Tôi bắt đầu viết tiểu thuyết "Hòn Đất" tại Hội Văn Nghệ Giải Phóng
miền Nam đóng giữa những cánh rừng già thuộc Đông Nam Bộ vào cuối
năm 1964. Sang đầu năm 1965 thì tôi viết xong. "Hòn Đất" gởi ra Hà
Nội và Nhà xuất bản Văn Học xuất bản đầu tiên năm 1966, đồng thời ở
miền Nam tác phẩm này cùng với tập truyện và bút ký "Bức thư Cà Mau"
của tôi được tặng giải chính thức giải thưởng Nguyễn Đình Chiểu.
Tính đến nay, "Hòn Đất" ra mắt bạn đọc đã trên ba mươi năm và được
tái bản tới lần thứ tám. Sách cũng đã được dịch và xuất bản nhiều
thứ tiếng: Anh, Pháp, Espéranto, Tây Ban Nha, Nga, Đức, Trung Quốc,
Nhật Bản... Ngày viết "Hòn Đất" tôi còn rất trẻ, mới hăm chín. Câu
chuyện Hòn Đất là một câu chuyện về một trận đánh trong hàng ngàn
trận đánh xảy ra trên chiến trường miền Nam trong giai đoạn sau đồng
khởi, Mỹ tiến hành chiến tranh đặc biệt. Cuộc chống cự diễn ra trong
hang Hòn Đất và ngoài xóm, trong thế chênh lệch: bên ta có mười mấy
người bị vây trong hang với vũ khí thô sơ, cũ kỹ, còn phía Mỹ - ngụy
gồm tới gần hai ngàn quân với vũ khí tối tân. Vì sao tôi đã chọn
trận đánh có thật xảy ra tại Hòn Đất - Kiên Giang vào cuối 1962 đó
để viết thành một tiểu thuyết có cùng tên với địa danh ấy?
Trước hết là do bản thân câu chuyện tựa như là cả miền Nam chiến đấu
được thu nhỏ, có tính tiêu biểu - có khả năng từ cái tiêu biểu mà
khái quát hóa, thể hiện ở các mặt: tinh thần quân dân đoàn kết chiến
đấu bất khuất dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng, vận dụng phối hợp
ba mũi giáp công, lực lượng đôi bên chênh lệch, và điều quan trọng
hơn cả là viết ra câu chuyện này như gióng lên tiếng chuông báo
trước: chiến tranh đặc biệt nói riêng và chiến tranh xâm lược nói
chung bất kể dưới hình thức nào do Mỹ tiến hành sẽ thất bại. Ngoài
ra, về mặt dựng truyện, một yếu tố khiến tôi tin tưởng là ngay từ
trong chuyện đã xuất hiện một người con gái, đã sống và đã chết như
một nữ anh hùng. Đó là chị Phan Thị Ràng, mà trong tiểu thuyết tôi
đặt tên là Sứ. Việc có được và hình thành vun đắp ra được một nhân
vật phụ nữ như thế, từ lâu trong đời viết của tôi luôn là niềm khao
khát muốn khắc họa, và đó là sự quen thuộc, gần gũi như trước kia
tôi đã từng khắc họa chị Tư Hậu trong "Một chuyện chép ở bệnh viện".
Bởi lẽ đó, "Hòn Đất" là một tiểu thuyết viết về một cuộc chiến đấu
mà cũng là một tiểu thuyết về một đời người con gái. Tôi đã rút ra
từ nhiều mẫu người con gái miền Nam anh hùng bất khuất trung hậu đảm
đang để đúc lại thành một người. Đó là chị Sứ. Trong hơn ba mươi
năm, tôi rất sung sướng về một chị Sứ trong Hòn Đất do tôi xây dựng
nên từ một nguyên mẫu, đã trở thành nhân vật văn học đến cùng bạn
đọc gần xa. Tôi hy vọng hình tượng chị Sứ sẽ sống lâu trong lòng bạn
đọc, qua các thế hệ, nhất là đối với các em gái nhỏ sắp lớn lên
thành những người con gái trên xứ sở xanh tươi yên bình của chúng ta
hôm nay - đất nước đã thấm biết bao máu của những người cô người dì
mình như Sứ. Giờ đây Hòn Đất vẫn còn đó. Trên đường đi từ Rạch Giá
lên Hà Tiên, các bạn sẽ nhìn thấy trái núi xanh rì ấy mé tay trái,
sát kề bên biển. Cách hang Hòn không xa là ngôi mộ chị Ràng, tức chị
Sứ. Câu chuyện chiến đấu ác liệt ngày nào ở Hòn Đất đã qua lâu,
nhưng chị Sứ vẫn còn. ở đó, bên vịnh biển Tây Tổ quốc ngày đêm sóng
vỗ.
Phần 1
Quyên nói:
- Chị Ba, bây giờ tin em chưa, em đã nói anh Ba ảnh có quên chị đâu.
Thơ ảnh viết đọc thiệt mới cảm động làm sao. Mà ảnh gởi về mười tám
cái thơ rồi chớ ít ỏi gì. Đó, vậy mà chị cứ ngỡ thế nầy thế nọ...
Thôi, vậy là thơ ảnh lạc hết rồi, còn thơ chị cũng chẳng tới tay ảnh
cái nào đâu! Em ức quá, ở ngoài Bắc thì cũng là ở trong nước mình,
vậy mà bảy năm trời bao nhiêu thơ gởi đều lạc mất. Thiệt là ức...
Nhưng, nhưng bữa nay chị hết thắc mắc rồi, phải không? Kẻo chị cứ
nói:
“E ra ngoài ổng sung sướng vui vẻ quá rồi không còn nhớ ai nữa! "
Đó, chị thấy oan cho anh Ba chưa? Quyên nói với chị ruột của mình
một cách vội vàng và mừng rỡ. Coi cô như bênh anh rể, nhưng chính là
cô mừng cho chị cô. Cô gái chia xẻ và vun vào cái niềm vui lớn mà
suốt bảy năm trời nay chị của cô mới có được. Lúc nói, đôi bàn tay
đầy đặn của cô lát lát lại hoa lên, mắt cô long lanh, và đôi khi môi
cô mím lại. Cầm cái thư đưa trả cho chị, Quyên giữ lại tấm ảnh. Cô
thoắt bước tới túm lấy con bé Thúy từ ngoài bậc thang nhà, kéo nó
lại với cô, chìa tấm ảnh ra:
- Nghe dì út hỏi nè, Thúy, ông này là ông nào đây?
- Ba của con! Con bé nói, rồi đưa đôi bàn tay nhỏ nhắn cầm tấm ảnh,
nhìn đau đáu. Nó thì thào nhắc lại:
- Ba của con mà!
- Sao con biết?
- Má nói... má nói đó là ba của con! Con bé ngước đôi mắt đen tròn
như hai hột nhãn lên:
- Có phải thiệt là ba của con không, hở dì út? Quyên không đáp. Cô
bế thốc cháu lên bộ ván, đặt nó ngồi yên trên đùi mình, rồi mới gật
nhẹ đầu:
- Phải rồi, ba của con đó. Từ giờ phải nhớ cho kỹ, nghe! Vậy là hai
cha con biết mặt nhau rồi. Quyên day sang chị:
- Chị Ba, theo như thơ anh Ba nói thì ảnh đã nhận được cái thơ sau
cùng của chị, cả tấm hình chị chụp với con Thúy... Trời ơi, bảy năm
nay ảnh mới biết mặt con Thúy đó nghe! Nghe em gái nói, chị Sứ liền
nhớ lại hết sức rõ rệt những ngày cuối cùng anh San, chồng chị trở
về nhà trước khi lên đường tập kết. Những hôm ấy, cũng tại cái nhà
sàn lát ván cũ kỹ này, anh San vẫn nói chuyện như thường, vẫn cười
cái cười cởi mở như ngày thường. Riêng Sứ, chị mới hiểu sự bình
thường ấy làm sao. Chồng chị cứ lặp đi lặp lại mấy lần:
- "Hai năm thì có lâu la gì! " Nhưng trong đêm chót, anh mới nói
thực điều anh đã nghĩ:
“ - Em à, nói vậy để má đừng lo, tội nghiệp má. Chớ với em thì anh
nói thiệt anh không tin ở hạn định hai năm đâu. Có khi chưa tới một
năm thì súng sẽ nổ lại, nhưng có khi không phải hai năm mà là ba bốn
hoặc năm năm. Nên tụi mình phải chuẩn bị tinh thần... " Anh ấy còn
bảo:
- "Hễ cái chuyện gì mà mình có tính trước thì chừng xảy ra mình vẫn
vững hơn". Sau đó, trong đêm khuya, anh co cánh tay kéo đầu chị ngả
sát vào. Lâu sau, chợt anh nói, như tự nhủ: - "Không biết ở ngoài
Bắc có cây trái như ở trong mình không? Có xoài, có măng cụt, có
bưởi không? Cái gì chớ bưởi thì chắc có rồi nghe. Mà không biết bưởi
ngoài đó tháng nào đâm bông, chưa chắc là gần giáp Tết như trong
mình đâu... "
Thoạt nghe, Sứ cho rằng anh cố nói lảng đi, nhưng liền đó chị biết.
Chị biết anh đã nghĩ gì trước khi anh nói ra cái câu tưởng như bâng
quơ ấy. Hai năm trước đó, trong bữa tiệc bà con Hòn Đất thết bộ đội
đánh thắng ở chiến dịch Long - Châu - Hà trở về, lúc Sứ bưng dọn
thức ăn ra cho bộ đội, chị có ngờ đâu anh San đã để ý tới chị. Theo
lời anh, thì lúc đó anh đã nghe thấy mùi hương bông bưởi thoang
thoảng mà Sứ đã cẩn thận gội lên mái tóc dày mượt lạ thường của
mình. Hai người quen biết nhau trong buổi liên hoan tối đó. Về sau
gặp lại Sứ, lựa lúc vắng người, anh San hỏi khẽ: - "Sao lóng rày cô
Ba Sứ không gội bông bưởi nữa? " Sứ mím môi cười, thẹn đỏ mặt.
Chuyện của hai người là thế. Mối tình đó bắt đầu chớm hé giữa các
chiến thắng ngày càng dồn dập trong cả nước, mối tình đó nảy nở giữa
tháng chạp các vườn bưởi Hòn Đất đang độ ra hoa. Hai năm sau họ làm
đám cưới. ấy là một đám cưới vui nhất ở vùng Hòn, đúng vào lúc ta
đại thắng giặc Pháp ở Điện - biên - phủ. Từ bấy đến nay đã hơn bảy
năm. Hai người gần gũi nhau nhiều lắm là một tháng. Mãi tới hôm nay
họ mới được tin nhau qua một bức thư mỏng và gặp lại nhau qua một
tấm ảnh nhỏ. Bảy năm trời! Nghe em gái mình nói, Sứ hầu như không
tin thời gian ấy là có thực. Chị thẫn thờ bảo:
- Mau quá! Mới đó mà đã bảy năm!
- Ờ... mà chị nè, chắc anh Ba ảnh đâu biết tụi mình ở trong này gian
nan ra sao đâu hả chị! Phải ảnh mà biết cái năm tụi nó bắt chị lên
quận ép làm tờ ly khai chồng, cái trận mà chị bị nhốt "chuồng cọp",
"chuồng sấu"... Cha cha, ảnh mà biết!... Sứ mỉm cười hiền hậu:
- Biết gì được... Thì chắc cũng có nghe nói, mà không rõ được đâu!
Giữa lúc hai chị em nói chuyện với nhau, con bé Thúy se sẽ tụt khỏi
lòng Quyên. Nó lồm cồm bò tới bên cái rổ may, mò mẫm tìm trong rổ
may lấy ra một chiếc gương tròn. Rồi nó men vào trong góc, chỗ bộ
ván áp sát vách. Nó ngồi một mình, lặng lẽ. Lát sau, nó mới từ từ
giơ tấm ảnh lên, còn tay kia nó cầm chiếc gương soi. Con bé coi mặt
nó trong gương và coi mặt ba nó trong ảnh. Nó coi đi coi lại, coi nó
với ba nó có giống nhau không, từ mắt đến mũi, từ miệng đến vành
tai. Nó thấy mắt và chân mày ba nó sao không giống nó lắm. Mắt nó
thì tròn, mắt ba nó hơi dài mà sắc. Còn chân mày của ba nó thì rậm
quá. Song nó mừng rơn lên thấy mũi và miệng ba nó giống nó ghê. Hớn
hở, con bé lại nhìn, lại tìm kiếm những nét giống khác. Nó hy vọng
rằng mọi nét giữa nó và ba nó đều giống. Vì nó yêu ba nó lắm. Tình
yêu ấy được gieo vào tâm khảm trẻ thơ của nó bắt đầu từ khi nó được
biết trên đời này nó còn có một người cha. Nó vẫn tin rằng cái gì ba
nó cũng tốt, cũng hay, và nhất định là ba nó yêu nó hơn cả. Hồi
sáng, khi mẹ nó đưa nó xem tấm ảnh, bảo người trong ảnh là ba nó thì
nó tin ngay. Cũng có phần là vì mẹ nó bao giờ cũng nói thật, nhưng
chính khi coi ảnh, nó cứ ngờ ngợ như đã có lần gặp ba nó rồi. Thực
ra thì nó chỉ gặp ba nó trong trí tưởng trẻ thơ của nó qua những lời
mẹ kể. Về việc nầy, phải nói là chị Sứ cứ ân hận mãi. Lúc chia tay,
chị có giữ một tấm ảnh anh San, chị vẫn cất kỹ tấm ảnh ấy trong bóp.
Năm năm mươi sáu, lúc bọn địch bắt chị giải lên quận, chúng xét gặp
và xé nát. Năm đó chị sinh con Thúy. Ngồi trò chuyện với em, Sứ đã
liếc thấy con mình làm gì hết cả. Nhưng chị giả vờ như không thấy.
Chị đưa mắt nháy Quyên. Quyên ngoảnh nhìn. Thấy con bé Thúy đang
lặng lẽ, chăm chú làm cái việc nhận dạng đến mức ấy, thì cô bụm
miệng cố nhịn cười. Nhưng lát sau, không nín được, cô cười phì ra.
Con bé Thúy đỏ mặt, lúng túng, ngượng nghịu úp tấm ảnh và chiếc
gương vào ngực. Sứ không cười. Chị hỏi:
- Sao, con? Con với ba có giống nhau không? Con bé ngó lơ chỗ khác,
không đáp. Loáng cái đã thấy đôi mắt to đen của nó rân rấn. Sứ biết
sớm muộn gì con mình cũng khóc. Tính nó hay hờn mát, từ bé đã vậy.
Mẹ chị vẫn nói: - "Con nhỏ nó giống y như mày hồi đó! " Chính chị
bây giờ, không hiểu sao, khi thốt hỏi con câu vừa rồi, mí mắt bỗng
cay cay, nóng nóng. Chị đứng dậy bước tới góc bộ ván ôm lấy con. Rồi
hầu như cùng một lúc, hai mẹ con đều nức nở. Quyên ngồi mỉm cười. Cô
biết giọt nước mắt của chị và cháu mình chảy ra cũng chẳng qua bởi
niềm vui đến hôm nay đã gợi dậy những nỗi tủi trong bao năm gian
khổ, hy sinh và mong đợi, nên cô không lấy thế làm lo. Lát sau,
không muốn để tiếng khóc ảnh hưởng đến tin vui cho chị em mình, cho
cả nhà, cô vụt đứng dậy, nói:
- Khổ ghê, hồi biệt tin biệt tức anh Ba thì chị với con Thúy cứ rủ
rỉ thở than với nhau, bây giờ có tin anh Ba thì khóc. Thiệt hết biết
hai mẹ con rồi.
- Đoạn Quyên quay lưng:
- Thôi, hai người ở đó khóc cho đã thèm đi. Tôi đi kiếm má cho má
hay coi!
- Má hay rồi!
- Chị Sứ nói giọng nghẹn ngào, và tiếp: Má đi ra bãi kiếm tôm cá gì
đó, nói chiều nay làm bữa cơm. Quyên đứng lại, mặt rạng lên:
- Cha!... Mới được một cái thơ của anh Ba mà bà già làm tiệc rồi.
Đây tới chừng thống nhất anh Ba về chắc má làm heo...
- Tiệc tùng gì, nghe anh Tám Chấn với chú Ngạn về, má mới...
- Ờ, ờ... Sáng nay cuộc hội nghị huyện ủy mở rộng đã bế mạc. Xế xế
chắc mấy anh về tới đây. Em có gặp mấy anh ở đội VT3 của anh Ngạn
đóng ở ấp hai, mấy ảnh nói anh Tám sẽ về công tác ở đây một thời
gian ngắn. Chị Sứ hỏi, giọng đã bình tĩnh trở lại:
- Nghe nói kỳ này anh Tám được bầu bí thơ huyện rồi phải không?
- Phải, ảnh đã được bầu bí thơ, phụ trách cả dân vận... Em nghĩ anh
Tám làm bí thơ là xứng đáng. Chị nhớ hồi đen tối không, chỗ nào cơ
sở bị đánh phá dữ thì ảnh tới, cực khổ nguy hiểm mấy ảnh cũng tỉnh
như thường.
- Thiệt, lúc đó lần nào gặp ảnh chị cũng thấy đỡ lo hơn. Nghĩ cũng
lạ, nông dân mình qua cách mạng nổi lên nhiều người giỏi dữ. Anh Tám
cũng là nông dân rặt đó chớ gì! Má nói hồi còn Tây nhà ảnh ở Vĩnh
Hanh mùa gặt nào cũng thấy ảnh quảy nóp xuống đây gặt mướn...
- Nghe đâu hồi đó ảnh đã hoạt động rồi.
- Ờ, ảnh hoạt động lâu rồi. Coi nông dân vậy chớ hoạt động cách mạng
lâu thì hiểu nhiều, biết nhiều, lại được cái chắc chắn. Mà ảnh tình
cảm ghê lắm. Nhớ hồi tao bị tụi nó bắt, lúc được thả về, ảnh viết
thơ nhắc nhở an ủi hoài. Mấy cái thơ đó tao nhớ có đưa cho mày coi
mà, Quyên?
- Có, em có coi! Sứ liếc em gái, cười nói tiếp:
- Thì chuyện mày với thằng Ngạn không khéo chút nữa là tan rồi. Anh
Tám mà không cho hay thì mày còn khóc lâu!
Quyên cười chúm chím, có vẻ đắc ý lắm. Nụ cười của cô hoàn toàn vui
vẻ và biểu hiện đầy đủ rằng giá mà đời cô gặp sự rủi chăng nữa thì
sự rủi đó đâu cũng chỉ là tạm đấy thôi. Bao giờ cũng vậy, ngay trong
lúc khổ cực khó khăn cô cũng cứ tươi luôn, tưởng chừng suốt đời cô
sẽ tươi mãi như thế. Ngoại trừ cái dạo năm năm mươi tám thì cô đã
khóc lóc vật vã trọn một tháng. Nhưng rồi sau cái tháng đó, mọi nỗi
đau buồn của cô bỗng dưng lại giũ sạch. Chuyện này có dính dáng tới
người thanh niên tên Ngạn mà chị Sứ vừa nhắc tới. Ngạn là anh thợ
nhà in, làm liên lạc viên ở nội thành Rạch Giá. Anh bị giặc bắt năm
năm mươi lăm rồi bị đưa lên Phú Lợi. Tại Phú Lợi, Ngạn đã tham gia
cuộc đấu tranh chống vụ đầu độc tù nhân lớn nhất từ trước tới nay
của Mỹ - Diệm. Sau đó, anh là một trong số người sống sót bị giặc
bắt chở ra liệng biển. Dọc đường đến bến tàu, anh từ trên xe cam -
nhông nhảy đại xuống, lẩn vào phố. Đồng bào ở đó chặt cái còng trên
tay anh, giấu kín anh, rồi đưa anh đi. Lúc về Hòn Đất, Ngạn mới có
hăm hai tuổi đời, nhưng anh có được tới ba tuổi Đảng. Anh vào Đảng
trong tù. Kể chuyện cho Quyên nghe, anh nói rằng trong buổi kết nạp,
anh giơ nắm tay chào cờ Đảng tưởng tượng trong lòng chứ không có cờ
Đảng treo trước mắt. Về đây cuối năm năm mươi chín, anh phụ trách
thanh niên. Và anh đã gặp Quyên trong thời gian ấy. Hồi đó, Quyên
mới mười bảy tuổi, hồi Hòn Đất cùng bao xóm xã khác bị bọn Diệm đánh
phá khốc liệt. Có lần Ngạn nằm trong cái hầm bí mật dưới sân nhà
Quyên gần hai tháng, sắp đặt chỉ vẽ cho Quyên đi công tác. Đến khi
Quyên tự động công tác được rồi thì anh lại phải chuyển đi chỗ khác,
vì giặc đã đánh hơi được anh. Cái hầm thứ hai của anh ở dưới một nấm
mả giả nằm giữa một đám mả thật. Đêm đêm, có một cô gái nhỏ đi ra và
chui xuống dưới mả. Cô gái nhỏ ấy là Quyên. Hầu như đêm nào Quyên
cũng lẻn ra đó, đem cơm cho anh, bàn bạc công việc. Nhiều khi cô đem
cho anh cả chuối và xoài nữa. Cô bắt anh phải thay quần áo, rồi
thường vo bộ quần áo đã bẩn của anh đem về giặt. Có những lúc kẹt cô
không ra được, thì mẹ Sáu ra. Lần nào xuống hầm, mẹ cũng khóc. Một
hôm, mẹ nói với anh:
- Tao nghĩ không lẽ mình cứ nhịn nhục như vầy hoài sao Ngạn? Nó mổ
bụng mình, nó đập đầu mình, anh em chết không biết bao nhiêu rồi.
Hôm qua, con Quyên với con Sứ vô rừng mò kiếm được xương thịt của
bảy anh em mình bị nó đập bữa trước, kiếm gặp ở trong bàu... Nói rồi
mẹ bưng mặt khóc. Ngạn hỏi:
- Vậy chị Ba với em út đem những xương đó về để ở đâu?
- Hai đứa nó bọc trong ni - lông đem giấu trong hang Hòn rồi! Có một
hôm, bà mẹ nắm tay anh do dự mãi, lúc sau mới chậm rãi nói:
- Ngạn à, tao coi mày như con của tao. Tao hỏi thiệt, mày có thương
con Quyên không? Nếu như có thương thì nói tao biết, tao gả cho!
Ngạn cảm động ôm chầm lấy mẹ.
Dĩ nhiên là trước khi mẹ Sáu nói thế, anh với Quyên đã thương nhau
nhiều. Nhưng anh cảm động sung sướng hơn vì thấy mẹ Sáu nói ra điều
ấy giữa lúc cơ sở bị đánh phá dữ dội nhất, giữa lúc anh phải náu
mình dưới cái hầm tăm tối và kỳ lạ nhất. Anh nghĩ mẹ Sáu muốn giao
đời cô con gái út cho anh, ngoài sự thương yêu riêng anh, ắt còn vì
mẹ tin và yêu thương cách mạng. Nằm trong hầm tối, anh cứ nghĩ sao
mẹ không tính đến việc anh có thể hy sinh nay mai? Sao mẹ không sợ
con gái mình cơ cực, bởi vì chính anh hiện đang hết sức cơ cực. Ngày
ấy, Quyên mới lớn, trông đã xinh, khắp vùng có nhiều người gấm ghé,
mai mối, trong đó có cả những tên sĩ quan làm ra vẻ đứng đắn và
những gã con trai bảnh bao thường về bãi Tre tắm biển. Bà mẹ đã
nhiều lần nói với lối xóm:
- Con tôi sanh ra không phải để gả cho hạng đó đâu!
Còn Quyên thì trước những lời tán tỉnh của bọn ấy, cô bực bội lắm.
Đêm đêm, khi cô sắp đặt chân tới đám mả hoang vắng, thì nỗi bực bội
phiền toái của cô về chuyện đó không còn nữa, và lòng cô tràn ngập
bao nỗi yêu thương cùng hy vọng. Hồi nhỏ, không bao giờ cô dám đi
qua đám mả ấy, kể cả ban ngày, thế mà nay cô đi tới đó chẳng chút sợ
sệt. Không, ở đó không có con ma nào cả. Có phải đề phòng là đề
phòng bọn công an. Nhưng chỗ này bọn chúng lại không ngờ tới. Ngạn
yên ổn sống ở dưới đó ngót hai tháng rồi mới chuyển vào ở cứ rừng.
Tai họa xảy đến với anh vào buổi trưa, lúc anh đang trên đường từ cứ
ra rìa xóm. Bọn giặc phục kích bắt được anh. Ngay chiều hôm đó, căn
cứ trong rừng bị địch bao. May mắn, là anh em đi bắt vọp cả, chỉ có
cái chòi trống không. Anh em bắt vọp gần đấy nghe bọn lính biệt kích
láo nháo:
- Đ. mẹ, sao nó chỉ ở đây? Có thằng bảo:
- Nó chỉ ở đây trúng rồi. Chắc tụi nó biết động nên đã dời. Bọn lính
nằm rình gần nửa tiếng đồng hồ mới kéo đi. Anh em thoát được về nói:
- Thôi, thằng Ngạn khai ra hết rồi!
- Thì còn gì nữa, ngoài nó thì ai vô đây!
- Thiệt là không hiểu nổi... Anh em mình cứ tin tưởng nó, nghe nó bị
bắt mình cũng không dời cứ, vậy mà nó trở mặt như vậy à?
Cái tin nói Ngạn bị bắt vừa mới đến với Quyên thì kế đó lại có tin
còn ghê gớm hơn nói Ngạn đã khai báo. Trong một ngày, Quyên nhận
được hai tin dữ. Ban đầu cô không tin, không bao giờ cô tin Ngạn lại
phản bội. Cả nhà, từ mẹ cô đến chị Sứ, cũng đều không tin sự thật là
thế. Nhưng không lâu sau, khắp Hòn Đất đều đồn Ngạn là người đã chỉ
căn cứ cho địch đánh. Tất cả mọi người tốt đều nhìn Quyên với cặp
mắt thương hại. Quyên tối tăm cả mặt mày. Cô có cảm tưởng như bị một
cây gậy của ai bất thình lình phang trúng ngang lưng. Cô khóc suốt
đêm và nghĩ rằng nếu Ngạn đã vậy thì giữa cô với Ngạn đâu còn có gì
nữa, và tình yêu thế là tan nát rồi sao? Đôi lúc nghĩ lại về con
người Ngạn, cô bỗng muốn kêu lên: - "Không, không phải vậy đâu! " Có
cái gì khiến cô hoảng sợ trước những lời đồn đãi, nhưng lại không
muốn tin lời đồn đãi với sự suy xét và lòng tin của cô đối với Ngạn.
