chú. Bọn
đầu gấu rước về cho Trần Thành một vị pháp sư nổi
tiếng nhất núi Hằng Sơn, ông này từng sống với
Trần Thành khi còn bên Trung Hoa, nên sau khi nghe
Trần Công Công cho mời là đi. Pháp sư tên Mã Dần
tinh thông nhiều pháp thuật, biết bắt ma trừ quỷ,
sai âm binh đánh âm binh, biết dùng bùa ngải, thôi
miên để phục vụ mọi ý đồ cho các thân chủ.
Khi đến nhà Trần Thành, pháp sư Mã Dần được nghe
Trần Công Công nói ra ý định đi tìm kho báu của
quan Tổng binh Lê Klệt cất giấu, nhưng người có
tấm bản đồ lại do viên thái giám Hoàng Bảo Trứ giữ
trong tay. Trần Thành bấy giờ mới nói tiếp:
– Rất khó bắt tên họ Hoàng đưa tấm bản đồ kho báu,
ta nghe nói hắn thờ ngài Phúc Đức Chánh Thần nên
được các thần linh che chở nên khó xâm hại lắm.
Nay vừa biết vợ chồng hắn muốn cưới vợ cho đứa con
nuôi, nhân cơ hội này ta muốn dùng mỹ nhân kế bắt
tên Hoài Tử về nhà làm nội ứng.
Nghe xong lão pháp sư Mã Dần liền cười lên khanh
khách, nói ngay với Trần Thành:
– Tưởng ông mướn nhờ ta chuyện lớn lao mới cho
người cất công về núi Hằng Sơn đón ta về tận đây.
Rồi lão Mã Dần mới hăng giọng nói tiếp:
– Ta sẽ sai hồn con hồ ly tên Ý Nhi, trước lúc con
ma nữ này chết nó đã có nhiều năm ở chốn lầu xanh,
kình nghiệm mồi chài khách làng chơi không ai sánh
kịp. Ta cho con ma nữ nhập hồn mượn xác một con nữ
trẻ đẹp nào đó ra tay giúp Công Công toại nguyện.
Trần Thành liền nói thêm:
– Ta biết pháp sư cao tay ấn, nên ngoài việc dùng
mỹ nhân kế còn muốn ông cùng ta đi đến kho tàng
quan Tổng binh Lê Kiệt cất giấu số của cải to lớn.
Ở đó nghe nói có rất nhiều hồn ma hung dữ canh giữ
không cho ai đụng đến. Nếu người đấu với người, ta
không hề lo sợ nhưng người đấu với ma, tức ma
trong tối còn người ngoài sáng e rằng sẽ bất lợi
mà gặp tổn thất cả người và của, cuối cùng chẳng
thành công.
Lão pháp sư Mã Dần lại gật đầu trả lời:
– Trần Công Công tìm ta là đúng đối tượng rồi, ta
sẽ tiêu diệt hết lũ ma xó ma trành đó để cùng chia
nhau số của cải này, được không?
Thật đúng con người ai cũng có lòng tham, đến lão
pháp sư già không có gia đình con cái, ngày đêm ở
nơi thâm sơn cùng cốc chỉ biết luyện bùa nuôi ngải
không mua sắm vật chất để hưởng thụ cũng vẫn tham
lam, muốn có thật nhiều tiền. Không biết khi chết
ông ta có đem theo xuống cõi âm ty được không mà
vừa mở miệng đã đòi chia chác của cải trong kho
tàng.
Tuy vậy Trần Thành không cảm thấy lo lắng với lời
đề nghị của lão Mă Dần, bài học giết người diệt
khẩu hay tranh đoạt gia tài luôn hiện ra trong đầu
quan thái giám Trần Thành. Để công việc đạt đến
thành công, Trần Thành liền giả vờ nói với lão ta:
– Tưởng gì, ta với ông có khó cùng chịu có của
cùng chia. Bây giờ pháp sư lo vụ thằng Hoài Từ con
nuôi tên Hoàng Bảo Trứ trước đi, lúc đó ta mới có
tấm bản đồ kho tàng trong tay.
Sau đó bọn đầu gấu của Trần Thành ra tận thị xã
Tourane đưa về một cô gái, không ai ngờ cô ta thật
trẻ đẹp, tuổi chỉ mới mười sáu mười bảy mà đã làm
gái ăn sương phục vụ bọn lính viễn chinh Pháp.
Không chậm trễ, ngay trong ngày lão pháp sư Mã Dần
đưa cô gái ra ngồi trước mặt, bắt đầu dùng thuật
thôi miên hớp hết thần hồn thần trí cô ta. Thấy cô
gái đã như người mất trí, mắt cứ mơ màng, lão Mã
Dần lại đốt thêm một đạo bùa cho cô gái uống rồi
mới tiếp tục làm phép:
– Bớ ba hồn chín vía con ma nữ Ý Nhi hãy mau về
đây cho ta sai khiến.
Sau câu thét gọi của lão Mã Dần, từ nơi hương án
đã có giọng một hồn ma nữ vang vọng đến:
– Nghe sư phụ gọi tôi đã đến, xin người chỉ dạy.
Lão pháp sư Mã Dần mới chỉ tay vào cô gái đang
ngồi mất thần hồn trước lão ta, đoạn nói:
– Ta muốn mi vào mượn xác con nữ này đi mồi chài
thằng nam tên Hoài Tử ngoài bãi vàng Phườc Sơn,
đưa về cho ta và Trần Công Công sai khiến!
Nghe lão pháp sư Mã Dần truyền lệnh, ngay lúc đó
từ nơi bàn hương án đã có một làn khói trắng bốc
lên rồi từ từ hiện ra bóng một ma nữ có sắc đẹp
kiêu kỳ gợi cảm trước mắt bọn đàn ông háo sắc.
Thận xác người hồn ma rất hợp người hợp nết, cả
hai đều trẻ đẹp và đều xuất thân từ chốn lầu xanh.
Sau đó bóng ma tiếp tục hòa quyện vào người cô
gái.
Chỉ một thoáng, cô gái đã rùng mình ngáp liền mấy
cái tỏ ra vừa trải qua một giấc ngủỉ say. Đoạn cô
ta nhìn lão pháp sư nói:
– Đệ tử Ý Nhi xin chờ sư phụ dạy bảo.
Lão Mã Dần mới ôn tồn truyền lệnh:.
– Vậy bây giờ mi hãy ra bãi vàng Phước Sơn đưa tên
Hoài Tử về đây cho ta.
Hồn ma Ý Nhi qua xác cô gái lẳng lơ đáp:
– Sư phụ biết kinh nghiệm của Ý Nhi mà, ngày còn
sống trên cõi hồng trần đã bao năm làm ở chốn lầu
xanh, đệ tử từng làm cho bao người từ phú gia cho
đến giới giang hồ phải đêm ngày tương tư nhung
nhớ, phải quỳ dưới chân đệ tử xin ban cho chút
tình cảm nồng nàn. Với tên nam Hoài Từ mới chân
ướt chân ráo vào đời, nhiệm vụ này xem ra dễ như
trở bàn tay, chỉ nội trong ngày đệ tử sẽ đưa hắn
về đây.
Khi Hoài Từ được Ý Nhi dẫn đến nhà Trần Thành, anh
đang như người mất hồn, chỉ thấy mỗi lúc nàng càng
thêm xinh đẹp, mà trong nhà không thấy bóng dáng
một ai lui tới ra vào.
Hoài Tử lên tiếng hỏi:
– Cha mẹ em đâu sao không thấy cho anh ra mắt?
Nghe hỏi, bấy giờ Ý Nhi mới nũng nịu đáp:
– Má em mất từ khi em mới chào đời nên chỉ còn ba
trong nhà, hiện giờ người đi vắng. Anh ngồi đây
cùng em uống ly rượu chờ lúc ba trở về.
Nói xong Ý Nhi đến bên bàn rót rượu, rồi lén lôi
trong tay áo lấy ra gói bột âm thầm đổ vào ly. Khi
pha xong rượu, nàng mới đi đến bên Hoài Tử, thân
hình tựa vào anh đoạn gieo mắt cườí tình rồi lên
tiếng nói tiếp:
– Anh hãy cùng em uống ly rượu này, rồi em sẽ kể
cuộc đời em cho anh nghe.
Hoài Tử đâu ngờ trong rượu có bùa mê, nhưng qua
nhan sắc người đẹp với giọng nói nũng nịu ngọt
ngào cùng những cái liếc mắt đưa tình và thân thể
nàng cứ cọ sát vào người khiến Hoài Tử sống trong
cơn mê. Anh vội vàng cầm lấy ly rượu mà uống cạn
để làm vừa lòng người con gái đẹp.
Nhìn thấy Hoài Tử uống xong ly rượu, ngay tức khắc
Ý Nhi dìu anh vào phòng. Nàng liền xà ngay người
vào lòng anh đoạn lẳng lơ nói:
– Từ khi em mất má chỉ ở với ba, hàng ngày em cảm
thấy thiếu tình thương gia đình, tâm trạng cứ giày
vò nên ba em mới nói em đã đến tuổi cập kê nên cần
có một tấm chồng cho lòng đỡ trống trải quạnh hiu.
Vì vậy khi mới gặp anh là em thấy trong lòng rạo
rực bừng cháy thứ cảm giác lạ kì. Bây giờ chỉ có
hai ta, em muốn xin anh cho biết chuyện yêu đương
là như thế nào.
Vừa nói Ý Nhi vừa lấy tay mơn trớn ve vuốt lên
người Hoài Tử, còn đôi mắt nàng cứ nhìn anh đắm
đuối. Hoài Tử chỉ là một chàng trai trẻ mới lớn,
vừa tròn mười tám hãy còn xử nam, anh nào đã biết
đến chuyện yêu đương như thế nào.
Bởỉ vậy dù đang say mê trước nhan sắc của Ý Nhi,
nhưng Hoài Tử cũng chưa dám ôm lấy nàng hay đưa
tay ra ve vuốt lên người nàng như nàng đang âu yếm
với anh.
Hoài Tử mới ấp úng đáp:
– Trước nay anh chưa từng chung đụng với nữ giới
vì anh còn xử nam. Em nói anh dạy chuyện yêu
đương, anh như người thất học rồi.
Lúc này có lẽ bùa mê thuốc lú đã ngấm sâu vào
trong máu, Hoài Tử càng thấy Ý Nhi ve vuốt lên
người làm tâm can anh trở nên rạo rực chỉ muốn sự
ngả ngớn của nàng càng thêm mạnh bạo. Còn Ý Nhi
nghe Hoài Tử nói mới mỉm cười đáp:
– Vậy hai đứa mình đều chung cảnh ngộ, anh xử nam
còn em xử nữ đã biết yêu đâu. Thôi ta hãy thử bài
học vở lòng về yêu đương đi.
Hoài Tử càng thêm say đắm trước hương vị tình yêu,
anh nói:
– Em nói đúng, từ khi anh lớn lên cho đến nay chưa
hề biết yêu đương, chưa nắm tay một người con gái
nào. Bây giờ ôm ấp em mới thấy muốn làm người lớn
cần phải học đến chữ yêu.
Nói xong Hoài Tử liền kề môi hôn lên trán Ý Nhi
một cái, khiến nàng giãy nãy nói:
– Khi người ta yêu nhau, hôn nhau không phải như
anh, hãy xem em hôn anh đây này!
Nói xong Ý Nhi liền kéo Hoài Tử vào sát người
nàng, đoạn nhẹ nhàng đặt nụ hôn vào môi anh. Lần
đầu tiên Hoài Tử mới được hôn môi, thấy cảm xúc
trong người rạo rực nên cứ để yên như thế, bắt đầu
bài học vỡ lòng về cách yêu đương mà Ý Nhi đang
dạy. Cả hai không dừng ở đó, con hồ ly Ý Nhi đã
hút mất hồn Hoài Tử từ lâu, nó cứ đưa anh đi vào
mộng này đến mộng khác. Đến khi cả hai nghe được
tiếng thét từ ngoài cửa phòng vang lên:
– Thằng nào đây, sao mi hại đời con gái ta?
Với ma nữ, nó hiểu màn kịch vừa đóng đã tròn vai,
còn Hoài Tử lại chết điếng người khi nhìn thấy hai
người còn đang lõa lồ nằm bên nhau. Trong khi Ý
Nhi vừa lấy quần áo để che thân, con ma nữ bắt đầu
rấm rứt lên giọng nức nở:
– Anh lấy mất đời con gái em rồi, anh Hoài Tử ơi!
Còn Hoài Tử cứ nhìn người đàn ông đang đứng trước
cửa phòng, ông ta có tuổi đã trên sáu mươi, đôi
lông mày mọc ngược trên đôi mắt xếch, còn tiếng
nói ồ ồ như giọng đàn bà. Hoài Tử nghĩ ngay đó là
Trần Công ba của Ý Nhi nên nói không ra lời.
Trần Công - tức Trần Thành - lại chỉ vào Hoài Tử,
ông ta tiếp tục lên tiếng thét hỏi con ma nữ Ý
Nhi:
– Ba hỏi thằng này là ai? Sao nó dám đến đây ôm ấp
hại đời con gái của ba?
Ý Nhi vẫn thút thít khóc, con ma nữ đáp:
– Con đâu ngờ anh Hoài Tử lại bại hoại như vậy! Ở
ngoài bãi vàng anh ấy nói muốn về ra mắt ba để còn
đưa ba má đến hỏi cưới con. Rồi anh ấy ôm hôn, con
mới lớn đang tuổi dậy thì làm sao chịu nổi sự háo
sắc dâm đãng của người con trai khôi ngô như anh
ấy, và lần đầu tiên trong đời con mới biết hương
vị ái tình nên sa ngả trong vòng tay anh ấy như ba
thấy đó.
Bấy giờ Trần Thành mới nhẹ nhàng đổi giọng:
– Thì ra thằng này là con ông bà Hoàng Bảo Trứ.
Nghe nói muốn ra bãi vàng Phước Sơn tìm vợ đây mà.
Nói đến đây ông ta nhìn Hoài Tử rồi nói tiếp:
– Vậy mi tính sao với con gái ta? Bây giờ mi lấy
mất tiết trinh đời nó sau này làm sao nó lấy được
ai?
Con hồ ly ma nữ Ý Nhi nói thêm:
– Anh đã lấy đời con gái của em, bây giờ anh phải
lo tròn trách nhiệm của một người chồng, nếu không
ba em sẽ giết chết hai đứa mình đó.
Hoài Tử ấp úng mãi mới dám lên tiếng:
– Ba má con dặn ra bãi vàng nếu thấy ưng ý cô gái
nào sẽ đến hỏi cưới về làm vợ cho con, xin bác
Trần Công đừng làm con sợ hãi.
Trần Thành lắc đầu, ông ta đáp ngay:
– Sao tin mi được? Bọn con trai thời nay thường bỏ
rơi những đứa con gái nhà lành hiền hậu như con
ta. Nhưng ta đã có cách để tin mi không dám trốn
tránh trách nhiệm gây ra chuyện bại hoại này ...
Hoài Từ hỏi ngay:
– Bác Trần Công đã có cách để tin con xin cứ thực
hiện, còn con đả hứa sẽ lấy Ý Nhi làm vợ nên không
sợ đi qua lửa hay ngồi trên đinh đâu!
Trần Thành vẫn con ma nữ Ý Nhi đều biết thứ bùa mê
mà Hoài Tử uống, bấy giờ sẽ không còn là Hoài Tử -
đứa con nuôi của vợ chồng viên thái giám họ Hoàng
nữa. Tuy vậy để gây thêm áp lực vào trí não một
người đang bị bùa ngải sai khiến, Trần Thành liền
cho gọi lão pháp sư Mã Dần đến nói:
– Ông hãy cho thằng rể tương lai của ta uống thứ
thuốc, nếu nó phản bội bỏ rơi con gái ta thì chỉ
một ngày sau phải chết bất đắc kỳ tử ta mới yên
lòng.
Lão pháp sư Mã Dần xếp đặt ra chuyện này, ông ta
nhìn Hoài Tử đoạn móc trong túi lấy ra một viên
thuốc màu đen quánh nói:
– Đây là viên thuốc đoạn hồn, nếu tên Hoài Tử
không làm theo ý Trần Công, ngài hay cô Ý Nhi cứ
niệm câu thần chú sau đây - ông ta nói nhỏ vào tai
Trần Thành, sau mới nói tiếp - chỉ trong chốc lát
hắn sẽ đau đầu như Tề Thiên Đại Thánh bị vòng kim
cô của Phật Bà Quan Âm bóp chặt, nếu không biết
sám hối chỉ trong mười hai canh giờ sẽ thành thây
ma.
Dù rất mê đắm Ý Nhi, nhưng khi nghe lão pháp sư Mã
Dần đưa ra viên thuốc đoạn hồn làm Hoài Tử cảm
thấy sợ hãi, anh lấm lét nhìn Trần Thành và Ý Nhi
như muốn từ chối nhận viên đoạn hồn đơn.
Biết Hoài Tử còn ngần ngừ, Trần thành lại thét to
lên nói:
– Vậy mà mi dám nói vì con gái ta nên không sợ đi
qua lửa hay ngồi trên đinh. Nếu mi không uống viên
đoạn hồn đơn này ta sẽ giết chết mi để đền cái tội
phá hoại tiết trinh đời con gái ta!
Ý Nhi cũng nhìn Hoài Tử, con ma nữ mới lên giọng
khuyến khích:
– Anh hãy uống để chứng minh anh yêu em, vì chỉ
sau một tháng nó sẽ hết tác dụng, nên anh đừng lo
sợ sâu xa.
Nghe nói viên đoạn hồn đơn chỉ có hiệu nghiệm
trong một tháng, mà một tháng nào có lâu cho nên
Hoài Tử cầm lấy uống ngay trước mắt mọi người.
Đoạn Hoài Tử theo lời hứa hẹn, anh trở về ngôi
miếu tìm cha mẹ nói lên ý định muốn cưới Ý Nhi làm
vợ.
Bà Thôi Oanh Oanh vui mừng nói với chồng:
– Vậy gia đình ta sắp có cháu để bế bồng! Thằng
Hoài Tử đã chọn được vợ, vậy ông mau chóng đến nhà
Trần Công dạm hỏi kẻo để lâu “đêm dài lắm mộng”,
nơi đâu có con gái đẹp tất có đông người để mắt.
Tôi e chúng cướp mất con Ý Nhi của thằng Hoài Tử.
Viên thái giám Hoàng Bảo Trứ đâm suy nghĩ trước
cái tên Trần Công, vì họ Trần là cái họ luôn ám
ảnh ông đêm ngày, tuy mấy năm nay không thấy Trần
Thành xuất hiện. Họ Hoàng đành nói với vợ điều ông
đang nghĩ trong đầu:
– Sao tôi nghi ngờ Trần Công là Trần Thành?
Bà Thôi Oanh Oanh liền nguýt chồng, đoạn đáp:
– Ông sao cứ lo sợ hão huyền. Trên đời có biết bao
người họ Trần, vả lại Trần Công Công thuộc người
bị “tịnh thân” làm sao có con gái để gả cưới?
Nghe vợ phân tích, Hoàng Bảo Trứ thấy có lý lẽ để
phản bác sự lo lắng của ông. Lúc đó họ Hoàng mới
mạnh dạn cùng Hoài Tử đi đến nhà Trần Công.
Có lẽ họ Hoàng có giác quan thứ sáu, trên đường đi
ông đã nghĩ sẽ có chuyện không hay vì mí mắt trái
cứ giật liên hồi. Người ta nói nam tả nữ hữu, mắt
trái thuộc nam nhân. Đúng như linh tính đã dự báo,
khi Hoàng Bảo Trứ vừa gặp Trần Công, ông nhận ra
là Trần Thành, người theo đuổi ông từ Đài Bắc sang
tận đây bao năm qua chỉ vì kho tàng của Lê Kiệt.
Nhìn lại, viên thái giám họ Hoàng không thấy Hoài
Tử, còn Trần Thành đang hằn học lên tiếng:
– Ta tìm mi đã mấy năm không gặp, chắc mi đã biết
kho tàng Lê Kiệt hiện đang nằm đâu. Vậy hãy khôn
hồn đưa cho ta tấm bản đồ, thì mi và đứa con nuôi
sẽ được an toàn về nhà.
Hoàng Bảo Trứ thấy đang thân cô thế cô, ông đang
đi vào hang hùm miệng sói, bây giờ Trần Thành hỏi
về tấm bản đồ mà ông đã đốt nơi kho tàng trước khi
trở về, nên thành thật trả lời:
– Tôi đã đốt nó rồi vì không muốn ai biết đến kho
tàng phi nghĩa đó nữa, nếu ai có duyên phận thì
trời đất sẽ chỉ lối đưa đường đến lấy.
Trần Thành nghe họ Hoàng nói đã đốt tấm bản đồ
bỗng sôi gan tức giận, nhưng với đầu óc mưu sĩ,
ông ta đã kịp cười gằn nói:
– Vậy ta có cơ duyên với kho tàng này rồi, vì mi
sẽ chỉ lối đưa đường cho ta đến nơi đó!
Viên thái giám họ Hoàng liền lắc đầu đáp:
– Tôi không thể đi theo Trần Công Công, đường rừng
xa xôi đầy chướng khí lại nhiều thú dữ, và kho
tàng Lê Kiệt lại đầy những hồn ma canh giữ, chúng
sẽ giết chết những ai đụng đến. Vì vậy tôi nghĩ
không chắc tôi và ông còn sống sót trở về.
Trần Thành liền quắc mắt nói:
– Đừng có xảo ngôn! Mi từng đến đó lấy của cải để
đi xây chùa cất miếu giúp đỡ bá tánh, ta có thấy
có con ma xó ma trành nào giết chết mi đâu?
Hoàng Bảo Trứ vẫn nói:
– Là vì tôi lấy để làm chuyện công đức từ thiện
cho nên được các thần thánh che chở bắt bọn ma giữ
của phải nhường bước, còn Trần Công Công đến lấy
để hưởng thụ cá nhân sẽ không được ai che chở hết.
Trần Thành lại cười gằn từng tiếng mà nói:
– Ta có lão pháp sư Mã Dần cùng bọn đàn em đi
theo, thú dữ xuất hiện thì đã có thịt rừng ăn
đường còn chướng khí hay ma cỏ đã có pháp sư Mã
Dần ra tay.
Còn nếu mi không đưa đi, thì tên Hoài Từ và cả vợ
chồng mi đều phải chết thảm.
Lúc này Hoàng Bảo Trứ mới cảm thấy lo sợ, ông hiểu
tính tình của Trần Thành độc ác, khi nói ra sẽ
thực hiện không hề tiếc thương. Vợ và đứa con nuôi
của ông nào có tội tình gì phải chết?
Vì thế viên thái giám mới nói với Trần Thành:
– Thôi được tôi sẽ dẫn đường đưa Trần Công Công đi
đến kho tàng với điều kiện, ông thả thằng Hoài Tử
trở về nhà.
Trần Thành lại cười lên khanh khách đáp:
– Ta nhận thằng Hoài Tử làm rể tương lai, nó đã ăn
nằm cùng con gái ta nên bây giờ Ý Nhi đâu còn
trinh trắng. Thả nó một khi mi đưa ta đến đúng nơi
đúng chỗ để trở về.
Hoàng Bảo Trứ không ngờ đứa con nuôi lại làm
chuyện bại hoại vượt quá vòng gia phong lễ giáo,
bởi ông từng ao ước thằng bé sau này trở thành
người hữu dụng thay ông trông coi đền miếu, lo
hương khói cho vợ chồng ông sau này quá vãng.
Nay Hoài Tử thành con rể của Trần Thành sẽ nhiễm
phải các thói hư tật xấu của ông ta, tức mang tính
tham lam, độc ác, nhẫn tâm. Biết như vậy nhưng
Hoàng Bảo Trứ đành nín lặng, ông chỉ cầu mong cho
Thôi Oanh Oanh và Hoài Tử được bình an vô sự.
Trận Chiến và người ma
Viên thái giám Hoàng Bảo Trứ đành hướng dẫn nhóm
người của Trần Thành đi theo con đường đến kho
tàng đầy những hồn ma treo cổ.
Đến nơi họ Hoàng cũng không nhận ra khe núi mà Lê
Kiệt cất giấu của cải mặc dù đã một lần ông vào
tận bên trong hang đá. Theo nhận xét của viên thái
giám, hình như trước khi chết, quan Tổng binh Lê
Kiệt đã dùng bùa chú trấn ếm thành mê hồn trận,
làm mọi người không thấy được đường vào. Thứ bùa
chú chỉ hết khi bóng ngọn cây sồi chỉ ngay vào khe
núi chỉ trong vài khắc đồng hồ, để rồi tiếp tục
trở về cảnh cũ.
Hoàng Bảo Trứ mới nói với Trần Thành:
– Theo tôi suy đoán, Lê Kiệt từng dùng bùa chú làm
mờ mắt mọi người không cho ai biết được nơi giấu
số của cải này, chỉ có bóng cây sồi khi ngã về
hướng Tây mới hóa giải được chỉ trong khoảnh khắc
làm lộ ra đường vào kho báu. Bây giờ còn quá sớm,
chúng ta hãy ở đây nghỉ ngơi chờ đợi.
Trần Thành nhìn lão Mã Dần - một pháp sư biết
nhiều thuật giải trừ bùa phép, tỏ ý cho lão pháp
sư đến phá ma trận để mau tiến vào trong kho tàng.
Lão pháp sư Mã Dần liền đứng ra bấm độn, đoạn lão
ta nói ngay:
– Đúng kho tàng này có yểm bùa, theo ta biết thứ
bùa chú do bọn thầy mo người dân tộc bên Ai Lao đã
trấn ếm, bọn thầy mo này biết thuật “gọi hồn”, từ
gọi thần linh hay hồn ma người chết về giữ cửa
không cho ai xâm nhập vào nơi cấm địa. Có lẽ Lê
Kiệt nhờ bọn thầy mo đến làm phép, đồng thời còn
có lời nguyền, ai chết vì kho tàng thì thân xác sẽ
biến thành quỷ nhập tràng hoặc hồn ma khi ẩn, khi
hiện không cho ai động đến số của cải này. Ta đếm
có tất cả mười hai hồn ma đang canh giữ.
Viên thái giám Hoàng Bảo Trứ lấy làm lạ, trước đây
ông chỉ đếm thấy có mười một con ma cà tưng còn
được gọi quỷ nhập tràng, bây giờ lão pháp sư Mã
Dần đếm thành mười hai con ma. Ông liền nói:
– Trước đây tôi đếm ngoài hồn ma quan Tổng binh
chỉ có mười hồn ma bọn lính dưới quyền, sao bây
giờ pháp sư đếm ra mười hai con ma?
Lão pháp sư Mã Dần đã đáp trả lời:
– Ông tin hay không thì tùy, khi thấy mới biết lời
ta nói đúng.
Trần Thành hiện đang nôn nóng, ông ta nói:
– Vậy pháp sư hãy mau hóa giải ma thuật này đi! Ta
nôn nóng muốn biết số của cải của Lê Kiệt cất giấu
trong kho tàng to lớn ra sao đây.
Lão Mã Dần đã lắc đầu trả lời:
– Ta không thể giải được thứ ma thuật này, vì bọn
thầy mo thầy phù thủy ở nơi nào cũng có ngón nghề
riêng không phải ai cũng biết. Ta chỉ có cách hóa
kiếp bọn quỷ nhập tràng hay ma cà tưng thôi.
Nói xong lão đưa cho mọi người cầm một số lá bùa
trong tay rồi nói tiếp:
– Quỷ nhập tràng là hồn ma mượn xác người để sống
lại ngày cũng như đêm, chúng không đi được chỉ
nhảy cà tưng từng bước, khi thấy chúng mọi người
phải dán ngay đạo bùa vào trán của chúng tức khắc
hồn ma phải thoát khỏi xác, còn chậm trễ những con
quỷ đội xác người sẽ bóp cổ mọi người cho đến chết
mới chịu thôi.
Bấy giờ Trần Thành mới tin lời viên thái giám
Hoàng Bảo Trứ đã nói thật, ông ta đành lên tiếng:
– Ta phải chờ bóng cây sồi chỉ lối đưa đường, vậy
mọi người hãy tạm nghĩ ngơi đi.
Bọn người Trần Thành - ngoài ông ta, lão pháp sư
Mã Dần - còn có thêm năm tên đầu gấu đi theo, tên
nào cũng xăm mình mặt mày dữ tợn, bên người dắt
theo dao găm hay mã tấu, cùng họ Hoàng tạm ngồi
dưới gốc cây sồi để nghỉ ngơi.
Phải chăng có thần linh che chở cho viên thái giám
họ Hoàng hay không muốn bọn người tham lam vào kho
tàng hôi của, bỗng nhiên bầu trời đã trở nên u ám,
bóng nắng không còn hiện ra sau những đám mây đen
vần vũ đang ào ạt kéo đến che kín không gian.
Viên thái giám Hoàng Bảo Trứ mới nói:
– Có lẽ trời đất không muốn Trần Công Công đi vào
kho tàng rồi, trời đang nắng đã chuyển sang mưa,
bóng cây sồi đâu còn để chỉ đường vào kho báu nữa.
Trần Thành cảm thấy ông ta chưa lần nào gặp may
trong chuyện đi tìm kho tàng của Lê Kiệt, và lời
họ Hoàng nói ra như để thức tỉnh hắn ta. Nhưng số
của cải trong hang đá đang làm mờ mắt lẫn lương
tri kẻ tham lam, hắn ta chỉ biết ngồi than thở:
– Ta đã đến đây mà còn không gặp may, thật sự chưa
có cơ duyên với kho tàng của Lê Kiệt hay sao?
Rồi trong suy nghĩ, Trần Thành cho rằng mưa gió
chỉ một buổi hay một ngày, hôm nay chưa vào được
còn ngày mai hay ngày mốt không lẽ ngày nào trời
cũng đổ mưa?
Hắn ta mới nói với mọi người:
– Hôm nay không vào được kho tàng, bọn bay hãy
dựng lều cho chúng ta ở tạm chờ ngày mai.
Buổi chiều trời mưa to như trút nước, sấm sét nổi
lên đùng đùng, lão pháp sư Mã Dần lại nói:
– Nếu ta phá được ma thuật vào trong kho tàng sẽ
sung sướng biết mấy, tránh được mưa mà bọn ma quỷ
cũng không dám xuất hiện bởi thứ sấm sét Thiên Lôi
chuyên đi tìm chúng để hóa kiếp.
Mọi người chỉ yên ổn khi trời còn mưa, nhưng vào
chập tối lúc trời quang mây tạnh phải đốt lửa sưởi
ấm cái lạnh của núi rừng. Lão pháp sư Mã Dần ngồi
im lặng lo luyện bùa niệm chú, bởi lúc trời mưa,
Trần Thành đến nói với lão ta:
– Tên Hoàng BảoTrứ cho biết, hắn từng nằm nơi đây
gặp mười con ma cà tưng cùng hồn ma Lê Kiệt đến
bóp cổ, may nhờ thần linh che chở nên hắn mới
thoát chết. Pháp sư mau tính kế hay dùng ma thuật
cho bọn quỷ đừng đến cho mọi người yên tâm chờ
ngày mai đi vào kho tàng.
Lão pháp sư mới ngồi đọc bùa chú, không ngờ vào
đầu canh một, mọi người nghe thấy có tiếng khóc
than của các hồn ma vang vọng đến:
– Ai đụng đến kho tàng sẽ phải chết!
Chỉ một thoáng, mọi người đã thấy một con quỷ già
ốm yếu xuất hiện, nó đưa mắt nhìn trừng trừng vào
Trần Thành rồi lên giọng nói đầy ma quái:
– Cái tên họ Trần gian tham độc ác kia, mi còn nhớ
ta là Vĩnh Kim không, và mi từng nói sẽ đến kho
tàng ngài Lê Kiệt tìm ta. Nay ta làm ma giữ của
rồi, vậy mi có sợ hãi không?
Trần Thành nhận ra ông già hành khất Vĩnh Kim,
người ông ta giết diệt khẩu năm nào khi còn ở quê
hương. Còn viên thái giám mới biết tại sao lão
pháp sư Mã Dần lại đếm có đến mười hai con ma.
Trần Thành biết hồn ma Vĩnh Kim đang đến, hắn ta
liền cười nham hiểm mà không hề lo lắng, có lẽ
đang tin vào bùa phép của lão Mã Dần. Hắn đáp:
– Ta hứa là giữ lời nên sợ gì một hồn ma hành khất
như mi. Lần này ta đến hóa kiếp không cho bọn ma
cỏ như mi được đầu thai làm người nữa đấy.
Không ngờ bóng ma Vĩnh Kim tuy ốm yếu già nua
nhưng lại xuất quỷ nhập thần. Bóng ma mang bộ mặt
ác quỷ với đôi nanh nhọn, chân tay đầy những móng
vuốt như con sói già nua trong rừng, mới thoắt một
cái con sói ma Vĩnh Kim đã đến bên Trần Thành định
giơ móng xé xác ngay ông ta.
Một tên đầu gấu thấy chủ nhân lâm nguy, hắn nhanh
nhẹn phóng ra một cước hất đôi tay ma quái của con
sói ma ra xa, đoạn nhanh nhẹn rút một lá bùa định
dán vào nơi tử huyệt là trán con sói. Con sói ma
Vĩnh Kim tránh được, nó bèn cười lên the thé và
với giọng ma quái vang bên tai cả nhóm:
– Thứ bùa chú của tên pháp sư kia không làm gì
được bọn quỷ cà tưng hay ma sói đâu, bọn bay hãy
đợi đấy ta sẽ trở lại ngay thôi!
Nói xong con sói ma hành khất Vĩnh Kim đã bìến
mất. Lão pháp sư Mã Dần thấy tên đàn em Trần Thành
quá chậm chạp, lão ta phải thốt nói:
– Phải dán lá bùa thật nhanh vào giữa trán bọn ma
quỷ chúng mới bị hóa kiếp!
Lão Mã Dần vừa nói xong bất ngờ có một làn gió
mạnh thổi đến, theo sau có những tiếng chân nhảy
rầm rập trên nền đất rừng hòa cùng những tiếng
khóc than, tiếng hú hét của bầy ma cà tưng nổi lên
nghe đinh tai điếc óc. Sau đó mọi người thấy xuất
hiện trong màn đêm, hai ánh mắt sáng xanh như hai
ngọn đèn cùng giọng nói mang thứ âm thanh từ cõi
âm ty vọng đến:
– Bớ tên thái giám họ Trần, đêm nay mi phải trả
giá cho tội xâm phạm kho tàng của ta và những tội
lỗi đã giết hại người vô tội.