Cô tìm gặp anh Hai Thép bây giờ đã là bí thơ chi bộ để hỏi. Anh Hai
Thép nói:
- "Út Quyên à, bây cứ bình tĩnh. Chuyện này trong chi ủy vừa rồi có
bàn, nhưng thấy chưa có bằng cớ gì đích xác là do Ngạn khai ra, cho
nên chi uỷ vẫn chưa kết luận. Anh Tám Chấn viết thơ về nói:
“Chuyện đó khoan đã, với bấy nhiêu sự việc mà đã vội cho đồng chí ta
là phản bội thì không được. Đành rằng phải cảnh giác. Nhưng thằng
địch bây giờ có nhiều mưu hiểm lắm. Việc này tôi đang cho điều tra,
hư thực ra sao tôi sẽ báo cáo cho các đồng chí hay. " Quyên nghe anh
Hai Thép nói thì hơi mừng. Cô trở về nhà với niềm hy vọng le lói trở
lại. Cô nói với chị Sứ:
- Chưa chắc đâu, trong Đảng cũng chưa kết luận kia mà!
- Thì tao đã nói, các đảng viên chỉ có được thông báo sự việc như
vậy và bảo phải cảnh giác đề phòng thôi. Mày cứ khóc hoài, phải để
coi sao đã chớ, lớn rồi chớ bộ còn con nít sao! Quyên nói:
- Thôi thì em nghe lời Đảng, nghe lời chị. Em không nghĩ gì nữa.
- Ờ, cứ vậy đi!... Nhưng tao hỏi...
- Nói đến đây, chị Sứ do dự một lúc rồi nhìn thẳng vào mắt Quyên,
nói tiếp
- Nhưng... nếu Đảng cho biết Ngạn vẫn tốt thì không nói chi, còn giá
như Ngạn hư thiệt rồi thì mày tính sao? Quyên ngồi lặng đi rất lâu
mới đáp, giọng uất nghẹn:
- Tính sao nữa: coi như không có ảnh, coi ảnh chết rồi chớ sao! Gặp
ảnh, em sẽ...
- Sẽ sao? Quyên biết chị đã có ý trêu mình, cô vùng vằng:
- Tới chừng đó hẵng hay, bây giờ em không nói trước làm chi? May
thay, sự việc không phải dẫn đến chỗ như hai chị em giả dụ. Mươi bữa
sau, anh Tám Chấn từ trên huyện về, cho gọi Quyên vô cứ. Câu đầu
tiên của anh Tám là:
- Nè, út Quyên kiếm gà cho tôi ăn đi, rồi tôi nói cho nghe! Trời ơi,
mới nghe nói thế Quyên đã hiểu ngay. Tim cô đập thình thịch, cô nhào
tới nắm chặt tay anh Tám. Anh Tám mỉm cười nhìn cô với ánh mắt vui
vẻ và thông cảm. Anh lặp lại:
- Nhưng có đồng ý làm gà cho tôi ăn không chớ?
- Có, có... Quyên nói vội, mặt đỏ lên. Anh Tám bấy giờ mới đứng dậy
kéo tay cô ra góc chòi. Anh khẽ nói:
- Mấy hôm nay nghe út Quyên buồn lắm hả? Thôi, đừng buồn nữa, Ngạn
vẫn tốt, rất tốt. Anh dừng lại, giúi tàn thuốc xuống đất, rồi tiếp:
- Mới đây, ta vừa bắt được một ổ điệp. Điều tra, chúng có khai ra
một số chuyện, trong đó có chuyện giặc bao cứ tháng trước. Nguyên do
là bọn điệp ở xóm Chùa ngày nào cũng leo lên cây sao hai ngọn để
theo dõi trong rừng tràm. Chúng nói một buổi chiều chúng thấy ở giữa
rừng có khói bay lên. Chúng liền báo cho tụi thằng Xăm vô đánh. Đấy,
chỉ có vậy, chỉ có một ngọn khói nhỏ vậy thôi... Quyên thở phào, nhẹ
cả người. Anh Tám nói tiếp:
- Mặt khác, anh em nội tuyến cho biết là từ ngày bị bắt tới nay Ngạn
rất vững, rất gan. Mãi tới nay địch cũng không moi được chút gì ở
Ngạn, mặc dù Ngạn bị đánh bộn. Còn cái tin nói Ngạn khai báo thì ban
đầu không phải do địch phao ra, nhưng về sau dựa theo lời đồn đãi,
nó mới phao luôn! Quyên đứng dậy, mặt cứ thẫn ra, vì hối hận và vì
vui sướng.
Thế là cô quýnh lên như người mất của quý nay tìm lại được hơn số
của ấy. Vừa qua, cô căm tức và khinh tệ Ngạn bao nhiêu thì bây giờ
cô càng thương yêu khâm phục bấy nhiêu. Chẳng những Ngạn không phải
là người tệ như có lúc cô tưởng, mà Ngạn còn tốt hơn cô đã tưởng. Cô
không mất Ngạn mà nay cô còn được một Ngạn hơn Ngạn trước. Trong
phút giây mừng rỡ, Quyên cứ bíu chặt lấy tay anh Tám Chấn, lòng đầy
vui sướng, vì cái tưởng mất nay lại được trả cho hơn, cái tưởng là
nỗi nhục giờ lại là điều vinh dự. Lạ lùng hơn, là năm hôm sau khi
được anh Tám cho biết việc ấy, Ngạn trở về rất đột ngột. Giữa đêm
mưa tầm tã, Quyên nghe có tiếng gõ cửa nhà và tiếng gọi. Đang ngủ
với mẹ, Quyên choàng dậy. Cô nghe tiếng Ngạn gọi mà cứ ngỡ mình
chiêm bao. Nhưng không, đó là tiếng Ngạn thật sự, thúc bách:
- Má, má!... Quyên, Quyên ơi! Mẹ Sáu nhổm dậy. Nhưng Quyên giơ tay
ngăn mẹ lại. Tim cô đập thình thịch. Cô lần đi trong bóng tối, ra mở
cửa. Cánh cửa mới hé thì cô đụng nhằm Ngạn mình mẩy ướt mem. Anh thì
thào:
- Quyên hả!
- Ối!... Anh Ngạn!
- Anh mới trốn... Tụi nó dắt anh ra sông định đâm anh, anh đạp tụi
nó, nhảy xuống sông lội về đây...
- Trời ơi!... Quyên lại kêu và ôm chầm lấy anh. Ngạn khẽ gỡ tay
Quyên ra:
- Phải đưa anh về cứ liền. Tụi nó chắc đang quần kiếm bắt anh. Sợ nó
tới đây... Quyên suy nghĩ một loáng rồi nói như ra lệnh:
- Anh cứ ở đây đi! Ngạn ngạc nhiên:
- Ở đây?
- Phải, ở dưới sàn nhà, cái hầm cũ vẫn còn, anh xuống đó không sao
đâu. Chớ cứ mới, dời rồi. - Quyên lôi tay Ngạn:
- Thôi, vô nhà đi, mau đi! Ngạn nghe lời Quyên. Không hiểu tại sao
trong lúc đó anh cứ cảm thấy đã có Quyên thì anh sẽ bình yên. Suốt
đêm ấy, không có lính nào tới vây nhà cả. Gần trọn ngày hôm sau,
Quyên xuống hầm với Ngạn. Cô hỏi tỉ mỉ anh bị bắt bị đánh ra sao. Cô
còn bắt anh cởi áo ra để cô xoa thứ thuốc rượu gì đó mà mẹ cô đưa
cho. Vừa xoa cô vừa khóc. Trong lúc ở trên nhà mẹ Sáu ngồi canh
chừng và chị Sứ làm gà nấu cháo để đưa xuống cho Ngạn ăn. Dưới hầm,
Ngạn mệt quá ngủ thiếp. Lúc tỉnh dậy, anh hỏi thăm từ khi anh bị
bắt, ở nhà ra sao, công việc thế nào. Quyên kể lại cho anh nghe. Cô
do dự chưa biết có nên nói tin đồn về Ngạn dạo nọ không. Sau cùng cô
thấy phải nói. Cô thành thật kể cho Ngạn nghe, cả tâm trạng của cô
khi đó ra sao. Ngạn chưng hửng, ngồi nhổm dậy:
- Ủa, còn có chuyện đó nữa sao? Quyên lo quá. Cô mới bầy tỏ cặn kẽ
hơn cho Ngạn rõ. Chừng ấy Ngạn mới ngả lưng nằm xuống. Nhưng anh khẽ
ẩy tay Quyên ra, gật gù, lẩm bẩm:
- Ra vậy... giờ tôi mới biết. Trên một tháng nay, tôi có biết gì
đâu! Bỗng anh lại nhổm lên, đăm đăm nhìn suốt vào mắt Quyên:
- Quyên cũng căm thù tôi lắm chớ gì? Hỏi thế rồi Ngạn lại nằm xuống.
Anh ngước mắt nhìn lên miệng hầm, cái miệng hầm có những cây bợ bằng
tràm lục mà anh rất quen thuộc. Và anh nói như là nói với ai chớ
không phải nói với Quyên:
- Nếu quả anh Ngạn có như vậy thiệt thì ảnh đáng để cho em băm vằm
ra. Nhưng không, ảnh không hề nghĩ tới chuyện đó, ảnh chỉ biết có
roi gậy đập vô mình, ảnh chỉ biết cắn răng chịu đựng như lần trước
ảnh chịu đựng, hoặc ảnh nói:
- "Tao không biết, mà có biết tao cũng không khai! " Anh Ngạn chỉ có
nói vậy thôi, em Quyên à! Ngạn nói với giọng ngọt ngào trách móc. ý
anh như bảo:
“Ai người ta ngờ anh, chớ Quyên mà cũng ngờ anh à? " Quyên hiểu thế,
cô ngồi thừ ra coi thật tội nghiệp. Gẫm lại trước nay chưa bao giờ
cô bị Ngạn nghiến ngấm như thế. Mãi sau cô mới nói:
- Mà... mà Quyên thì có tin hẳn như vậy đâu! Ngạn ngắt ngang:
- Không tin hẳn, nhưng cũng là có tin chớ gì! Vừa lúc trên hầm có
tiếng gõ cồm cộp. Quyên chỏi miệng hầm lên. Chị Sứ đưa cháo xuống.
Bấy giờ chị Sứ ngó thấy nước mắt chảy ướt cả hai má em gái mình.
2
Đang đi, anh Tám Chấn chợt đứng hẳn lại nhìn tới trước, trầm trồ bảo
Ngạn:
- Cứ mỗi lần về Hòn là tôi thấy cảnh Hòn khác đi. Tháng này Hòn coi
xanh tốt quá. Chú ngó kia, mãng cầu ta lên lá non coi mướt chưa?
Ngạn và chú bảo vệ anh Tám là Đạt cũng dừng lại.
Đứng bên anh Tám, Ngạn đưa mắt nhìn về phía Hòn Đất. Anh cũng đã có
cảm giác rất dễ chịu, ngay từ đầu đường rẽ về Hòn. Hòn Đất nổi lên
trên Hòn Me và Hòn Sóc, gối đầu lên xóm, về tháng này trông xanh tốt
quá. Bấy giờ vừa sang tháng chạp ta, đã nghe gió Tết hây hẩy lùa
trong nắng. Cây cối trên Hòn và các xóm nằm liền Hòn vụt rạo rực,
tràn trề nhựa sống. Vùng Hòn với những vòm lá của đủ các loại cây ăn
quả đều sum sê, nhẫy nhượt. Những ngôi nhà trong xóm, mái lá và ngói
đỏ chen nhau coi đông đúc như một thị trấn. Nhà còn cất leo lên trên
triền Hòn thoai thoải, ở xa ngó cứ như những chuồng chim câu, có cái
vách ván đã bạc thếch vì mưa nắng, có cái còn mới nguyên, vách lát
bằng ván sao nổi lên đỏ sẫm. Xa quá khỏi Hòn một đỗi, là bãi Tre.
Thấp thoáng những cây tre đằng ngà cao vút, vàng óng, những cây tre
lâu nay vẫn đứng đấy, bình yên và thanh thản, mặc cho bao nhiêu năm
tháng đã đi qua, mặc cho bao nhiêu gió mưa đã thổi qua. Sau rặng tre
ấy, biển cả còn lâu đời hơn, vẫn đang rỡn sóng, mang mang một màu
xanh lục. Đứng ở đây, khi sóng sủi bọt âu yếm vỗ bờ, Ngạn thấy dưới
chân bãi Tre như có một đường viền bằng ren, thỉnh thoảng lại dợn
lên. Anh Tám vịn vai Ngạn, cất bước chầm chậm đi tới và nói:
- Cảnh Hòn đẹp thiệt... Từ ngày đồng khởi tới nay chưa đầy một năm
mà cảnh đã thay đổi hẳn. Trận càn giữa năm, nhờ quần chúng đấu tranh
gắt nên nó cũng không phá được gì.
- Nghe đâu nó đã có rải thuốc hóa học ở một số nơi trong tỉnh mình
hả anh?
- Có, nhưng càng rải nó càng chết. Có điều là sau ngày mình quật nó,
nó hoảng một lúc, nay đã tỉnh tỉnh lại. Chúng đã bắt đầu chà xát
mạnh ở một số nơi.
- Ở đây thì kể như đã bị một trận rồi...
- Nó sẽ còn chà nhiều trận nữa chớ. Tụi nó dư biết đây là căn cứ của
mình. Nó biết mọi cuộc đấu tranh tràn vô thị xã đều xuất phát từ
đây. Vả lại, Hòn Đất là một điểm nằm trong khu vực tập trận của khối
xâm lược Đông Nam á. Về phía ta, ta cũng không muốn chúng nó tới chỗ
này. Nếu chúng có đóng bót, ta cũng phải nhổ đi... Anh Tám Chấn dừng
lại. Lát sau, anh cười rất hóm rồi nói:
- Riêng chú thì Hòn Đất còn đặc biệt quan trọng hơn. Mặc tình chú đi
đông đi tây gì đi nữa, nhưng chân chú đã bén rễ đất Hòn rồi... Ngạn
nhoẻn miệng cười. Anh Tám hỏi:
- Sao, tính ngoài ngày làm đám cưới à? Thôi, Tết này làm luôn đi.
Tôi ráng "cương" lên làm chủ hôn một trận coi. Sau Tết tôi đi học
rồi. ạng bà mình có nói:
“Cưới vợ thì cưới liền tay... " gẫm ra rất là biện chứng nghe. Nên
nhớ làm cách mạng và cưới vợ, hai chuyện mới coi qua thấy như có mâu
thuẫn, nhưng trong điều kiện nào đó lại thống nhứt với nhau. Tất
nhiên chuyện đời cũng có anh cưới vợ rồi thì sanh ra bê bết, nhưng
có nhiều anh lại yên tâm hăng hái hơn. Cũng tùy, tùy "anh" tùy
"em"... Phần chú thì tôi xin miễn nói, còn út Quyên thì tôi có thể
nói: đó là một cô gái rất tốt. Công việc Đoàn nó hăng hái tháo vát,
công việc vườn tược, nấu nướng may vá nó làm cứ gọn hơ. Về sắc thì
khá quá đi chớ. Đành rằng cái chuyện hiểu lầm hồi nẳm có làm chú
bực, nhưng chú cũng phải thấy qua chuyện đó út Quyên nói như thế
nào. Tôi thấy chú phải mừng, vì nếu cô ta nghe tin chú như vậy mà
không vật vã đau đớn chi hết thì mới nguy. Đằng này nó như muốn điên
lên được mà... Nghe anh Tám nói, Ngạn cười tủm tỉm. Anh cố giấu nỗi
đắc ý của anh. Thực ra, đầu tiên nghe chuyện đó thì anh đóa lắm,
nhưng về sau càng nghĩ anh lại càng thấy thương Quyên, tin Quyên
hơn. Chính anh cũng tự dặn lòng:
“Mình đã hai lần bị bắt, hai lần trốn thoát. Nếu có một lần thứ ba
nữa thì cũng phải vững như vậy! " Bởi vì anh biết rõ Quyên đã khổ sở
ghê gớm đến như thế nào rồi, khi cô hay một cái tin như thế. Vào tới
đầu xóm, anh Tám Chấn hỏi Ngạn:
- Anh em trong đội chú đóng đâu?
- Ở giữa xóm. Anh ghé đó chớ?
- Được, ghé coi có Hai Thép ở đó không? Anh Tám quay lại vỗ vai chú
bảo vệ của anh hỏi:
- Có muốn về nhà chơi không, Đạt? Đạt nhoẻn cười, gật đầu. Anh Tám
nói:
- Thôi, cho chú về Lình Quỳnh thăm nhà, mai qua, nghe! Chú Đạt bảo
vệ hớn hở xốc lại dây đai khẩu cạc - bin, nói:
- Cháu đi! Nói xong, chú rảo bước như chạy. Từ xóm Hòn Đất qua Lình
Quỳnh chỉ có bốn cây số. Xóm Hòn Đất ở liền ngay chân Hòn. Cuối xóm
là bãi Tre, cách biển vài trăm thước. Sau lưng xóm, còn một quãng
vườn cây sum sê, rồi tới sông Vàm Răng. Sông không rộng cho lắm,
ngày hai lần, nước sông lớn và ròng theo triều biển, theo tiếng bìm
bịp kêu nghe tợ tiếng tù và thổi giục. Nhà cửa ở Hòn Đất san sát bên
đường, xen vào giữa những vườn mít trái treo vàng rám, giữa những
vườn dừa, vườn cau, và những cây ăn trái khác như mãng cầu, lê - ki
- ma, măng cụt. ở đây có nhà cất trệt, nhưng cũng có nhà sàn phải đi
lên bậc thang. Tùy theo lối vào nhà mà bậc thang đó bắc bên trái
hoặc bên phải. Những nhà lớn lợp ngói thường có bậc thang ở hai bên,
lên xuống bên nào cũng tiện. Người ta bảo ngày mùa đứng ngoài Tri -
Tôn trông về Ba Hòn thấy giống như hình một cô gái vừa tỉnh giấc
nồng nằm trên chiếc chiếu vàng, chân cô gái duỗi ra và đầu nhổm tới
phía một dải lụa xanh phơ phớt. Chiếc chiếu vàng là đồng lúa chín
tới. Và tấm lụa xanh ấy là dòng sông đó chăng? Anh Tám và Ngạn đi
vào gần tới giữa xóm thì nghe trước mặt vẳng tới tiếng đờn ca. Chốc
sau, có một giọng nữ cất lên. Ngạn kêu:
- Ca sĩ Năm Nhớ tụi tôi bắt đầu trổi giọng rồi! Anh Tám Chấn bảo:
- Mấy chú về đóng ở đây coi bộ đời lên hương dữ ha! Năm Nhớ ca đó
hả?... Ca khá lắm, giọng đã tốt lại biết điều khiển tiếng ca. Hèn
chi tụi lính bót nó mê cũng phải... à, nghe đâu hôm mấy chú làm ăn ở
bót Cà - Tưng, tụi lính tuyên bố không bắn để nghe ca hả? Ngạn gật
đầu:
- Ờ, tức cười lắm. Có thằng kêu:
- Cô Năm thương nhớ ơi, làm sáu câu nữa đi, anh em tụi tôi là dân mộ
điệu mà, không bắn bậy đâu!
- Cũng hay. Tụi nó không bắn bậy là hay rồi. Nhưng nội dung bài ca
ra sao? Chuyện này hơi tinh tế đây, tôi cũng dốt lắm, nhưng tôi nghĩ
là lời lẽ bài ca của mình có tình có lý, sao cho nó nhớ vợ, nhớ con
muốn bỏ trốn ráo. Không nên dùng lời lẽ cứng nhắc, cũng không nên
mùi quá... Chà, chắc Năm Nhớ ca nhiều bản mùi dữ hả? Nên chi tụi nó
mới kêu là "Cô Năm thương nhớ" đó chớ gì?
- Không đến nỗi đâu anh... Lính thì thằng nào cũng ham gái. Mười
thằng dê hết chín, Năm Nhớ nhiều phen cũng tức mình lắm. Cô ta nói:
- "Tụi lính mắc dịch đó, tôi mà không vì cách mạng, còn lâu tôi mới
ca cho tụi nó nghe? "
- À, còn chú Diệp học sinh ở Rạch Giá mới vô đó thì sao?
- Chú ta cũng tốt thôi. Anh em cũng thương. Nhưng tất nhiên đối với
cuộc sống này chú ta còn nhiều bỡ ngỡ.
- Ở ngoài thành mới vô thì đứa nào cũng vậy. Cố giúp đỡ nó. Con em
của đồng chí mình đã hy sinh, mình phải có trách nhiệm. Tiếng đờn ca
vọng lại mỗi lúc một rõ hơn. Anh Tám nghe biết ngay tiếng đờn độc
huyền của ông Tư Đờn, liền nói:
- Từ ngày bị mù tới giờ, ngón đờn của ông Tư nghe càng xúc động. Anh
Tám và Ngạn đi một đỗi nữa thì đã ngó thấy cây me lớn. Cạnh gốc me
cổ thụ ấy là nhà ông Tư Đờn, coi như một cái quán cốc. Hai người mới
bước vào thì một con chó phèn to từ trong chạy xổ ra kêu ư ử, cúi
liếm chân hai người và vẫy đuôi rối rít. Trong nhà vừa chơi dứt bài
Vùng lên, anh chị em ơi! theo điệu Kim tiền. Anh em trong đội võ
trang ngồi vây quanh cô Nhớ và ông Tư Đờn. Thấy hai người bước vào,
họ la lên:
- Anh Tám với Năm Ngạn tới rồi kìa! Anh Tám bắt tay mọi người. Anh
ôm vai một thanh niên coi dáng dấp rất học sinh, cười hỏi:
- Sao! Đi đây có vui không, Diệp?
- Dạ vui! Cậu thanh niên Diệp đáp, cười bẽn lẽn như con gái. Anh Tám
lại bắt tay cô Nhớ, anh gật gật mấy cái:
- Xin chào ca sĩ! Năm Nhớ đỏ mặt kêu lên:
- Anh Tám! Anh Tám Chấn đến bên ông Tư Đờn:
- Bác Tư lóng này mạnh luôn hả bác?
- Tám Chấn đó à? ạng già mù thốt hỏi rồi run run đưa tay sờ lên khắp
người anh, nắn nót cườm tay anh một cách lặng lẽ. Lâu sau, ông mới
chậm rãi hỏi tiếp:
- Sao lâu nay không thấy về? Hay có về mà không ghé tui? Anh Tám nhẹ
đặt tay lên đôi vai gầy của ông già:
- Mắc công chuyện quá không về được, bác à. Nếu có về thì ắt phải
ghé thăm bác chớ! Anh ngó trước sau hỏi:
- Con Tím nó chạy đâu rồi bác?
- Nó đi mò cá ngoài sông...
Anh Tư không nói gì nữa. Anh cứ đưa cặp mắt sâu thẳm như muốn cố
nhìn anh Tám. Nhưng ông đâu thể nhìn thấy anh được. Chín năm nay ông
không nhìn thấy gì, kể cả thiên nhiên lẫn con người. Ngay như gốc me
cạnh nhà ông, hay chõm Hòn, hay bờ bãi, mà nhất là những con người
ông yêu mến, ông đều không trông thấy. Đành rằng có những cái ông đã
thấy lúc mắt còn sáng, nhưng những cái ấy nay đều đã khác đi. Nỗi
khổ tâm bậc nhất giày vò ông già mù này chính là ở đấy. ạng chỉ nghe
sự biến thiên quanh mình mà không thấy được sự biến thiên đó, cho
nên ông càng phải tưởng ra để thấy. Chính vì thế mà khi uất ức ông
cũng uất ức hơn, lúc sung sướng ông cũng sung sướng hơn. Tại cái gốc
me cổ thụ, cách đây không lâu, bọn đồn Hòn Đất đã trói quặt tay một
chị cán bộ vào thân cây rồi dùng đinh đóng suốt qua hai bàn tay chị.
ạng nghe chị chửi rủa, gào thét và tiếng súng nổ. Sau cùng, ông nghe
tiếng kêu lớn:
"Cô bác ơi, hãy trả thù cho cháu!" Thế rồi một loạt súng nữa nổ
vang. Từ trong nhà, ông quờ quạng chạy ra. Bọn giặc đẩy ông trở lại.
Lúc chúng đi, ông nhắm hướng gốc me lồm cồm bò tới. Nhưng chị cán bộ
không có đấy nữa. Chúng đã đem xác chị đi mất rồi. ạng ôm gốc me
khóc. Nước mắt ngập đầy hai hố mắt ông đêm hôm đó và cả những ngày
hôm sau. Thế rồi đêm đêm, ông tưởng như thấy chị cán bộ, nghe lại
tiếng kêu, hình dung ra gốc me sây sát vết đạn, in sâu vết đinh
đóng. Gốc me đối với ông đã đổi khác, là vậy. Những ngày đi đấu
tranh, dẫu đường trơn lầy lội vì mưa dầm tháng tám, ông vẫn nắm tay
đứa cháu, đợi bà con ùn ùn kéo ngang là nhập vào, đi lên bót, lên
quận. Đấu tranh thắng lợi về, ông hình dung con đường trước nhà in
đầy những dấu chân. Và ông sung sướng hơn, cũng là sung sướng như
thế. Ngày đồng khởi, tất cả những buổi xử tội bọn ác ôn, ông đều có
mặt. Hôm xử tên chủ Mưu
- Tên già gian ác nhất vùng, lúc anh Hai Thép vừa thay mặt tòa cách
mạng hỏi ý kiến bà con có đồng ý xử tử nó không, ông nhóng lên giơ
tay và la lớn:
- "Tử hình, tử hình!" Bà con ai cũng có cảm tưởng là ông ngó thấy
được. Ai cũng nhường chỗ ông đứng. ạng hỏi:
- "Bắn à?" Người bên cạnh đáp:
- "Không, chém chớ không bắn!" Anh lại hỏi: - "Ai chém? " Khi người
ta bảo người chém là Ba Rèn thì ông "à" lên một tiếng đầy tin tưởng.
Hồi năm bốn mươi bảy, lúc mắt ông còn sáng, ông có thấy Ba Rèn chém
Việt gian bằng mã tấu. Anh ta không bao giờ vung mã tấu lên quá đầu.
Anh để lưỡi mã tấu gần cổ tên phản quốc, tưởng như anh chưa chém,
thế mà bất ngờ cổ tay anh gặt mạnh một cái, đầu tên phản quốc rụng
xuống. Lần đó, ông Tư đứng đợi kỳ đến lúc đầu tên ác ôn chủ Mưu rơi
nghe cái "phịch" xuống bãi cỏ, ông mới chịu quơ gậy đi về. Nỗi căm
uất, sự hả dạ và niềm vui sướng của ông Tư mù cho đến bây giờ cũng
vẫn không có thay đổi. Bây giờ nó cũng sâu thẳm như hai hố mắt ông
đang cố nhìn anh Tám Chấn. Chợt ông bảo:
- Mà nói vậy chớ rảnh thì ghé, không rảnh thì thôi, tui biết Tám
Chấn với anh em mắc lo công chuyện cách mạng. Biết vậy là tui mừng.
Tui coi như anh em có ghé thăm tui rồi đó... Anh Tám hỏi:
- Bác Tư ơi, độ rày bác còn uống rượu nhiều không? ạng Tư Đờn không
đáp ngay. Chốc sau, ông mới nói:
- Còn, mà không nhiều...
- Bác Tư uống ít là tốt!
- Chú Tám nói phải, nói phải... Nhưng hồi đó khác bây giờ khác. Chú
nghĩ, hồi đó đêm đêm cứ nghe tiếng cột chèo của tụi nó đập đầu anh
em mình, tui hỏi chú liệu tui có ngủ đặng không? Mà tui lại không có
mắt, tui còn làm gì được ngoài cái việc bòn mót gạo để dành, đêm đêm
lóng tai nghe coi có chú nào về không, để quờ quạng bưng thúng gạo
đưa mấy chú. Mấy chú bưng gạo đi rồi, tui thao thức, lúc đó tui mới
uống... Dừng lại giây lâu, ông tiếp:
- Còn từ ngày mình đứng dậy tới giờ, tui không uống nhiều nữa đâu!
Anh Tám từ từ nắm chặt hơn bàn tay gầy guộc của ông già mù. Một lần
nữa anh lại nghe thấy có một cái gì trỗi dậy rất mãnh liệt, cứ sôi
lên, thôi thúc khẩn thiết trong lòng.
3
Quyên xách con cá chẻm còn tươi rói đặt lên sàn nước. Cô xắn vội tay
áo tới khuỷu, rồi cầm con dao phay dưới sàn chặt đứt sợi lạt tre xỏ
ở mang cá. Quyên bắt đầu đánh vẩy. Bàn tay trái cô xòe hết năm ngón
mà nắm không hết con cá. Con cá chẻm thiệt lớn. Mẹ Sáu nói nó tới
cân bốn ký. Mẹ xách nó từ bãi Tre về đây cứ phải đổi tay luôn. Quyên
cầm dao đánh soàn soạt lên mình con cá loáng nước, anh ánh sắc tím.
Những cái vẩy cá văng ra to gần bằng đồng xu, Quyên thích thú lấy
tay xếp nó lại, chồng cái nọ lên cái kia, nhìn cười, rồi lại tiếp
tục đánh nốt đám vẩy còn lại. Con cá lớn là thế mà cô xoay trở làm
coi gọn hơ. Cô chặt một nhát thì đứt rơi cái kỳ, chặt nhát nữa, đứt
tiện cái đuôi. Phút chốc con cá chẻm đã làm xong, chỉ còn mổ ruột.
Quyên với chiếc gáo có cán đặt trên miệng khạp múc nước đổ vào cái
vịm sành da lươn cạnh đấy, rồi nhấc con cá thả vô. Cô giội mấy gáo
nước nữa cho sàn lảng thiệt sạch. Lúc sắp sửa vớt con cá ra để mổ
bụng, Quyên chợt nghe ngoài bậc thang nhà có tiếng gọi vui vẻ, sang
sảng:
- Má ơi! Cô nghe đúng là tiếng anh Tám Chấn. Kế lại nghe:
- Má... Tiếng sau có vẻ mừng rỡ và âu yếm. Quyên biết ngay là tiếng
Ngạn. Cô liền để con cá xuống, rửa tay và vãnh bàn tay vuốt những
sợi tóc lòa xòa ở hai bên thái dương. Cô nhón gót chạy ra, kêu rối
rít:
- Úi, anh Tám! Cô vồn vã với anh Tám Chấn, còn Ngạn thì cô chỉ đưa
mắt nhìn một cái. Thấy Ngạn mặc cái áo sơ - mi đen của ai rộng thùng
thình thì cô tức cười quá. Ngạn cũng vậy, anh chẳng hỏi gì cô cả, cứ
thế anh ngồi xuống giữa nhà, dang tay đón con Thúy sà vào lòng. Ngạn
hôn con Thúy chùn chụt. Hôn xong một cái lại "ừm" lên một tiếng coi
có vẻ ngon lành lắm. Con bé hôn lại anh, hôn không rõ kêu thì anh
không chịu. Ngạn mở vòng tay ra, chỉ về phía anh Tám Chấn. Con bé
chạy tới anh Tám. Còn một bước nữa tới chỗ anh, nó đứng lại, xuôi
tay, rồi mới ôm lấy cổ anh hôn rất kỹ lưỡng. Cả nhà đều nhìn cảnh ấy
bằng cặp mắt vui vẻ, trìu mến. Mẹ Sáu đang ngồi nhai trầu, trệu trạo
cười. Quyên đứng sau lưng mẹ, dùng ngón tay trỏ ấn nhẹ chiếc lông
nhím trên đầu tóc bới của mẹ, và cô cười lúm cả hai má. Nụ cười của
chị Sứ có nén giữ hơn. Nhưng mặt chị cứ ngây ra. Mắt chăm chăm để ý
từng cử chỉ của con, chị không sao giấu được nỗi sung sướng xen chút
hãnh diện. Sự an ủi của chị Sứ ở đây nhiều lắm. Đứa con gái vừa là
cái kết quả của tình yêu thương chồng vợ, vừa là sự hiện diện của
chị, của anh. Con bé gắn bó mọi người lại hết sức dễ thương và trong
trẻo.
- Thúy đi học chưa?
- Anh Tám hỏi.
- Dạ con đi học rồi.
- Con bé đáp nhỏ nhẻ.
- Con đi học một mình à?
- Ngoại đi với con. - Nói tới đây, con Thúy đưa mắt liếc nhìn ngoại
nó:
- Bữa nào ngoại cũng đi với con hết hà! Mẹ Sáu ngồi trên bộ ván vảnh
tay vuốt tém cổ trầu ở mép, nói:
- Bữa nào tao cũng đưa nó đi rồi rước nó về đó Tám. Mà nó cứ không
chịu chớ, nó nói:
- "Ngoại để con đi một mình, con đi được! "... Để nó đi một mình sao
được kia chớ! Thằng Tám coi, máy bay bữa nào cũng rù rù, còn tàu sắt
lâu lâu cặp mé biển thụt cà - nông phùm phùm. Đưa đón nó như vậy mà
suốt buổi tao còn phập phồng, hễ có hơi máy bay thì thôi tim tao nó
cứ nhảy lia. Huống hồ là để nó đi một mình, dọc đường rủi máy bay
tới, nó biết hầm nào mà chui?
- Dọc đường mấy bác có đào hầm!
- Con bé nói.
- Thằng Tám coi nó nói đó... Có đào hầm? Đành là có, nhưng tao hỏi,
rủi hầm có rắn ở dưới thì sao? Têm một miếng trầu mới, mẹ Sáu bỏ vào
miệng, nhai rau ráu:
- Con nít tới chừng nó quýnh thì nó nhảy đại có biết rắn rít gì đâu.
Người lớn còn bị cái nạn đó hoài... Anh Tám đang vén áo tháo thắt
lưng súng ngắn, nghe mẹ Sáu nói thì bật cười. Mọi người đều cười.
Quyên cười lâu hơn hết. Cô ghé cằm lên vai mẹ, nói:
- Má tôi bả nhát lắm, anh Tám ơi! Mẹ Sáu ngoái ra sau lườm cô gái
út:
- Phải mà, thì tao nhát!... Anh Tám Chấn nghĩ bụng:
“Không đâu, mẹ Sáu không nhát đâu! Vì năm năm mươi tám, chính mắt
anh trông thấy một thử thách dữ dội nhất xảy đến với mẹ Sáu. Dạo đó
xảy ra câu chuyện hai tên lính đang ngồi trên chòi gác đồn Hòn Đất
ngó thấy trong mé Hòn có một em bé cưỡi trâu. Tên này thách tên nọ
nếu bắn trúng em bé nó sẽ thua cuộc một điếu thuốc thơm. Tên lính
giương súng ngắm bắn. Phát súng nổ. Em bé từ lưng trâu ngã lăn
xuống. Hay tin đó, bà con Hòn Đất uất quá, họ vác thây em bé ùn ùn
kéo ra bót. Anh Hai Thép phải cho Sứ và chị Hai Thép theo. Anh dặn:
- "Phải bắt chúng trừng trị tên bắn em bé, phải đạt được yêu cầu đó
bất cứ với giá nào". Anh Tám và anh Hai Thép ngồi trong một nhà bên
này sông theo dõi cuộc đấu tranh. Bọn giặc ngăn không cho đồng bào
kéo tới bót. Khi bà con đòi trừng trị tên giết người, chúng bảo em
bé chết là do rủi ro bị lạc đạn. Bà con xông lên. Thằng Xăm, người
Khơ - me lai, bấy giờ là đồn trưởng, xách súng cạc - bin chạy ra. Nó
chĩa súng vào ngực mẹ Sáu, vì mẹ là người xông tới trước tiên. Thằng
Xăm thét:
- Đi về! Bà bước tới một bước, tôi bắn liền! Tình thế hết sức găng.
Trong bất cứ một cuộc đấu tranh nào, thắng hay không là ở phút ấy.
Thằng Xăm ác ôn lắm, nó dám bắn bà mẹ như chơi. Nếu lúc đó, mẹ Sáu
lùi lại thì cuộc đấu tranh kể như hỏng. Nhưng không, mẹ Sáu không
lùi lại. Mẹ nói với tên Xăm câu gì, anh Tám ở xa không nghe được,
nhưng anh thấy mũi súng cạc - bin của tên Xăm cứ run lên. Giữa lúc
đó, một người đàn bà ở phía sau lách đứng chen vào giữa họng súng
của thằng Xăm và mẹ Sáu. Đó là thím Cà Xợi, mẹ ruột của thằng Xăm.
Thím nói gì với thằng Xăm, rồi đột nhiên bước phắt tới đỡ họng súng
của thằng Xăm lên. Bà mẹ Sáu cùng đoàn người thừa lúc đó chạy ào vô.
Lần ấy, cuối cùng địch phải trói gô tên lính sát nhân lại. Thằng Xăm
hứa sẽ bỏ tù nó. Sau đó về, anh Tám hỏi mẹ Sáu khi ấy mẹ đã nói gì
với thằng Xăm. Mẹ bảo:
- Tao nói:
- "Xăm à, mày bắn tao như bắn bà Cà Xợi thôi". Và câu nói của bà Cà
Xợi khi đó là:
- "Đừng bắn bà Sáu, bắn tao đây. Ngực tao nè, bắn đi, Xăm! " Thằng
Xăm không bắn được. Nó là một tên ác ôn khét tiếng, nhưng nó chưa
thể bắn mẹ nó... Bây giờ, nhìn mẹ Sáu, anh Tám nhớ rõ ràng ngày ấy
mũi súng đã chĩa vào ngực mẹ như thế nào. Anh hỏi mẹ:
- Máy bay thì má sợ như vậy, còn hồi nẳm lúc đứng trước họng súng
của thằng Xăm, sao má không sợ? Mẹ Sáu không đáp. Lát sau mẹ chậm
rãi nói:
- Máy bay tao cũng không sợ đâu. Sợ là sợ cho con cho cháu. Chớ tao
thì già rồi, sắp xuống lỗ rồi mà còn sợ nỗi gì, Tám! Má tiếp lời:
- Nói là nói vậy chớ tao chưa chết đâu. Tao còn phải mở mắt để nhìn
nước nhà thống nhứt, để thấy mặt Cụ Hồ. Được thấy hai điều đó thì
tao nhắm mắt mới đành! Anh Tám nói:
- Sớm muộn gì má cũng sẽ thấy hai điều đó!
- Chắc hôn Tám, chắc thiệt hôn Tám? Mẹ Sáu hỏi lại và ngước mắt khẩn
thiết nhìn anh Tám như thầm hỏi thêm:
“Sao? Có gì mới không? Đảng nói sao, nói lại tao nghe, tao mừng với
coi! " Mẹ Sáu cho rằng anh Tám cái gì cũng biết, cũng thông trước
hết. Hễ anh Tám nói là mẹ tin, tin rằng cái đó phải, cái đó đúng. Mẹ
tin anh Tám là tin ở Đảng, tin anh là người của Đảng dẫn dắt bao bọc
cho mẹ, cho con cháu của mẹ và xóm làng sống yên ấm, vui vẻ và hiếu
thuận.
- Chắc chắn chớ,
- Anh Tám nói với mẹ:
- má à, bây giờ không phải như trước. Hồi đó, mình muốn sống yên,
muốn thống nhứt, nhưng Mỹ - Diệm nó không cho mình sống. Ai đòi
thống nhứt thì nó chặt đầu, mổ bụng. Chịu không nổi bà con mình mới
làm đồng khởi. Đã đồng khởi lên rồi thì chừng nào mình giành được
lại cuộc sống tử tế đàng hoàng mình mới chịu, bằng không mình sẽ
không buông súng.
- Đánh hoài à?
- Bà mẹ hỏi. Anh Tám đáp:
- Nếu nó còn ức hiếp mình thì mình còn đánh hoài. Hết người này tới
người khác. Chừng nào Mỹ rút hết mới thôi!
- Tao ngó bộ Mỹ nó ngoan cố lắm, chừng nào nó mới chịu rút hết?
- Mình có đánh nó mới rút. Tây hồi đó cũng vậy! Bà mẹ để hai tay vào
lòng, thấp giọng:
- Biết vậy rồi... Đoạn mẹ chép miệng:
- Lo cho tụi bây thôi, chồng vợ xa nhau, chớ tao thì già cả rồi...
Mà điều tao nói thiệt với Tám, tao già thì già chớ tụi bây tới đâu
tao cũng bươn theo tới đó. Đi đấu tranh chính trị tao đi hoài được.
Hay là nấu cơm tiếp tế cho bộ đội tao cũng nấu được... Chợt ngoảnh
lại thấy Quyên vẫn còn đứng bên cạnh, mẹ lấy tay xô khẽ con:
- Sao mà còn đứng đây? Rồi mẹ dịu giọng:
- Đi làm cá đi, con. Chiều rồi. Nấu cơm cho mấy anh mày nó ăn! Quyên
từ từ nhắc cằm khỏi vai mẹ, đi ra nhà sau. Ngạn cũng nắm tay con
Thúy đi theo... Quyên lật bụng con cá để lưỡi dao lên. Cô khẽ hỏi
Ngạn bấy giờ đang đứng sau lưng cô tháo súng ngắn treo lên vách:
- Anh bận khính cái áo của ai vậy, anh Ngạn?
- Áo của anh Thẩm!
- Còn bộ quần áo em gửi cho anh đâu?
- Cho anh em rồi!
- Lại cho!
Quyên mổ cá, đem rửa. Tay làm miệng cô nói:
- Nè anh, chị Ba mới được thơ anh Ba, anh biết chưa?
- Biết rồi! Sao, ổng vẫn đàng hoàng chớ? Quyên hơi giẩu môi:
- Ở ngoải mà không đàng hoàng! Ai cũng được học tập, được giáo dục.
Anh Ba ảnh tốt lắm. Đọc thơ, em tội nghiệp cho ảnh quá. Thôi, ảnh
căn dặn chị Ba đủ thứ nghe... Nào là phải bình tĩnh, phải cho con
Thúy đi học... Nói tới đó, Quyên ngừng lại một giây, và tiếp, giọng
nhỏ hơn:
- Nghe vụ tụi mình, ảnh cũng có hỏi thăm...
- Sao ảnh biết mà hỏi thăm?
- Thì chị Ba viết thơ nói... Mà nè, anh Ba ảnh viết cho chị Ba tới
mười tám cái thơ... Đâu phải như anh, hễ đi là biệt khỏi có gởi thơ
về! Ngạn nghe Quyên nói vậy, liền thò tay nắm chéo áo Quyên giật
giật:
- Thiệt không có gởi à? Quyên cười chúm chím mà không nói sao cả.
Ngạn tức mình, càng giật chéo áo cô. Rồi anh xỉa nhẹ ngón tay trỏ
vào sườn cô, làm cô giật bắn người:
- Anh Ngạn phá không cho em mần cá à? ... Thì..., thì anh gởi về một
cái thơ chớ mấy?
- Mấy, mấy? Vừa hỏi Ngạn vừa tiếp tục xỉa ngón tay.
- Hai, hai... Con bé Thúy cũng vỗ tay bem bép trợ lực cho Ngạn:
- Chọc lét dì út nữa đi, dượng út! Quyên quay lại trừng mắt ngó con
Thúy, bậm môi:
- Mày cũng binh dượng út mày à? Được rồi, tao không thèm chơi với
mày nữa! Con bé níu tay Ngạn, ngó Quyên:
- Dì không chơi với con thì con chơi với dượng út.
- Ừ, cho dượng cháu mày chơi với nhau. Mai dượng mày đi rồi coi mày
chơi với ai cho biết! Con Thúy nép vào người Ngạn, ngước hỏi:
- Dượng út chưa đi đâu, hả dượng út? ở chơi với con tới bữa kia, bữa
kìa hãy đi nghe, dượng út? Giữa lúc ấy, có tiếng chân mẹ Sáu đi vào
bếp... Ngạn nánh ra nhường lối cho mẹ đi. Mẹ hỏi:
- Mày về chơi được bao lâu, Ngạn?
- Dạ, có lẽ ngày kia con đi, má à! Ngạn nhẹ nhàng đáp lời mẹ. Cử chỉ
anh bây giờ coi hết sức nghiêm túc. Anh đưa tay lên vuốt tóc và đặt
nhẹ bàn tay sau gáy, Quyên liếc thấy, cố nén cười. Nhưng cô cũng
vậy, cô cầm dao khứa cá cùm cụp, dáng coi chăm chú lắm. Mẹ Sáu hỏi:
- Tính làm món ăn gì đó, Quyên?
- Con định chưng tương.
- Ờ, con cá đó chưng thì ngon. Còn tôm với cua?
- Tôm thì chiên lăn, còn cua xào dấm, được không má? Mẹ Sáu nói:
- Làm sao cho mấy anh mày ăn nó chê đó thì làm! Rồi mẹ cười và đi
ra. Nói là nói vậy chớ mẹ Sáu tin ở con gái mình lắm. Cả hai chị em
Sứ và Quyên đều nấu ăn khéo. Hồi hai chị em còn nhỏ, mẹ đã chỉ dạy
từng ly từng tý. Mẹ vẫn bảo:
- "Nhà mình nghèo, có con cá kho cũng phải kho cho ngon". Thiệt ra
nhà mẹ Sáu nghèo là nghèo trước kia, chớ sau cách mạng, nhà mẹ được
cấp bốn công đất tốt có vườn, gọi là ưu tiên cho gia đình liệt sĩ.
ạng Sáu chết năm 40, vì "tội làm cộng sản, bắt được có khí giới giết
người". ạng bị đem về xử bắn tại Hòn Đất cùng năm người khác. ạng là
tay chế súng, chế lựu đạn ở chùa ông Đồng, tức Long Sơn tự, nay chùa
ấy cũng còn. Anh con trai lớn của mẹ Sáu, tức anh Hai của Quyên thì
chết hồi kháng chiến, hy sinh trong trận kinh xáng Mớp Văn. Người
con rể thứ ba của mẹ Sáu tập kết ra Bắc mới gởi thư về đó, trước kia
là bạn chiến đấu với anh Hai. Gia đình mẹ Sáu là một gia đình cách
mạng, từ chồng tới con, con rể, và cả chính mẹ nữa. Sáu mươi hai
tuổi với bao khổ cực, mừng vui, cay đắng, tóc mẹ nay bạc hết cả.
Nhưng, như mẹ vẫn hằng nói:
- "Nhờ Trời Phật, tao còn đi cấy, đi làm cỏ vườn được. Vậy chắc là
tao còn ngó thấy nước nhà thống nhứt, ngó thấy Cụ Hồ! " Thật vậy, mẹ
Sáu gắn bó đời mình với cách mạng bằng nhiều thứ quá. Chồng con, đất
đai, máu thịt. Niềm hy vọng của mẹ đều hướng cả vào cách mạng. Niềm
vui mà mẹ có được cũng đều từ đấy mà ra. Niềm vui đó chan chứa trong
cõi lòng bình dị, mênh mông, khi lắng lặng, lúc lại trào lên của mẹ.
Không phải khó khăn gì mới thấy được niềm vui ấy. Những lúc này
chẳng hạn, có con cháu anh em về, khuôn mặt nhăn nheo của mẹ lại
rạng rỡ hẳn lên. Mẹ Sáu trở vào nhà trước, gặp lúc Sứ đang đem khoe
cái thơ với anh Tám. Mẹ nói với anh Tám:
- Tao cũng chưa nghe kỹ cái thơ. Mới nghe nó đọc qua thôi. Mày coi
đi Tám, còn tao tối nay để tao bắt con Quyên nó đọc rành rẽ cho tao
nghe. Thằng Ba nó ý tứ trượng lắm, một chữ của nó nói cũng phải suy
gẫm ra mới thấu được. Anh Tám coi thơ, thỉnh thoảng anh lại nhoẻn
cười. Sứ đưa cả tấm ảnh cho anh coi. Anh Tám cầm tấm ảnh, nhìn chăm
chú. Anh nhướn mắt, xây xây tấm ảnh:
- Coi mập mạp trắng trẻo hơn hồi đó! Đưa tấm ảnh lại cho Sứ, anh
cười bảo:
- Ở xứ xã hội chủ nghĩa mà! Mẹ Sáu nghe nói, vẻ mặt càng thêm rỡ
ràng. Sứ thì bảo với giọng hơi bứt rứt:
- Còn tấm hình của em gởi cho ảnh là chụp sau ngày em bị bắt về. Coi
ốm lắm! Mẹ Sáu chép miệng:
- Bị ở chuồng cọp, chuồng sấu mà biểu mập sao cho được! Anh Tám Chấn
lại cười. Nhưng nụ cười ấy tắt ngay trên môi anh. Anh nói:
- Tấm hình của cô chụp gởi chú Ba mà cô vừa nói đó thiệt là quý...
Những tấm hình như vậy không phải ai cũng có. Tôi nghĩ chắc chú Ba
sẽ quý tấm hình đó của cô hơn tất cả những tấm hình mà trước nay cô
đã cho chú ấy. Rồi anh hỏi Sứ:
- Khi viết thơ cho chú Ba, cô có nói cô chụp tấm hình đó sau khi cô
bị bắt không?
- Có... Nhưng em nói khác. Em nói:
“Tấm hình này em chụp sau ngày bị tai nạn... "
- Vậy ắt chú ấy biết!
- Chắc... biết!
4
Mẹ Sáu đem trải lên bộ ván gõ chiếc chiếu bông. Chiếc chiếu bông này
là một trong đôi chiếu của nhà mẹ Sáu chỉ đem trải khi có giỗ kỵ,
đám tiệc. Ngạn ngồi uống nước trà trên ván với anh Tám chợt nghe
ngoài đường có tiếng ai nói chuyện giống như tiếng anh Hai Thép.
Ngạn chạy ra. Hai Thép đã đi vào tới sân. Anh bí thư chi bộ nầy vóc
người hơi gầy mà chắc. Đầu anh buộc ngang một cái khăn rằn, nách cắp
một cái cặp da giả thứ của trẻ con đi học và mang một chiếc ra - đi
- ô bán dẫn kiểu Nhựt. Một tay anh giơ chào Ngạn theo kiểu nhà binh
rồi bước như nhảy lên bậc thang. Bàn chân trái của anh bị đứt hai
ngón, cứ hếch hếch lên tấm gỗ bậc.
- Mới về hả chú? ạng Tám Chấn đâu?
- Ở trong nhà.
Vào nhà, anh Hai Thép liệng cái cặp da giả vào góc ván, ngó anh Tám
Chấn cười và nháy mắt:
- Mới xuống hả ông? Hỏi xong, anh gấp gấp mở thêm một cái cúc áo
nữa, tay tháo cái khăn trên đầu xuống đập đập mồ hôi đổ hột ở ngực.
Anh Tám rót một chun trà, đặt trước mặt Hai Thép. Hai Thép nhấc chén
trà lên, cười nói:
- Tụi tôi đợi ông xuống quá xá. Cái vụ đất bị cha con thằng chủ Mưu
xáo canh hồi đó nay giải quyết lại nột dữ. Không phải dễ đâu nghe
ông! Anh Tám Chấn cười cười:
- Thì tôi có nói là dễ đâu! Hai Thép đưa chun trà lên tợp một hớp
rất kêu, chép chép miệng:
- Tôi đợi ông xuống đặng hỏi ý kiến ông về mấy khoản, giả tỷ như cái
khoản... Anh Tám Chấn vội giơ tay khoát khoát:
- Thôi, uống nước đi, rồi ở đây ăn cơm với tụi tôi. Mai đã, mai hẵng
tính. Bữa nay ông xả hơi "giải nghệ" một bữa đi! Hai Thép ngồi xuống
ván, rót nước uống liên tiếp hai ba chun nữa. Mẹ Sáu ở sau bếp đi
ra, thấy Hai Thép liền hỏi:
- Hai Thép đó à? Còn Ba Rèn với thằng Năm Tấn đâu?
- Cháu không gặp. Cháu ở nhà đi thẳng tới đây.
- Tôi có nhắn mấy đứa nó chiều nay lại ăn cơm, giờ sao chưa thấy
tới?
- Ối, hơi nào mà lo cho mấy thằng đó, má ơi! Quyên đã bưng thức ăn
ra. Mọi người đang ngồi nói chuyện liền lánh chỗ cho cô đặt đĩa cua
xào dấm và đĩa tôm chiên vào giữa. Mùi chiên xào bay thơm quá. Đĩa
tôm chiên coi mới thích làm sao. Những con tôm to bằng ngón chân cái
đã lột vỏ, hồng hào nằm cong mình dưới lớp nước sốt cà chua đỏ tươi.
Kế đó, chị Sứ lại bưng tiếp ra một thau nhôm đựng gỏi đu đủ trộn với
khô cá bổi xé. Anh Hai Thép cúi nhìn thau gỏi, xoa xoa tay khều Sứ
nói:
- Mấy món này tao ngó đều khá. Thế nào rồi tao cũng cho má bầy trẻ
tới học tập, nhưng nếu chị em bây chỉ dọn bấy nhiêu món thì tụi tao
chưa chịu ăn đâu! Quyên mau miệng:
- Còn cá chẻm chiên nữa, anh Hai à! Hai Thép vỗ tay đánh bộp một
cái:
- Có cá chẻm chiên nữa à!