Trần Thành cũng hiểu đây là tiếng nói của hồn ma
Lê Kiệt, ông tướng ma râu quai nón đang dẫn dắt cả
bầy ma cà tưng đi đến. Trần Thành cũng thét to để
lên tiếng trả đũa:
– Mi nào có khác ta? Làm quan để che giấu hành vi
giết người cướp của nên mới tích lũy được kho tàng
này. Nay nó đã trở nên vô chủ thì ta đến làm chủ
vậy.
– Thế nào là vô chủ hỡi tên họ Trần kia?
Âm thanh hồn ma Lê Kiệt tiếp tục vang vọng đến.
Trần Thành lại trả lời không chút lưỡng lự:
– Mi chỉ là một hồn ma bóng quế, trước đây mang
quá nhiều tội lỗi cho nên đến nay không còn kẻ nối
dõi tông đường, chỉ còn đứa cháu gái Lệ Châu cũng
đánh mất tấm bản đồ, vậy không phải kho tàng này
đang vô chủ hay sao?
Lúc này bóng ma Lê Kiệt từ từ hiện rõ cho mọi
người trông thấy, bóng ma mang bộ râu quai nón
trên khuôn mặt đỏ như máu cùng đôi mắt xanh như
hai ngọn đèn, theo sau có bầy ma cà tưng đang nhảy
từng bước, vừa nhảy chúng vừa hú hét vang động.
Các con ma cà tưng mà lão pháp sư Mã Dần nói thuộc
thứ quỷ nhập tràng mang hình thù quái dị, mặc toàn
áo xô trắng phau dài đến tận gót chân, có tên mặt
xanh, tên mặt vàng hay mặt đỏ đen, nhưng mười con
ma đều có đặc điểm với cặp mắt không hồn chỉ thấy
toàn tròng trắng nổi ra, đôi môi đen như cục than
và cái lưỡi lè dài đến tận ngực. Đúng hơn bọn
chúng thuộc nhóm ma thần vòng.
Trần Thành liền ra dấu cho năm tên đàn em hợp cùng
lão pháp sư Mã Dần bày binh bố trận còn ông ta và
Hoàng Bảo Trứ đứng ngoài nhìn vào trận địa giữa
người với ma đang bắt đầu hỗn chiến.
Bóng ma Lê Kiệt như một tướng lĩnh thuở nào, âm
hồn ông ta bắt đầu lên tiếng thúc giục:
– Giết chết bọn chúng trừ tên họ Hoàng, người được
ngài Phúc Đức Chánh Thần phù trợ!
Tức khắc mười con ma cà tưng nhảy từng bước thật
nhanh để tả xung hữu đột với năm tên đầu gấu.
Không bóng ma nào bị chúng dán được bùa, bởi vì
khi sống các hồn từng là lính biên phòng từng học
qua võ thuật phòng thân.
Lão pháp sư Mã Dần bắt đầu dùng bùa phép, lão ta
nắm trong tay hàng chục lá bùa liền ném vào đống
lửa, miệng lâm râm đọc chú rồi gọi to:
– Hỡi các âm binh từ vùng Ngũ Nhạc Trung Sơn hãy
mau về đây hóa kiếp bọn ma cỏ đang tung hoành như
chỗ không người.
Gọi xong bọn âm binh, lào pháp sư chẳng thèm nói
thêm, một tay cầm bùa một tay cầm cây phất trần
như thứ vũ khí để đánh ma. Lão ta nhảy đến tấn
công vào bóng ma Lê Kiệt, lão ta biết hồn ma ông
tướng chỉ dựa vào thây ma để hiện hình còn âm hồn
mới là chính.
Nếu dán trúng lá bùa vào ngay trán, tức vùng tập
trung “tử khí” của những con quỷ nhập tràng, tức
khắc hồn ma phải lìa khỏi xác, bị hóa kiếp dễ
dàng.
Hồn ma Lê Kiệt từng là tướng lĩnh một vùng, nay
chết vẫn là thủ lĩnh của một bầy ma quỷ gác cửa
kho tàng. Bóng ma ông ta đâu phải hạng ma cỏ ma xó
để tên pháp sư dễ dàng khuất phục. Bóng ma Lê Kiệt
lúc bay bổng lên cao lúc hạ người xuống thấp, hai
tay duỗi thẳng hướng về lão Mã Dần chờ cơ hội ra
tay bóp cổ đối phương.
Lúc này tiếng gió hú đang ào ạt thổi đến từ bốn
hướng, rồi có những giọng nói xí xô xí xáo bắt đầu
nổi lên, rồi một giọng âm binh lên tiếng:
– Sư phụ lâm nguy, con ma râu quai nón dữ dằn quá
bọn ta phải coi chừng!
Đây là bọn âm binh từ vùng Ngũ Nhạc kéo đến trợ
giúp lão pháp sư Mã Dần chiến đấu với bọn ma cà
tưng giỏi võ. Vì vậy bọn đầu gấu đàn em Trần Thành
đã rảnh tay tiêu diệt được vài bóng ma, mỗi lần
chúng bị dán lá bùa trúng vào vùng tử khí là một
hồn ma phải thoát xác qua làn khói trắng, còn thân
xác liền biến thành tro bụi tan rã xuống đất. Bọn
âm binh nơi núi Ngũ Nhạc có đứa cũng bị bọn ma cà
tưng hóa kiếp, âm hồn chúng không còn tồn tại được
nữa.
Trận đánh giữa người và bọn âm binh với nhóm ma cà
tưng diễn ra rất lâu, nhưng rồi cũng phải kết thúc
có bên thắng bên bại. Bóng ma Lê Kiệt nhìn thấy
bọn lính ma gục ngã hết mấy đứa trước bọn cô hồn
sống lẫn lũ cô hồn chết, còn ông ta chưa trị được
lão pháp sư Mã Dần, đành phải kêu thét lên:
– Rút lui về nơi hangđá!
Còn trong lúc hai bên giao đấu hoảng loạn, viên
thái giám Hoàng Bảo Trứ nhận thấy Trần Thành đang
cười vui hớn hở trước chiến công bước đầu, nhân cơ
hội này ông vội vàng tìm đường trốn thoát. Họ
Hoàng hiểu rõ tính tình của Trần Thành rất độc ác,
sẽ không để ông sống sót nếu lấy được kho tàng.
Hoàng Bảo Trứ mới âm thầm chạy trốn nhưng đã nghe
sau lưng có tiếng quát của Trần Thành:
– Này tên Hoàng Bảo Trứ, mi định chạy trốn à?
Viên thái giám nhận thấy ông đã lỡ ngồi trên lưng
cọp không thể quay bước, bởi trước sau tên Trần
Thành cũng giết chết ông ta. Nhìn thấy đã chạy
cách xa Trần Thành một quãng dài nên họ Hoàng tiếp
tục chạy băng băng trong rừng, bỗng nhiên ông nghe
có một tiếng nổ “đoàng” nổi lên, tiếp đến thân
hình của ông tự nhiên lảo đảo rồi té quỵ xuống
đất.
Hoàng Bảo Trứ không ngờ Trần Thành có súng chứ còn
dao hay mã tấu với quãng đường dài sẽ không làm gì
được ông. Lúc Trần Thành thấy viên thái giám chạy
vào rừng định tẩu thoát liền móc súng kêu họ Hoàng
dừng không được, đã bắn ngay một phát đạn vào lưng
viên thái giám.
Biết bị trúng thương rất nặng không thể sống sót
lại thấy Trần Thành đến bên, Hoàng Bảo Trứ liền
nghiến răng lên tiếng nguyền rủa với giọng căm
hờn:
– Mi độc ác quá Trần Thành ơi, khi làm con ma ta
thề sẽ không bao giờ cho mi chiếm được kho tàng
này!
Nguyền rủa xong viên thái giám Hoàng Bảo Trứ mới
chịu nhắm mắt xuôi tay. Hồn ông vừa thoát khỏi xác
đã nghe có tiếng nói:
– Con người ai cũng có sinh có tử, đừng nghĩ rằng
mi có cuộc sống nhân đức phúc hậu sao không được
trường thọ, chỉ vì do tiền căn hậu kiếp mà ra
thôi. Vậy mi đừng oán trách trời đất tại sao quá
vô tình bạc bẽo với người ngay thẳng, vì do kiếp
trước mi ăn chơi trác táng háo sắc dâm đãng nên
kiếp này phải trả nợ thành thái giám để đền lại
tội lỗi đó, kể cả số mạng của mi đến đây cũng đã
hết.
Nhưng nhờ kiếp này mi trả xong nợ tiền kiếp nên
kiếp sau sẽ được sống an nhàn hưởng thụ. Tuy số mi
đã tận nhưng chưa thể về ngay cõi âm ty chờ đầu
thai, vì mi còn phải ...
Hồn ma Hoàng Bảo Trứ bấy giờ mới biết công tội của
ông từ kiếp trước.
Ngày còn sống ông từng nghe nói, khi con người lúc
lìa đời mới rõ được sự thật của chính mình và công
tội tiền căn hậu kiếp ra sao. Giờ đây hồn ma họ
Hoàng mới hiểu ra nên ông không dám oán than cho
cái chết oan ức này.
Hồn ma họ Hoàng mới nhìn khắp nơi mà không thấy
hình bóng một ai, có lẽ là tiếng của Nam Tào Bắc
Đẩu hay vị thần linh nào đó, làm âm hồn ông mới
phải lên tiếng để hỏi:
– Thưa các vị, tôi đã chết sao chưa thấy bọn Hắc
Bạch vô thường đưa xuống Quỷ Môn Quan nghe phán
xét công tội mà còn vất vưởng chốn dương trần?
Tiếng nói vô hình vẫn âm vang bên tai âm hồn:
– Đó là lời nguyền của mi trước khi nhắm mắt, thề
không cho tên quan thái giám Trần Thành đến lấy
kho tàng. Vậy mi phải ở đây làm con ma giữ của,
chưa thể siêu thoát được. Đến khi kho tàng về tay
người tâm đức thì hồn ma mới được về miền cực lạc.
Từ đó hồn ma viên thái giám Hoàng Bảo Trứ trở
thành con ma giữ của cho kho tàng Lê Kiệt ...
KHO TÀNG ĐẪM MÁU Hồn ma bà giám hậu Thôi Oanh Oanh
kể đến đây lại khóc lên nức nở, hình như bà đang
thương tiếc cái chết của đức phu quân từ nơi xa
xăm đầy hồn ma và cả những kẻ độc ác tham lam.
Bốn người ba nam một nữ tỏ ra bức xúc ngậm ngùi
cho nỗi gian truân của viên thái giám họ Hoàng. Mỹ
Lệ thường đa cảm, khi nghe xong cuộc đời của viên
thái giám, nàng đã hỏi tiếp:
– Còn bà vì sao lại chết và ra nông nỗi này?
Hồn ma bà giám hậu lại òa lên khóc thảm thiết,
tiếp tục kể lại:
Ta đâu biết đức phu quân bị tên độc ác
gian tham Trần Thành bắt đưa đến kho tàng Lê Kiệt,
thằng Hoài Tử cũng không thấy trở về ... Ta đợi đã
mấy ngày đêm không thấy bóng dáng chồng con, và
cũng không biết đường đến nhà Trần Công để hỏi đã
xảy ra chuyện gì. Đến một đêm tối trời, ta thấy
tên Hoài Tử dẫn về miếu một cô gái trẻ đẹp, khiến
ta vô cùng mừng rỡ liền hỏi ngay đứa con nuôi:
– Tại sao không thấy ba con cùng về?
Chưa hỏi dứt câu đột nhiên ta không thể ngờ được,
đứa con vợ chồng ta nuôi từ thuở mới chập chững
biết đi cho đến ngày hỏi vợ đã mười mấy năm, nay
trở thành một tên nghịch tử. Nó không lên tiếng
trả lời, trái lại còn rút ra một lưỡi dao dài bén
nhọn kề vào cổ ta rồi gằn giọng hỏi về chỗ cất nữ
trang châu báu.
Ta bàng hoàng vì thấy đứa con nuôi trở mặt chỉ
trong mấy ngày vắng mặt, đang hùng hùng hổ hổ hỏi
ta bằng giọng kẻ cướp. Dù vậy ta vẫn nhỏ nhẹ nói:
– Sao vậy con? Con không nhận ra má sao? Hay vì
sắc dục mà quên mất tình mẫu tử rồi?
Lúc này con ma nữ Ý Nhi sau khi lục soát khắp nơi,
nó nhìn thấy cái tráp nhỏ xinh xắn tưởng rằng
chiếc hộp chứa đầy vàng bạc mới mở xem, thấy ngay
vật “tịnh thân” nên ma nữ mới nói xen vào:
– Anh Hoài Tử xem đây, trong tráp là vật “tịnh
thân” của lão già họ Hoàng, ông ta nguyên là một
thái giám đâu thể có con mà sinh được anh. Vậy ông
bà này đâu phải ba má ruột mà bà ta lên giọng dạy
đời?
Ta trừng mắt nhìn vào con ma nữ, ta nghe giọng nói
lẳng lơ của loại gái lầu xanh nên chợt hiểu, Hoài
Tử đã uống phải thứ bùa mê thuốc lú của bọn gái
làm tiền, chưa có thuốc giải thì nó còn lú lẫn.
Tuy nhiên ta vẫn lên tiếng, vừa cho tên Hoài Tử
nghe xem hắn còn chút tỉnh táo để nhận ra ta
không, vừa cho ma nữ Ý Nhi thấy ta đang dứt khoát:
– Dù vợ chồng ta không có công sinh cũng có công
dưỡng thằng Hoài Tử đến khôn lớn, nó là thằng con
ngoan nhưng bị thứ bùa mê thuốc lú của mi đâm ra
lú lẫn không nhận ra thật giả được rồi!
Tên Hoài Tử vẫn không chút động lòng, bởi thứ bùa
mê mà Ý Nhi cho hắn uống cùng viên thuốc đoạn hồn
đơn đã lậm sâu trong trí não, chỉ có thầy bùa thầy
pháp cao tay mới giải trừ được ...
Vào cái hôm đầu tiên hắn đưa Hoàng Bảo Trứ đến nhà
Trần Thành, khi vừa bước vào cổng đã gặp ngay Ý
Nhi đứng sẵn chờ đợi. Con ma nữ liền kéo hắn đi
theo một hướng khác đoạn nói:
– Anh không thể đi theo lão già họ Hoàng, vì ông
ta ngoài mặt nuôi anh hòng chiếm đoạt tài sản do
ba anh để lại. Tiền bạc nhà anh ông ta lấy đi xây
chùa cất miếu giúp đỡ bá tánh là để che giấu tội
lỗi. Ba em biết nhiều về ông ta nên không muốn anh
lầm lẫn.
Mặc dù đã lậm phải bùa mê nhưng trí nào Hoài Tử
bấy giờ vẫn cảm nhận được bà giám hậu là người
sống ngay thẳng có tình, và còn vì từ lúc nhỏ đến
giờ hắn sống cạnh vợ chồng họ Hoàng luôn được yêu
thương chiều chuộng, nên mới nói:
– Chắc bác Trần Công lầm lẫn ba anh với ai, chứ
thật tình ba má anh sống hiền từ nhân hậu lắm. Nếu
em không tin mình ra gặp để hỏi cho biết thực hư.
Thật ra con ma nữ Ý Nhi đâu biết gì về thân thế
của vợ chồng Hoàng Bảo Trứ và tên Hoài Tử, câu nói
vừa rồi là do Trần Thành và lão pháp sư Mã Dần chỉ
dạy. Con ma nữ mới ngúng nguẩy nói:
– Vậy anh chưa sợ viên thuốc đoạn hồn đơn rồi, ba
em nói nếu anh không tin sẽ làm anh phát đau.
Nói xong con ma nữ mới lâm râm niệm chú, làm đầu
óc tên Hoài Tử trở nên đau buốt như vừa bị cây búa
tạ giáng xuống đầu khiến hắn phải thét kêu:
– Anh tin lời em rồi!
– Vậy anh có biết ông bà họ Hoàng cất giấu bản đồ
kho tàng của ba anh ở đâu không?
Giọng ma nữ rất ngọt ngào, tay ả bắt đầu mơn trớn
lên da thịt Hoài Từ làm liều thuốc kích thích cho
tăng trí nhớ. Tên Hoài Tử không hề biết gì hơn
ngoài sự cưng chiều hàng ngày của ba má nuôi,
nhưng hắn đã thấy một cái tráp nhỏ xinh xắn mà vợ
chồng họ Hoàng thường nâng niu, đành đáp:
– Theo anh, tấm bản đồ ba má nuôi để trong một cái
tráp nhỏ sơn mài xinh đẹp.
Nghe xong con ma nữ mới tình tứ ôm lấy Hoài Tử như
để trả công. Đến khi con ma nữ nghe tin viên thái
giám họ Hoàng đã đốt tấm bản đồ rồi chấp nhận dẫn
đường cho mọi người đi đến kho tàng.
Với lòng tham không đáy của Trần Thành, trước khi
lên đường hắn ta còn dặn dò Ý Nhi phải đưa Hoài Tử
về nhà để tìm cho ra số của cải chúng ta còn cất
giấu trong miếu ...
Cả hai về đến ngôi miếu, hắn không còn là Hoài Tử
của những năm tháng trước đây từng được sự bảo bọc
của vợ chồng ta. Bấy giờ lúc nào hắn cũng ngoan
ngoãn nghe theo lời con ma nữ. Lúc nghe ta tha
thiết nói xong, hắn lại lên giọng thét hỏi như một
tên cướp chuyên nghiệp:
– Ta hỏi số của cải chồng bà lấy từ kho tàng về
đang cất giấu ở đâu?