- Nhưng anh vội khoát nhẹ tay:
- Không, có cả cá chẻm tụi tao cũng chưa ăn. Quyên trố mắt. Sứ nói:
- Con Quyên khờ quá, anh Hai mà mày không biết à, ảnh nói xa nói gần
đó mà... Hai Thép cười, hài lòng:
- Con Sứ khá lắm... Vậy cái tao nói xa nói gần đó có không? Có thì
đem ra đây, mau đi! Sứ ngó mẹ, cười. Mẹ Sáu nói:
- Thôi, con vô trong buồng... đem ra đi, một chai thôi. Chớ không
có, Hai Thép nó không ăn thiệt đa! Sứ vào buồng, lát sau cầm ra một
chai rượu trong vắt, Hai Thép đưa tay với ngay chai rượu, ôm vào
lòng như sợ bị đòi lại. Anh vừa rung đùi vừa khoát tay ra lệnh cho
anh Tám và Ngạn qua. Rồi anh quay nhìn thẳng vào mắt Ngạn, cố lấy
giọng thật dịu dàng:
- Mày về nhà tao thấy mày nhu mì điềm đạm, tao thương quá, Ngạn! Anh
day qua mẹ Sáu nói:
- Má à, về nhà đây coi nó mủ mỉ vậy chớ ở chỗ khác, tự nãy giờ thôi
bể nhà bể cửa với nó rồi nghe má! Mẹ Sáu lắc đầu cười. Anh Hai Thép
khoái chí nhìn Ngạn đang ngượng nghịu leo lên ván... Hai Thép rót
rượu ra ly. Anh nài nỉ mẹ Sáu phải uống một chút. Mẹ không chịu
uống. Anh mời tới Quyên, Sứ. Hai chị em cười, lắc đầu. Anh đưa lên
chạm với anh Tám Chấn và Ngạn. Ba cái ly ấy mới giơ lên vừa chạm vào
nhau đánh "cốp" một cái chợt ngoài sân có tiếng chân đi thình thịch.
Và tiếng chân đó lát sau vội vã nhảy lên bậc thang. Ba người cầm ly
rượu trên tay chưa ai uống một hớp thì Tấn và anh Ba Rèn xồng xộc
bước vào. Hai anh bắt tay anh Tám và Ngạn, ngồi ghé xuống ván. Tấn
thì thào:
- Vừa có tin cho hay địch tập trung tại Tri - Tôn ngót ngàn quân.
Thế nào mai nó cũng càn, nhưng chưa biết càn đâu.
- Bao nhiêu, gần một ngàn quân à?
- Anh Tám hỏi lại. Tấn gật đầu:
- Một tiểu đoàn chủ lực, một tiểu đoàn bảo an và thêm một đại đội
biệt kích.
- Đại đội biệt kích của thằng Xăm. Anh em cho biết rõ như vậy!
- Ba Rèn nói. Anh Tám Chấn lặng thinh, cau mày. Anh chồm người tới
trước thò tay nhặt cái nút, thong thả nhét miệng chai rượu lại, đưa
cho Sứ bảo cô đem cất. Anh nói với mọi người:
- Thôi, tụi mình làm bậy ly này thôi. Tranh thủ ăn cơm đi. Má, cô Sứ
với cô Quyên cũng lấy chén ra ăn cơm luôn thể. Tôi nghi nó đánh đấy.
Nhưng nếu có đánh thì cũng giác hừng đông. Có đại đội thằng Xăm thì
phải coi chừng. Có thể nó "đột" sớm hơn!
- Sao mấy bữa nay không thấy "đầm già" nó quần cà?
- Đâu nhứt thiết phải có "đầm già" quần. Đợi mọi người ăn cơm xong,
mẹ Sáu thu dọn mâm chén. Cũng trên bộ ván đó, bây giờ mọi người ngồi
quây lại. Anh Hai Thép buộc siết chặt cái khăn lên đầu, nói:
- Thấy rõ là nó đánh vùng Hòn rồi. Tôi đề nghị có bàn gì thì bàn mau
mau để rồi chuẩn bị đối phó ngay. Theo tôi, một mặt Ba Rèn cho tập
hợp anh em du kích lại xuống chông, gài lựu đạn. Còn vợ tôi để nó lo
bố trí các tổ đấu tranh. Cần hết sức chú ý mặt đấu tranh hợp pháp để
ngăn chặn sức đánh phá của địch. Chút nữa, tôi sẽ tạt qua nhà cho vợ
tôi hay luôn! Anh Tám Chấn đặt bàn tay lên bàn, ngón tay trỏ của anh
nhịp nhịp:
- Đồng ý với Hai Thép. Nhưng nên nhớ như vậy là quân số địch đông
đấy! Về tình hình HBM thì ra sao? Khi đánh nhau với chúng, có chỗ
lánh né không?
- HBM còn tốt thì ít thôi. Chỉ đủ cho một vài tổ. Đất cát khó đào
quá, cứ bị sụp hoài. Mới đây lại bị sụp nữa, chưa củng cố lại kịp.
Tụi tôi tính bố trí chặn đánh chúng ngoài vườn. Chừng nào thắt ngặt
quá thì lánh né vô hang. Anh Tám Chấn im đi một lúc. Gương mặt anh
thoáng vẻ lo lắng. Anh bảo:
- Phải ráng khắc phục vụ hầm hố sao chớ để như vậy thì bị động
quá... Anh Ba Rèn nói:
- Hang Hòn là chỗ cố thủ rất ngon. ở đó một người mình có thể chống
chỏi lại một trăm thằng. Lần trước cũng vậy...
- Lần trước khác, bây giờ khác... Tôi cũng tin là hang Hòn có địa
hình chống đỡ thuận lợi, nhưng nếu chỉ xét về mặt địa hình không thì
không được... Nhưng thôi, hiện tại là không có hầm đảm bảo ở ngoài
xóm, cũng phải đành giải quyết như vậy thôi. Chớ nói về lâu về dài
thì không thể cứ chỉ lấy hang Hòn làm chỗ dựa duy nhất được đâu. Day
qua Ngạn, anh Tám nói:
- Đội công tác của chú cũng kết hợp với anh em du kích chiến đấu
luôn. Ngạn gật đầu:
- Được rồi, đội tụi tôi có sáu súng: ba mát, ba tôm - xông, và mười
lăm trái MK3. Tất cả đều có thể chiến đấu.
Ba Rèn hớn hở, nắm tay Ngạn gặc gặc. Anh Hai Thép bảo:
- Tôi thấy anh Tám không nên ở đây. Anh Tám Chấn suy nghĩ một chốc
rồi nói:
- Không việc gì, tôi cứ ở đây thôi! Rồi kéo anh Hai Thép lại, anh
nói nhỏ:
- Tôi sẽ ở lại ngoài xóm chỉ đạo bà con đấu tranh chánh trị. Anh
liệu coi ở nhà nào thì tiện. Hai Thép thoáng vẻ mừng rỡ, nói luôn:
- Anh Tám cứ ở lại nhà tôi. Vợ tôi trực tiếp nắm các tổ đấu tranh
chánh trị có anh giúp thì hay quá. Hầm bí mật ở nhà tôi cũng vững,
thôi anh cứ ở đó!
Anh Tám Chấn gật đầu. Rồi anh tiếp:
- Hai Thép cho ai chạy qua Lình - quỳnh kêu chú Đạt của tôi về. Cứ
để Đạt tham gia chiến đấu. Như vậy sẽ có thêm một cây cạc - bin. Đạt
nó bắn cạc - bin khá lắm! Ba Rèn nói sẽ cho người đi qua Lình -
quỳnh ngay. Giữa lúc ấy, Tấn an ninh nhích lại gần mọi người, khẽ
bảo:
- Còn việc này nữa... Nếu địch nó càn vô đây thể nào nó cũng xài tụi
điệp, dùng tụi này chỉ chọc. Hiện nay, còn thằng Ba Phi mình để đó
theo dõi chưa bắt. Mình phải tính sao, chớ không...
- Phải bắt thôi. Thằng chủ trại đáy đó nguy hiểm lắm. Cả vợ nó nữa.
- Tôi cứ tưởng mấy ông đã bắt nó rồi chớ!
- Anh Tám nói. Và anh bảo tiếp
- Cho bắt đi! Nhưng không biết nghĩ sao, anh lại hỏi:
- Từ đó tới nay theo dõi nó thấy có hiện tượng gì mới không? Tấn
đáp:
- Chưa thấy gì mới. Anh Tám gõ ngón tay xuống ván:
- Chắc bây giờ nó đang chờ địch tới lắm. Nếu bắt nó khai thác liền
được ý đồ địch thì hay quá. Thế nào nó cũng biết. Ngạn nghe nói bắt
gián điệp thì xen vào bảo:
- Từ trước tới nay mình có để lộ ra cái gì chứng tỏ là mình theo dõi
nó không? Tấn nói:
- Không, nó không biết đâu! Hai Thép bảo:
- Đi bắt nó phải bố trí cho kỹ. ở đó meo lắm, cần ghé rà trước coi
hồi chiều tới giờ tụi quận có thả lính vô không? Ngạn hỏi:
- Để cánh tụi tôi giúp cho một tay! Hai Thép gật đầu:
- ừ, vậy thì tốt lắm. Phải làm liền đi. Tối rồi. Đi ra tới ngoải là
vừa. Ngạn đứng lên. Quyên lẹ làng chạy ra nhà sau lấy xanh - tuya
súng đem ra đưa Ngạn. Ngạn thắt súng vào lưng, rồi cùng Tấn bước
thót ra cửa. Hai Thép dặn:
- Bắt được cứ đưa thẳng nó về hang nghe! Ra tới đường, Ngạn đi sát
vào Năm Tấn, nói:
- Tôi tính mình bắt thằng này phải mánh lới một chút, anh Năm! Phải
gạt nó khai rồi hẵng bắt! Tấn chưa hiểu, hỏi:
- Gạt làm sao? Ngạn kề miệng nói rỉ vào tai Tấn. Tấn nghe xong lộ vẻ
thích thú lắm. Anh ta khen:
Hay, hay! Ngạn nói thêm:
- Tụi tôi có đồ sĩ quan. Đừng lo!... Bởi trước sau gì mình cũng bắt
nó mà. Nhưng trước sau một chút quan hệ lắm... Anh thì nó biết mặt,
cứ bố trí vòng ngoài, để tụi tôi vô.
Phần 2
1
Cái thị trấn Tri - Tôn bé nhỏ chiều hôm ấy bỗng dưng ầm ĩ hẳn lên.
Xe cam nhông chở lính từ Rạch Giá nối đuôi nhau chạy xuống. Bụi bốc
mù mịt trên con đường phố nhỏ độc nhất của quận lỵ. Bụi xông vào các
tiệm nước, các tiệm tạp hóa, các căn phố trệt và phố lầu mới cất.
Bọn lính từ trên xe nhảy xuống, lũ lượt kéo đi trong vầng bụi. Bọn
lính chủ lực mặc đồ trai - di, bọn biệt kích mặc đồ rằn, giày da và
giày bố nện rầm rập, bồm bộp. Đồng bào bên phố đứng xem chúng kéo
qua, xì xầm bàn tán. Người ta thấy có những tên quen mặt trong đại
đội biệt kích, nhưng chẳng có ai dám dòm bọn nầy cả. Bọn lính chủ
lực từ Sài Gòn xuống còn đưa mắt nhìn xem hai bên phố, chớ bọn biệt
kích thì mặt gầm gầm, lạnh lùng, súng tôm-xông và cạc-bin của chúng
mang đều chúi mũi xuống đất. Thằng Xăm, tên trung úy, chỉ huy đại
đội biệt kích có đôi mắt trắng dã, lịch phịch đi sau cùng. Hắn mặc
bộ đồ rằn thủy quân lục chiến rỡn hình sóng biển, bó sát lấy khổ
người rất lực lưỡng. Đầu hắn đội cái kết vải vằn vện có ba mảnh vải
để che gáy và che hai bên mang tai. Loại kết này vẫn gọi là kết "ba
rèm". Nơi đùi thằng Xăm đeo sề sệ khẩu súng ngắn Côn 12, bao da súng
màu hung hung gần giống như màu da mặt của hắn. Ngoài ra, hắn còn
khoác một khẩu cạc - bin và một cái cúp cúp. Những tên lính biệt
kích trong đại đội hắn đều ăn mặc giống như hắn, đeo cạc-bin hoặc
tôm-xông, tên nào cũng có dao găm Mỹ, và trông tên nào cũng hung
tợn. Đang đi, bỗng tên trung uý Xăm ghé tạt vào một quán giải khát ở
giữa phố. Hắn ngang nhiên vớ lấy một chai la-ve, đưa mắt nháy người
chủ quán Hoa Kiều một cái rồi đi ra. Vừa đi, thằng Xăm vừa rút soạt
lưỡi dao bên hông.
Một tay hắn cầm la-ve giơ lên, một tay hắn trở sống dao phạt mạnh
ngang cổ chai. Cổ chai văng toạc đi. Bọt rượu trào ra. Hắn dừng lại,
ngửa cổ đưa chai la - ve rót vào miệng. Hắn uống hết độ hai phần ba
chai, rồi đưa cho tên lính đi trước. Tên lính cầm chai la - ve khoái
trá uống nốt chỗ còn lại. Chừng như tên lính này đã quen uống như
vậy nhiều lần rồi. Bấy giờ, có lệnh từ tiểu đoàn lính bảo an chuyền
lại:
- Dừng lại, đừng đi nữa! Nguyên là đồn quân chi khu này chỉ có thể
chứa thêm được hai tiểu đoàn trong số ba tiểu đoàn lính mới đến. Đó
là hai tiểu đoàn lính chủ lực. Bọn còn lại là bọn bảo an và biệt
kích thì được lệnh đóng ở ngoài, trên những khoảnh ruộng trống khô
nẻ. Một tên đại úy tiểu đoàn trưởng bảo an cao lớn truyền lệnh ấy ra
sau, rồi cho những đại đội của hắn kéo vào khoảng ruộng. Tên Xăm càu
nhàu:
- Đ. mẹ, về xứ của tôi mà bắt tôi ngủ ruộng à? Song nói thế chứ hắn
cũng khoát tay xua bọn lính áo rằn của hắn kéo vào chỗ đất trống
giáp phố. Nắng chiều vàng vọt trải xuống mặt ruộng. Trên khoảnh đất
trống bị dọn sạch quanh chi khu, bọn lính chạy tới chạy lui. Chúng
trải những tấm tăng, dành chỗ làm bếp nấu, tu ừng ực nước hoặc rượu
chứa trong các bi - đông Mỹ. Có tên chưa chi đã nằm lăn kềnh, ngửa
mặt lên trời phì phèo hút thuốc. Từ đám lính ấy nghe toát ra mùi
chua loét của mồ hôi, mùi thuốc lá Bát - tô xanh, mùi rượu trắng và
cả mùi sáp bôi tóc loại rẻ tiền. Tất cả những mùi đó hợp lại là cái
mùi lính nói chung, nghe lờm lợm, vốn dĩ rất sẵn có ở những tên lính
đánh thuê. Thằng Xăm cởi phanh áo. Hai cổ tay hắn đeo không biết bao
nhiêu dây bùa cà tha vàng hoặc đỏ. Và trên bộ ngực nở nang của hắn
lủng lẳng một sợi dây chuyền buộc cái mặt chằn bằng ngà có nanh vàng
chìa ra coi rất dễ sợ. Cái mặt chằn với những dây cà tha ấy thằng
Xăm coi như bùa hộ mạng của hắn. Hắn bật nằm ngã ngửa ra trên tấm
vải bạt xám. Điếu thuốc trên môi hắn đã cháy muốn hết mà chừng như
hắn không hay. Thình lình, hắn đưa tay giật phắt mẩu thuốc, vứt đi
và ngồi bật dậy. Hắn lừ lừ giương đôi mắt trắng dã ngó bọn lính của
hắn bấy giờ đang lôi bánh mì ra. Một tên lính bé choắt luồn tới bên
hắn:
- Mời anh Hai đi ăn cơm! Thằng Xăm uể oải đứng dậy đi theo tên lính
đến trước một tấm vải bạt. Trên tấm vải bạt có trải giấy báo, đặt
nửa con gà quay, hai ổ bánh mì lớn và một hộp cá mòi đã mở nắp. Xăm
ngó qua, xẵng giọng hỏi:
- Hết rượu hả mậy?
- Thưa anh Hai, còn.
Tên lính bé choắt ấy xăng xái đặt vào giữa tấm vải bạt một bi - đông
nặng trịch. Mắt thằng Xăm vụt sáng lên. Hắn với tay chụp cái bi -
đông lắc lắc, ra vẻ hài lòng. Hắn mở nút đưa lên miệng tợp ngay một
hớp, rồi một hớp nữa. Cầm bi - đông đưa cho tên lính, tay hắn chộp
lấy đùi con gà quay đưa lên miệng, cắn, rứt ra, nhai nghiến ngấu.
Những chiếc răng vàng trong mồm hắn lóa sáng, nhồm nhoàm. Hắn đưa
tay quệt mỡ gà dính ở hai bên mép. Tên lính cùng ăn, cùng uống với
hắn, coi hơi cóm róm nhưng có vẻ hể hả. Thằng Xăm tu rượu ừng ực.
Hắn "khà" một cách khoái trá rồi lại xé thịt gà ăn. Tên lính và hắn
ăn hết nửa con gà, uống hết một bi - đông rượu thì ánh nắng đã tắt.
Nhưng mặt trời thì vẫn còn đỏ sẫm dưới ven đồng xa. Thằng trung uý
biệt kích ngà ngà rượu ấy chới với đứng lên, đưa hai tay cào cào
sườn. Hắn ngước nhìn mặt trời, miệng lẩm bẩm một câu chửi tục chỉ có
mỗi mình hắn hiểu, rồi nhe răng cười không ra tiếng. Bọn lính cũng
đã có nhiều đứa say như hắn. Nhưng rượu đã hết, và chúng đang bẻ
bánh mì chia nhau ăn. Có những tên lính đã cởi hẳn áo, để lộ bộ ngực
đen bóng xăm đầy hình rồng rắn. Có một số lính đi khuân củi. Thứ củi
tràm gộc bổ đôi, mỗi đứa xách hai miếng, không biết chúng lấy từ
đâu. Đêm tối vừa sụp xuống thì chúng đốt lửa. Nơi này một đống, nơi
kia một đống. Lửa bốc phừng phừng, cháy sáng từng lõm ruộng. Bọn
lính nấu nước bằng hang - gô xỏ xâu vào, ngồi lổm nhổm bên ngọn lửa.
Mặc dù có lệnh cấm vào phố, chúng vẫn lén đi mua rượu, mua thêm la -
ve và đồ nhậu. Lệnh cấm là lệnh của bộ chỉ huy hành quân, nhưng các
tên chỉ huy đơn vị không cấm lính của chúng. Thằng Xăm chẳng những
không cấm mà hắn còn ó ré nhậu nhẹt cùng bọn đàn em biệt kích. Bọn
này không ngớt mời mọc, tán tụng hắn. Tên nào cũng đều gọi hắn bằng
anh Hai. Chúng còn mời mọc một tên thiếu úy mặt xương, mắt sâu thỏm
và gọi tên này bằng anh Ba. Thằng Xăm thích lính gọi mình bằng anh
Hai hơn là gọi hắn bằng "ngài trung uý".
- Anh Hai uống với em một phát, anh Hai!
- Anh Hai thiệt uống không biết say đa! Thằng Xăm hể hả khi nghe
những câu ấy. Hắn uống hết, không từ chối một ai. Hắn quả là một
thằng biệt kích mạnh rượu. Hắn uống nhiều mà không say mấy. Cặp mắt
bình thường trắng dã của hắn nay đỏ lên như có pha ánh lửa và hoe
máu. Bọn biệt kích ác ôn thân tín ngồi vây quanh. Những tên này đã
phục sợ thằng Xăm trong các cuộc đánh phá giết người bao nhiêu thì
chúng càng phục thằng Xăm trong sự nhậu nhẹt bấy nhiêu. Một tên
trong bọn chợt hỏi:
- Mai về Hòn, anh Hai ghé nhà không? Thằng Xăm sắp đưa bi - đông
rượu lên, nghe hỏi, hắn liền để bi - đông xuống. Bàn tay hắn hơi run
run. Câu hỏi của tên lính hình như chạm vào một cái gì trong lòng
hắn. Hắn im lặng mất một lúc lâu rồi mới nói:
- Ghé. Thể nào tao cũng phải ghé thăm bà già với con em.
- Cô Cà Mỵ à? Chà, năm nay cô Mỵ chắc lớn lắm rồi?
- Đâu như mười chín tuổi... Thằng Xăm thờ thẫn nói:
- Con Mỵ nó giống tao. Tao thương bà già tao.
- Nghe nói anh Hai có kêu bà già với cô Mỵ ra chợ ở, sao không thấy
bà già với cô Mỵ ra?
- Không, lần này tao về đóng bót Hòn Đất. Để bả ở đó luôn! Hắn nói
xong thở "khì" một cái rất mạnh. Nốc thêm một ngụm rượu nữa, hắn lắc
đầu lia lịa:
- Nghe nói bà già tao theo Việt cộng. Bả thù ông già tao lắm. Thằng
Xăm nói thế, rồi nhắc tới Hòn Đất với cái giọng bỗng dưng hạ thấp
hẳn xuống:
- ở Hòn Đất vui, vui lắm... Hồi tao còn làm xếp bót ở đó, tao vui
hơn bây giờ. Có đủ thứ trái cây, có khô trâu. Con gái ở đó cũng có
nhiều. Nhiều đứa coi ngộ lắm, vú lớn như cặp dừa, tay tụi bây thằng
nào nhỏ bóp không giáp...
Bọn lính cười nhăn nhở, thích thú. Tên nào cũng khoái trá, vì chúng
biết nội ngày mai chúng sẽ được tới đó. Bây giờ ít có đứa nghĩ đến
cái chết, mà chỉ nghĩ tới sự vơ vét, sự ăn uống và sự cưỡng hiếp.
Trong bọn này, có tên đã biết Hòn Đất. ở đó, chúng đã làm bất cứ
chuyện gì chúng có thể làm được. Chúng đã kháo với nhau và kể lại
cho bọn khác nghe, giả dụ như muốn ăn thịt trâu, chúng chỉ cần ngắm
cho trúng đích những con trâu ăn cỏ trên triền Hòn và nổ súng. Có
tên còn kể tỉ mỉ mình đã hiếp những phụ nữ ở đó ra sao, và đắc chí
bảo rằng chính tay nó đã xé được mười ba cái quần lãnh của họ. Cũng
có tên bảo chính tay nó đã đập đầu Việt cộng bằng cột chèo, đập vỡ
óc văng tung tóe cả vào áo. Chúng kháo nhau rằng ở đấy, "anh Hai" đã
mổ rất nhiều người, mổ rất khéo, chỉ cần chọc một nhát dao nơi chấn
thủy, lách chếch lên, đường dao rạch chỉ vừa đủ thọc bốn ngón tay
vào để bợ trọn buồng gan ra. Thật là thằng Xăm đã mổ rất nhiều
người, nên trong đám ác ôn, hắn nổi tiếng là đứa mổ gan lấy mật
người gọn lẹ nhất. Nhưng hắn không chỉ khéo mổ lấy gan và mật. Hắn
còn có nhiều cách giết người lạ lùng quái gở hơn.
Dòng máu của hắn chính là dòng máu của cha hắn, một tên địa chủ
người Việt trước kia làm bá chủ vùng Hòn. Người ta nói thằng Xăm
không còn chút máu nào của bà Cà Xợi, tức mẹ hắn, là một người đàn
bà Khơ me uất ức và đau khổ suốt đời, đến nay vẫn còn như điên dại.
Mẹ hắn, bà Cà Xợi ấy, ngày xưa là một người con gái Khơ me khá đẹp
với nước da nâu rám mặn mòi và dáng đi uyển chuyển, chỉ có những cô
gái Khơ me nắn nồi và đội cà - om đi lấy nước suối ở đây mới có
được. Người con gái Khơ me ở đây lớn lên với nghề nắn nồi đất, ngày
ngày đi quanh bàn nắn, tính trung bình mỗi ngày họ đi có tới khoảng
ba mươi cây số, tức là bằng từ Hòn Đất đi lên tỉnh Rạch Giá. Thành
ra công việc lao động ấy tự nhiên luyện cho họ một vóc người uyển
chuyển, dịu dàng. Hơn nữa, họ lại thường đội cà - om đi lấy nước
suối về dùng. Khi đặt cà - om nước lên đầu, cô gái Khơ me bước đi
duyên dáng lạ thường. Trên đường từ suối nước về nhà, các cô không
bao giờ vịn tay lên cà - om. Đôi tay các cô đánh đường xa, vây vẫy
dịu dàng trên lối cát. Bà Cà Xợi ngày xưa là một người con gái như
thế. Tên chủ Mưu đã ép cô gái Cà Xợi xinh đẹp về ở với hắn. Ngày ấy
anh Thạch Kha là người yêu Cà Xợi buồn quá bỏ đi làm phu bè cây lên
tận Kôm - pông - chàm. Sau khi đẻ được thằng Xăm, tên chủ Mưu bắt
đầu không ngó ngàng tới Cà Xợi nữa. Y để ý những cô gái khác, trẻ
hơn. Nhưng lúc đó Cà Xợi đã có mang với y đứa con thứ hai. Sau cùng
y đuổi Cà Xợi ra khỏi nhà, còn thằng Xăm thì y giữ lại nuôi. Bà Cà
Xợi bỏ hòn máu của mình lại, ôm bụng thất thểu bước ra khỏi cái nhà
nền đúc. Bà về xóm Hòn Đất che tạm một túp chòi, ban ngày đi gặt lúa
mướn, tối về chòi ngủ. Lúc sắp đẻ, bà đau quá, bò lê ra đồng cứ vơ
gốc rạ mà nhai. Tình cờ đêm ấy hai mẹ con mẹ Sáu đi đâu bên bến đò
Vàm Răng về gặp, mới đem bà Cà Xợi về nhà. Bà Cà Xợi sanh con Cà Mỵ
tại nhà mẹ Sáu. Được một tuần lễ sau thì anh Thạch Kha trên Kông -
pông - chàm về. Anh đến nhà sụp trước mặt mẹ Sáu lạy mà xin cho rước
bà Cà Xợi lẫn đứa con mới đẻ. Hai người ăn ở với nhau không đầy một
năm thì anh Thạch Kha bị chủ Mưu cho người rình chém khi anh đang đi
vô rừng đốn củi. Anh Thạch Kha dùng búa chém lại chết một thằng,
nhưng anh thì bị chúng vây chém trọng thương, chạy về chết gục trước
sân nhà. Thế là từ đó bà Cà Xợi nắn nồi nuôi con Cà Mỵ tới lớn. Cà
Mỵ càng lớn càng dễ thương, giống mẹ như đúc.