Ta biết không thể lay chuyển được tâm tính đứa con
nuôi trong lúc này, hắn đang bị bùa ngải làm mất
đi tính người, ta đã đáp ngay:
– Vợ chồng ta không còn gì, tiền của phi nghĩa đó
đã đem cứu trợ bá tánh hay xây chùa cất miếu hết
rồi.
Nghe ta trả lời làm đôi mắt tên Hoài Tử bắt đầu
long lên những gân máu nhỏ li ti, hắn thêm cuồng
dại sau cái lườm ra dấu của con ma nữ. Hắn tiếp
tục gằn giọng hỏi tiếp:
– Bà có nói hay chịu chết?
Ta không hề để bị khuất phục trước tên bất nhân
bất nghĩa, đáp ngay:
– Có lẽ đức phu quân ta đã bị bọn mi giết hại rồi,
vậy ta còn tham sống sợ chết làm gì?
Nói xong ta cắn lưỡi tự tử trước sự điên loạn của
Hoài Tử và con ma nữ Ý Nhi. Tên Hoài Tử thét lên:
– Bà không nói mà quyết tìm cái chết à? Ta sẽ giúp
đưa bà về ngay cõi âm ty.
Nói xong tên Hoài Tử đưa lưỡi dao cắt ngọt cổ bà
má nuôi, đoạn tiếp tục chém bà cho hả sự điên
cuồng.
Chém chết ta xong, hắn ngồi nhìn lại xác chết đang
nằm sóng soài trên vũng máu, bấy giờ hắn mới bừng
tỉnh lương tâm nhưng quá muộn ...
Trong khi con ma nữ Ý Nhi tiếp tục lục lọi, nó cốt
tìm số vàng bạc châu báu của họ Hoàng đang còn cất
giấu mà trước khi lên đường Trần Thành từng dặn dò
nó nhiều lần phải tìm cho bằng được.
Tên Hoài Tử cứ ngồi đờ đẫn nhìn xác người mẹ nuôi
mà cảm thấy hối hận, nhưng trong lòng hắn vẫn nơm
nớp lo sợ con ma nữ niệm chú cho viên đoạt hồn đơn
hành hạ. Hắn mới thẩn thờ lên tiếng:
– Bây giờ hai ta đã làm chủ ngôi miếu, nàng thấy
cần gì cứ lấy còn để ta được yên thân.
Con ma nữ Ý Nhi đâu phải người trần, ả ta chỉ là
hồn ma mượn xác người đâu có tính người. Nó nhìn
tên Hoài Tử không chớp mắt rồi bắt đầu thay hình
đổi dạng, từ một ma nữ xinh đẹp đã trở thành một
nữ quỷ có nanh. Khuôn mặt ma nữ đang hồng hào giờ
đây thành màu xác chết.
Lão Mã Dần thu phục con ma nữ này - thuộc thứ ma
trành sống trên núi Hằng Sơn, học ma pháp lâu năm
đã thành con hồ ly tinh khát máu. Bấy giờ con ma
nữ nói bằng giọng nói ma quái và không kém phần
hung dữ:
– Mi đừng tiếc thương cho bà già đó nữa, vì mi sẽ
theo bà ta xuống dưới suối vàng cho có mẹ có con
ngay thôi!
Vừa nói con ma nữ liền vồ lấy tên Hoài Tử mà cắn
vào cổ. Còn Hoài Tử từ lúc giết chết bà mẹ nuôi,
hắn đã trở về với bản chất chân thật của con
người, đang còn thẩn thờ nên hắn không ngờ con ma
nữ Ý Nhi đã thành con hồ ly có đôi nanh hút máu
người.
Vì bất ngờ nên tên Hoài Tử không thể chống lại khi
đôi nanh con hồ ly tinh đã ngoạm sâu vào cổ, và dù
hắn có dãy giụa cũng đành bất lực trước sức mạnh
của loài ma quỷ.
Giết xong tên Hoài Tử, con hồ ly lại trở về hình
dáng của một ma nữ xinh đẹp, nó không nhìn lại xác
tên Hoài Tử nằm bất động bên người má nuôi, tiếp
tục đi tìm số vàng bạc vợ chồng Hoàng Bảo Trứ còn
cất giấu. Cuối cùng con ma nữ đã tìm ra số của cải
được viên thái giám che giấu dưới gầm giường. Lấy
xong con ma nữ liền quay về thị trấn, nó chỉ để
lại chiếc tráp nhỏ sơn mài ...
Kể đến đây hồn ma bà Thôi Oanh Oanh với giọng đầy
oán hận, nói như than trách số phận:
– Chung quy cũng tại cái kho tàng bất nhân bất
nghĩa của Lê Kiệt đã hại chết bao người vô tội.
Đến giờ tên Trần Thành vẫn còn đang theo đuổi.
Than ôi, tại sao người tốt lại phải chết sớm còn
kẻ xấu như hắn ta vẫn sống? Tại sao ông trời không
cho tên Trần Thành nhận ngay “quả báo nhãn tiền”
mà bắt phu quân ta sớm phải lìa khỏi cõi trần
gian?
Ba anh em nhà họ Phan cùng Mỹ Lệ không biết an ủi
hồn ma bà giám hậu thế nào, Ngọc Luân chỉ biết lên
tiếng hỏi tiếp:
– Nghe âm hồn bà kể ông Hoàng Bảo Trứ chết từ nơi
kho tàng, nhưng ở ngôi miếu này sao lại có ngôi mả
ông ta và những bộ xương người trên đó?
Hồn ma bà Thôi Oanh Oanh vừa khóc đáp:
– Khi ta chết xuống cõi âm ty mới biết đức phu
quân bị tên Trần Thành bắn chết thê thảm, còn âm
hồn thằng Hoài Tử không thấy đâu ...
QUẢ BÁO NHÃN TIỀN Lúc bấy giờ hồn ma viên thái
giám Hoàng Bảo Trứ thấy hồn ma của vợ đang lặng lẽ
đi đến cửa “Uổng Tử Thành” hỏi ra ông mới hay tên
Hoài Tử đã giết chết mẹ nuôi để cùng con hồ ly
tinh Ý Nhi lục tìm vàng bạc ông còn để trong mìếu.
Nhìn thấy vợ chết oan, viên thái giám Hoàng Bảo
Trứ mới lắc đầu nói:
– Cũng chỉ vì tiền bạc và sắc dục mà thằng Hoài Từ
đâm hư hỏng mất nết, giết cả người nuôi dưỡng nó
từ tấm bé mà không chút xót thương.
Hồn ma bà Thôi Oanh Oanh nhìn chồng đáp:
– Lúc thằng Hoài Tử chém thiếp đến chết, âm hồn
vừa thoát xác thiếp trông thấy con hồ ly tinh Ý
Nhi đang nhe nanh hút máu nó, nhưng tại sao bây
giờ thiếp không thấy âm hồn thằng Hoài Tử ở đây?
Hồn ma Hoàng Bảo Trứ nói với vợ:
– Phải chi ta về ngôi miếu sớm hơn một ngày thì
nàng đâu phải chết oan! Ôi có lẽ là do số mạng.
Nàng có biết không, bọn Trần Thành và lão pháp sư
Mã Dần sau khi đánh đuổi được bọn ma cà tưng về
lại kho tàng, nhưng bọn chúng không thể biết lối
đi vào hang đá do nơi đây đã bị Lê Kiệt trấn ếm
bùa lập ma trận, chỉ có cây sồi khi về chiều ngã
bóng đến nơi khe đá thì ma thuật này mới được hóa
giải.
Lúc đó tên Trần Thành quá nóng lòng, ông ta cùng
bọn đàn em dẹp phá đoạn cây cối đang che khuất
đường vào kho tàng, chúng cứ để xác ta nằm trong
rừng như muốn cho thú dữ đến xé xác ăn thịt.
Tuy số mạng đã hết, bởi khi chết ta nghe tiếng nói
từ cõi xa xăm vọng đến cho hay, con người ai cũng
có số sinh tử, đừng nghĩ có cuộc sống từ tâm bác
ái mà không được hưởng phúc thọ, là do tiền căn
hậu kiếp mà ra. Cho nên kiếp này phải đền xong tội
1ỗi từ kiếp trước, kể cả mạng sống yểu tử, để đến
kiếp sau mới được an nhàn hưởng thụ. Nàng cũng
vậy, thôi đừng than trách trời đất bất công. Tuy
nhiên ai nói ông trời không có mắt bắt oan sai kẻ
hiền lương chịu chết cô quạnh nơi chốn rừng hoang?
Có lẽ lúc ta còn sống lập nhiều công đức, ngài
Phúc Đức Chánh Thần mới rong ruổi cho một nhóm thợ
săn tìm thấy ta chết nơi rừng thiêng nước độc:
– Ai như ông Hoàng Bảo Trứ?
Một người lên tiếng rồi mấy người khác cũng đã nói
theo:
– Đúng là ông họ Hoàng sống ở ngôi miếu vùng bãi
vàng Phước Sơn! Ông ta từng giúp bọn mình thoát
cảnh đói nghèo, bây giờ không lẽ chúng ta bỏ mặc
cho thú rừng đến xé xác? Chôn cất ông ta ở đây như
vậy bất nghĩa quá, còn bà Thôi Oanh Oanh làm sao
đến lo nhang khói cho chồng?
Bỗng nhiên có một người lên tiếng:
– Trong bọn ta có thầy Ba Non Nước cùng đi, hay ta
nhờ thầy Ba đưa xác họ Hoàng về lại ngôi miếu?
Cả nhóm thợ săn cùng đồng tình, người đó mới nhìn
về thầy Ba Non Nước nói tiếp:
– Bây giờ tụi tui chờ thầy Ba ra tay làm pháp
thuật, làm sao đưa xác ông Hoàng Bảo Trứ về đến
Phước Sơn mà không bị thối rữa.
Ai cũng biết muốn đem xác họ Hoàng về ngôi miếu
trong rừng Phước Sơn đi mau mắn cũng mất gần một
tuần làm sao cho xác chết không bị thối rữa, giữa
làn hơi nước có dòi bọ sinh sôi nảy nở?
Mọi người đã nghe thầy Ba Non Nước trả lời một câu
chắc nịch:
– Chuyện đưa xác chết về nhà bằng thuật “hành thi”
thuộc nghề của tôi, bởi vậy mấy ông mới chịu mướn
tui đi theo mà.
“Hành thi” thuộc ma thuật của người Trung Hoa xưa
tức mượn thây ma cho hoàn hồn trong một thời gian
như người còn sống. Theo tương truyền pháp thuật
này có xuất xứ từ cao nguyên tỉnh Vân Nam. Có
người kể, khi các thương nhân chuyên nghề buôn gỗ
hay đi trên rừng dưới sông, những nơi có tiếng
rừng thiêng nước độc làm nhiều người ngã bệnh sốt
rét mà đột tử. Muốn đưa xác về nhà mà đường đi khó
khăn không thể kịp tầm liệm, vì vậy trong nhóm
luôn phải có một pháp sư biết được thuật “hành
thi” cùng đồng hành, dùng phép cho thây ma được
hoàn lại hồn cả tuần hay mười ngày theo đường bộ
để về nhà.
Trong thuật “hành thi” không chỉ có một pháp sư mà
phải đến hai người mới thực hiện được, thường
người thứ hai là đệ tử của ông ta.
Người đi trước dẫn đường, người còn lại cầm lấy
chén nước có ếm bùa đi theo sau thây ma. Nếu nước
trong chén không sánh ra ngoài thây ma không ngã,
nhưng cách đi đứng của thây ma có khác thường, lúc
nào cũng nhảy cà tưng theo người đi trước cũng như
xác chết không thể nói năng ăn uống vì đây là
người đã chết.
Người trước đi thì thây ma đi, nếu dừng chân thì
thây ma dừng nhảy. Ban đêm vào quán trọ hay trú
tạm bên đường, pháp sư mới cho thây ma hết chịu
ảnh hưởng của bùa chú để nằm một nơi. Một ngày
trước khi về đến nhà, hồn ma người chết sẽ báo
mộng cho thân nhân biết tin nhằm chuẩn bị quan tài
và các đồ khâm liệm.
Lúc thây ma vừa về đến nhà sẽ đứng sững cạnh bên
quan tài, tức thì người đi sau đổ chén nước có bùa
chú, xác chết tức khắc ngã ngay xuống đất.
Chuyện “hành thi” nhiều khi phải đi như thế cả
tuần hay mười ngày, nên thây ma vừa nhập thổ phải
được khâm liệm ngay, nếu không do thời gian đi
đường kéo dài mà xác có hiện tượng thối rữa ngay.
Thầy Ba Non Nước nói xong, ông ta liền đến bế xác
viên thái giám Hoàng Bảo Trứ đưa đến một chỗ cao
ráo đặt nằm cho ngay ngắn. Bấy giờ thầy mới lấy từ
trong túi đồ lề ra một lá bùa to dán ngay nơi ấn
đường để che kín khuôn mặt, rồi thầy mới ngồi
xuống trước xác chất, chân xếp bằng tròn, tay cầm
nhang bắt ấn còn miệng lâm râm đọc bùa niệm chú.
Tên đệ tử đã cầm sẵn một chén nước đầy đặt trước
đầu họ Hoàng, hắn cũng như sư phụ bắt đầu ngồi lâm
râm đọc chú. Thấy mọi người ngạc nhiên trước những
cứ chỉ khác lạ của thầy trò thầy Ba, lúc đó một
người am tường thuật hành thi mới nói nhỏ cho mọi
người cùng nghe:
– Đây thuộc vũ thuật của người Trung Hoa, tên pháp
thuật là bành thi tức dùng thây người chết làm cho
hoàn hồn sống lại một thời gian, xác chết cứ nhảy
cà tưng để về đến nhà.
Sau khi làm phép, thầy Ba Non Nước hoàn tất việc
thây hoàn hồn, ông ta mới đứng dậy tay cầm cây
phất trần mà vụt vào xác Hoàng Bảo Trứ, tức thì
thân xác họ Hoàng ngồi bật dậy như con quỷ nhập
tràng, hai tay đưa thẳng ra phía trước. Thầy Ba
Non Nước lại đưa cây phất trần điều khiển xác chết
cho đứng thẳng người, xác họ Hoàng bắt đầu nhảy cà
tưng đi theo mỗi bước chân ông ta. Tên đệ tử không
chậm trễ, hắn đã ếm trong chén nước một lá bùa rồi
đi theo sau xác chết.
Gần một tuần lễ trên đường trở về, mọi người đã
đến ngôi miếu của họ Hoàng, thấy ngôi miếu lặng lẽ
không một bóng người. Vào đến bên trong mới biết
bà Thôi Oanh Oanh nằm chết trên vũng máu, còn đứa
con nuôi tên Hoài Tử không thấy đâu.
Một người trong nhóm thợ săn mới suy đoán:
– Có lẽ thằng con đã giết bà má nuôi đặng cướp tài
sản, nó bỏ trốn mất rồi!
Thầy trò Ba Non Nước từ lúc đưa được xác viên thái
giám Hoàng Bảo Trứ về đến ngôi miếu liền từ giã
mọi người. Nhóm thợ săn ở lại lo chôn xác vợ chồng
họ Hoàng cho tươm tất. Nào ngờ cả bọn vừa lập được
một tấm bia, tất cả đều sửng sốt khi thấy bóng tên
Hoài Từ bỗng đâu xuất hiện, theo cau có lũ cô hồn
mang những bộ mặt quái đản tái xanh, hai mắt sâu
hoắm đang nhỏ từng giọt máu xuống đất rồi tan đi
mau chóng.
Bọn cô hồn cùng hú họa với tên Hoài Tử:
– Sau bọn mi cả gan dám đến đây, định cướp tài sản
của ta à?
Một người trong nhóm thợ săn còn bình tĩnh lên
tiếng trả lời bọn cô hồn uổng tử:
– Còn mi là người hay ma, tại sao không thấy bọn
ta đến chôn giùm xác ba má của mi?
Tên Hoài Tử hét to:
– Ở đây không ai là ba má của ta, chỉ có ta chính
là chủ nhân nơi này. Bọn mi phải chết!
Một người thợ săn nhận ra Hoài Tử là một hồn ma
nhập xác, bèn lên tiếng cảnh báo đồng nghiệp:
– Chết rồi, thằng Hoài Tử đã thành quỷ nhập tràng,
nó dẫn lũ cô hồn các đảng đến hại chúng ta! Bây
giờ không còn thầy trò thầy Ba Non Nước biết tính
sao đây?
Miệng nói, tay ông ta đang cầm sẵn cây súng săn
liền Bắn ngay một phát vào tên Hoài Tử. Viên đạn
ghim sâu vào người nhưng cái xác vẫn đứng trơ trơ.
Tên Hoài Tử giận dữ thét lớn:
– Bọn mi tường có thể diệt các hồn ma bóng quế
bằng viên đạn đó hay sao?
Da thịt này vô giác, còn làm sao hủy diệt được!
Vậy bọn mi đã tới số rồi, cùng bọn ta ở đây giữ
của đi!
Thét xong đang từ bộ mặt người đã trở thành hình
dáng của loài chồn cáo hung dữ, hai tai vểnh lên,
liệng nhe đôi nanh sắc nhọn, tay chân đầy móng
vuốt vươn ra và lông mọc tua tủa khắp người.
Con chồn ma bắt đầu vươn mình ra chụp lấy từng
người thợ săn mà cắn xé trong sự hỗ trợ của bọn cô
hồn uổng tử đang bao vây hú hét ...
Bấy giờ hồn ma bà giám hậu mới thôi kể để nói:
– Chính vì thế khi ta xuống cõi âm ty mới không
thấy âm hồn tên Hoài Tử.
Tuy nó bị con hồ ly tinh Ý Nhi hút máu nằm chết,
không ngờ rằng con hồ ly đã truyền cho nó dòng máu
ác quỷ. Nên vào giữa lúc đêm khuya có một con mèo
mun nhảy qua xác làm thằng Hoài Tử sống lại thành
quỷ nhập tràng biết hóa thân ra thứ chồn ma.
Nhưng đây là ngôi miếu thờ ngài thượng đẳng thần
Phúc Đức, đâu phải nơi cho bọn ma quỷ có thể xâm
nhập phá quấy làm càn. Khi con ma chồn Hoài Tử
cùng bọn ma trành giết chết hết nhóm thợ săn, ngài
chánh thần rất giận dữ đâu để bọn chúng tiếp tục
phá rối chốn linh thiêng. Ngài mới sai hồn ma đức
phu quân ta hiện về trừng phạt chúng:
– Này thằng súc sinh bất nhân bất nghĩa, mi giết
mẹ rồi bây giờ trở về quậy phá xem ngôi miếu này
như chỗ không người hay sao?
Con chồn ma nhìn bóng hình người cha nuôi như
không nhận ra, bởi nó đang khoái trá với chiến
công vừa hút xong máu nhóm thợ săn, đã hùng hổ đáp
:
– Ma lấy quyền gì mà dạy bảo, nơi đây đã thành
hoang phế, ta chiếm để làm nơi trú thân đó.
Đức phu quân ta giận lắm, biết loài ma quỷ như nó
đã trở thành truyền nhân của loài hồ ly, đâu còn
tính người. Ông nói tiếp:
– Vậy ta nhân danh hồn ma canh giữ ngôi miếu, nhất
quyết trừng trị bọn ma quỷ chúng mi.
Nói xong đức phu quân ta nhờ có ma pháp đã lẹ làng
bay người nhanh như sấm sét, đưa tay ấn vào huyệt
tử khí của tên Hoài Tử lẫn bọn ma trành, làm bọn
chúng đứng im như khúc gỗ.
Thi hành xong đòn cầm chân bọn ác ma, đức phu quân
ta mới nói:
– Bây giờ ta cho bọn mi chọn một trong hai con
đường, là sẽ bị hóa kiếp hết được đầu thai hoặc ở
lại đây làm ma giữ của cùng vợ chồng ta!
Có hồn ma nào không muốn được đầu thái, vì thế con
chồn ma Hoài Tử liền đáp:
– Xin đừng hóa kiếp tôi, bọn tôi đã thấy ma pháp
của ngài, xin được ở lại phục vụ ....
Hồn ma bà Thôi Oanh Oanh kể xong mới nhìn về Mỹ Lệ
và ba anh em họ Phan đoạn lên tiếng hỏi:
– Ta kể hết rồi, các người còn hỏi gì không?
Mỹ Lệ mang tính đa cảm, tâm trạng nàng mang nhiều
uẩn khúc nên thắc mắc hỏi tiếp:
– Tại sao người tốt như bọn thợ săn đưa ông Hoàng
Bảo Trứ từ rừng sâu về chôn cất tử tế phải chịu
chết oan dưới móng vuốt của bọn ác ma? Tôi thấy
trời đất bất công quá!
Âm hồn bà giám hậu tiếp tục giải thích:
– Đều do nghiệp chướng, sinh nghề tử nghiệp mà
thôi! Tuy mọi thợ săn có công đưa xác phu quân ta
về chôn cất, nhưng vì bọn họ giết nhiều loài vô
tội mà vì vậy nhóm thợ săn đã bị quả báo nhãn tiền
và số mạng bọn họ cũng đã tận, dù ngài Chánh Thần
muốn ra tay cứu giúp cũng không xong một khi số
trời đã định.
Nói xong bóng hình bà Thôi Oanh Oanh cùng lũ ma xó
biến mất trong bóng chiều, không gian man mác một
màu tăm tối. Tuy vậy giọng nói của bà giám hậu vẫn
vang vọng vào tai mọi người:
– Hãy nhớ, bọn ta là những con ma giữ kho tàng, ai
đụng đến mà không có tâm đức đều phải chết!
Bốn người gồm ba nam một nữ bây giờ mới hiểu, mỗi
người sinh ra đều có số trời định ngày sinh tử, dù
cho cuộc sống tạo nhiều phúc đức như vợ chồng
Hoàng Bảo Trứ cũng không thể trường sinh bất tử là
do tiền căn hậu kiếp, hay gặp phải quả báo như bọn
thợ săn. Vì vậy dù có tu tâm tích đức mang quan
niệm đức năng thắng số nhưng không nên chờ đợi
được thưởng công vui hưởng phúc lộc thọ.
Từ Mỹ Lệ đến Ngọc Luân, Vũ Luân và Nguyễn Luân vừa
được nghe kể hết về kho tàng của Lê Kiệt. Một kho
tàng đi dễ khó về bởi nơi đây đang có nhiều hồn ma
canh giữ, nếu không nói có đủ loại ma quỷ từ ma
chồn, ma cà tưng đến bọn ma xó ma trành dữ dằn hay
như hồn ma lính trận, bọn thợ săn, âm hồn tên
Thạch Thiên Phát, A Lên mới đây. Có thể còn có cả
hồn ma ông Gia Viễn và Mỹ Tâm nữa.
Giác quan thứ sáu như báo cho Mỹ Lệ biết, hồn ma
viên thái giám Hoàng Bảo Trứ và Lê Kiệt, canh giữ
bọn người Trần Thành không cho vào chiếm đoạt.
Ngọc Luân thở dài than thở:
– Chúng ta đành chịu buông xuôi kho tàng của Lê
Kiệt rồi! Mặc dù chúng ta mong muốn làm theo ý
nguyện của ông Hoàng Bảo Trừ lấy số của cải này đi
làm việc công đức nhưng lực bất tòng tâm!
Mỹ Lệ lại nghĩ khác cách nghĩ của Ngọc Luân, nàng
mới lên tiếng:
– Một khi chúng ta có tâm nguyện thì mọi việc sẽ
thành công, trước mắt cần giải thoát cho các oan
hồn đang giữ kho tàng để họ sớm được siêu thoát.
Rồi nàng nhìn Ngọc Luân nói tiếp:
– Em không sợ các hồn ma, chỉ sợ bọn Trần Thành,
bên cạnh còn có lão pháp sư Mã Dần giúp sức, chúng
ta đâu biết bùa phép ma thuật để chống bọn người
này?
Ngọc Luân nghe Mỹ Lệ nói đến vướng mắc trên đường
đi đến kho tàng, khiến anh chưa có giải pháp để
không phải bó tay trước bọn người xấu:
– Bây giờ anh mới ngộ ra, nếu chúng ta một khi
mang tâm nguyện tốt đẹp, thì sẽ khiến công việc
đạt thành công. Nói về đường đến kho tàng, chúng
ta không sợ lạc lối bởi còn có hồn ma ba em và Mỹ
Tâm chỉ lối đưa đường. Về bọn người Trần Thành,
chúng ta đều là cao thủ, có thể chống lại chúng.
Chỉ có điều anh còn đang phân vân ...
Mỹ Lệ nhìn vị hôn phu, nàng âu yếm hỏi:
– Anh còn điều gì phân vân?
– Qua lời kể của hồn ma bà Thôi Oanh Oanh và như
em nói, bọn người Trần Thành có tên pháp sư Mã Dần
biết pháp thuật trừ ma gọi quỷ, chúng ta lại không
biết gì để giải trừ thứ bùa ngải đó!
Bấy giờ Vũ Luân mới nói với mọi người:
– Theo em nghĩ, chúng ta sẽ được các hồn ma nơi
kho tàng giúp sức, chỉ thiếu một pháp sư cao tay
ấn có thể ra tay hóa giải. Vậy tại sao không tìm
đến thầy Ba Non Nước, nhờ ông ta giúp sức?
Lời gợi ý của Vũ Luân làm mọi người cảm thấy mừng
rỡ. Mọi người đã nghe âm hồn bà giám hậu nói về
tài bùa phép của thầy Ba Non Nước, khi thầy trò
ông ta dẫn thây ma họ Hoàng bàng thuật “hành thi”
trở về ngôi miếu như người sống, có lẽ thầy Ba Non
Nước không thua kém pháp thuật lão Mã Dần.
Mọi người mới thấy khi ai có tâm tính tốt đẹp sẽ
không bao giờ bị thần linh bỏ quên, giác quan thứ
sáu trong con người sẽ mau chóng tìm ra giải pháp,
không thể bó tay như những câu nói bi quan vừa
rồi.
ĐƯỜNG ĐẾN KHO TÀNG
Vùng Phước Sơn ai cũng biết thầy Ba Non Nước,
nhưng không phải ở đây mà ở tận Ngũ Hành Sơn ngoài
thị xã Tourane.
Theo sự bàn bạc, sáng hôm sau Mỹ Lệ và Ngọc Luân
mau chóng đi đến núi Ngũ Hành. Cả hai lên đến gần
đỉnh núi vẫn chưa tìm được thầy Ba Non Nước ở nơi
đâu. Nơi đây có nhiều am của giới tu hành lẫn giới
pháp sư tu luyện. Tất cả am và người cư ngụ đều na
ná giống nhau khi khoác trên người cái áo tu sĩ
đạo sĩ, khó phân biệt ai đạo ai đời.
Trên đường lên núi, cả hai gặp nhiều đạo sĩ đang
sinh hoạt. Mỹ Lệ đành lên tiếng hỏi thăm:
– Thầy ơi! Thầy có biết trên núi chỗ nào là am của
thầy Ba Non Nước không?
Một vị đạo sĩ trả lời:
– Am này nằm trên cao ẩn trong một hang đá kín
đáo. Các thí chủ cứ thẳng đường sẽ đến nơi.
Am thầy Ba Non Nước không lớn, chỉ rộng vài trăm
thước vuông, nhưng không gian lại vô cùng huyền bí
vì thứ ánh sáng mù mờ cùng những lá cờ phướn vẽ
đầy bùa chú. Trong sảnh có hơn mươi người đang
ngồi tập luyện.
Tuy vậy sự bày trí trong am cũng không khác với
các am miếu khác mà mọi người thường thấy khắp
nơi, luôn có tấm tranh vẽ ông ba mươi đang vươn
móng nhe nanh hướng ra phía trước, ở dưới tấm
tranh thờ là bàn hương có nhiều tấm bài vị đang
tỏa khói nhang nghi ngút.
Khi Mỹ Lệ và Ngọc Luân vừa bước chân vào am, cả
hai nhận ra thầy Ba Non Nước ngồi trên chiếc ghế
tràng kỷ như chờ đợi ai. Mái tóc được thầy bói ra
sau ót, dưới sóng mũi là bộ râu mép rậm rịt cùng
chòm râu đen nhánh mọc dưới cằm, cách ăn mặc của
thầy như một vị đạo sĩ ẩn cư.
Ngọc Luân lên tiếng:
– Chúng tôi tìm thầy Ba.
Thầy Ba Non Nước như không hề ngạc nhiên khi nhận
ra Ngọc Luân và Mỹ Lệ, những người khách xa lạ mới
bước vào am, thầy liền đáp ngay câu chào:
– Ta biết hết rồi, có phảì hai người cần ta đi
giúp trừ bọn âm binh nơi kho tàng ở biên giới phải
không?
Câu lên tiếng của thầy Ba Non Nước làm cho Ngọc
Luân và Mỹ Lệ ngạc nhiên, bởi cả hai chưa kịp bộc
lộ ý định mà thầy ba đã rõ. Mỹ Lệ mới nói:
– Sao thầy Ba biết chúng tôi đến xin giúp đỡ trên
đường đến kho tàng? Rồi còn chuyện đám âm binh của
lão Mã Dần nữa?
Lúc này thầy Ba Non Nước mới mỉm cười đáp:
– Ta làm nghề pháp sư sao không biết nhưng chuyện
quá khứ vị lai, ta còn biết hồn ma vợ ông thái
giám hiện về kể chuyện ta từng làm phép “hành
thi”.
đưa xác chồng bả từ rừng xa xăm trở về ngôi miếu.
Mỹ Lệ thấy ngạc nhiên hơn, nàng không ngờ thầy BA
tài giỏi đến mức mới nhìn người đã thông suốt mọi
chuyện không cần phải lên tiếng dò hỏi. Nàng buột
miệng khen ngợi:
– Thầy Ba giỏi quá, chúng tôi chưa nói mà thầy đã
biết hết, chắc thầy nhờ “bọn nham” đi tầm chăng?
Mỹ Lệ tuy người xứ lạ nhưng nàng biết các pháp sư
thường nuôi bọn ma xó tức “bọn nham” trong am
điện, mỗi khi cần tìm hiểu gì là sai chúng đi tầm.
Bấy giờ thầy Ba mới giải thích:
– Cũng chỉ đúng một phần. Đêm qua ta ngồi tĩnh tâm
thấy hồn ma bà Thôi Oanh Oanh hiện về cho biết,
hôm nay có người đến nhờ ta chỉ đường đến nơi ông
Hoàng Bào Trứ tử nạn. Ta còn nghe ở đó có một kho
tàng và hiện giờ một bọn người gian ác đang đến
định chiếm đoạt nó.
Thấy không thể giấu giếm, Ngọc Luân liền nói rõ ý
định của hai người khi đến am tìm thầy:
– Đúng là chúng tôi muốn nhờ thầy giúp trên đường
đi đến kho tàng. Thầy từng đưa xác ông Hoàng Bảo
Trứ từ đó về lại ngôi miếu. Còn bọn người muốn
chiếm đoạt kho tàng, chúng tôi có thể chống lại
bọn chúng. Có điều bọn này có lão pháp sư biết
nhiều pháp thuật, biết điều động âm binh đến trợ
giúp, nên chúng tôi tìm đến thầy Ba giúp thêm tay
đối phó.
Thầy Ba tâm sự:
– Người ta thường cho rằng bọn pháp sư đa số theo
tà đạo, nhưng ta chỉ lấy bùa phép làm chuyện cứu
đời. Bọn thợ săn nào cần trợ giúp là ta không
quãng ngại khó khăn. Mặc dù trên đời tiền bạc là
cứu cánh để được sinh tồn nhưng không vì thế mà
đâm thái quá làm mất hết tâm đức, khi chết không
ai mang theo được, mà bọn quỷ dưới âm ty còn hành
hạ đến không thể đầu thai làm người được nữa!
Sau những câu tâm sự của thầy Ba Non Nước, bấy giờ
Mỹ Lệ và Ngọc Luân mới thấy thầy Ba khác hẳn các
ông thầy bùa thầy pháp chỉ ham muốn danh lợi mà
đánh mất nhân tâm.
Thầy Ba Non Nước chấp thuận dẫn đường mọi người
đến kho tàng Lê Kiệt.
Tâm nguyện của nhóm Mỹ Lệ coi như đã suôn sẻ ngay
từ buổi ban đầu. Nhóm bảy người hai già năm trẻ,
gồm lão Phan Minh, thầy trò thầy Ba Non Nước cùng
Mỹ Lệ, Ngọc Luân, Vũ Luân và Nguyễn Luân lên đường
ngay sau khi sắp xếp xong mọi đồ vật cần thiết.
Tất cả đều nai nịt gọn gàng, chân mang giày ống để
tránh rắn, vắt rừng đeo bám hút máu.
Được thầy Ba dẫn đường, cả bọn lên ngựa rời trại
Quỳnh Hương ngay từ lúc trời mới vừa hừng sáng.
Thầy có nhiều kinh nghiệm trong những chuyến đi xa
cùng bọn thợ săn, chỉ lúc vào sâu trong rừng người
ngựa mới bắt đầu phi nước kiệu. Đi như thế gần ba
ngày đường mới đến dãy núi nhìn về hướng tây thấy
ngay huyện Xản Xay bên kia đất Ai Lao, tức sắp đến
khu cây sồi.
Nhưng phía trước đang có một con sông nước chảy
siết đổ từ đầu nguồn xuống va vào đá ngổn ngang
tạo thành thứ âm thanh sóng vỗ gào thét giữa chốn
rừng xanh.
Lúc này thầy Ba Non Nước xuống ngựa, ông ta nói
với mọi người:
– Phải để ngựa lại đây, vì từ bây giờ chúng ta
phải đi bằng đường bộ.
Mọi người nhìn quang cảnh hùng vĩ của núi sông
luôn miệng tấm tắc khen đẹp. Lão Phan Minh đã lên
tiếng:
– Dòng sông chảy siết làm sao qua được đây?
Thầy Ba mới đưa tay chỉ về nơi có sợi dây rừng
được bện to kéo ngang qua hai bên sông:
– Chúng ta nắm sợi dây rừng kia rồi lần đi trên
những tảng đá để qua sông thôi.
– Như thế nguy hiểm quá!
Giọng Mỹ Lệ than thở, nàng tưởng tượng đến cảnh
người đu đưa qua con sông dữ, ai một cái sẩy chân
chắc chắn sẽ bị nước cuốn trôi. Nghe thấy tiếng
than thầm của cô gái, thầy Ba lại giải thích:
Nhờ địa thế hiểm trở mà khi xưa Lê Kiệt mới đem
giấu kho báu tận đây. Và sau con sông là khu rừng
nguyên sinh nằm trong dãy Trường Sơn có nhiều loại
thú sinh sống, mọi người cần đề phòng bởi có thể
từ trên cao phóng xuống là một con trăn hay một
con báo hoặc bên đám cây bụi cỏ có lũ rắn hổ mang,
cạp nia, bọ cạp, chúng chỉ cần cắn hay phóng nọc
vào người có thể chết ngay ...