Duy có thằng Xăm từ bé đến lớn ở với chủ Mưu, được nưng niu, càng
lớn càng giống chủ Mưu về mọi mặt. Thằng Xăm gắn bó với cha nó ngay
từ những miếng vườn trên Hòn, ngay từ những mảnh đất nắn nồi cha nó
độc chiếm bán ra từng thước khối. Nó ở trong ngôi nhà nền đúc phông
- tô và lớn lên. Ngôi nhà ấy hồi kháng chiến đã bị phá, và vườn đất
cũng bị cách mạng lấy chia cho dân. Chủ Mưu bỏ chạy lên Rạch Giá.
Mãi hòa bình lập lại, y trở về với thằng Xăm bấy giờ đã là thiếu úy
quân đội tay sai Diệm. Y giựt đất, cất nhà lại, và cùng thằng con
trả thù cách mạng với tất cả nỗi căm oán chất chứa trong bao năm.
Thằng Xăm còn độc địa hơn cả cha nó, vì chính tay nó cầm súng Mỹ, và
đi theo nó có cả một bầy ác ôn liều mạng nhất được nó tuyển từ các
đồn lẻ quanh vùng. Bọn biệt kích của thằng Xăm thằng nào cũng chạy
giỏi như ngựa. Chúng rượt nà cán bộ trên đồng trống, mò vào các khu
rừng tràm, đánh phá căn cứ cách mạng cả ngày lẫn đêm. Có khi giữa
đêm mưa tầm tã hoặc lúc trời vừa rạng sáng, súng của chúng nổ ran.
Bà con trên Hòn mỗi khi nghe tiếng súng của bọn thằng Xăm ai cũng lo
sợ nghĩ đến con mình, cháu mình và những người cán bộ thân thiết của
mình vừa ngã xuống. Nhưng có một người nghe tiếng súng ấy còn hoảng
sợ đau đớn gấp trăm ngàn lần hơn người khác. Người đó là bà Cà Xợi
vậy. Ngày đồng khởi, tên chủ Mưu bị bắt đem chém. Thằng Xăm chạy
thoát. Từ đó, nó càng thêm hung dữ. Cho dù ở Hòn Đất hay là ở trên
khắp thế gian, người mẹ nào mà chẳng có nỗi đau khổ riêng của mình,
nhưng thật cũng ít có người mẹ nào lại có nỗi đau khổ như bà Cà Xợi.
Hồi còn làm xếp bót Hòn Đất, thằng Xăm vẫn thường đem vải vóc, vàng
bạc mà nó cướp được về cho bà Cà Xợi và con Cà Mỵ. Nhưng hai mẹ con
đều không lấy. Thậm chí có lần bà Cà Xợi đã liệng vãi các thứ ấy ra
sân, rồi bưng mặt khóc. Nên thằng Xăm nói:
- Nghe bà già tao theo Việt cộng rồi! Nó nói đúng. Chẳng phải có lần
chính mẹ nó đã đứng trước mũi súng của nó đó sao?
2
Vào giờ ấy, bà Cà Xợi đang lầm lũi đi tới quán của thím Ba ú ở ngã
ba Hòn Đất. Bà đi trong đêm tối, tay cầm một cái chai xị không. ở
Hòn Đất ban đêm, hễ thấy dạng người nào đi không đèn đóm thì bà con
đều đinh ninh người đó là bà Cà Xợi. Bởi ngoài bà thì chẳng có ai đi
như một cái bóng thế cả. Nhưng người đàn bà mà khắp Hòn Đất này ai
cũng cho là có hơi dài dại ấy khi đi trong bóng tối mới tài chứ!
Chẳng bao giờ bà ta vấp chân vì một mô đất hay một lỗ trũng. Hình
như bà biết trước và tránh trước hết. Lúc bà Cà Xợi đến quán ngã ba
thì quán vắng ngắt không có một ai. Bà bước vào quán, thấy trên quầy
cạnh ngọn đèn ống khói có mỗi mình thím Ba ú đang ngồi đếm lại đống
tiền lẻ bán được trong ngày. Nghe tiếng chân người bước vào, thím Ba
ú ngước lên. Thím hỏi, giọng nghe êm như ru:
- Thím Cà Xợi đó à? Đi mua chi mà đi khuya vậy?
Bà Cà Xợi không đáp, giơ cái chai xị không lên. Thím Ba ú hiểu ngay.
Thím đếm nốt cho xong số tiền lẻ còn lại rồi lách ra quầy, đi đong
rượu cho bà Cà Xợi. Thím Ba ú này thật là xứng với cái tên của thím
quá. Người thím béo mập làm sao! Thím lách qua cửa quầy một cách khó
khắn. Cổ tay thím lúc với ra đón lấy chai xị không của bà Cà Xợi coi
mập có ngấn, núc ních. Thím xách cái chai bước tới hũ rượu, cầm một
cái cóng tre múc rượu trong hũ đổ vào chai. Tuy chai xị không có đặt
phễu, thế mà thím rót không đổ ra ngoài một giọt. Cầm chai rượu đưa
cho bà Cà Xợi, thím Ba ú nhìn bà Cà Xợi lúc lâu và hỏi bằng tiếng
Khơ me:
- Ne, néak dâng rương ây tê? Bà Cà Xợi lắc lắc cái đầu tóc bù rối
vàng sém:
- Rương ây? Thím Ba ú nói rỉ vào tai bà:
- Nè, thằng Xăm nó mới về Tri - Tôn đó nghe! Hôm qua, tôi đi bổ hàng
(3) ngó thấy nó ở trên xe nhà binh nhảy xuống... Bà Cà Xợi chớp chớp
mắt, hỏi lại:
- Thằng Xăm hả, thằng Xăm nó về Tri - Tôn hả? Hỏi thế xong, bà ngó
xuống đất, dáo dác như tìm kiếm vật gì bà vừa đánh rơi. Rồi bà lập
cập đi ra cửa. Lần này, bà vấp chân nơi ngạch cửa, ngã chúi. Cái
chai rượu bà cặp ở nách rơi xuống đụng phải ngạch cửa, vỡ toang,
rượu chảy lênh láng trên nền nhà. Nhưng bà bước đi luôn, người rướn
tới. Thím Ba ú phục phịch chạy theo, đưa cánh tay béo mập nắm lấy
tay bà Cà Xợi kéo lại. Thím Ba nói vội vã:
- Thím Cà Xợi, thôi trở vô tôi đong cho chai khác cầm về. Đi đi, vô
đây! Thím Ba ú kéo bà Cà Xợi trở vào. Rồi thím đi tìm lấy cái chai
xá xị không, đong rượu vào, nhét nút và đưa bà Cà Xợi:
- Cầm kỹ nghe, coi chừng rớt nữa đa!
Tội nghiệp, bà Cà Xợi bây giờ giống như một đứa trẻ, dặn sao làm
vậy. Bà nắm cổ chai rượu thật chặt, lùi lũi bước ra cửa quán. Dọc
đường về nhà, bà vấp ngã liên miên, mấy lần lồm cồm trở dậy trong
đêm tối. Nhà bà Cà Xợi ở khỏi ngã ba một đỗi, trơ vơ một mình, không
ở gần nhà nào cả. Bấy giờ trong cái nhà bé nhỏ một gian ấy, cô Cà Mỵ
đang ngồi bệt trên tấm đệm trải đất, tay thoăn thoắt đan bao cà -
ròn. Cạnh cô đặt một cây đèn dầu có chân, cháy tỏa ra ánh sáng vàng
vọt. Thấy mẹ về, Cà Mỵ ngước mắt nhìn mẹ một cái rồi lại cắm cúi đan
tiếp. Cà Mỵ có khuôn mặt gần với khuôn mặt bà Cà Xợi hơn thằng Xăm.
Cô mười chín tuổi, vóc vạc phây phây coi rất khỏe. Nước da cô cũng
nâu rám, nhưng trắng hơn nước da bà Cà Xợi. Cặp mắt Cà Mỵ đen to,
lông mi ở mắt cô rất dài, mướt mượt. Dưới ánh đèn không lấy gì làm
sáng đó, môi Cà Mỵ vẫn đỏ tươi. Cô là hình ảnh bà Cà Xợi ngày trẻ,
nhưng theo lời bà con Hòn Đất thì cô trội hơn bà Cà Xợi ngày trẻ.
- Cà Mỵ à, thằng Xăm nó về rồi, nó về Tri - Tôn rồi! Cà Mỵ ngước
lên, nhớn nhác:
- Về Tri - Tôn à? Ai nói với má?
- Thím Ba ú nói!
Bà Cà Xợi cho con gái hay cái tin đó rồi lại bộ ván, ngồi kéo xổm
một gối lên. Lát sau, bà rót rượu ra chén, uống như uống nước. Nhưng
bà chỉ uống một chén. Rồi ngồi đó, bà ngó bóng mình in trên vách.
Đêm nào cũng vậy, sau khi đan xong hai hoặc ba bao cà - ròn, bà Cà
Xợi lại uống một chén rượu. Ai người ta uống rượu vào thì say và
quên hết mọi sự, chớ bà Cà Xợi uống rượu vào thì ngược lại, càng
uống vào bà càng tỉnh và nhớ hết. Bà nhìn Cà Mỵ (thường khi cô vẫn
còn ngồi đan mải mốt), nhớ lại thời bà bằng tuổi nó, nhớ những cái
nồi đất nung đỏ rực do tay bà nắn, nhớ những đêm dù - kê anh Thạch
Kha bên Sóc - tưng qua sắm vai hoàng tử còn bà thì sắm vai cô gái
bắt ốc. Rồi bộ mặt của chủ Mưu hiện lên, rồi kiếp sống trong cái nhà
nền đúc phông - tô. Những ngày cực mà vui với anh Thạch Kha. Tai hoạ
đến, hình ảnh Thạch Kha ngã sấp trước nhà, hai tay vã xuống đất. Bà
nhớ tất cả, nhớ giữa lúc nhìn bóng mình in trên vách và nhìn bóng
con gái đang đươn đát. Bà không quên ngày bà được cách mạng cấp đất.
Rồi thì là thằng Xăm, với những bà con anh em bị nó mổ bụng, đập
đầu. "Thằng Xăm mới về trên quận! " tiếng của thím Ba ú nói ban nãy
bây giờ hãy còn văng vẳng bên tai bà. "Lại đi bắn giết bà con nữa
chớ gì? " bà lẩm bẩm nghĩ bụng rồi muốn kêu:
- "Trời ơi nó léo hánh về đây chi vậy hở trời? Phải chi nó chết đi
có hơn không? " Người mẹ nào mà lại muốn con mình chết? ấy vậy mà
nhiều lần bà Cà Xợi mong mỏi cái chết đến với thằng Xăm đấy. Bởi bà
nghĩ nếu thằng Xăm chết, chắc bà sẽ bớt khổ hơn. Nếu nó cứ còn sống
và đi sát hại mọi người thế này mãi thì đến lúc nào đó chắc bà phải
chết. Hoặc là nó chết, hoặc là bà chết. Chỉ có một trong hai lẽ ấy
mới xong. Cà Mỵ có lần nói với bà:
- Má sanh y ra làm chi? Y không phải anh của tui đâu! ấy, Cà Mỵ có
lần nói bà như thế. Bà cũng có lần bảo với lối xóm:
- "Thằng Xăm, nó có phải là con của tôi đâu!" Nhiều lần bà xuống
giọng van vỉ:
- "Mấy người làm ơn làm phước đừng coi nó là con của tôi."
Nhưng sau câu nói đó, bà Cà Xợi càng đau lòng như điên như dại. Một
người mẹ đẻ con ra vì lẽ gì đó mà không dám nhận là con của mình thì
sự đau lòng đã lớn rồi, chỉ có cái mức độ ít hay nhiều. Bà Cà Xợi
thì đau lòng thái quá, và vì bà vốn lại là một người Khơ me có tánh
tình ngay thật, nên nỗi đau đớn đó ghê gớm lắm, có lúc làm bà như
đãng trí. Bảy năm nay, bà Cà Xợi ở trong trạng thái như điên như
không điên. Nét mặt bà ngơ ngác, khoen mắt bà càng tím đậm, và người
ta ít thấy bà đi ra đường ban ngày. Bà chỉ hay ra đường lúc bóng đêm
sụp xuống. Có lẽ bà cho là đêm đen sẽ phủ kín để không ai nhìn thấy
bà. Có đến hàng trăm lần bà đã lựa lời khuyên thằng Xăm. Trước mặt
bà, thằng Xăm không bao giờ cãi. Có khi hắn ngúc ngoắc đầu vẻ khó
chịu, hoặc nói giả cách bậm trợn:
- "À, má nghe lời Việt cộng dụ tôi hả?" Nhưng rồi hắn cười ngay. Nụ
cười của hắn coi còn hiền lành nữa là khác. Những lúc gặp mẹ, thằng
Xăm chừng như có vẻ trở lại hình dáng một đứa con, chớ không có cái
dáng dấp của một thằng biệt kích. Thành ra ban đầu bà Cà Xợi cứ lầm
lẫn, cứ ngờ ngợ không biết con mình nó có mổ bụng moi gan người thật
như người ta đồn đãi không. Nhưng rồi bà không còn ngờ ngợ gì nữa.
Một hôm, thằng Xăm ghé nhà. Thấy khóe mép hắn dường như chảy máu, bà
Cà Xợi kêu:
- Sao miệng mày chảy máu vậy, Xăm? Thằng Xăm vội đưa tay chùi mép,
không nói chi hết. Khi hắn đi rồi, bỗng Cà Mỵ từ ngoài xóm hơ hải
chạy về ôm mặt rú lên và cho biết thằng Xăm vừa mổ bụng hai người ở
bãi Tre, lấy gan, vô nhà bà con mượn đĩa nhôm xào ăn. Bà Cà Xợi nghe
nói té xỉu. Lúc tỉnh dậy bà sực nhớ những vết máu rây ở mép thằng
Xăm thì lại ngã quay ra xỉu một lần nữa. Lại một hôm khác, thằng Xăm
đi biệt kích ở Vàm Răng bắt về mấy người chẳng biết là cán bộ hay
dân thường. Nghe tin thằng Xăm sắp mổ bụng họ tại ngã ba, bà Cà Xợi
vội chạy ra định năn nỉ thằng Xăm tha cho họ. Khi bà chạy ra đến nơi
thì thằng Xăm đã dùng dao bén khoét đít mấy người này, khoét sâu lõm
vào. Rồi hắn mở trói. Những người này được mở trói vừa nhỏm tới thì
ruột đã lòi ra ở phía sau. Lần ấy, bà Cà Xợi thét lên một tiếng rồi
cũng ngã lăn bất tỉnh ở giữa đường. Thằng Xăm sai lính khiêng bà về
nhà. Lúc chiều tối, bà tỉnh dậy, thấy Cà Mỵ đứng bên, bà liền chỏi
chỏi hai bàn tay thét to:
- "Trời ơi! Thằng Xăm, mày đi đi! " Bà con nói rằng bà Cà Xợi bắt
đầu điên dại là kể từ hôm đó. Điều này cũng có phần đúng mà cũng có
phần không hẳn đúng. Bà Cà Xợi điên hay không điên thiệt là chuyện
khó phân dứt khoát. Bởi vì đối với làng xóm bà chẳng phá phách gì,
mà chỉ tỏ vẻ sợ sệt lẩn tránh một cách đáng thương. Vả lại có lúc bà
rất tỉnh. Như mua chịu đồ ở quán thím Ba ú bao nhiêu, bà nhớ hết và
tới kỳ đếm bán cà - ròn, bà đều bảo Cà Mỵ trả đủ hết. Đan bao cà -
ròn bà cũng đan khéo như ngày trước, chẳng lẫn một cọng bàng nào.
Nhưng có điều là khi gặp người đi ngang cửa, bất kỳ người đó là ai,
bà chạy xổ ra, ngồi thụp xuống ôm chân người đó khóc hu hu. Tiếng
khóc của bà khi ấy như lời van xin thứ tha tội lỗi. ở Hòn Đất, những
người như anh Hai Thép, anh Năm Tấn, anh Ba Rèn, mẹ Sáu, chị em Sứ,
là những người thường phải khổ tâm gỡ tay bà ra nhiều lần nhất.
Những người đó cũng là thường hay đến nhà bà nhất. Trước kia đến là
để bầy vẽ cho bà khuyên bảo thằng Xăm; sau này cái chuyện lôi kéo
ngăn chặn thằng Xăm không có hiệu quả, họ vẫn đến để an ủi giúp đỡ
bà. Anh Hai Thép có bảo:
- Thím Cà Xợi à, bà con chúng tôi đều thương thím với con Cà Mỵ.
Thím đừng sợ, bà con không bỏ thím đâu! Thế là bà Cà Xợi lại òa khóc
nức nở. Trong chuyện đi đấu tranh trực diện, ban đầu bà không dám đi
vì nghĩ rằng mình không đáng được đi. Nhưng mẹ Sáu và bà con bảo:
- Thím Cà Xợi, thím sửa soạn đi với tụi tôi đi! Nghe bà con rủ thế,
bà Cà Xợi mừng rỡ khôn xiết. Chen vào hàng ngũ đấu tranh mà đôi chân
bà cứ quýnh lên, lập cập. Từ đó, không có cuộc đấu tranh nào vắng
mặt bà. Chính vì vậy mà lần nọ bà đã đứng đối mặt trước thằng Xăm,
trước mũi súng. Với sức mạnh vô song của người mẹ, trong cái phút
quyết liệt ấy, bà đã điều khiển được mũi súng không cho nó nổ lấy
một phát, để đoàn người tràn lên... Vậy chuyện bà Cà Xợi điên hay
không điên là như thế. Và một điều rõ ràng hơn nữa là hầu hết những
người ở Hòn Đất đều không có ai căm thù bà. Họ cho rằng bà Cà Xợi là
một người Khơ me nghèo cực, còn cha con thằng Xăm thì lại là cha con
thằng bóc lột. Nhưng riêng bà Cà Xợi sao bà vẫn thấy lướng vướng.
Bởi nói gì đi nữa thì bà vẫn là người đẻ ra thằng Xăm. Nó thuộc
huyết hệ của bà. Tất cả nỗi đau khổ của bà đều ở chỗ đó. Còn Cà Mỵ,
cô có khá hơn. Không phải cô chỉ nói ngoài miệng:
“Y không phải là anh tôi", mà trong thâm tâm, cô cũng thấy thằng Xăm
xa lạ. Chẳng những xa lạ mà còn đầy ác cảm. Những lúc thằng Xăm ghé
tạt qua nhà, cô không thèm nói với hắn một tiếng. Cô giãy nảy la lối
và buồn rầu thật sự nếu ai nói chuyện về thằng Xăm mà có dính líu
tên cô vào đó. Trong năm đen tối, cô đến với anh em cán bộ, đến với
cách mạng mới tội nghiệp làm sao! Chừng như cô chạy nhào đến, chừng
như sau lưng cô có lửa rượt vậy. Cà Mỵ giờ là đối tượng cảm tình của
chi đoàn thanh niên. Mới đây, sau khi được mời đi dự mấy cuộc họp
đoàn, Mỵ càng tỏ ra chăm chỉ. Đi cắm chông, đi đào hầm núp, đi làm
gì Mỵ cũng mau lẹ. Cô hay hát và hát hay. Những bài cha mẹ Mỵ hát
ngày xưa, giờ Mỵ hát lại khiến người lớn tuổi nghe đều bồi hồi nhớ
những đêm lội ruộng đi coi dù kê bên Sóc - tưng, nhớ anh Thạch Kha
và mẹ cô hồi trẻ. Còn bà Cà Xợi khi nghe con hát, mặt bà cứ đờ đẫn,
nước mắt chảy ròng xuống má. Một người đàn bà như vậy mà phải sanh
tật uống rượu, thật đáng thương. Bà Cà Xợi uống rượu từ khi thằng
Xăm nổi lên hung ác, từ khi hắn xát vào lòng bà nỗi đắng cay khôn
tả. Chính tấm lòng đã cưu mang hắn từ thuở hắn chưa có tên, chưa có
cái tên Xăm. Đêm nay cũng vậy, bà Cà Xợi lại uống...
Đáng lẽ như lệ thường, bà chỉ uống một chén. Nhưng giờ uống hết chén
thứ nhất, bà lại run rẩy mở nút chai, rót thêm chén nữa. Chén rượu
thứ hai bà uống chậm rãi chớ không uống vội như chén trước. Cà Mỵ
cắm cúi đan, miệng lầu bầu:
- Má uống nữa hả? Thôi, má không được uống nữa! Thôi đi... má ơi!
Ngoài đường bấy giờ chợt có tiếng chó sủa gâu gâu. Rồi có tiếng hỏi
từ sân vọng vào:
- Mỵ ơi, ôn min nâu phờ téc tê? Cà Mỵ nghe ra tiếng Quyên, liền
buông cái bao đan dở, đứng dậy đáp ra:
- Chà min Cô lè lẹ mở cửa. Quyên đợi Mỵ ở sân, kéo tay Mỵ ngồi
xuống, thì thầm:
- Nè, Mỵ đã hay gì chưa?
- Chưa.
- Giặc rục rịch sắp bố đấy. Một chút nữa sẽ có loa thông báo cho bà
con hay. Lính về Tri - Tôn đông lắm. Anh em du kích đều đã chuẩn bị.
Tôi mới đi xuống chông về đây! Mỵ thắc mắc:
- Sao không kêu tôi đi?
- Cà Mỵ có chuyện làm mà, đừng lo. Kỳ này định để Cà Mỵ ở trong tổ
hợp pháp. Mỵ biết không, nghe có thằng Xăm về Tri - Tôn nữa đó?
- Em biết rồi! Quyên rủ rỉ:
- Cà Mỵ nè, nếu càn vô đây, mình đánh chông đánh lựu đạn đã đành,
nhưng phải đấu tranh, phải giúp đỡ du kích. Cà Mỵ chưa bị lộ, với
lại tụi giặc nó cũng nể Cà Mỵ là em thằng Xăm, Cà Mỵ ráng lo công
chuyện liên lạc, tiếp tế... Cà Mỵ nằn nì:
- Thôi mà, để em đi gài lựu đạn cho!
- Lựu đạn thì có người khác gài rồi. Cà Mỵ ngẫm nghĩ một giây, rồi
nói:
- Thôi được. Thiệt... Mỵ không muốn gặp mặt tụi nó chị Quyên à. Gặp
tụi nó khó chịu lắm! Quyên quàng cổ Mỵ, thân thiết:
- Thì có ai muốn gặp tụi nó đâu, nhưng cách mạng cần vậy... à, mấy
anh có dặn, Mỵ phải khéo léo đừng nóng nẩy, có tức mình cũng ráng
dằn xuống, khi cần nói ngọt phải nói ngọt, cần hát Xa ri ca keo cũng
cứ hát... Đó, vậy đó, chắc Mỵ dư hiểu rồi. Tin tưởng Mỵ lắm à, nghe!
Cà Mỵ mím môi, gật mạnh đầu trong bóng tối. Trước khi Quyên ra về.
Cà Mỵ ôm chầm Quyên hôn chùn chụt rồi mới buông cho Quyên đi.
3
Cánh cửa nhà ông Tư Đờn đã khép chặt. Ngạn và hai đội viên của đội
anh là Trọng và Tới đang mặc những bộ quần áo biệt kích. Ngạn mặc
xong bộ đồ rằn sĩ quan gắn lon thiếu uý, liền chụp lên đầu cái kết
ba rèm. Tới và Trọng cũng đã cải trang xong.
- Sao, coi giống chưa? Tấn nói:
- Giống lắm. Thế nào thằng Ba Phi cũng bị mắc! Tới và Trọng khoác
mỗi người một khẩu tôm - xông, Ngạn rút khẩu côn 12, tháo băng, lảy
đạn trên lòng bàn tay. Đếm thấy đạn vẫn còn đủ tám viên, anh đóng
băng cho súng vào bao. Năm Tấn không mang súng. Anh giắt cây mã tấu
sáng lóa ở sườn, được thít ngang bằng một cái khăn choàng sọc. Ngạn
nói:
- Đi thôi! Bốn người mở cửa ra khỏi nhà. Họ đi một mạch khỏi xóm Vạn
Thanh, băng qua ruộng. Vào gần tới đầu xóm Vạn Hiệp. Tấn bảo ba
người ngồi đợi, để anh vào bám. Ba người ngồi được một chốc thì Tấn
trở ra, thì thào:
- ????????, đi đi! Bốn người lại đi. Tấn dắt mọi người đi men ra bờ
sông. Xa xa, phía trước mặt đã thấy ánh đèn trại đáy Ba Phi. Nước
sông đang đổ ra biển, réo lên ở những chỗ xoáy. Ngọn đèn xanh treo ở
cột đáy giữa cứ rung lên bởi dòng nước chảy xiết. Năm Tấn khẽ bảo:
- Đêm nay đáy nó không đóng?
Lệ thường đêm nào có đóng đáy thì một cột đáy có treo đèn đỏ. ánh
đèn xanh ngoài cột đáy Ba Phi soi lờ mờ một khoảng nước sông cuồn
cuộn. Trại đáy hiện rõ dần. Nói là cái trại chứ nó là cả một cái nhà
sàn cất chìa ra sông, gác mình trên những cây cọc lớn. Trong nhà le
lói ánh đèn. Càng tới gần, mọi người càng ngửi thấy rõ mùi tanh của
tôm cá, mùi muối, mùi vỏ sắn ngâm, những cái mùi mà bất cứ trại đáy
nào cũng có. Tấn rỉ tai Ngạn:
- Nó có ở nhà?
- Được rồi, để tụi tôi vào. Anh cứ đợi đây! Dứt lời, Ngạn và Tới,
Trọng bước dấn lên. Đã quen xông xáo vào những nơi nguy hiểm, Ngạn
đi riết thẳng tới cửa không chút do dự. Tới và Trọng bám sát gót
Ngạn. Ngạn dừng lại ở cửa nghe ngóng. Bên trong có tiếng nói chuyện
rầm rì. Ngạn cố lắng nghe mà nghe không rõ. Anh giơ tay vỗ độp độp
vào tấm cửa lợp lá. Tiếng nói chuyện bên trong im bặt. Ngạn lại vỗ
cửa một lần nữa và khẽ gọi:
- ạng Ba có nhà không? Trong nhà im thin thít. Lát sau, ở trong bỗng
cất lên một tiếng hỏi rất dõng dạc:
- Ai kêu cửa đó?
- Tụi tôi đây, mở cửa đi! Ngạn nghe có tiếng dép kéo lẹp xẹp trên
sàn ván, đi ra phía cửa. Kế đó, nghe cây ngáng cửa phía trong rút
"soạt" một cái. Cánh cửa mở hé. Một mụ đàn bà, mặt bự thịt, xách cây
đèn trai giơ lên. Mụ đưa cặp mắt lá răm liếc nhìn Ngạn. Ngạn chưa hề
gặp mụ ta bao giờ. Nhưng anh đoán chắc đây là mụ chủ trại đáy. Anh
hỏi:
- Có ông Ba ở nhà không? Đôi con mắt lá răm của mụ đàn bà chợt nháy
sáng:
- Có, có. Mời mấy ông vô nhà. Ngạn đưa tay lên miệng ra hiệu bảo mụ
nói khẽ. Mụ đàn bà nánh ra một bên cho anh bước vào. Tới và Trọng
cũng vào theo. Ngạn thản nhiên đưa gót giày đá khép cánh cửa lại.