Nhóm người đi theo thầy Ba Non Nước toàn các cao
thủ, khi nghe ông nói chuyện rừng núi hiểm nguy
không làm ai e ngại. Nhưng dù đã nắm chặt sợi dây,
lão Phan Mính chưa quen việc mạo hiểm đã trượt
chân ngã xuống nước làm phải cố trườn người lên để
tiếp tục qua sông.
Cuối cùng bảy người cũng đã qua khỏi con sông dữ,
đoạn phải ngồi để thở và chờ cho khỏe người mới có
thể tiếp tục bước đi. Lão Phan Minh hỏi thầy Ba:
– Đường đền kho tàng còn xa không?
– Không còn xa, chúng ta còn đi qua khu rừng này
khoảng sáng mai sẽ đến.
Nhóm người đã đến địa điểm cây sồi mới nhận thấy
nơi đây tuy thoáng rộng nhưng lại âm u quái đản
khác thường. Mọi người không thấy người của Trần
Thành, vậy tại sao hồn ma bà Thôi Oanh Oanh lại
báo hồn ma viên thái giám họ Hoàng đang đến canh
giữ kho tàng?
Đánh đuổi được lũ ma cà tưng giữ cửa kho
tàng Lê Kiệt và giết xong viên thái giám Hoàng Bảo
Trứ, Trần Thành mỉm cười và bỏ xác họ Hoàng ở lại
chốn rừng hoang.
Sáng hôm sau Trần Thành quá nôn nóng về kho tàng,
ông ta cho gọi bọn đầu gấu đàn em thẳng tiến về
đám cây rậm rạp nơi viên thái giám tiết lộ có khe
núi đi vào trong kho báu. Và mặc cho lời lão pháp
sư mã Dần đã lên tiếng cảnh báo:
– Ta không thề hóa giải ma thuật của người Ai Lao,
ông Trần phải chờ cho bóng cây sồi ngã hướng Tây
mới có đường vào.
Nhưng Trần Thành không thể chờ đợi khi cơn mưa
rừng còn dai dẳng chưa ngưng, làm sao có nắng
chiều rọi xuống cây sồi, ông ta bèn nói:
– Ta không tin có ma hồn trận! Có thể tên họ Hoàng
không muốn bọn ta vào lấy kho báu thôi.
Nói xong Trần Thành liền hùng hổ đi đến đám cây
rậm rạp làng gương cho lão Mã Dần cùng bọn đàn em,
khiến cả bọn đành bước chân theo sau.
Đúng như cảnh báo của lão Mã Dần, một tên đàn em
Trần Thành bất ngờ rơi xuống một hầm sâu đầy chông
nhọn, những mũi chông có khía ghim sâu vào trong
thân thể hắn. Tên này chỉ kịp kêu rú lên vài tiếng
đau đớn rồi tắt lịm.
Trần Thành sau khi nghe thấy tiếng kêu thét của
tên đàn em đã vội vàng chạy đến, thấy xác hắn bị
các mũi chông xuyên qua người máu tuông ra đất,
chết tức tưới. Dù thuộc dân anh chị tay từng nhuốm
máu, những tên còn lại cũng xanh xám mặt mày không
dám nhìn đến lần thứ hai. Và mặt chúng dần lộ ra
sự sợ hãi vì không biết còn ai sẽ sa chân vào
những cạm bẫy như thế nữa.
Dù đang kinh hãi trước cái chết bất ngờ của tên
đàn em, Trần Thành không nao núng, ông ta liền lên
tiếng trấn an:
– Bọn ta nên cẩn thận, đây không phải ma thuật mà
là cạm bẫy do Lê Kiệt gài. Còn pháp sư Mã Dần, ông
hãy dùng bùa sai bọn nham đi dò xem còn thứ cạm
bẫy nào không?
Lão pháp sư Mã Dần dù không hài lòng trước lời yêu
cầu của Trần Thành, lão biết khi nơi đây đã trấn
ếm bùa phép thì bọn nham cũng mù như người trần.
Tuy nhiên để làm vui lòng Trần Thành, lão cũng lấy
ra một sấp bùa để đốt còn miệng lâm râm niệm chú.
Trong lúc đó Trần Thành và đám đàn em tiến vào
rừng cây, bỗng lại có một tiếng hét khiếp đảm vang
lên trong cảnh núi rừng tĩnh mịch. Thêm một tên
đàn em hai chân bị sợi dây rừng siết chặt đang
treo thân lơ lững trên cành cây cao.
Lại một cạm bẫy nữa. Trần Thành nhìn thấy, ông ta
lại gào thét cho đám đàn em nghe:
– Coi chừng có cạm bẫy!
Tên đàn em đang đu đưa thân trên cao, bỗng hắn đưa
tay chỉ cho cả bọn trông thấy một con sói rừng
đang đứng nhe nanh tru. Trên tay cầm sẵn súng,
Trần Thành bắn một phát về hướng con sói.
Con sói rừng bị súng đạn, nó tru lên vài tiếng rồi
biến mất trong rừng. Nhưng tiếp theo sau đã thấy
có bóng người xuất hiện, đang chuyền từ cành này
sang cành khác, miệng thét:
– Này tên Trần Thành độc ác. Ta là con ma sói Vĩnh
Kim, súng đạn của mi không làm gì được ta đâu, hãy
đợi đấy!
Con ma sói Vĩnh Kim vừa dứt lời, tức thì từ bốn
phía có tiếng chó sói tru rền bên tai. Lão pháp sư
Mã Dần bèn lên tiếng báo động:
– Bọn ma sói đến!
Cả bọn người Trần Thành nhìn theo tay lão Mã Dần,
thấy từng đôi mắt sáng xanh đang lượn lờ phía
trước. Lão pháp sư lại tiếp tục thét nói:
– Mang kiếng chiếu yêu đuổi bọn ma sói đi ngay!
Tức thì bốn tấm kiếng chiếu yêu mang hình bát quái
có vẽ bùa phép được bọn đàn em Trần Thành mang
chiếu về các con sói ma, nhưng chúng không hề sợ
hãi để biến đì. Rồi một con sói già đã chạy vòng
ra sau Trần Thành, nó đưa móng vuốt định phóng
mình đến xé xác ông ta. Một tên đàn em nhanh mắt
trông thấy, hắn vội đưa tay nắm lấy hai chân đầy
móng nhọn của con sói đang chực vồ đại ca.
Từng là dân giang hồ tứ chiến, tên đàn em Trần
Thành đâu sợ cảnh vồ mồi của con sói già. Hắn vừa
đỡ xong cú phóng của con vật liền đưa hai tay luồn
lên nắm chặt lấy chân sói đoạn quay nhanh nhiều
vòng. Con vật chưa vồ được ông ta đã bị nắm mất
đôi chân nên đang hoàn toàn bị động.
Lão pháp sư Mã Dần lại thét:
– Mấy người lấy bùa dán ngay vào trán con sói!
Tên đàn em quay con sói nhiều vòng cho đến khi
người và vật mệt lả, hắn mới ném con sói ma xuống
đất sau khi ra hiệu cho đồng bọn túm lấy con vật
mà dán lá bùa trừ tà theo lời lão pháp sư Mã Dần.
Dán được lá bùa vào trán con sói, con vật đã giảy
giụa lên vài cái rồi nằm im bất động. Hình hài con
sói biến trở thành hình người. Trần Thành hét lên:
– Tên già hành khất Vĩnh Kim đây mà!
Còn lão pháp sư Mã Dần đã nói tiếp:
– Đây là hồn ma mượn xác sói, để trừ diệt con ma
sói Vĩnh Kim, ông Trần lấy dao đâm thẳng vào tim,
nó sẽ bị hóa kiếp.
Bọn đàn em Trần Thành liền nghe theo, một lưỡi dao
đã đâm thẳng vào xác Vĩnh Kim, tức thì hình dáng
ông già hành khất lại thay đổi ra hình dạng một
con sói bình thường. Sau khi con ma sói bị hóa
kiếp, những con sói ma khác cũng tự biến mất không
ai còn nghe thấy tiếng tru của chúng nữa.
Lúc này Trần Thành mới thật sự sợ hãi, ông ta cho
bọn đàn em cứu lấy tên bị dây rừng cuốn trên cây
xuống đất rồi than thở nói:
– Chúng ta không thể vào kho tàng! Ngày xưa Lê
Kiệt đặt nhiều cạm bẫy quá, đó là chưa kể bọn ma
cà tưng, quỷ nhập tràng sẽ lại xuất hiện bất ngờ.
Lão pháp sư Mã Dần nói thêm:
– Ta đã cảnh báo ông Trần, kho tàng này vừa có
nhiều cạm bẫy lại có cả ma thuật thêm bọn ma thần
vòng giữ cửa, đi vào không biết sống chết ra sao.
Tuy nghe lão Mã Dần cảnh báo, Trần Thành nhất
quyết không từ bỏ tham vọng, ông ta mới lên tiếng
hỏi lão pháp sư:
– Vậy bây giờ còn cách nào không?
Lão Mã Dần đáp:
– Bây giờ ta mới biết “rừng nào cọp đó”, dù ta
biết nhiều bùa phép nhưng không thể tiên đoán khi
vào trong kho tàng sẽ nguy hiểm đến tính mạng mọi
người như thế nào. Chi bằng chúng ta tìm một buôn
Thượng gần đâu đây may ra gặp được tên thầy mo là
người từng lập ra thứ ma thuật này mới có thể hóa
giải được, bấy giờ chúng ta mới đạt được ý định.
Trần Thành đã biết lo sợ, ông ta nhận thấy lúc đi
có tám người bây giờ chỉ còn lại sáu, còn tinh
thần bọn đàn em đang xuống vì kinh sợ. Ông ta mới
gật đầu chấp nhận lời đề nghị của lão pháp sư.
Bọn người Trần Thành bắt đầu theo sự dẫn đường của
lão Mã Dần đi tìm một buôn sóc Thượng, chúng vừa
đi vừa phát quang cây cối để tránh những con vật
ẩn mình trong những bụi cây rậm rạp sẵn sàng đeo
bám vào người để hút máu đến khi no say mới chịu
buông rời.
Đi đến chiều bọn Trần Thành mới thấy một người dân
tộc đang đi săn trong rừng. Lão pháp sư Mã Dần gọi
lại nói:
– Các người Kinh muốn đến bản làng của mày vì cái
chân mệt lắm còn cái đầu đau lắm, lại đói meo. Các
người Kinh có tiền mới để đổi, mày dẫn các người
Kinh về buôn bản đi.
Lão Mã Dần từng sống trên núi Hằng Sơn, lão ta
hiểu hết các phong tục tập quán của người dân tộc
miền núi nên mau chóng nhận được câu trả lời:
– Cái ông muốn đến bản Xẹt Thả trao đổi cái tiền
mới lấy cái uống, cái ăn à?
Thằng A Tùng này sẽ đưa mấy người đi.
Lão pháp sư Mã Dần đại diện cho bọn người Trần
Thành, nói với A Tùng:
– Đúng rồi! Người Kinh muốn đến bản làng Xẹt Thả
để xin trị cái đầu và tìm cái ăn, thằng A Tùng chỉ
đường cho bọn ta đến nhanh đi.
Để thắt mối thân tình ngay từ đầu với tên A Tùng,
lão Mã Dần chỉ về Trần Thành nói tiếp:
– Đây là ông Trần người có nhiều tiền mới! Ông
Trần ơi, cho nó vài tờ đem về cho vợ cho con đi
đổi cái muối cái gạo mà ăn.
Trần Thành theo lời lão pháp sư móc túi lấy cho
tên A Tùng vài tờ bạc mới làm tên người dân tộc
hớn hở. Người dân sống ở miền cao rất hiếu khách
và tin người, khí cái bụng đã ưng thì ai nói câu
gì cũng đều nghe. Tên A Tùng cũng thế, khi nghe
bọn người Trần Thành muốn đến bản Xẹt Thả là đưa
đi ngay.
Bản Xẹt Thả có những căn nhà rông dựng san sát
nhau bao quanh một cái sân rộng lớn, chứng tỏ là
một bản làng trù mật. Tên A Tùng đã hô to khi thấy
bản làng hiện ra phía trước:
– Bản làng đây rồi các ông người Kinh ơi!
Thấy tên A Tùng dẫn về nhiều người Kinh, mọi người
trong bản Xẹt Thả liền chạy ra nhưng không ai dám
đi trước già làng. Họ đứng chờ bọn người Trần
Thành ở con đường dẫn vào buôn bản.
Đến trước già láng, tên A Tùng liền cung kính chắp
tay lên tiếng thưa:
– Những người Kinh có nhiều tiền mới lắm già. A
Tùng đưa cái chân họ về bản Xẹt Thả để trị cái đầu
đau nhức, tìm cái ăn vào bụng thôi.
Già làng tuy lớn tuổi nhưng cách ăn mặc chẳng khác
gì người trong buôn bản, cũng chỉ mặc cái áo thổ
cẩm dài quá bụng, thân dưới đóng khố đỏ thay vì
khố xanh, và khác hơn đôi chút nơi tay già làng
cầm một cây gậy dài có khắc hình đầu cọp chứng tỏ
ông thuộc người có chức quyền nhất trong buôn bản
này.
Qua lời tên A Tùng già làng săm soi nhìn mọi
người, đoạn ông ta cất tiếng với giọng nói sang
sảng:
– Cái bụng già làng rất vui! Bản Xẹt Thả xin đón
mời các ông người Kinh vào bản làng.
Nghe vậy lão Mã Dần liền ra hiệu cho mấy tên đàn
em Trần Thành lấy quà ra tặng. Thấy muối và cá khô
được trao tay làm già làng hết sức cảm động, ông
ta đến bên ôm lấy lão pháp sư tỏ vẻ quý mến rồi
đưa mọi người lên một căn nhà rông rộng rãi nhất
để tiếp tục trò chuyện.
Buổi tối tại bản làng Xẹt Thả sôi động
hẳn lên, không khí hội hè được dân bản tổ chức cho
thầy mo A B lăng lập đàn tràng làm phép giải trừ
ma thuật tại khe núi cây sồi.
Lão pháp sư Mã Dần đánh trúng tâm lý người ở buôn
Xẹt Thả:
họ thích gạo muối cá khô và từng xấp tiền mới. Khi
vào nhà rông, lão vẫn đại diện cho nhóm Trần Thành
đối đáp người trong bản, lão ta mới nói ý định
muốn nhờ thầy mo trong bản làng giải trừ giùm ma
thuật ở cửa hang có kho tàng của Lê Kiệt.
Già làng nghe xong liền lắc đầu đáp:
– Các ông người Kinh ơi, không được đưa cái chân
đến đó đâu! Có nhiều con ma thè cái lưỡi lắm.
Ngồi bên già làng, Trần Thành mới cất tiếng hỏi
lại ngay:
– Sao già làng không cho bọn tôi đến chỗ có cái
cây đụng đến Giàng?
Già làng lại đáp bằng giọng nghiêm túc:
– Ở đó có lũ ma thè lưỡi ai đến cũng phải chết
thôi. Ngày xưa cái ông râu giết hết người trong đó
làm con ma giữ của, bây giờ chúng dữ lắm ...
Nói xong già làng mới kêu thầy mo A B lăng đến gặp
bọn người Trần Thành để kể:
...Mấy chục năm trước, có một ông râu quai nón dẫn
theo mười tên gia nhân ăn mặc như lính trận từ
phương xa đến bản làng Xẹt Thả nằm trong rừng núi
Mường Mây này. Sau già làng và thầy mo A B lăng
mới biết ông ta có tên Lê Kiệt.
Lúc bấy giờ Lê Kiệt cũng đưa cho bản làng nhiều
gạo muối và tiền mới rồi nói:
– Thầy phong thủy nói, nhà ta ở phương Bắc gần nơi
đầu rồng mà cái đuôi dài đến tận đây, trước một
hang đá có cây sồi đụng đến Giàng, đuôi nó thường
bị quậy phá nên ta muốn trấn ếm. Nghe nói nơi bản
Xẹt Thả có thầy mo cao tay ấn lắm, ta muốn nhờ nó
làm ma thuật trấn ếm không cho mọi người thấy được
hang đá mà vào quấy nhiễu đuôi rồng nữa.
Bản làng Xẹt Thả thời bấy giờ mới hãy còn nghèo
cho nên già làng và thầy mo A B lăng chấp nhận
ngay lời đề nghị của Lê Kiệt vì thấy không có tổn
hại gì cho bản làng, do hang đá nằm xa bản làng.
Vì vậy sau khi trấn ếm xong thầy mo A B lăng trở
về buôn bản. Rồi trong giấc ngủ thầy mo A B lăng
thấy rõ mười con ma mặc áo lính hiện ra gào thét
chỉ vào ông ta nói:
– Thằng A B lăng! Mày ếm bùa làm bọn tao thành ma
giữ của cho tên gian ác Lê Kiệt rồi. Tội mi lớn
lắm!
Thầy mo A B lăng nào sợ ma, ông ta liền trả lời:
– Tại sao gieo tiếng ác cho ta? Ta nào ta có ếm
bùa bọn mi thành cái con ma giữ cửa bao giờ? Ta
chỉ ếm không cho ai nhìn thấy cái hang đá đó thôi!