Vừa lúc ấy, tấm màn che cửa buồng bên trái chợt động đậy và một cái
đầu sói bóng thò ra. Đó là một thằng đàn ông trạc chừng năm mươi
tuổi, mặc áo thun lá, người mập bệu, hai mắt thoạt trông có vẻ lờ đờ
như người mới ngủ dậy. Ngạn gật đầu chào y:
- ạng là ông Ba Phi? Y khom lưng, chắp hai tay vô ngực:
- Thưa phải! Nhìn cái vẻ cóm róm của y, Ngạn thấy công việc bước đầu
đã xuôi lọt. Anh bảo:
- Tôi có chuyện muốn nói với ông. Xin tự giới thiệu, tôi là thiếu úy
ở đại đội ông Xăm. Trung uý phái tôi tới gặp ông... Anh giơ tay chỉ
bao quát phía sau lưng nhà:
- Tụi tôi mới ở chi khu vô tới.
- Biết rồi, biết rồi... Xin mời quý ông vô trong này! Nói xong, y
vén tấm rèm vải lên. Ngạn bước qua cửa rèm. Bên trong là gian buồng
rộng, có kê một bộ ván ngựa lên nước rất bóng. Trong nữa là một cái
giường lớn đã buông mùng. Ba người đi lại ngồi lên bộ ván ngựa. Ngạn
nheo mắt nhìn qua gian buồng rồi quay lại nói:
- ạng ở đây sung sướng quá hả? Tụi tôi không được ăn ngon ngủ yên
như ông đâu... Việt cộng lóng rày phá rối dữ lắm! Tên chủ trại đáp
lại cung kính:
- Dạ, thưa thiếu úy tôi cũng biết. Hồi xế, tôi có hay tin quý ông
về. Vợ chồng tôi mừng lắm. ở đây, vợ chồng tôi mong mỏi quý ông về,
đợi hoài, đợi hoài... Tới đây, y ngó vợ bảo:
- Này, nấu nước đi! Đoạn y nhướn mắt chỉ tay ra ngoài:
- Mấy ông về nằm ở ngoài hết rồi hả?
- Ừ.
- Trời đất, tôi có hay biết gì đâu, mấy ông về êm quá! Kế đó y chửi
tục một câu, rồi rít chặt hai hàm răng:
- Đ. mẹ, trận này cho tụi nó thấy mẹ hết. ở đây, tụi Việt cộng nó
lộng lắm, thiếu uý. Để tôi chỉ thằng nào con nào, ở đây, tôi nắm hết
thảy. Tôi chỉ cho ông "xạ" tụi nó như xạ mỏ nhác chơi! Ngạn gật đầu:
- Tôi gặp ông cũng là vì chuyện đó.
- Được, được.
Vừa nói tên Ba Phi bước nhón tới cái kệ treo trên vách, bưng lại một
cái khay bằng gỗ trắc đen mun. Trên khay có bộ ấm chén sứ vẽ hình
con rồng màu đỏ, và một gói thuốc thơm hiệu Ru - bi. Y mở gói thuốc,
rút thuốc cung kính đưa mời Ngạn, Tới và Trọng, rồi đi vào bếp coi
nước. Ngạn cầm điếu thuốc, khẽ động đầu điếu thuốc vào móng tay cái.
Mụ vợ, sau khi đã bắc ấm nước lên bếp, giờ bước ra đứng xán gần
Ngạn, híp mắt hỏi:
- Mấy cậu còn "ém" ở đây lâu không? Ngạn đáp:
- Lâu. Chi vậy? Đuôi mắt lá răm của mụ Ba Phi nháy rất lẳng:
- Mấy cậu có muốn "lai rai" chút đỉnh "ba xị đế" không? Nghe mụ ta
hỏi, Ngạn nghĩ:
“Mình không nên từ chối". Anh đưa mắt liếc mụ đàn bà, cười lại với
mụ, chân nhịp nhịp:
- Có tôm cua gì không?
- Chà, bữa nay tôm cua tươi không có. Có tôm khô... à, mà mấy cậu ăn
cháo vịt nghe, có vịt tơ mập lắm!... Rồi, không đợi Ngạn trả lời, mụ
quay vào bếp khiển chồng:
- ạng ơi, bắt vịt đi ông, bắt hai con!... Thằng chồng đang đứng coi
lửa ở trong đáp:
- Ờ, được, để đó... thiếu úy với mấy cậu uống trà, nước sôi rồi! Y
xách ấm nước ra, chế vào bình đã bỏ trà sẵn. Đợi một chốc, y nhấc
bình rót nước ra các chun. Xoa xoa đôi bàn tay béo múp míp, y mời
mọi người uống. Y cũng hớp vội một chun, khà khà rồi để ba người
ngồi đó, xăng quần bước tới rút mấy cây lót sàn, buông chân xuống.
Tiếng vịt kêu cạp cạp. Ngạn ngồi cầm chun trà ngó xuống thấy tấm
lưng của thằng chủ trại trắng hếu. Y đang quờ quạng chụp vịt. Ngạn
ngó thấy nó hăng hái bắt vịt bao nhiêu lòng anh càng căm giận bấy
nhiêu. Anh nghĩ bụng:
“Thằng này quả là một thằng tay sai đắc lực". Bầy vịt càng kêu và
chạy tán loạn dưới sàn. Con mụ vợ ngồi chổm hổm trên sàn, miệng ngậm
mấy sợi lạt dừa. Thằng chồng bắt được con vịt nào đưa lên, mụ ta
liền thộp chéo cánh, lấy lạt dừa trói chân liệng xuống sàn. Bắt vịt
rồi, thằng chồng lội sồn sộn ra sông tắm. Tắm xong, y lên nhà đi
vòng ra phía sau, giội lại nước ngọt nghe ào ào. Mình y vận một cái
xà - rông sặc sỡ, sột soạt đi ra, tay cầm lược chải cái đầu sói sọi
chỉ còn lại mớ tóc ốp xuống ót. Ngạn đưa tay ngoắc y:
- ạng Ba, để khỏi mất thì giờ, trước khi ăn cháo vịt, mình bàn công
chuyện một chút!
- Dạ, được!
- ạng có bản đồ vùng này chớ?
Tên chủ trại đáy không đáp, lùi lũi đi vào nhà sau. Một lát, y trở
ra, hai ngón tay kẹp một cái ống trúc đã khô. Y ngồi xuống ván, để
cái ống trúc đó lên bắp vế, và lôi ra từ ống trúc một tấm giấy cuộn
nhỏ bằng mút đũa. Ngạn với cầm cuộn giấy trên tay y, tháo ra. Tới và
Trọng lanh lẹn nhấc bốn cái chun nước dằn bốn góc ra để t‘ấm bản đồ
đừng vo cuộn lại. Trên tờ giấy manh nguyên, Ngạn thấy nét bút chì bi
màu xanh vẽ vụng, nhưng rất chi li: nhà cửa, vườn cây, và những
khoanh tròn như trôn ốc mà anh đoán là các hòn. Nhưng trông thế thì
biết thế, chứ anh không hiểu ra nổi. Tên chủ trại đáy chợt đưa mắt
nhìn anh. Sau đó, y nhớn nhác trông ra cửa, cánh cửa đã gài tự nãy
giờ. Ngạn nói:
- Đừng sợ, xung quanh đây không có ai ngoài lính của tôi. ạng cứ
việc nói. Chắc ông biết là ngày mai tụi tôi đánh vô Hòn...
- Tôi biết... Tên chủ trại đáp khẽ rồi kéo mí xà - rông nơi bụng vận
guộn lại cho chặt, người hơi nhổm tới. Cái móng tay trỏ để dài, vàng
khè khói thuốc của y gí tới gí lui trên tấm bản đồ:
- Đây, cái nhà nào tôi có đánh dấu chéo đỏ là nhà tụi Việt cộng ráo.
Thiếu úy chú ý nghen! Ngạn lập lại:
- Nhà có dấu chéo đỏ... biết rồi! Tên chủ trại đáy lại dùng móng tay
cái, cũng cáu bẩn như ngón trỏ của y, bưa bưa xuống mặt giấy:
- Ở cụm này có một cái công trường của tụi nó chế súng tự tạo. Chỗ
đó, tôi có báo cáo một lần rồi, máy bay tới liệng cháy rừng mà tụi
nó vác chạy được hết... Còn hang Hòn đây rất nguy hiểm. Trận càn
trước, tụi nó rút vô hang, mình tấn vô bao nhiêu chết bấy nhiêu. Nay
nếu muốn đánh phải cắt đường rút vô hang mới được. Nghe tên điệp
nói, Ngạn nghĩ thầm:
“Mẹ, thằng này lợi hại thật!... Được rồi, tao sẽ giết mày như giết
một con chó! " Đợi cho tên chủ trại đáy vạch đường chỉ nẻo xong
xuôi, Ngạn cuốn tấm bản đồ lại, đưa trả y và vỗ vai y.
- Được rồi. Tốt, tốt lắm!... Trận này mà kết quả thế nào ông cũng
được lãnh tiền thưởng. Quay vào bếp, Ngạn vui vẻ cất tiếng:
- Sao, có gì nhậu được chưa, bà chủ trại đáy?
- Có, có... Món lòng xào rồi đây! Mụ chủ nói và đảo chiếc vá xúc
chạm đáy chảo nghe xoang xoảng. Rồi mụ lạch bạch bưng ra một đĩa
lòng vịt xào hành. Lòng của hai con vịt đầy vun một đĩa, coi rất sum
sê. Thằng chồng ghé mũi xuống đĩa lòng đó, hít hít rồi dón chân lỏn
vào buồng trong cắp ra một chai rượu "Rồng xanh" thứ lớn, đồng thời
bốn ngón tay y kẹp theo bốn cái ly. Y kề chai rượu "Rồng xanh" lên
miệng, cắn nhá cái vỏ nút bằng nhựa đỏ, phun phèo phèo. Ngạn ngó đĩa
lòng xào, đột nhiên nhìn thẳng vào mặt tên chủ trại đáy, hỏi:
- Nè, ông Ba có lần nào nếm thịt người ta chưa? Tên chủ trại đáy
nghe hỏi liền đặt chai rượu xuống ván, ngó Ngạn, lắc đầu:
- Cha cha... thưa thiếu uý, cái món đó thì tôi chưa dám. Tôi nghe
nói nhiều ông ăn khen ngon... Còn tôi, tôi hơi ngán! Ngạn cười, hỏi
tiếp, nửa giỡn, nửa thật:
- Vậy làm cái nghề chỉ chọc này ông không ngán sao?
- Có gì đâu mà ngán, thưa thiếu úy. Cái chánh là phải kỹ... Tôi
không phải là thằng dại, tôi đâu có chường mặt... Nói thế xong, tên
chủ trại đáy thu hai tay vào bụng, ghé miệng sát tai Ngạn hỏi:
- Thiếu úy à, thiếu úy có nếm qua cái món đó chưa?
- Món đó là món nào?
- Thịt... thịt người ta ấy mà!
- À... Ngạn đưa mắt nhìn về phía Tới và Trọng, bảo:
- Hai thằng này thì có nếm. Còn tôi, tôi không ăn. Thịt người thì có
thiếu gì, tại tôi không ăn... Tôi chỉ ăn gan thôi. Với lại tôi khoái
mật. Mật người pha rượu uống khỏi sợ ho lao. Nói thế rồi Ngạn hỏi
ngược lại y:
- Còn ông, nói giả tỷ nếu có, ông dám ăn không? Tên chủ trại đáy
lặng im. Lát sau, y ngúc ngoắc cái đầu sói, cười khè:
- Thiệt tình là ghê quá... Nhưng giả tỷ có, tôi cũng nếm thử coi nó
ra làm sao mà mấy ổng khen ngon dữ quá!
- Được, mai tôi sẽ cho ông một hai ki - lô. Thế nào mai cũng có! Rồi
vờ như sực nhớ ra điều gì. Ngạn hỏi:
- À, tôi quên... Còn mấy người làm chung công chuyện với ông thì
sao?
- Mấy người làm đáy cho tôi à? Ngạn lắc đầu. Tên Ba Phi hiểu ra, bèn
nói:
- Ạ, ạ... không, tôi không làm chung với ai ở đây hết. Tôi sợ làm
chung với nhiều người lắm. Hai vợ chồng tôi đủ rồi. Tới đây, Ngạn
thấy chẳng cần kéo dài tấn kịch này một cách vô ích. Bấy nhiêu cũng
đủ lắm. Bấy nhiêu cũng đủ khiến tim anh sôi lên rồi. Anh đưa mắt
nháy Tới và Trọng. hai người nheo mắt đáp lại. Ngạn vỗ nhẹ vào vai
tên chủ trại đáy bấy giờ đang cúi rót rượu ra ly:
- Thôi ông bạn, đừng rót nữa. Không ai uống đâu. - Đang nói, Ngạn
đứng phắt lên quát:
- Dẹp đi! Nói cho mày biết, tao không phải là ngài thiếu úy của mày
đâu. Chúng tao là lực lượng võ trang cách mạng tới bắt mày đây, hiểu
chưa? Lúc Ngạn mới bắt đầu nói, Tới đã gí sát nòng khẩu tôm - xông
vào ngực tên chủ trại đáy. Y chỏi tay, la:
- ?????, ê... đừng giỡn!
- Không giỡn đâu! Ngạn lấy dây trói thúc y lại. Mụ vợ bị Trọng lôi
xềnh xệch từ bếp ra. Lát sau, cả hai vợ chồng mới vỡ lẽ, mặt tái
mét. Thằng chồng chưa uống một giọt rượu nào mà mắt cứ đỏ ngầu lên.
Sau lần dây trói, hai tay y run giật. Con mụ vợ trố mắt, cái cặp mắt
kinh dị và sợ hãi muốn đứng tròng.
4
Ba người giải vợ chồng tên chủ trại về tới đầu xóm Vạn Thanh thì đêm
đã khuya. Tấn cho hai du kích dẫn vợ chồng tên chủ trại về Hòn. Còn
Ngạn, Tới, Trọng, sau khi thay quần áo, cùng Tấn vào ven vườn, chỗ
bố trí chiến đấu. Ven vườn này giáp với những cánh đồng rộng trải từ
Tri Tôn đến vùng Hòn. Địch muốn đánh Hòn Đất, thường chúng ập vào
đây trước. Ba người mới len vào vườn thì gặp anh Ba Rèn. Ba Rèn hỏi:
- Sao? Bắt được nó chưa? Tấn đáp:
- Bắt đưa về Hòn rồi! Mọi người kể cho Ba Rèn nghe chuyện bắt vợ
chồng tên chủ trại đáy, Ba Rèn khoái chí cười ha hả. Anh kéo tay mọi
người chỉ vô vườn, nói:
- Hiện anh em còn đào công sự. ạng Tám Chấn mới tới bảo phải đào
công sự cho tổ ba ba. Đào riêng, nhưng chụm lại thành tổ. ổng nói
không có hầm ở ven vườn thì không thể đánh được. Và ổng còn hăm nếu
hầm đào không kỹ thì ổng không cho đánh. 99 100
- Anh đâu rồi?
- Ổng với Hai Thép về rồi. Cả cô Nhớ, chú Diệp, ổng cũng kêu về
trỏng hết! ạng Tám Chấn bình thường thấy ổng dễ, tới chừng làm công
chuyện tôi ngán ổng quá! Ba Rèn nói xong xách cây đèn chai xăng xái
dắt ba người ra ven vườn. Vừa đi anh vừa dặn:
- Đi theo tôi nghe, coi chừng chông lụi què đa! Năm Tấn vốn thạo
đường, ở đâu có hầm chông anh ta đều biết. Ngạn không thạo, nên anh
bám sát chân anh Ba Rèn. Họ đi xuyên qua đám vườn mãng cầu ta rậm
rạp. Mùi mãng cầu chín bay thơm ngát. Thỉnh thoảng lại có một trái
mãng cầu chín rụng cái "bịch" gần đó. Ngạn nói:
- Chống càn ở đây không sợ đói. Cùng lắm lượm mãng cầu ăn cũng sống
được. Tấn bảo:
- Mãng cầu ăn xót ruột lắm, thứ đó không ghé tôi. Đói thì tôi kiếm
chuối chín bói, vững hơn. Ba Rèn cười:
- Chưa chi mà mấy cha lo đói. Tôi thì cứ lo mấy cây "quảnh tầm sào"
của tụi tôi hẻo (3) đạn quá, với lại không biết mấy "ông ngựa trời"
có khẹt ra lửa được không?
- Nghe đồn mấy cây ngựa trời đem thử nổ nghe đã lắm mà?
- Bắn thử thì nổ ngon đó, còn bắn thiệt không biết ra sao!
- Chắc nổ mà... ờ, còn cái vụ đạn thì hẻo thiệt đó! Tụi tôi cũng ít
lắm. Nên phải chơi kỹ mới được!
- Hai Thép với anh Tám Chấn có dặn mình ở đây ráng tiêu hao nó. Cùng
lắm mới rút vô hang. Ngạn gật đầu:
- Như vậy là đúng. Chừng nào nột quá hẵng rút vô hang. Cái hang đó ở
trong đánh ra cũng sướng. Tôi tính một người mình ngồi tại miệng
hang thủ một cây búa, tụi nó cũng khó vô. Vô thằng nào mình gõ đầu
thằng nấy! Ba Rèn bảo:
- Tôi tính trước chú rồi, mà điều tôi xài cây dầu vuông hay hơn.
Cầm cây dầu vuông nặng chịch, chú đánh ngang, thằng nào cũng phải té
hết thảy! Bốn người vừa đi vừa nói chuyện, lát sau họ đã nhìn thấy
cành lá mãng cầu phía trước chập chờn ánh lửa. Khi họ tới nơi, anh
em đang còn hì hục kẻ vét người đắp miệng hầm. Những cái hố mới đào
nằm rải dài theo ven vườn. Anh em treo đèn chai trên những nhánh
mãng cầu. Cây đèn nào cũng có che một miếng lá chuối để ánh đèn
không hắt ra mặt ruộng. Ngạn đi coi lại từng cái hố, lòng thầm cảm
ơn anh Tám đã đôn đốc việc đào những cái hố ấy. Trong cuộc sống
chiến đấu, Ngạn hiểu rất rõ giá trị của cái công sự. Nó hết sức cần
thiết cho sự tấn công cũng như sự chống đỡ. Cái công sự càng cần
thiết cho người yếu vũ khí chống lại với kẻ địch có vũ khí mạnh. Anh
em cũng đã đào cho Ngạn một cái hố. Thẩm, đội phó đội tuyên truyền,
chỉ cái hố dành cho Ngạn, nói:
- Đây, cái của mày đây! Ngạn nhảy xuống hố xem xét. Anh gọi Tới đem
giùm cây trường mát 36 lại cho anh.
Đứng dưới hố, Ngạn nâng cây trường mát tì vào vai, ngắm. Anh ngắm
mấy lượt, rồi hạ súng xuống đưa lại cho Tới cầm. Anh với tay lấy cây
vá dẫy bớt lớp đất trên miệng. Anh thấy miệng hố đắp có hơi cao,
chưa thật vừa với tư thế đứng bắn. Khi liệu chừng lớp đất miệng hố
đã thấp bớt xuống rồi, anh liệng cây vá, cầm lại khẩu súng nơi tay
Tới, nâng lên ngắm lần nữa. Lần này, anh có vẻ ưng ý, mới chỏi tay
nơi miệng hố nhảy thót lên. Tới thấy Ngạn rà lại hố kỹ thế thì hơi
chột dạ, cũng vội chạy về coi lại cái hố của mình. Thấy công việc
chuẩn bị đã ổn, Ngạn nói:
- Anh nào gác thì lo gác, còn anh em bẻ lá nghi trang hố mình rồi đi
ngủ. Khuya rồi... Có một người nói trong bóng tối:
- Ừ, phải ngủ một chút mới được. Lần nào nó càn sao tôi cũng buồn
ngủ ghê! Ba Rèn nói:
- Chém vè mới buồn ngủ chớ đánh thì tôi không biết buồn ngủ đâu. Tôi
cho hay, sống chết gì mai tôi cũng nổ ngựa trời nghe mấy cha! Công
trình tôi với thằng Hai Cá Trèn o bế nó mấy tháng nay! Ngạn dọa:
- Mấy ông bắn ngựa trời thì phải lo chân lo cẳng để vác chạy. Thứ đó
phải bắn sát, chớ bắn xa không ăn thua đâu! Anh du kích có biệt hiệu
là Hai Cá Trèn lên tiếng:
- Tôi đợi sát mới bắn chớ không thèm ở xa bắn gãi ngứa đâu, anh em
tin tôi đi!
Mọi người vừa kéo lá ngụy trang hầm vừa lao xao nói chuyện. Anh nào
cũng khấp khởi, mặc dù anh nào cũng biết ngày mai địch vào rất đông.
Nhưng hình như họ không để ý tới quân số địch ngót một ngàn. Họ thấy
việc đánh như là sự sống, tin rằng không giết được nhiều cũng giết
được ít. Mà hễ có giết được một thằng giặc thì lòng họ cũng đỡ bị đè
trĩu bởi cái cảnh anh em đồng chí bị chúng sát hại thê thảm trong
năm đen tối. Sau ngày đồng khởi, rõ ràng ai cũng muốn rửa hận riêng
và hận chung, và mặc dù súng ống chẳng có mấy cây, họ đều tin rằng
thằng giặc không thể ức hiếp họ như trước được nữa. Bây giờ vấn đề
đã đặt ra rõ ràng là thằng giặc bắn họ thì họ bắn lại. Cái chết sẽ
không phải chỉ ở một bên, mà sẽ ở cả hai bên. Chính vì thế mà cái
chết ngày nay có nghĩa hơn so với cái chết trước nhiều lắm, và sự ky
sinh trong chiến đấu họ nghĩ rằng bao giờ cũng có nhưng sẽ có ít hơn
so với sự hy sinh trong chịu đựng im lặng, trong mấy năm gọi là hòa
bình mà thằng địch vẫn tấn công. Anh em trải nóp dưới chân những gốc
mãng cầu. Anh du kích Hai Cá Trèn chun vô nóp rồi vẫn còn cà kê nói
chuyện. Thẩm trải đệm rủ Ngạn lại nằm chung. Ngạn ngồi xếp bằng trên
đệm, móc khẩu côn 12 lẩy đạn ở băng ra, chỉ chừa lại ba viên. Đạn
trong những băng dự bị anh cũng lẩy ra hết. Anh gọi Trọng lại, chỉ
đống đạn 12 ly mới lẩy trên đệm, nói:
- Đem chia thêm số đạn này cho ba cây tôm xông. Tôi chỉ chừa lại ba
viên thôi! Trọng được cho thêm đạn, mừng quá, lấy cái nón bèo trên
đầu xuống hốt đạn bỏ vào. Ngạn coi lại đạn của khẩu trường mát, kéo
giật cơ bẩm rôm rốp, rồi mới yên tâm đặt khẩu súng bên cạnh. Tuy đã
có khẩu côn 12 nhưng đụng trận Ngạn vẫn thường bắn trường mát. Anh
bắn khẩu này rất khá. Ngạn thường nói:
- Thằng Tây chế cây "quảng tầm sào" thì dở, chớ nó chế cây mát 36
thì được. Tôi bắn thấy "xuya" lắm! Ngạn ngả lưng nằm xuống đệm. Lưng
anh đấu vào lưng Thẩm. Lát sau, cả hai tấm lưng đều âm ấm. Thẩm năm
nay nhỏ hơn Ngạn vài tuổi, nhưng hai người vẫn "mày tao" với nhau.
Trong đội, Thẩm xuất thân ở gia đình tiểu tư sản, là tay viết ra các
bài để đem ăn nói với lính bót. Anh có văn hóa, nhưng tính lặng lẽ,
ít nói. Cha mẹ anh đều tham gia kháng chiến lần thứ nhất. Hòa bình
lập lại, cha anh đã bị giặc giết, mẹ anh bị bắt đày ra Côn Đảo. Có
lần anh tâm sự với Ngạn:
- Má tao hiền lắm. Hồi đó má tao làm cô giáo. Tao cũng có một năm
học lớp má tao, nhưng bao giờ má tao cũng tỏ ra nghiêm khắc với tao
hơn tụi học trò khác. Lúc bị bắt, má tao đang có thai. Nghe nói đứa
em má tao đẻ ra chết ở khám Chí Hòa rồi. Mấy năm nay bị đày ra Côn
Đảo, không biết má tao ra sao?... Nằm đối lưng với Thẩm, Ngạn nghĩ
bụng chắc thường đêm Thẩm vẫn lo không gặp lại người mẹ thân yêu của
anh. Khi mà ở Ngạn thì không còn có được nỗi lo ấy nữa. Ngạn từ bé
đã mồ côi. Những gì anh còn nhớ được về mẹ của mình đều là những nét
vất vả, tỷ dụ như tấm áo không bao giờ lành lặn trên người mẹ, như
những giọt mồ hôi tần tảo chiều nào cũng dán bệt tóc mẹ vào thái
dương, như đôi quang gánh hàng bông ngày ngày mẹ anh tất tả gánh đi.
Chợt Thẩm hỏi:
- Bữa nay, mày về nhà bà già vợ mày có gặp vợ không? Ngạn cười:
- Gặp chớ... Ngừng một chút, Ngạn tiếp:
- Con Quyên nó thấy tao mặc cái áo của mày nó hỏi tao mặc khính áo
của ai vậy?
- Quyên có hỏi bộ đồ mày cho ai không?
- Có, tao nói tao cho mày rồi, nó cười. Hồi nãy, nó nằng nặc đòi ra
đây, anh em không cho. Ngạn im lặng một lát rồi nói:
- Theo như lời thằng chủ trại đáy thì chắc mai nó bố ở đây thiệt.
Thôi, ngủ đi để mai còn có sức mà ăn chịu với tụi nó. Ngạn nói xong,
nằm co lại như con tôm. Hai tay anh ôm lấy Thẩm. Chốc sau, anh đã
cất tiếng ngáy. Gần sáng Thẩm đánh thức Ngạn dậy. Mọi người đem cơm
dở hồi hôm ra ăn. Mới ăn mấy miếng thì Ba Rèn chạy lịch phịch tới
la:
- Ra hầm hết đi! Tổ đi bám về cho hay tụi nó đã tới Hòn Sóc rồi!