Mười hồn ma mặc áo lính vẫn gào thét bên tai:
– Tên Lê Kiệt độc ác lắm, nó sai bọn ta đặt cạm
bẫy, sai ngươi ếm bùa mọi ngóc ngách. Việc vừa
xong là nó đã cho bọn ta no uống say, không ngờ
trong thức ăn có thuốc độc làm bọn ta phải chết
bất đắc kỳ tử, nó còn đem treo cổ bọn ta từ khe
núi cho đến chỗ để ba cái rương cất giấu của cải
làm con ma thần vòng giữ của cho nó suốt đời rồi.
Cuối cùng thầy mo A B lăng kết thúc câu chuyện vừa
kể với bọn người Trần Thành:
– Người ở bản Xẹt Thả không ai dám đến khu cây sồi
đụng đến Làng nữa. Ai cũng nói là hang tử thần.
Nếu mấy ông người Kinh muốn đàn cái chân vào hang
cây sồi phải cho thầy mo lên đàn làm lễ tế cúng,
phải đâm một trâu đực lấy ra tế Giàng, phải giết
mười con dê cái cúng bọn ma thần vòng, phải có đủ
hình nhân mới giải được thuật. Tốn kém lắm mấy ông
người Kinh ơi!
Lão pháp sư Mã Dần vô cùng ngạc nhiên khi phải lập
đàn tế một con trâu mười con dê, cùng bao nhiêu
thứ đồ mã hình nhân mới giải trừ được ma thuật tại
cửa hang cây sồi. Nhưng vì rừng nào cọp đó, mỗi
nơi có cách trấn ếm bùa phép khác nhau, chỉ có
người trong cuộc mới có thể ra tay hóa giải được.
Lão Mã Dần nói với Trần Thành:
– Chắc chùng ta phải chịu tốn kém, nhờ vậy mới đi
vào trong kho tàng được.
Rồi lão ta tiếp tục hỏi thầy mo A B lăng:
– Bọn ma thần vòng giữ của dữ lắm, liệu thầy mo A
B lăng có trừ chúng được không?
Thầy mo B lăng lắc đầu, đoạn đáp:
– Hồi tên quai nón Lê Kiệt chỉ đến nhờ thầy mo A B
lăng ta làm phép đóng cửa hang thôi, nên ta chỉ có
thể giải trừ được ma thuật này thôi. Còn mấy con
ma thè lưỡi do thứ bùa chú của người Kinh, ta
không trừ được đâu.
Nói về bọn ma thần vòng giữ của nơi kho tàng, lão
pháp sư Mã Dần từng sai bọn âm binh từ Hằng Sơn
đến đánh bọn chúng. Lão tỏ ra trên cơ, nên lão ta
nghe xong tỏ ra không lo sợ bọn này nữa. Bởi vậy
đêm nay mới có đàn tràng cho thầy mo A B lăng lên
làm phép giải trừ ma thuật tại khe núi cây sồi.
Tối nay nơi sân nhà rông, cờ đuôi nheo xanh đỏ
được dựng quanh đàn tràng.
Một cây cột blangkhao được người trong bản làng
Xẹt Thả dựng lên từ buổi sáng theo lệnh thầy mo.
Họ chặt một cây bông gạo để trồng cột blangkhao
này sau khi sơn đủ màu rực rỡ.
Thầy mo A B lăng đứng ra chủ trì làm phép, ở xung
quanh còn trồng bốn cây cột thấp, nói lên cây
blangkhao là trung tâm của bốn hướng đại diện cho
Giàng.
Trên đỉnh blangkhao còn được trang trí những bông
kơnia và dưới gốc cột một con trâu đực. Mười con
dê cái được quây trong một chuồng bằng tre cao gần
đầu gối cạnh đàn tràng.
Dân bản làng Xẹt Thả đến giờ đã vây quanh cột
blangkhao để múa hát, trong tiếng cồng chiêng rền
vang như cảnh lễ hội mừng năm mới. Những thanh
niên trong bản đầu quấn khăn thổ cẩm giắt theo sợi
lông công lông trĩ đẹp mắt, tay cầm giáo vừa múa
vừa dứ vào thân trâu, những thiếu nữ như trợ thủ
múa hài hòa theo tiếng chân đi dồn dập của bọn
thanh niên.
Thầy mo A B lăng từ trên sàn nhà rông đón tay ra
đấu cho đám nam nữ ngừng tay đánh cồng chiêng nhảy
múa. Ông ta đi từ nhà rông đến nơi dựng đàn tràng,
đưa mắt nhìn già làng ngồi với nhóm người của Trần
Thành, lên tiếng:
– Đã đến giờ làm lễ đâm trâu, bản làng Xẹt Thả xin
già làng lên đàn thắp nhang tế cáo với Giàng.
Nghe thầy mo mời lên đàn, già làng vội bước về nơi
hành lễ, ông lấy ba cây nhang cắm vào bát nhang
đặt trước bàn hương rồi khấn vái. Sau khi già làng
vừa cầu khấn xong, tiếng cồng chiêng lại tiếp tục
nổi lên vang động cây rừng.
Tiếp theo thầy mo A B lăng cầm ba cây nhang mà
múa, một tay cầm giáo như muốn phóng về hướng con
trâu nằm dưới chân cột blangkhao.
Thông thường nghi lễ đâm trâu chỉ tổ chức vào dịp
đón năm mới hay cầu xin một vụ mùa được thu hoạch
tốt dẹp, nhưng đêm nay bản làng Xẹt Thả tổ chức lễ
đâm trâu vì lý do giải oan cho lũ ma trành, ma xó
của núi rừng đang giữ của cải nơi hang tử thần.
Khi thầy mo bước vào đàn cúng Giàng, trai gái
trong bản lại tiếp tục nhảy múa bên nhau nhằm mua
vui cho các thần linh hiện về thụ hưởng lễ vật.
Đang nhảy múa bỗng thầy mo A B lăng chỉ cây giáo
vào người tên A Tùng. Anh ta biết mình được thầy
mo chọn ra đâm trâu, nên vừa múa cây giáo theo
tiếng cồng chiêng vừa đi quanh cột blangkhao nhắm
cây giáo vào thân trâu mà đâm, khoảng vài lượt như
thế làm con trâu đau đớn lồng lộn muốn bứt dây
chạy thoát thân.. Đến lúc giết trâu lấy máu tế
Giàng, các thanh niên múa theo sau tên A Tùng,
cũng cầm giáo đâm túi bụi vào mình con vật. Còn A
Tùng để cây giáo ghim chặt vào thân trâu rồi chạy
bay đến bên thầy mo nhận lấy một lưỡi mã tấu sắc
bén. Nhận xong là tên A Tùng chạy đến bên con trâu
sắp ngã quỵ vì thương tích, bất ngờ dùng lưỡi mã
tấu chém vào khủy chân sau con vật.
Con trâu càng đau nó càng lồng lộn lên chạy quanh
cột blangkhao. Tên A tùng quyết đuổi theo sau, vừa
chạy vừa múa rồi chém nốt khủy chân sau còn lại
của nó. Khi con vật bị chém cả hai chân ngã xuống
không chạy được nữa, bấy giờ tên A Tùng mới cầm
lại cây giáo để đâm sâu vào con vật cho chết.
Những thanh niên khác dùng nồi đồng hứng lấy máu
trâu để dâng lên đàn cúng Giàng.
Thầy mo B lăng cầm lấy nồi đồng đựng đầy máu trâu
đặt lên bàn hương án, miệng lâm râm đọc những câu
chú. Thầy mo quơ cây phất trần lên xuống ngang dọc
khắp đàn tràng đoạn cúi xuống sụp lạy. Lạy xong
ông ta mới đứng lên ra lệnh cho đám thanh niên đưa
con trâu ra đàn lửa thui nướng.
Già làng nói với nhóm người Trần Thành:
– Bản Xẹt Thả vừa dâng con trâu đực để cúng Giàng,
bây giờ thầy mo A B lăng cúng cho bọn ma xó ma đói
thịt heo, thịt gà. Cúng bọn ma trành ma sói ở chốn
núi rừng mười con dê cái kia, cho chúng làm ngựa
cho lũ ma cưỡi đi nơi khác. Thầy mo A B lăng sẽ
đốt các hình nhân voi cọp để chúng xua đuổi các
hồn ma canh giữ cửa hang là xong.
Sau khi tế lễ lên Giàng đã xong, thầy mo A B lăng
lấy lúa, bắp ném vãi ra khắp sân, đoạn đốt các
hình nộm hình nhân voi cọp, còn bọn thanh niên nam
nữ tiếp tục nhảy múa theo tiếng cồng chiêng. Lúc
này thầy mo lai chỉ vào các bài vị miệng lâm râm
niệm bùa chú, làm như thế ba lần mới lên tiếng như
ra lệnh:
– Các thanh niên trong bản làng Xẹt Thả hãy giết
mười con dê cái đem máu và xác mỗi con chạy về bốn
phương tám hướng cho lũ ma án ngự hang tử thần làm
ngựa cưỡi đi nơi khác!
Thầy mo vừa nói xong tức thì bọn thanh niên tay
cầm giáo tiến thẳng về chuồng dê. Mỗi người đâm
chết một con làm máu con vật tuông xối xả rồi nhảy
vào chuồng xốc ngay xác để lên vai chạy như bay
vào rừng trong màn đêm tăm tối.
Già làng lại giải thích:
– Thịt trâu người bản làng mới ăn vì đó là lộc của
Giàng cho dân bản hưởng.
Còn dê cúng lũ ma, người bản làng Xẹt Thả không ăn
mà đem vào rừng bỏ cho lũ ma xó, mã lai đến nhận.
Lúc này trên đàn tràng, thầy mo A B lăng lại lâm
râm đọc bùa chú rồi ông ta vẫy gọi lão pháp sư Mã
Dần lên đưa cho một cái túi, bên trong đựng thứ
bột có mùi xông lên hăng hắc như mùi hành tỏi xoa
lên cánh tay lão rồi nói:
– Ta vừa giải trừ xong ma thuật trước hang tử thần
rồi, còn đây là bột trừ lũ rắn ma trong hang đá.
Nói xong thầy mo A B lăng đưa cả cái túi cho lão
pháp sư Mã Dần. Còn Trần Thành nhìn vào đám đàn em
thấy chúng đã hồi phục sức khỏe, chỉ có tên bị
treo trên cây còn như mất hồn.
Hắn hất mặt hỏi lão Mã Dần:
– Ngày mai bọn ta đến hang cây sồi được chưa?
Lão pháp sư Mã Dần đáp:
– Theo lời thầy mo A B lăng, cửa hang trước cây
sồi đã mở ta cứ đi vào, tuy nhiên ...
Giọng nói của lão Mã Dần trở nên ngập ngừng Trần
Thành thắc mắc lên tiếng hỏi:
– Pháp sư, còn gì băn khoăn nói ta nghe!
– Thầy mo chỉ giải được ma thuật ở cửa hang, còn
về những thứ do Lê Kiệt gài lại như cạm bẫy hay
bùa ngải ma thuật khác ta không biết hết. Vì vậy
đường vào kho tàng vẫn chưa hết nguy hiểm đâu!
Sau khi nghe lão pháp sư phát họa về tình hình
trong hang tử thần. Trần Thành vẫn im lặng, nhưng
sáng hôm sau ông ta ra lệnh cho bọn đàn em khởi
hành đi vào hang đá trước cây sồi.
Và sau những cạm bẫy đã từng gặp trên đường, một
tên đàn em nằm bỏ xác còn một tên đang sợ thất hồn
bạt vía cũng như cả bọn từng trông thấy bọn ma cà
tưng lấn lũ sói ma trong rừng. Trần Thành phải
khích lệ:
– Bọn ta đã giải trừ được ma thuật, chỉ còn bọn ma
thần vòng giữ của, chuyện này đã có bọn âm binh
của pháp sư Mã Dần triệu tập từ núi Hằng Sơn đến
trợ giúp. Tuy vậy bọn ta cần đề phòng thêm cạm bẫy
mà Lê Kiệt khi xưa đã gài lại quanh hang đá.
Nói xong sáu người bắt đầu đi chậm lại trong rừng,
từng bước chân dò dẫm trên lá khô, từng đường mã
tấu phát quang đám cây cỏ mọc um tùm chắn lối.
Khi đến trước hàng cây rậm rạp che khuất đường vào
kho tàng, bấy giờ mọi người mới thấy một khe núi
hẹp hiện ra chỉ đủ cho một người đi vào bên trong.
Từng người một đốt đuốc đi vào hang. vừa bước chân
đến một khoảng trũng có nhiều cây cô dại mọc um
tùm, bọn người Trần thành đã phát hiện ra có rất
nhiều loài rắn đang bò khắp nơi. Có đủ loại rắn:
nào rắn hổ mang, rắn cạp nong, cạp nia, rắn ráo,
rắn chân đèn, rắn lục ... đủ màu sắc đủ kích cở
dài ngắn to nhỏ nhiều không tả xiết.
Một tên đàn em hỏi Trần Thành:
– Đây có phải cạm bẫy của Lê Kiệt gài hay rắn từ
trong hang động bò ra?
Trần Thành cũng ngạc nhiên trước hiện tượng lũ rắn
xuất hiện, còn lão pháp sư Mã Dần được thầy mo A B
lăng cho thuốc trừ rắn nên hắn ta không cảm thấy
hốt hoảng, mới nói trấn an mọi người:
– Lũ rắn thuộc cạm bẫy ma thuật của Lê Kiệt, lão
thầy mo A B lăng đã cho chúng ta thuốc bột trừ rắn
rồi. Mọi người hãy lấy thuốc chống rắn mà thoa vào
tay chân, nhanh lên.
Nghe theo lệnh, bọn người Trần Thành liền nhanh
tay lấy lọ thuốc trên tay lão Mã Dần rồi bôi khắp
tay chân. Lúc này rắn lớn rắn nhỏ đang kéo nhau từ
trong lùm cây khe đá ra cả đàn cả đống, tiến thẳng
về đám người đang định vào kho tàng hôi của, có
con đã phùng mang định phóng mình vào người ở gần
nó.
Dù sẵn sàng ứng phó với lũ rắn độc, nhưng không ai
không phải sợ hãi trước trận địa rắn như thế.
Trần Thành cũng vậy, nhưng là thủ lĩnh nên ông ta
phải bình tĩnh hơn mấy tên đàn em, mới nói cho mọi
người đủ nghe:
– Đừng la hét, đừng cử động đột ngột.
Lời cảnh báo của Trần Thành hình như không hiệu
quả, bọn rắn đã phóng nọc vào quần áo của đám
người đang đứng im lìm không dám cựa quậy đôi
chân. Có con treo mình từ trên đưa đầu xuống, lè
lưỡi ra phun phì phì đầy đe dọa.
Tuy chưa có con nào xông đến cắn ai, có lẽ vì mùi
thuốc chống rắn được bọn Trần Thành bôi vào người
có hiệu quả. Lũ rắn chỉ bò loạn xạ dưới chân hay
quấn mình qua đôi giày ống. Nếu đàn em Trần Thành
chịu nghe lời ông ta, bình tĩnh và đứng bất động
thì sẽ không có sự cố thảm thương xảy đến, nhưng
vì hốt hoảng chúng dùng dao kiếm chặt từng con
đang đeo bám rồi bỏ chạy, khiến những con rắn hổ
mang, rắn ráo, cạp nia phóng mình đến phun nọc độc
hoặc cắn vào bọn chúng.
Thông thường rắn hổ mang có thể phóng nọc độc xa
đến một hai thước. Rắn cắn rất đau, một tên la to
như sắp chết.
Trần Thành lại phải thét lên với đám đàn em:
– Hãy tụ vào nhau đừng tách rời, rồi nổi lửa lên
xung quanh!
Tức thì cả sáu người cùng quây quần đấu lưng vào
nhau tạo thành một vòng tròn, tay tìm cây khô đốt
thành từng đóng lửa cháy xung quanh không cho lũ
rắn tràn vào, con nào phóng tới đều bị chém không
thương tiếc.
Tên đàn em bị rắn cắn, dù hắn đã bôi thuốc phòng
chống, nhưng nhiều con rắn gan lì không sợ mùi
thuốc đã cắn làm tên này mặt mày đang tím lại, lã
người trên tay đồng bọn.
Lão pháp sư mã Dần kêu bọn thuộc hạ xé áo cột
trước chỗ rắn cắn để nọc không chạy về tim, đoạn
lão ta lấy ra một lọ thuốc, lấy một viên to tròn
màu đen như thuốc tể cho tên này nuốt chững rồi
nói:
– Đây là thuốc gia truyền trị nọc độc của rắn, ta
đem từ bản xứ qua đây. Hiệu nghiệm lắm!
Loại thuốc trị rắn cắn của lão pháp sư đẩy được
nọc rắn ra ngoài trong vòng năm mười phút. Nên chỉ
dăm phút sau tên bị rắn cắn đã nôn ra một đống đờm
có lẫn màu xanh nọc rắn.
Trận chiến với loài bò sát có nọc độc đã đến giai
đoạn hiểm nghèo. Bọn người Trần Thành không tìm
được thêm củi đốt nơi đang chôn chân, cho nên
nhưng đống lửa cứ tàn dần để cho lũ rắn bò trườn
lên nhau qua đám than còn hồng lao vào đám người
bên trong.
Một tên không thể chống lại từng đàn rắn bò đến
bên chân, hắn phải bỏ chạy nhưng bị ngay một con
rắn hổ mang bành phóng đến cắn độc ngay vào đùi.
Trần thành tiếp tục gào thét:
– Lấy lựu đạn ném chết hết rắn độc đi!