Ngạn xách súng đứng bật dậy, chạy ra hố. Trọng và Thẩm cũng chạy
theo. Đứng dưới hố, Ngạn vừa nhai cơm vừa nói:
- Cứ ăn cơm xong đi. Tụi nó chưa tới đâu. Mọi người ăn cơm rồi trời
mới sáng tỏ. Trên đồng trống bấy giờ đã ngó thấy địch từ Hòn Sóc
dăng hàng ngang kéo qua. Chúng đi lúc nhúc, xám xịt cả một khoảng
đồng mới le lói vài tia nắng. Ngạn đưa bàn tay lên che mắt nhìn, anh
nói:
- Tụi nó đông nghe!
- Rồi anh vẫn vừa nhìn ra nói:
- Đi coi nghinh ngang dữ ha! Anh day qua Thẩm:
- Dặn chuyền anh em cứ bình tĩnh... Đợi chừng nào nó lọt vô bãi
chông ngoài ruộng mới bắn. Bắn sao cho nó nhảy lọt hầm! Ba Rèn đi
lom khom tới sau lưng Ngạn, hỏi:
- Nè, bãi chông ngoài ruộng nhắm có lộ không ta?
- Nguỵ trang khéo lắm, không lộ đâu. Anh Ba, nhớ dặn anh em sống
chết gì cũng đừng vọt khỏi miệng hố, chừng nào có lịnh rút mới bỏ
công sự.
- Nếu rút thì cánh chú rút trước nghe!
- Ba Rèn bảo Ngạn.
- Không, tụi tôi rút sau. Mấy anh thuộc đường thì rút trước. Chừng
nào anh thấy cần rút thì cứ cho rút. Tụi tôi sẽ theo. Còn bây giờ nổ
súng thì để tôi nổ trước!
- Ờ! Nhưng khi rút thì mấy chú phải rút trước, tôi cho người dắt. Để
tụi tôi rút sau, cản hậu. Ba Rèn nói hai tiếng "cản hậu" nghe rất
xôm, tưởng như anh có đủ sức cản được cả ngàn quân địch thật vậy.
Rồi Ba Rèn lại lịch phịch chạy đi. Nhìn cái lưng trần vạm vỡ cùi cụi
của Ba Rèn khuất sau những cành lá mãng cầu, Ngạn khoái chí nhoẻn
cười. Chưa bao giờ anh thấy Ba Rèn hăng như lúc này. Ngay lúc quai
búa ở lò rèn, Ba Rèn cũng không hăm hở như vậy. Ngạn nhớ hồi còn ẩn
náu trốn tránh trong rừng trong bụi, Ba Rèn là người đòi đánh nhiều
nhất. Không ngày nào anh không đòi bắn lại tụi công an và tụi tự vệ
hương thôn. Hễ ai đem đường lối đấu tranh hoà bình ra giải thích với
anh thì anh ghét lắm... Có lần anh đem cây "quảng tầm sào" của anh
tới để trước mặt anh Hai Thép, nói:
- "Bữa nay, sau khi suy nghĩ, tôi xin giao cây súng của tôi lại cho
Đảng! " Anh Hai Thép trố mắt nhìn anh. Ba Rèn điềm nhiên bảo:
- "Thiệt tình mà... Tôi giữ súng như không, nên tôi xin nạp lại. Nếu
rủi tôi có đụng tụi nó bất tử thì tôi đấm đá hoặc tôi cắn cổ tụi nó
vài thằng rồi tôi chết, cũng đặng". Anh nói chữ "cũng đặng" một cách
khó nhọc. Hai Thép cũng không vừa:
- "Anh giao súng cho Đảng tức là anh phản đối đường lối của Đảng chớ
gì. Vậy cũng tức là anh muốn tự mình tách ra khỏi Đảng chớ gì? " Ba
Rèn nghe Hai Thép nhấn mạnh câu:
“tự mình tách ra khỏi Đảng" thì chột dạ. Chính Hai Thép biết Ba Rèn
sợ điểm đó nhất nên anh mới nhấn mạnh như thế. Rồi sau khi nói thế,
Hai Thép đứng lên:
- "Thôi được, để tôi báo cáo lên ông Tám Chấn! " Ba Rèn bối rối kêu:
- "????, nói vậy chớ đừng báo cáo bậy nghe! Tôi giao súng cho ông,
không lãnh thì thôi, báo cáo khỉ gì! " Hai Thép bỏ đi. Ra gặp Ngạn,
anh cười hì hì, kể lại chuyện cho Ngạn nghe, và rồi Hai Thép cũng
chẳng báo cáo lên anh Tám Chấn gì cả. Rốt cuộc Ba Rèn vẫn giữ cây lơ
- ben. Hai tháng sau, Đảng xuống lệnh vũ trang đồng khởi, Ba Rèn vác
cây lơ - ben về xóm cùng anh em đánh diệt bót Hòn Đất. Bây giờ, khi
bàn tới chuyện rút, chính Ba Rèn cũng bảo cánh Ngạn rút trước. Trong
chiến đâu, Ngạn hiểu tình huống của người rút sau hơn ai hết. Và
không phải ai cũng có thể rút sau, không phải ai cũng có thể dễ dàng
nói:
“Để tôi cản hậu" như Ba Rèn đã nói. Trước mắt Ngạn, dáng dấp từng
tên giặc đã hiện rõ. Dẫn đầu bọn biệt kích mặc đồ rằn, cầm súng chạy
xốc tới. Trong phút chờ đợi, Ngạn thấy thời gian trôi đi thiệt chậm
và không khí quanh anh nặng trĩu. Tuy đã nhiều phen đối mặt với cái
chết, tim Ngạn cũng không khỏi đập mạnh, hồi hộp. Song anh chỉ hồi
hộp chớ không sợ, nhất là khi anh có một khẩu súng trong tay. Trước
kia, hai tay anh bị trói chặt mà anh còn đá tụi giặc chạy thoát
được, thì bây giờ có cây súng, có đồng đội, anh thấy vững dạ. Hơn
nữa, anh tin tưởng ở bãi chông. Thì kia, bọn giặc đã tiến sát bãi
chông ngoài ruộng. Chúng chạy vào cái khoảnh trống giống hệt như
những khoảnh ruộng khác đang hiền lành hóng lấy những tia nắng ấm áp
ban mai. Nhưng chưa có tên nào bị sụp chông cả. Bọn lính áo rằn sấn
lên, chừng như thằng nào cũng muốn chen lấn vào ven vườn mãng cầu
sum sê này trước. Ngạn nín thở, tì nhẹ súng vào vai. Khoảng cách
giữa bọn giặc và ven vườn chỉ còn chừng hai trăm thước. Ngạn nghĩ
bụng:
“Bây giờ mình bắn thì tụi nó cũng không ào về kịp". Ngạn ngắm kỹ một
tên to cao nhất ở giữa đám giặc, bóp cò ngay. Phát súng nổ vang. Từ
các công sự, anh em cũng bắn vãi ra. Ngạn nhìn lại, không thấy bóng
thằng giặc to cao nãy nữa. Trên ruộng, bọn giặc bị bất ngờ, nhảy
lung tung. Bỗng Ngạn ngó thấy có mấy thằng tự dưng tụt hẫng xuống
ruộng. Cánh tay cầm súng của chúng chới với, chới với. Anh em la ré
lên:
- Nó sụp chông rồi!
- Rồi, rồi, sụp nữa rồi! Bọn giặc ngoài ruộng hốt hoảng, càng chạy
bậy càng bị sụp. Chúng nằm sát xuống mặt ruộng, không tiến mà cũng
không lùi. Bọn phía sau trấn tĩnh lại, ôm súng máy bắn sả vào vườn.
Mãng cầu rụng nghe lịch bịch. Một nhánh mãng cầu bị đạn súng máy cắt
đứt rơi xuống vai Ngạn. Anh hất nhánh mãng cầu, đứng nhóng lên. Thấy
bọn giặc ở bãi chông vẫn nằm im, anh nói lớn:
- Đừng bắn nữa, anh em! Chừng nào tụi nó đứng dậy sáp vô hãy bắn!
Quả nhiên, bọn giặc nằm im một lát thì lồm cồm đứng dậy tiến tới.
Lần này, bọn đi sau hò hét, la lối rất dữ. Còn những tên đi đầu lò
dò từng bước, tiến rất chậm. Ngạn nghe bên cánh Ba Rèn nổ luôn mấy
phát lơ - ben, "păng, păng, păng" hệt như tiếng trung liên. Bọn giặc
liền nhốn nháo. Một số nữa lại bị sụp chông, người cứ biến đi dưới
mặt ruộng. Nhưng lần này có nhiều tên thuộc đại đội biệt kích tiến
được một quãng khá xa. Mặc dù nghe súng nổ, chúng vẫn xống lưng chạy
tới. Bọn phía sau theo gót chúng chạy dấn lên. Đội hình giặc bỗng
dưng biến thành một dọc dài. Chúng đã vượt qua được tuyến chông thứ
hai. Ngạn thấy nếu cứ để chúng tiến vào kiểu ấy thì chỉ trong vài
phút nữa là chúng sẽ tới nơi. Anh nhảy thoắt lên khỏi công sự, xách
súng chạy riết lại ngay mũi tiến của giặc, nằm rạp xuống. Đợ ba bốn
tên nhập một, anh nổ ngay một phát. Hai tên biệt kích bị viên đạn
của anh xỏ xâu, tên sau té trước, tên trước đứng sững lại, buông
súng, người hơi ưỡn ra sau rồi loạng choạng ngã gục. Bây giờ, trên
ruộng, bọn giặc tiến vào dễ dàng hơn, vì chỗ nào không có chông đều
đã lộ ra cả. Chúng trí mọt - chê giữa ruộng, bắt đầu nã vào. Đạn mọt
- chê kêu "hụp, hụp, hụp", bay rú tới ven vườn, nổ "uỳnh, uỳnh" bứng
nguyên từng gốc mãng cầu. Khói xám bốc lên. Ngạn bắn tiếp mấy phát
nữa và la lớn:
- Chuẩn bị rút nới vô! Anh bảo một anh du kích:
- Dẫn anh em rút đi! Toàn độ Ngạn chạy theo anh du kích. Ba Rèn dặn:
- Vô tới miếng vườn trong thì ở lại đợi tụi tôi nghe!
- Bây giờ anh chưa rút à?
- Tôi hả, tôi cũng vô trỏng liền mà!
Ba Rèn nói vậy nhưng vẫn chưa đi. Ngạn len qua mấy gốc mãng cầu, lúc
ngoảnh lại thấy Ba Rèn với mấy anh du kích lom khom vác cây ngựa
trời chạy ngược ra hướng giặc. Ngạn lo quá. Nhìn cây súng ngựa trời
sần sùi thô kệch, bỗng dưng Ngạn thấy thương Ba Rèn và anh em du
kích vô hạn. Vào tới mương vườn trong, Ngạn cùng anh em bám dưới
mương. Bọn giặc chia ba mặt ập vào vườn. ở mặt Ngạn, anh em đánh với
chúng tám trận. Thình lình Thẩm bị miếng mọt - chê phạt trúng chân
trong lúc anh vọt qua một bờ vườn. Anh em xốc Thẩm lên, vác chạy.
Bọn giặc nhảy thòm thọp qua mương, la ó vang vườn. Thấy chúng tràn
tới dữ quá, mà chẳng thấy cánh du kích Ba Rèn đâu cả, Ngạn cho anh
em cõng Thẩm rút ra đường. Anh cùng anh em bắn cản hậu, rồi cũng rút
theo. Trên đường về Hòn, Ngạn vừa chạy vừa ngó thấy dấu máu nhỏ dài
trên cát. Anh nghĩ bụng:
“Máu của Thẩm! " phía trước, Tới đang cõng Thẩm chạy lúp xúp. Hai
chân Thẩm thòng xuống muốn chấm cát. Bắp chân trái 113 114 của Thẩm
đã được buộc lại bằng một cái khăn rằn. Ngạn chạy riết theo cho kịp
Tới. Anh sấn lên, kêu:
- Thẩm, Thẩm, có đau không? Thẩm nhoẻn cười đáp:
- Hơi ê ê! Ngạn thấy mặt Thẩm hơi tai tái. Máu nơi chân Thẩm chảy
trông rất sợ. Lớp khăn buộc vết thương bị máu thấm ướt hết, và máu
cứ chảy ròng theo gót chân Thẩm, nhỏ thành giọt xuống cát. Giọt nào
vừa nhểu xuống liền bị cát hút ngay, đổi thành màu sẫm như màu sét
sắt. Ngạn hơi lo, nhưng anh cũng cười, nói:
- Ráng một chút nữa vô tới Hòn, tao kêu Năm Nhớ nó băng cho. Năm Nhớ
mà băng thì mày bớt đau liền.
Thẩm nhếch mép cười, nhưng không nói gì cả. Tới cõng Thẩm nãy giờ
mệt thở hồng hộc. Trọng liền thay Tới, cõng Thẩm. Ngạn xách súng đi
một bên, lát lát lại ngó ngoái về cụm vườn, có ý ngóng coi cánh du
kích của Ba Rèn ra chưa. Phía vườn, súng vẫn nổ không ngớt. Thình
lình, anh nghe mấy tiếng nổ "ầm ầm" dội lại, nhỏ hơn tiếng lựu đạn
và mọt - chê 61 một chút. Chốc sau, đằng cụm vườn có bóng người liên
tiếp chạy vọt ra. Anh em trong đội Ngạn kêu lên:
- Cánh Ba Rèn dông rồi kia kìa!
- Bộ tụi nó rượt lắm sao mà mấy chả chạy dữ quá!
- Chắc nó chiếm được mí vườn rồi! Ngạn nói:
- Anh em mình cũng chạy mau mau lên đi, còn Trọng cõng Thẩm cứ chạy
vừa phải thôi. Để tôi đi với Trọng, chừng nào Trọng mệt, tôi cõng
tiếp. Anh em du kích vượt qua mặt Ngạn chạy lên trước. Ngạn và Trọng
chạy chậm, nên lát sau anh em du kích đã lên tới. Ngạn ngó thấy anh
em dìu thằng Bé con của chú Tư Râu đi thất thểu. ống tay áo bên trái
của thằng Bé lòng thòng, rách bươm. Ngạn giật mình, hỏi:
- Bị mọt - chê phang à? Thằng Bé gật đầu. Ba Rèn vác cây ngựa trời
chạy lúp xúp về phía Ngạn, hỏi oang oang:
- Có nghe ngựa trời nổ không? Ngạn đáp:
- Tôi có nghe hai tiếng nổ. Anh bắn hả?
- Tôi với Hai Cá Trèn mỗi người đả một phát. Cách có hai tầm đất,
nghe! Ba Rèn vung tay:
- Tụi nó bò càng hết thảy. Bắn mỗi đứa một phát, tôi với Hai Cá Trèn
nhắm không êm, cõng chạy. Tụi nó xổ đạn theo như mưa. Ngạn hỏi:
- Bây giờ tính sao đây?
- Vô Hòn thôi. Mọi người chạy thẳng tới Hòn Đất, bấy giờ đã ở sát
trước mặt. Gần tới Hòn, thình lình Ngạn thoáng thấy sau rặng dừa có
một người tất tả chạy ngược lại phía anh. Anh nhìn kỹ, thì ra là Năm
Nhớ. Cô chạy, tóc bay xấp xõa. Đến nơi, cô thở hổn hển, mặt tái mét.
Gặp Trọng đang cõng Thẩm, cô liền quay lạiđi theo sau lưng, tất
tưởi. Rồi cô lấy cái khăn quàng cổ của cô cúi xuống luýnh quýnh chùi
bắp chân ướt máu của Thẩm. Nhưng vừa chùi qua một lượt, máu lại chảy
ròng xuống. Năm Nhớ òa khóc. Ngạn nói:
- Chưa chi mà khóc rùm lên vậy, Năm Nhớ? Nó không chết đâu mà! Ngạn
nhìn Năm Nhớ, nghĩ:
“Bây giờ con nhỏ hết biết mắc cỡ gì hết rồi. Coi kìa, nó cứ quýnh
lên. Vậy mà hồi trước mình nhắc tới chuyện nó với Thẩm thì nó cứ làm
bộ ngủng ngẳng. Cha, con nhỏ này thương thằng Thẩm thiệt rồi! " Nhìn
dáng vẻ của Năm Nhớ, bỗng dưng anh tự hỏi nếu mình bị thương thì
không biết Quyên có khóc không. Và anh cảm thấy có cái gì khoai
khoái khi nghĩ rằng nếu mình bị thương mà Quyên thì luýnh quýnh lên
như vậy.
4
Ba người giải vợ chồng tên chủ trại về tới đầu xóm Vạn Thanh thì đêm
đã khuya. Tấn cho hai du kích dẫn vợ chồng tên chủ trại về Hòn. Còn
Ngạn, Tới, Trọng, sau khi thay quần áo, cùng Tấn vào ven vườn, chỗ
bố trí chiến đấu. Ven vườn này giáp với những cánh đồng rộng trải từ
Tri Tôn đến vùng Hòn. Địch muốn đánh Hòn Đất, thường chúng ập vào
đây trước. Ba người mới len vào vườn thì gặp anh Ba Rèn. Ba Rèn hỏi:
- Sao? Bắt được nó chưa? Tấn đáp:
- Bắt đưa về Hòn rồi! Mọi người kể cho Ba Rèn nghe chuyện bắt vợ
chồng tên chủ trại đáy, Ba Rèn khoái chí cười ha hả. Anh kéo tay mọi
người chỉ vô vườn, nói:
- Hiện anh em còn đào công sự. ạng Tám Chấn mới tới bảo phải đào
công sự cho tổ ba ba. Đào riêng, nhưng chụm lại thành tổ. ổng nói
không có hầm ở ven vườn thì không thể đánh được. Và ổng còn hăm nếu
hầm đào không kỹ thì ổng không cho đánh. 99 100
- Anh đâu rồi?
- Ổng với Hai Thép về rồi. Cả cô Nhớ, chú Diệp, ổng cũng kêu về
trỏng hết! ạng Tám Chấn bình thường thấy ổng dễ, tới chừng làm công
chuyện tôi ngán ổng quá! Ba Rèn nói xong xách cây đèn chai xăng xái
dắt ba người ra ven vườn. Vừa đi anh vừa dặn:
- Đi theo tôi nghe, coi chừng chông lụi què đa! Năm Tấn vốn thạo
đường, ở đâu có hầm chông anh ta đều biết. Ngạn không thạo, nên anh
bám sát chân anh Ba Rèn. Họ đi xuyên qua đám vườn mãng cầu ta rậm
rạp. Mùi mãng cầu chín bay thơm ngát. Thỉnh thoảng lại có một trái
mãng cầu chín rụng cái "bịch" gần đó. Ngạn nói:
- Chống càn ở đây không sợ đói. Cùng lắm lượm mãng cầu ăn cũng sống
được. Tấn bảo:
- Mãng cầu ăn xót ruột lắm, thứ đó không ghé tôi. Đói thì tôi kiếm
chuối chín bói, vững hơn. Ba Rèn cười:
- Chưa chi mà mấy cha lo đói. Tôi thì cứ lo mấy cây "quảnh tầm sào"
của tụi tôi hẻo (3) đạn quá, với lại không biết mấy "ông ngựa trời"
có khẹt ra lửa được không?
- Nghe đồn mấy cây ngựa trời đem thử nổ nghe đã lắm mà?
- Bắn thử thì nổ ngon đó, còn bắn thiệt không biết ra sao!
- Chắc nổ mà... ờ, còn cái vụ đạn thì hẻo thiệt đó! Tụi tôi cũng ít
lắm. Nên phải chơi kỹ mới được!
- Hai Thép với anh Tám Chấn có dặn mình ở đây ráng tiêu hao nó. Cùng
lắm mới rút vô hang. Ngạn gật đầu:
- Như vậy là đúng. Chừng nào nột quá hẵng rút vô hang. Cái hang đó ở
trong đánh ra cũng sướng. Tôi tính một người mình ngồi tại miệng
hang thủ một cây búa, tụi nó cũng khó vô. Vô thằng nào mình gõ đầu
thằng nấy! Ba Rèn bảo:
- Tôi tính trước chú rồi, mà điều tôi xài cây dầu vuông hay hơn.
Cầm cây dầu vuông nặng chịch, chú đánh ngang, thằng nào cũng phải té
hết thảy! Bốn người vừa đi vừa nói chuyện, lát sau họ đã nhìn thấy
cành lá mãng cầu phía trước chập chờn ánh lửa. Khi họ tới nơi, anh
em đang còn hì hục kẻ vét người đắp miệng hầm. Những cái hố mới đào
nằm rải dài theo ven vườn. Anh em treo đèn chai trên những nhánh
mãng cầu. Cây đèn nào cũng có che một miếng lá chuối để ánh đèn
không hắt ra mặt ruộng. Ngạn đi coi lại từng cái hố, lòng thầm cảm
ơn anh Tám đã đôn đốc việc đào những cái hố ấy. Trong cuộc sống
chiến đấu, Ngạn hiểu rất rõ giá trị của cái công sự. Nó hết sức cần
thiết cho sự tấn công cũng như sự chống đỡ. Cái công sự càng cần
thiết cho người yếu vũ khí chống lại với kẻ địch có vũ khí mạnh. Anh
em cũng đã đào cho Ngạn một cái hố. Thẩm, đội phó đội tuyên truyền,
chỉ cái hố dành cho Ngạn, nói:
- Đây, cái của mày đây! Ngạn nhảy xuống hố xem xét. Anh gọi Tới đem
giùm cây trường mát 36 lại cho anh.
Đứng dưới hố, Ngạn nâng cây trường mát tì vào vai, ngắm. Anh ngắm
mấy lượt, rồi hạ súng xuống đưa lại cho Tới cầm. Anh với tay lấy cây
vá dẫy bớt lớp đất trên miệng. Anh thấy miệng hố đắp có hơi cao,
chưa thật vừa với tư thế đứng bắn. Khi liệu chừng lớp đất miệng hố
đã thấp bớt xuống rồi, anh liệng cây vá, cầm lại khẩu súng nơi tay
Tới, nâng lên ngắm lần nữa. Lần này, anh có vẻ ưng ý, mới chỏi tay
nơi miệng hố nhảy thót lên. Tới thấy Ngạn rà lại hố kỹ thế thì hơi
chột dạ, cũng vội chạy về coi lại cái hố của mình. Thấy công việc
chuẩn bị đã ổn, Ngạn nói:
- Anh nào gác thì lo gác, còn anh em bẻ lá nghi trang hố mình rồi đi
ngủ. Khuya rồi... Có một người nói trong bóng tối:
- Ừ, phải ngủ một chút mới được. Lần nào nó càn sao tôi cũng buồn
ngủ ghê! Ba Rèn nói:
- Chém vè mới buồn ngủ chớ đánh thì tôi không biết buồn ngủ đâu. Tôi
cho hay, sống chết gì mai tôi cũng nổ ngựa trời nghe mấy cha! Công
trình tôi với thằng Hai Cá Trèn o bế nó mấy tháng nay! Ngạn dọa:
- Mấy ông bắn ngựa trời thì phải lo chân lo cẳng để vác chạy. Thứ đó
phải bắn sát, chớ bắn xa không ăn thua đâu! Anh du kích có biệt hiệu
là Hai Cá Trèn lên tiếng:
- Tôi đợi sát mới bắn chớ không thèm ở xa bắn gãi ngứa đâu, anh em
tin tôi đi!
Mọi người vừa kéo lá ngụy trang hầm vừa lao xao nói chuyện. Anh nào
cũng khấp khởi, mặc dù anh nào cũng biết ngày mai địch vào rất đông.
Nhưng hình như họ không để ý tới quân số địch ngót một ngàn. Họ thấy
việc đánh như là sự sống, tin rằng không giết được nhiều cũng giết
được ít. Mà hễ có giết được một thằng giặc thì lòng họ cũng đỡ bị đè
trĩu bởi cái cảnh anh em đồng chí bị chúng sát hại thê thảm trong
năm đen tối. Sau ngày đồng khởi, rõ ràng ai cũng muốn rửa hận riêng
và hận chung, và mặc dù súng ống chẳng có mấy cây, họ đều tin rằng
thằng giặc không thể ức hiếp họ như trước được nữa. Bây giờ vấn đề
đã đặt ra rõ ràng là thằng giặc bắn họ thì họ bắn lại. Cái chết sẽ
không phải chỉ ở một bên, mà sẽ ở cả hai bên. Chính vì thế mà cái
chết ngày nay có nghĩa hơn so với cái chết trước nhiều lắm, và sự ky
sinh trong chiến đấu họ nghĩ rằng bao giờ cũng có nhưng sẽ có ít hơn
so với sự hy sinh trong chịu đựng im lặng, trong mấy năm gọi là hòa
bình mà thằng địch vẫn tấn công. Anh em trải nóp dưới chân những gốc
mãng cầu. Anh du kích Hai Cá Trèn chun vô nóp rồi vẫn còn cà kê nói
chuyện. Thẩm trải đệm rủ Ngạn lại nằm chung. Ngạn ngồi xếp bằng trên
đệm, móc khẩu côn 12 lẩy đạn ở băng ra, chỉ chừa lại ba viên. Đạn
trong những băng dự bị anh cũng lẩy ra hết. Anh gọi Trọng lại, chỉ
đống đạn 12 ly mới lẩy trên đệm, nói:
- Đem chia thêm số đạn này cho ba cây tôm xông. Tôi chỉ chừa lại ba
viên thôi! Trọng được cho thêm đạn, mừng quá, lấy cái nón bèo trên
đầu xuống hốt đạn bỏ vào. Ngạn coi lại đạn của khẩu trường mát, kéo
giật cơ bẩm rôm rốp, rồi mới yên tâm đặt khẩu súng bên cạnh. Tuy đã
có khẩu côn 12 nhưng đụng trận Ngạn vẫn thường bắn trường mát. Anh
bắn khẩu này rất khá. Ngạn thường nói:
- Thằng Tây chế cây "quảng tầm sào" thì dở, chớ nó chế cây mát 36
thì được. Tôi bắn thấy "xuya" lắm! Ngạn ngả lưng nằm xuống đệm. Lưng
anh đấu vào lưng Thẩm. Lát sau, cả hai tấm lưng đều âm ấm. Thẩm năm
nay nhỏ hơn Ngạn vài tuổi, nhưng hai người vẫn "mày tao" với nhau.