Tức thì từng quả lưu đạn thi nhau nổ dòn trong
hang đá sau khi ném vào lũ bò sát. Xác và máu rắn
bắn tung tóe tạo thành suối máu chảy trong hang
đá.
Cả bọn người Trần Thành muốn mở con đường máu trở
ra cửa hang, để lại tên đàn em ở lại với lũ rắn
độc khi lũ bò sát đang quấn lấy thân thể hắn không
rời. Nhưng đâu chỉ có lũ rắn trong hang đá ...
Mười xác chết lính biên phòng bị Lê Kiệt treo cổ
năm xưa, giờ đây chỉ còn là mười bộ xương trắng
hếu, đã buông sợi thòng lọng ra khỏi cổ mà nhảy
xuống vay quanh đám người Trần Thành hò hét:
– Ai đụng đến kho tàng sẽ phải chết, sẽ thành ma
giữ cửa như bọn ta!
Lão pháp sư Mã Dần nhìn thấy mười bộ xương ma cứ
lừng lững tiến sát vào đám người, lão ta lại nắm
hàng chục lá bùa ném vào đống lửa, miệng đọc chú
thét gọi:
– Hỡi các âm binh vùng Ngũ Nhạc Trung Sơn hãy mau
đến hóa kiếp bọn ma thần vòng này cho ta!
Gọi xong âm binh, tức thì có tiếng gió hú ào ào từ
ngoài cửa hang đá tràn vào, bọn âm binh của lão
pháp sư đã hiện hình thành những con ma quái dị
đến trợ giúp bọn người Trần Thành chiến đấu với
bọn ma thần vòng. Còn đàn em Trần Thành nhanh tay
dán từng lá bùa vào vùng tử khí nhằm hóa kiếp bọn
ma.
Mỗi bộ xương người bị dán trúng bùa vào nơi ấn
đường đều tan rã thành tro bụi, tuy nhiên hồn ma
bọn chúng đã biến thành làn khói bay mất hút vào
trong kho tàng.
Bọn người Trần Thành trị được ma nhưng không trị
được lũ rắn độc đang ào ào phóng đến, khiến chúng
phải chạy thoát thân ra ngoài hang đá. Khi mọi
người thoát khỏi vùng nguy hiểm, lão pháp sư Mã
Dần nhìn Trần Thành nói:
– Ta bó tay với lũ rắn độc này rồi! Bây giờ chỉ
còn đúng năm người sẽ rất khó khăn trở vào hang đá
lấy của cải mang đi. Ông Trần tính sao?
Trần Thành nhìn bọn đàn em, khi trước chúng thuộc
đám đầu gấu lì lợm nhưng bây giờ sắc mặt không còn
tí máu, như gà nuốt dây thun. Ông ta cũng phải thở
dài đáp:
– Chắc chúng ta phải trở lại bản Xẹt Thả cầu cứu
với già làng và thầy mo A B lăng mới xong ...
KHO TÀNG PHI NGHĨA Thầy Ba Non Nước dẫn nhóm người
của Mỹ Lệ đến trước hang cây sồi, mọi người không
ai nhìn thấy bọn Trần Thành. Lão Phan Minh nói:
– Hay bọn Trần Thành đã vào kho tàng đem hết của
cải đi rồi?
Thầy Ba lắc đầu:
– Ta nhìn thấy ma khí nơi hang đá còn nặng nề lắm!
Bọn nham vừa báo cho biết, mười con ma thần vòng
đã bị ma thuật của lão Mã Dần hóa kiếp hết rồi,
tuy vậy còn nhiều hồn ma đang lảng vảng. Như vậy
bọn chúng vẫn chưa mang được kho báu đi.
Sau khi thầy Ba Non Nước tiết lộ xong bỗng nhiên
bầu trời trở nên âm u, từng áng mây đen vần vũ kéo
đến và rồi từng bóng ma bạc đầu xuất hiện trước
mắt mọi người.
Những bóng ma đầu tiên là vợ chồng thái giám và
giám hậu Hoàng Bảo Trứ với mái tóc bạc trắng, theo
sau có những hồn ma bóng quế khác như quan Tổng
binh Lê Kiệt người có bộ râu quai nón rậm rạp, đến
bóng ma của tên Cao Lục Phát, A Lền, Hoài Tử ...
Riêng Mỹ Lệ, nàng không sao quên được hình bóng
của cha và em gái là ông Gia Viễn và Mỹ Tâm, cũng
đang hiện đến cùng đám hồn ma thợ săn.
Tất cả các bóng ma đều mặc áo xô tang trong làm rõ
lên những bộ mặt xanh xám của xác chết, đang bay
bổng nhẹ nhàng. Bấy giờ hồn ma viên thái giám họ
Hoàng lên tiếng:
– Ta biết thầy Ba đến đây hóa giải bọn ta thoát
khỏi kiếp làm ma giữ của kho tàng. Nhưng ...
Thầy Ba Non Nướe mới nhìn hồn ma viên thái giám
cất tiếng hỏi ngay:
– Ta chỉ làm việc cứu đời, nhưng nghe như bọn ma
các ông còn điều gì chưa thông nữa?
Hồn ma viên thái giảm liền đáp:
– Bọn Trần Thành chưa chịu từ bỏ ý định lấy kho
tàng trong hang đá. Bọn chúng đang đến bản Xẹt Thả
tìm thêm người trợ lực, vì vậy bọn ta phải làm nốt
phần việc giữ kho tàng và bắt những kẻ tham lam
phải đền tội, lúc đó mới siêu thoát được.
Hồn ma bà Thôi Oanh Oanh nói theo chồng:
– Chúng không mời được lão thầy mo A B lăng góp
sức, nhưng với những xấp tiền mới, tên trần Thành
đã dụ được mấy tên thanh niên Thượng cùng theo đến
đây. Chúng sẽ chết khi đến kho tàng, sẽ thành thứ
ma xó ma rừng thôi!
Quả nhiên khi trời đang âm u vần vũ bởi những đám
mây đen, nhóm Mỹ Lệ nghe có tiếng chân người đi
đến, lão Phan Minh từng làm bang chủ trong chốn
giang hồ xưa kia, nhạy bén hiểu ra:
– Bọn Trần Thành đã đến, có ít nhất mười tiếng
chân trong đó có cả một phụ nữ.
Thầy Ba bấm độn rồi nói:
– Đó là con ma nữ thuộc loài hồ ly tinh mượn xác
người, dữ dằn lắm. Nó đang dẫn đám âm binh đi đến.
Lúc này các bóng ma đều xanh mặt, hồn ma viên thái
giám nói:
– Âm hồn nơi núi Hằn Sơn đi theo tên pháp sư Mã
Dần, chúng hóa kiếp hết bọn ma thần vòng của Lê
Kiệt, bọn ta tự lượng sức đấu không lại chúng rồi!
Thầy Ba lên tiếng trấn an:
– Chánh phải thắng tà, những ai gieo gió phải gặp
bão. Hôm nay ta vì việc nghĩa sẽ ra tay trừ diệt
lũ âm binh, còn bọn người sống xin giao cho nhóm
“bà chúa mười tám cửa ngục” giải quyết.
Nói xong thầy Ba liền cho bày binh bố trận cho các
oan hồn đang canh giữ kho tàng lập thành trước
thiên la địa võng vòng ngoài, còn vòng trong là lũ
cô hồn được thầy Ba đưa từ Ngũ Hành Sơn đến, chúng
đang hiện nguyên hình thành những con ma đầu trọc
để sửa soạn nghinh chiến. Bóng ma nào cũng cầm
theo bình khí lợi hại, có bóng ma đứng trên cao
cầm cờ trận để hướng dẫn ma trận.
Sau tiếng chân, có tiếng Trần Thành nói to:
– Có người ở trước kho tàng, bọn bay cứ đến giết
hết cho ta!
Nhưng Trần Thành đâu ngờ nhóm người trước hang cây
sồi đều là cao thủ võ lâm, nên khi hai bên vừa
giáp mặt nhau đã phô diễn những đường quyền xảo
dịu, đẹp mắt. Lão Mã Dần cũng không ngờ nhóm người
lạ mặt còn có một pháp sư lợi hại, đang cho lũ ma
đầu trọc ra nghênh tiếp với đám âm binh lão ta.
Pháp sư Mã Dần nói với con hồ ly Ý Nhi:
– Con có thấy lũ ma đầu trọc kia không? Chúng lập
ma trận không cho bọn ta vào hang đá lấy đi kho
tàng đó!
Con ma nữ Ý Nhi còn đang mượn xác người, liền đáp
lại lời sư phụ :
– Bọn ma này sao đấu lại đám âm binh từ núi Hằng
Sơn, để con đến hóa kiếp hết bọn chúng cho sư phụ
yên tâm.
Vừa nói xong hồn ma con hồ ly tinh Ý Nhi liền
thoát khỏi xác cô gái, hiện hình thành con cáo già
với bộ lông đen mượt, cùng cái mỏm nhọn khoe đôi
hàm răng sắc bén, đoạn nó phóng nhanh vào ma trận.
Con hồ ly tinh Ý Nhi lên tiếng thách thức:
– Lu cô hồn đầu trọc, tên nào cản đường bọn ta vào
hang đá sẽ bị hóa kiếp hết. Hãy mau tránh ra!
Bóng ma cầm cờ trận như vị chỉ huy liền trả lời:
– Này con hồ ly tinh, mi có nghe câu rừng nào cọp
đó chưa? Bọn mi từ phương xa đến đâu hiểu ma pháp
của thầy Ba Non Nước đang chờ bọn âm binh chuyên
đi hại người đến để tiêu diệt.
Nói xong bóng ma liền phất cờ trận, tức thì các
con ma đầu trọc đã dàn trải bao lấy lũ âm binh núi
Hằng Sơn vào trong ma trận mang tên Thập Bát La
Hán rất thần bí ảo điệu, và cảnh bầu trời u ám
càng khiến bọn âm binh tỏ ra kinh sợ.
Thầy Ba Non Nước cho bọn ma đầu trọc ông ta - tên
cầm cờ, tên cầm bình nước thanh thủy - bao hết bốn
hướng như thiên la địa võng. Từ vòng ngoài các
bóng ma do vợ chồng viên thái giám Hoàng Bảo Trứ
chỉ huy với cung tên, lao nhọn nhận nhiệm vụ cuối
cùng là đâm bọn âm binh cho trúng tim nhằm hủy
diệt linh hồn chúng, không thể siêu thoát thành
người.
Lúc này bầu trời đã tối hẳn, thầy Ba Non Nước lại
kêu to:
– Hãy thắp lửa lên!
Tức thì từ bốn hướng có những đống lứa to được lão
Phan Minh và tên đệ tử thầy Ba đốt lên, cho thấy
một cảnh tượng hoành tráng của mười tám oan hồn
nơi Ngũ Hành Sơn cầm cờ, cầm bùa thành mười tám
hồn ma La Hán lực lưỡng, trần trụi bóng loáng như
thoa mỡ, chỉ có cái khố che phần kín đáo nhất.
Bấy giờ mười tám hồn ma đã dàn thành kim tháp tạo
thế “tam long chầu nguyệt” vây chặt lấy âm binh
vào vòng vây, mỗi tháp có ba bóng ma đứng tấn bên
dưới dùng cước để cản chân bọn ác ma, hai bóng ma
đứng trên nhìn theo tay chân bọn âm binh mà ra
đòn, còn bóng ma ở trên tầng cao tay cầm bình nước
thanh thủy, tay cầm bùa sẵn sàng hóa kiếp bọn
chúng.
Bọn âm binh của lão pháp sư Mã Dần đều trúng phải
những giọt nước thanh thủy từ trên cao rắt xuống
làm chúng thét la dữ dội:
– Bỏ chạy thôi! Bọn âm binh ta không làm gì được
thế trận Thập Bát La Hán này rồi.
Bọn âm binh làm sao chạy thoát khi thầy Ba Non
Nước đã quyết diệt trừ hậu họa. Vòng vây ba ngọn
kim tháp càng lục siết chặt chúng hơn. Ba hồn ma
đứng trên tháp cao, lấy nước thanh thủy mà tưới
như mưa sa vào hồn ma bọn chúng, mỗi giọt nước khi
trúng vào bọn âm binh đều thành thứ nước cường
toan làm cháy da cháy thịt, khiến bọn chúng rụng
rờí tay chân không cử động được nữa.
Những hồn ma từ vòng ngoài do viên thái giám Hoàng
Bảo Trứ chỉ huy, liền bay bổng vào trong ma trận
dán ngay một lá bùa nằm giữa trán mỗi tên âm binh,
tức thì chúng tan như làn sương nhẹ buổi sáng tinh
mơ, không còn tồn tại nữa.
Lão pháp sư Mã Dần đã phải thét to:
– Ý Nhi! Con coi chừng dính phải bu trừ tà là bị
hóa kiếp, suốt đời không trở về Hằng Sơn được nữa
đó.
Nhưng con hồ ly tinh Ý Nhi không sao tránh kịp, nó
cũng đã dính một lá bùa nằm ngay giữa ấn đình vùng
tử khí, và âm hồn nó bị hóa kiếp như lũ âm binh từ
núi Hằng Sơn.
Nhìn lũ âm binh từ từ bị hóa kiếp, riêng bọn người
Trần Thành chỉ có ba tên có võ nghệ còn xông xáo
đánh với nhóm “thiên tinh tứ trụ” nhưng có lẽ đã
muốn thua trận, còn bọn thanh niên Thượng đã bỏ
chạy về bản Xẹt Thả. Lão pháp sư Mã Dần thét:
– Chạy vào trong hang đá tử thủ thôi!
Trần Thành hãy còn sợ lũ rắn độc, ông ta đáp:
– Trong đó có rắn độc.
– Vào rồi sẽ tính, ở ngoài này bọn ta sẽ chết dưới
tay nhóm cao thủ kia.
Biết không còn con đường nào khác, cả bọn năm tên
chạy ngay vào trong hang đá nơi có kho tàng Lê
Kiệt. Bọn chúng càng chạy vào sâu càng thấy lũ rắn
kéo ra đông nghịt đường đi.
Trong nhóm chỉ Trần Thành có súng còn lại được
trang bị bằng mã tấu và vài quả lựu đạn. Ông ta
nhớ lại trận chiến đánh rắn trước đây mới thét kêu
bọn đàn em:
– Dùng lựu đạn giết rắn đi!
Với số lượng rắn khổng lồ, tiếng lựu đạn nổ liên
hồi trong hang đá, rồi mọi người từ bên trong lẫn
bên ngoài phải hốt hoảng kêu lớn:
– Hang đá sụp đổ!
Tiếp theo là những tiếng kêu thất thanh, từng tảng
đá từ trên cao đổ ào ào xuống nhanh chóng bít hết
đường đi ra ngoài hang, đã chôn sống bọn người
Trần Thành và cả kho tàng Lê Kiệt ... vĩnh viễn
không còn ai mơ ước đến kho tàng nữa.
Ở ngoài, các hồn ma giữ của tỏ ra hoan hỉ:
– Linh hồn bọn ta đã được siêu thoát, không còn
làm con ma giữ của nữa rồi!
Bóng ma vợ chồng viên thái giám Hoàng Bảo Trứ nhìn
về nhóm “thiên tinh tứ trụ” cùng thầy Ba mà nói:
– Ta biết các người đang tiếc nuối số của cải còn
nằm trong hang đá, nhưng đó là của phi nghĩa từ
tên Lê Kiệt cướp bóc mà có, nên ngài Phúc Đức
Chánh Thần không muốn lấy ra làm việc từ thiện
công đức như tâm nguyện của ta, ngài hứa sẽ trả
lại chúng cho những ai từng đau khổ mất nó.
Hồn ma viên thái giám lại tiếp:
– Ta đại diện các hồn ma giữ của ơn các vị, vì hôm
nay bọn ta đã được siêu thoát chờ ngày đầu thai
sang kiếp mới ...
Nói xong các hồn ma canh giữ kho tàng đã biến mất,
không còn ở chốn dương gian nữa.
Lão Phan Minh nhìn mọi người trong nhóm nói:
– Như lời âm hồn ông Hoàng Bảo Trứ vừa nói, kho
tàng này phi nghĩa chúng ta cũng không nên nhớ đến
nữa. Hãy để ngài Phúc Đức Chánh Thần trả lại cho
chủ của chúng, cũng là việc làm ông đức.
Thầy Ba không hề tỏ ra tiếc nuối:
– Ở phương Tây có câu “những gì của Cesar hãy trả
lại cho Cesar”, dù chúng ta chỉ mong đưa kho tàng
này về làm chuyện từ thiện nhưng thần linh đã thay
chúng ta, nên đừng ai tiếc nuối. Bởi đôi khi đồng
tiền sẽ làm mờ ám lương tâm, tâm tính trở nên thay
đổi đâm ra sát hại lẫn nhau, như bọn người Trần
Thành độc ác tham lam kia đã gặp quả báo phải chết
trong hang đá.
Mỹ Lệ cũng nói:
– Chúng ta đến đây là để các hồn ma canh giữ kho
tàng phi nghĩa này sớm được siêu thoát đầu thai.
Tâm nguyện đó nay đã hoàn thành, coi như chúng ta
đã lấy kho tàng làm xong việc công đức rồi.
Nói xong Mỹ Lệ nhìn về Ngọc Luân - vị hôn phu -
bằng ánh mắt triều mến dạt dào. Khi trở về trại
Quỳnh Hương, nàng và anh sẽ bắt đầu hưởng thụ tình
yêu bất diệt, thứ kho tàng vô giá của đời người.