Trong đội, Thẩm xuất thân ở gia đình tiểu tư sản, là tay viết ra các
bài để đem ăn nói với lính bót. Anh có văn hóa, nhưng tính lặng lẽ,
ít nói. Cha mẹ anh đều tham gia kháng chiến lần thứ nhất. Hòa bình
lập lại, cha anh đã bị giặc giết, mẹ anh bị bắt đày ra Côn Đảo. Có
lần anh tâm sự với Ngạn:
- Má tao hiền lắm. Hồi đó má tao làm cô giáo. Tao cũng có một năm
học lớp má tao, nhưng bao giờ má tao cũng tỏ ra nghiêm khắc với tao
hơn tụi học trò khác. Lúc bị bắt, má tao đang có thai. Nghe nói đứa
em má tao đẻ ra chết ở khám Chí Hòa rồi. Mấy năm nay bị đày ra Côn
Đảo, không biết má tao ra sao?... Nằm đối lưng với Thẩm, Ngạn nghĩ
bụng chắc thường đêm Thẩm vẫn lo không gặp lại người mẹ thân yêu của
anh. Khi mà ở Ngạn thì không còn có được nỗi lo ấy nữa. Ngạn từ bé
đã mồ côi. Những gì anh còn nhớ được về mẹ của mình đều là những nét
vất vả, tỷ dụ như tấm áo không bao giờ lành lặn trên người mẹ, như
những giọt mồ hôi tần tảo chiều nào cũng dán bệt tóc mẹ vào thái
dương, như đôi quang gánh hàng bông ngày ngày mẹ anh tất tả gánh đi.
Chợt Thẩm hỏi:
- Bữa nay, mày về nhà bà già vợ mày có gặp vợ không? Ngạn cười:
- Gặp chớ... Ngừng một chút, Ngạn tiếp:
- Con Quyên nó thấy tao mặc cái áo của mày nó hỏi tao mặc khính áo
của ai vậy?
- Quyên có hỏi bộ đồ mày cho ai không?
- Có, tao nói tao cho mày rồi, nó cười. Hồi nãy, nó nằng nặc đòi ra
đây, anh em không cho. Ngạn im lặng một lát rồi nói:
- Theo như lời thằng chủ trại đáy thì chắc mai nó bố ở đây thiệt.
Thôi, ngủ đi để mai còn có sức mà ăn chịu với tụi nó. Ngạn nói xong,
nằm co lại như con tôm. Hai tay anh ôm lấy Thẩm. Chốc sau, anh đã
cất tiếng ngáy. Gần sáng Thẩm đánh thức Ngạn dậy. Mọi người đem cơm
dở hồi hôm ra ăn. Mới ăn mấy miếng thì Ba Rèn chạy lịch phịch tới
la:
- Ra hầm hết đi! Tổ đi bám về cho hay tụi nó đã tới Hòn Sóc rồi!
Ngạn xách súng đứng bật dậy, chạy ra hố. Trọng và Thẩm cũng chạy
theo. Đứng dưới hố, Ngạn vừa nhai cơm vừa nói:
- Cứ ăn cơm xong đi. Tụi nó chưa tới đâu. Mọi người ăn cơm rồi trời
mới sáng tỏ. Trên đồng trống bấy giờ đã ngó thấy địch từ Hòn Sóc
dăng hàng ngang kéo qua. Chúng đi lúc nhúc, xám xịt cả một khoảng
đồng mới le lói vài tia nắng. Ngạn đưa bàn tay lên che mắt nhìn, anh
nói:
- Tụi nó đông nghe!
- Rồi anh vẫn vừa nhìn ra nói:
- Đi coi nghinh ngang dữ ha! Anh day qua Thẩm:
- Dặn chuyền anh em cứ bình tĩnh... Đợi chừng nào nó lọt vô bãi
chông ngoài ruộng mới bắn. Bắn sao cho nó nhảy lọt hầm! Ba Rèn đi
lom khom tới sau lưng Ngạn, hỏi:
- Nè, bãi chông ngoài ruộng nhắm có lộ không ta?
- Nguỵ trang khéo lắm, không lộ đâu. Anh Ba, nhớ dặn anh em sống
chết gì cũng đừng vọt khỏi miệng hố, chừng nào có lịnh rút mới bỏ
công sự.
- Nếu rút thì cánh chú rút trước nghe!
- Ba Rèn bảo Ngạn.
- Không, tụi tôi rút sau. Mấy anh thuộc đường thì rút trước. Chừng
nào anh thấy cần rút thì cứ cho rút. Tụi tôi sẽ theo. Còn bây giờ nổ
súng thì để tôi nổ trước!
- Ờ! Nhưng khi rút thì mấy chú phải rút trước, tôi cho người dắt. Để
tụi tôi rút sau, cản hậu. Ba Rèn nói hai tiếng "cản hậu" nghe rất
xôm, tưởng như anh có đủ sức cản được cả ngàn quân địch thật vậy.
Rồi Ba Rèn lại lịch phịch chạy đi. Nhìn cái lưng trần vạm vỡ cùi cụi
của Ba Rèn khuất sau những cành lá mãng cầu, Ngạn khoái chí nhoẻn
cười. Chưa bao giờ anh thấy Ba Rèn hăng như lúc này. Ngay lúc quai
búa ở lò rèn, Ba Rèn cũng không hăm hở như vậy. Ngạn nhớ hồi còn ẩn
náu trốn tránh trong rừng trong bụi, Ba Rèn là người đòi đánh nhiều
nhất. Không ngày nào anh không đòi bắn lại tụi công an và tụi tự vệ
hương thôn. Hễ ai đem đường lối đấu tranh hoà bình ra giải thích với
anh thì anh ghét lắm... Có lần anh đem cây "quảng tầm sào" của anh
tới để trước mặt anh Hai Thép, nói:
- "Bữa nay, sau khi suy nghĩ, tôi xin giao cây súng của tôi lại cho
Đảng! " Anh Hai Thép trố mắt nhìn anh. Ba Rèn điềm nhiên bảo:
- "Thiệt tình mà... Tôi giữ súng như không, nên tôi xin nạp lại. Nếu
rủi tôi có đụng tụi nó bất tử thì tôi đấm đá hoặc tôi cắn cổ tụi nó
vài thằng rồi tôi chết, cũng đặng". Anh nói chữ "cũng đặng" một cách
khó nhọc. Hai Thép cũng không vừa:
- "Anh giao súng cho Đảng tức là anh phản đối đường lối của Đảng chớ
gì. Vậy cũng tức là anh muốn tự mình tách ra khỏi Đảng chớ gì? " Ba
Rèn nghe Hai Thép nhấn mạnh câu:
“tự mình tách ra khỏi Đảng" thì chột dạ. Chính Hai Thép biết Ba Rèn
sợ điểm đó nhất nên anh mới nhấn mạnh như thế. Rồi sau khi nói thế,
Hai Thép đứng lên:
- "Thôi được, để tôi báo cáo lên ông Tám Chấn! " Ba Rèn bối rối kêu:
- "????, nói vậy chớ đừng báo cáo bậy nghe! Tôi giao súng cho ông,
không lãnh thì thôi, báo cáo khỉ gì! " Hai Thép bỏ đi. Ra gặp Ngạn,
anh cười hì hì, kể lại chuyện cho Ngạn nghe, và rồi Hai Thép cũng
chẳng báo cáo lên anh Tám Chấn gì cả. Rốt cuộc Ba Rèn vẫn giữ cây lơ
- ben. Hai tháng sau, Đảng xuống lệnh vũ trang đồng khởi, Ba Rèn vác
cây lơ - ben về xóm cùng anh em đánh diệt bót Hòn Đất. Bây giờ, khi
bàn tới chuyện rút, chính Ba Rèn cũng bảo cánh Ngạn rút trước. Trong
chiến đâu, Ngạn hiểu tình huống của người rút sau hơn ai hết. Và
không phải ai cũng có thể rút sau, không phải ai cũng có thể dễ dàng
nói:
“Để tôi cản hậu" như Ba Rèn đã nói. Trước mắt Ngạn, dáng dấp từng
tên giặc đã hiện rõ. Dẫn đầu bọn biệt kích mặc đồ rằn, cầm súng chạy
xốc tới. Trong phút chờ đợi, Ngạn thấy thời gian trôi đi thiệt chậm
và không khí quanh anh nặng trĩu. Tuy đã nhiều phen đối mặt với cái
chết, tim Ngạn cũng không khỏi đập mạnh, hồi hộp. Song anh chỉ hồi
hộp chớ không sợ, nhất là khi anh có một khẩu súng trong tay. Trước
kia, hai tay anh bị trói chặt mà anh còn đá tụi giặc chạy thoát
được, thì bây giờ có cây súng, có đồng đội, anh thấy vững dạ. Hơn
nữa, anh tin tưởng ở bãi chông. Thì kia, bọn giặc đã tiến sát bãi
chông ngoài ruộng. Chúng chạy vào cái khoảnh trống giống hệt như
những khoảnh ruộng khác đang hiền lành hóng lấy những tia nắng ấm áp
ban mai. Nhưng chưa có tên nào bị sụp chông cả. Bọn lính áo rằn sấn
lên, chừng như thằng nào cũng muốn chen lấn vào ven vườn mãng cầu
sum sê này trước. Ngạn nín thở, tì nhẹ súng vào vai. Khoảng cách
giữa bọn giặc và ven vườn chỉ còn chừng hai trăm thước. Ngạn nghĩ
bụng:
“Bây giờ mình bắn thì tụi nó cũng không ào về kịp". Ngạn ngắm kỹ một
tên to cao nhất ở giữa đám giặc, bóp cò ngay. Phát súng nổ vang. Từ
các công sự, anh em cũng bắn vãi ra. Ngạn nhìn lại, không thấy bóng
thằng giặc to cao nãy nữa. Trên ruộng, bọn giặc bị bất ngờ, nhảy
lung tung. Bỗng Ngạn ngó thấy có mấy thằng tự dưng tụt hẫng xuống
ruộng. Cánh tay cầm súng của chúng chới với, chới với. Anh em la ré
lên:
- Nó sụp chông rồi!
- Rồi, rồi, sụp nữa rồi! Bọn giặc ngoài ruộng hốt hoảng, càng chạy
bậy càng bị sụp. Chúng nằm sát xuống mặt ruộng, không tiến mà cũng
không lùi. Bọn phía sau trấn tĩnh lại, ôm súng máy bắn sả vào vườn.
Mãng cầu rụng nghe lịch bịch. Một nhánh mãng cầu bị đạn súng máy cắt
đứt rơi xuống vai Ngạn. Anh hất nhánh mãng cầu, đứng nhóng lên. Thấy
bọn giặc ở bãi chông vẫn nằm im, anh nói lớn:
- Đừng bắn nữa, anh em! Chừng nào tụi nó đứng dậy sáp vô hãy bắn!
Quả nhiên, bọn giặc nằm im một lát thì lồm cồm đứng dậy tiến tới.
Lần này, bọn đi sau hò hét, la lối rất dữ. Còn những tên đi đầu lò
dò từng bước, tiến rất chậm. Ngạn nghe bên cánh Ba Rèn nổ luôn mấy
phát lơ - ben, "păng, păng, păng" hệt như tiếng trung liên. Bọn giặc
liền nhốn nháo. Một số nữa lại bị sụp chông, người cứ biến đi dưới
mặt ruộng. Nhưng lần này có nhiều tên thuộc đại đội biệt kích tiến
được một quãng khá xa. Mặc dù nghe súng nổ, chúng vẫn xống lưng chạy
tới. Bọn phía sau theo gót chúng chạy dấn lên. Đội hình giặc bỗng
dưng biến thành một dọc dài. Chúng đã vượt qua được tuyến chông thứ
hai. Ngạn thấy nếu cứ để chúng tiến vào kiểu ấy thì chỉ trong vài
phút nữa là chúng sẽ tới nơi. Anh nhảy thoắt lên khỏi công sự, xách
súng chạy riết lại ngay mũi tiến của giặc, nằm rạp xuống. Đợ ba bốn
tên nhập một, anh nổ ngay một phát. Hai tên biệt kích bị viên đạn
của anh xỏ xâu, tên sau té trước, tên trước đứng sững lại, buông
súng, người hơi ưỡn ra sau rồi loạng choạng ngã gục. Bây giờ, trên
ruộng, bọn giặc tiến vào dễ dàng hơn, vì chỗ nào không có chông đều
đã lộ ra cả. Chúng trí mọt - chê giữa ruộng, bắt đầu nã vào. Đạn mọt
- chê kêu "hụp, hụp, hụp", bay rú tới ven vườn, nổ "uỳnh, uỳnh" bứng
nguyên từng gốc mãng cầu. Khói xám bốc lên. Ngạn bắn tiếp mấy phát
nữa và la lớn:
- Chuẩn bị rút nới vô! Anh bảo một anh du kích:
- Dẫn anh em rút đi! Toàn độ Ngạn chạy theo anh du kích. Ba Rèn dặn:
- Vô tới miếng vườn trong thì ở lại đợi tụi tôi nghe!
- Bây giờ anh chưa rút à?
- Tôi hả, tôi cũng vô trỏng liền mà!
Ba Rèn nói vậy nhưng vẫn chưa đi. Ngạn len qua mấy gốc mãng cầu, lúc
ngoảnh lại thấy Ba Rèn với mấy anh du kích lom khom vác cây ngựa
trời chạy ngược ra hướng giặc. Ngạn lo quá. Nhìn cây súng ngựa trời
sần sùi thô kệch, bỗng dưng Ngạn thấy thương Ba Rèn và anh em du
kích vô hạn. Vào tới mương vườn trong, Ngạn cùng anh em bám dưới
mương. Bọn giặc chia ba mặt ập vào vườn. ở mặt Ngạn, anh em đánh với
chúng tám trận. Thình lình Thẩm bị miếng mọt - chê phạt trúng chân
trong lúc anh vọt qua một bờ vườn. Anh em xốc Thẩm lên, vác chạy.
Bọn giặc nhảy thòm thọp qua mương, la ó vang vườn. Thấy chúng tràn
tới dữ quá, mà chẳng thấy cánh du kích Ba Rèn đâu cả, Ngạn cho anh
em cõng Thẩm rút ra đường. Anh cùng anh em bắn cản hậu, rồi cũng rút
theo. Trên đường về Hòn, Ngạn vừa chạy vừa ngó thấy dấu máu nhỏ dài
trên cát. Anh nghĩ bụng:
“Máu của Thẩm! " phía trước, Tới đang cõng Thẩm chạy lúp xúp. Hai
chân Thẩm thòng xuống muốn chấm cát. Bắp chân trái 113 114 của Thẩm
đã được buộc lại bằng một cái khăn rằn. Ngạn chạy riết theo cho kịp
Tới. Anh sấn lên, kêu:
- Thẩm, Thẩm, có đau không? Thẩm nhoẻn cười đáp:
- Hơi ê ê! Ngạn thấy mặt Thẩm hơi tai tái. Máu nơi chân Thẩm chảy
trông rất sợ. Lớp khăn buộc vết thương bị máu thấm ướt hết, và máu
cứ chảy ròng theo gót chân Thẩm, nhỏ thành giọt xuống cát. Giọt nào
vừa nhểu xuống liền bị cát hút ngay, đổi thành màu sẫm như màu sét
sắt. Ngạn hơi lo, nhưng anh cũng cười, nói:
- Ráng một chút nữa vô tới Hòn, tao kêu Năm Nhớ nó băng cho. Năm Nhớ
mà băng thì mày bớt đau liền.
Thẩm nhếch mép cười, nhưng không nói gì cả. Tới cõng Thẩm nãy giờ
mệt thở hồng hộc. Trọng liền thay Tới, cõng Thẩm. Ngạn xách súng đi
một bên, lát lát lại ngó ngoái về cụm vườn, có ý ngóng coi cánh du
kích của Ba Rèn ra chưa. Phía vườn, súng vẫn nổ không ngớt. Thình
lình, anh nghe mấy tiếng nổ "ầm ầm" dội lại, nhỏ hơn tiếng lựu đạn
và mọt - chê 61 một chút. Chốc sau, đằng cụm vườn có bóng người liên
tiếp chạy vọt ra. Anh em trong đội Ngạn kêu lên:
- Cánh Ba Rèn dông rồi kia kìa!
- Bộ tụi nó rượt lắm sao mà mấy chả chạy dữ quá!
- Chắc nó chiếm được mí vườn rồi! Ngạn nói:
- Anh em mình cũng chạy mau mau lên đi, còn Trọng cõng Thẩm cứ chạy
vừa phải thôi. Để tôi đi với Trọng, chừng nào Trọng mệt, tôi cõng
tiếp. Anh em du kích vượt qua mặt Ngạn chạy lên trước. Ngạn và Trọng
chạy chậm, nên lát sau anh em du kích đã lên tới. Ngạn ngó thấy anh
em dìu thằng Bé con của chú Tư Râu đi thất thểu. ống tay áo bên trái
của thằng Bé lòng thòng, rách bươm. Ngạn giật mình, hỏi:
- Bị mọt - chê phang à? Thằng Bé gật đầu. Ba Rèn vác cây ngựa trời
chạy lúp xúp về phía Ngạn, hỏi oang oang:
- Có nghe ngựa trời nổ không? Ngạn đáp:
- Tôi có nghe hai tiếng nổ. Anh bắn hả?
- Tôi với Hai Cá Trèn mỗi người đả một phát. Cách có hai tầm đất,
nghe! Ba Rèn vung tay:
- Tụi nó bò càng hết thảy. Bắn mỗi đứa một phát, tôi với Hai Cá Trèn
nhắm không êm, cõng chạy. Tụi nó xổ đạn theo như mưa. Ngạn hỏi:
- Bây giờ tính sao đây?
- Vô Hòn thôi. Mọi người chạy thẳng tới Hòn Đất, bấy giờ đã ở sát
trước mặt. Gần tới Hòn, thình lình Ngạn thoáng thấy sau rặng dừa có
một người tất tả chạy ngược lại phía anh. Anh nhìn kỹ, thì ra là Năm
Nhớ. Cô chạy, tóc bay xấp xõa. Đến nơi, cô thở hổn hển, mặt tái mét.
Gặp Trọng đang cõng Thẩm, cô liền quay lạiđi theo sau lưng, tất
tưởi. Rồi cô lấy cái khăn quàng cổ của cô cúi xuống luýnh quýnh chùi
bắp chân ướt máu của Thẩm. Nhưng vừa chùi qua một lượt, máu lại chảy
ròng xuống. Năm Nhớ òa khóc. Ngạn nói:
- Chưa chi mà khóc rùm lên vậy, Năm Nhớ? Nó không chết đâu mà! Ngạn
nhìn Năm Nhớ, nghĩ:
“Bây giờ con nhỏ hết biết mắc cỡ gì hết rồi. Coi kìa, nó cứ quýnh
lên. Vậy mà hồi trước mình nhắc tới chuyện nó với Thẩm thì nó cứ làm
bộ ngủng ngẳng. Cha, con nhỏ này thương thằng Thẩm thiệt rồi! " Nhìn
dáng vẻ của Năm Nhớ, bỗng dưng anh tự hỏi nếu mình bị thương thì
không biết Quyên có khóc không. Và anh cảm thấy có cái gì khoai
khoái khi nghĩ rằng nếu mình bị thương mà Quyên thì luýnh quýnh lên
như vậy.
Phần 3
1
Một tiếng đồng hồ sau khi anh em rút hết vào hang, bọn giặc từ mí
vườn đã tràn tới khắp xóm Hòn Đất. Anh Hai Thép đứng với anh em trên
triền Hòn rậm rạp mít và vú sữa, nhìn thấy bọn giặc đi lúc nhúc dưới
xóm. Bóng chúng loáng thoáng hiện ra sau những vòm lá mít, măng cụt,
lê - ki - ma. Có tên đã vội vã leo dừa. Tiếng chúng nói chuyện la
hét ầm ĩ, mọi người đều nghe thấy. Trong ánh nắng sớm chiếu rực các
vườn cây bên dưới, xóm Hòn Đất náo động cả lên, bởi tiếng giặc la ó,
tiếng súng nổ "bóc đùng", tiếng gà kêu oang oác và cả tiếng bò rống
nghe rất thảm thiết.
Những thằng lính áo rằn ngồi dưới các gốc dừa thì coi hệt như những
bụi lá. Lúc chúng đi đứng tới lui mới phân biệt ra chúng được. Một
toán vác xoong chảo vừa lấy của đồng bào kéo đi lểnh nghểnh. Một
toán khác cũng chừng một trung đội lũ lượt tràn ra phía suối. Con
suối này chảy uốn quanh Hòn Đất, nên gọi suối Lươn. Bà con gọi thế
vì dưới suối từ lâu có một cặp lươn trắng rất lớn. Trước nay không
ai dám bắt cặp lươn đó cả. Nhất là từ cái dạo có ông già Khơ me tên
Suôn lén câu, chẳng những bao nhiêu lưỡi câu ông thả xuống đều bị
cắn đứt, mà sau đó về nhà ông còn bị vật mình vật mẩy đau tới ba bốn
tháng. Chuyện ông Suôn thì không biết ra sao, chớ cặp lươn thì có
thật, và suối Lươn rõ ràng là một suối nước lành, bao đời nay vẫn là
nguồn tươi trong cho cả Hòn Đất... Bọn giặc xổ ra suối đã bắt đầu
đóng cọc che lều. Chúng cắm bốn năm cái lều vải bạt lớn cặp theo
suối. Anh Hai Thép lo lắng nói với Ngạn:
- Tụi này bộ tính đóng lâu nghe? Nó chiếm suối kìa! Ngạn lẩm bẩm:
- Ờ, nó chiếm suối rồi! Hai Thép nói:
- Nó chiếm cái suối thì ngặt cho mình lắm!
- Trong hang nói mình có trữ nước mà!
- Có, nhưng sợ không đủ, nếu kéo dài đôi ba bữa thì kẹt lắm! Anh Hai
Thép vẫn đau đáu nhìn xuống xóm, hỏi:
- Thôi, mình vô hang đi. Vô trỏng tính toán coi sao! Anh dạy bảo chú
Đạt ở lại gác nếu có gì chạy về cho hay, rồi cùng mọi người men theo
vách đá, đi lần xuống phía miệng hang.
Hòn Đất có một chu vi bao bọc lối bốn cây số. Nó hơi dài, giống như
một chiếc mai rùa. Chiều dài Hòn Đất trên một cây số, còn chiều
ngang ước độ bảy trăm thước. Cả Hòn chỉ có một miệng hang độc nhất.
Luồn quá miệng hang một chút là gặp cái hang nhỏ bùng binh. Tại đây
có ba ngách tối om, chạy sâu hút vào trong. Anh Hai Thép, Ba Rèn và
Ngạn vừa khom lưng luồn vào tới hang nhỏ thì gặp hai anh du kích
ngồi gác. Một anh nói:
- Anh em vô hang lớn hết rồi, mấy anh à! Ngạn hỏi:
- Mấy anh ngồi đây dòm thấy phía ngoài rõ không?
- Thấy!
- Để tôi coi thử! Ngạn quành lại gộp đá. Anh du kích nánh sang một
bên. Ngạn ghé mắt nhìn ra ngoài. Anh thấy ở ngoài rất rõ, thấy bãi
cỏ trống và những cây dừa trĩu quả sát Hòn, thấy cả bọn địch lố nhố.
Anh reo lên:
- Hay lắm, ở đây quan sát được! Rồi anh bước ra, đi theo anh Hai
Thép và chui vào cái ngách bên trái. Ba người đi vòng vèo, khi lội
qua trái, khi lội qua phải.
Có tới năm phút sau họ mới tới một cái hang khá rộng, sáng mờ, đang
có tiếng người lao xao. Đấy gồm toàn những anh chị em cán bộ lộ mặt,
không ở lại xóm được và những anh em du kích. Đáng lẽ càng vào sâu
hang càng tối, nhưng ở trong chỗ này lại sáng dần ra. Những gộp đá
xếp chất chồng trên vòm hang có nhiều kẽ hở, nhờ vậy ánh sáng từ
ngoài lan vào được. Nhưng ánh sáng len vào cũng không nhiều, nó chỉ
vừa tạo ra cái cảnh tranh tối tranh sáng, khiến những ai ở trong
hang đều cảm thấy như mình ở giữa đêm sắp hầu tàn mà ngày thì chưa
rạng. ấy là màu của buổi tinh mơ mới chớm, màu bóng đêm nhòa xóa,
nhưng bình minh lại chưa đến. Trong cái hang có vẻ sinh động riêng
biệt, hơi huyền ảo, với những bước chân không động, tiếng nói cười
nghe cũng ấm hơn và mọi người chỉ có thể vừa đủ nhận ra nhau chứ
không trông thấy rõ mặt nhau lắm. Khi có người và hơi thở, khi có
tiếng nói và những bước đi, cái hang liền khác trước, đến nỗi lúc
Ngạn mới bước vào, anh nghe tiếng Quyên khẽ gọi, thì anh vẫn biết là
tiếng Quyên đấy, mà sao nghe cứ lạ hẳn. Anh dừng lại, chưa trông
thấy Quyên đâu, thì đôi bàn tay quen quen mát rượi của Quyên đã nắm
chặt lấy tay anh. Đôi bàn tay ấy rờ rẫm người anh, rờ từ gáy dọc
xuống lưng anh một cách gấp gấp, như để coi anh có phải thực là một
Ngạn còn nguyên vẹn không vậy. Quyên thì thào:
- Đánh chông kết quả quá, hả anh? Hồi nãy, em nôn quá cứ đòi ra đó
mà mấy ảnh không cho! Vậy thì hôm trước kêu em đi tập bắn súng chi
cho uổng công...! Nghe nói tụi nó vừa chết vừa bị thương gần năm
chục phải không anh? Trời ơi, em với chị Ba, với con Thúy đứng trên
Hòn coi rõ hết. Coi thiệt là sướng.
- Chị Sứ với con Thúy đâu?
- Ngạn hỏi. Quyên không đáp, vội chạy đi kiếm Sứ dắt lại. Ngạn thấy
một cái bóng nhỏ vụt nhào tới ôm chặt mình:
- Dượng út, dượng út!
- Con bé Thúy kêu lên mừng rỡ.
- Sao con cũng vô đây? Thôi, nguy rồi! Ngạn nói và nhắc bổng con bé
lên. Chị Sứ nói:
- Nó đi theo chị từ sáng. Biểu ở nhà với má cứ không chịu... Bây giờ
làm sao mà về được... Mày thấy chưa, Thúy?
- Con không về, con ở hang con chơi! Con bé ngẩng nhìn Ngạn:
- Vui quá hả dượng út! ở trong này vui quá. Hồi nãy dượng út có bắn
chết tụi Mỹ - Diệm nào không? Con vỗ tay hoan nghinh ghê lắm, chắc
dượng đâu có nghe. Con Thúy nói rối rít. Nó vui vẻ, lăng xăng trong
vòng tay Ngạn. Hình như được ở trong hang nó thấy thú vị lắm. Lẽ
khác, người nào trong hang cũng đều quen với nó cả. Nó đi lọ mọ thế
mà ai cũng nhận ra và kêu đúng tên nó. Nên nó sung sướng.
- Ngạn à, nãy giờ em ở trên Hòn ngó thấy dưới xóm ra sao?
- Chị Sứ hỏi.
- Ngó thấy rõ lắm, chị ạ. Tụi nó tràn vô khắp xóm rồi. Đông lắm.
Lính vác xoong chảo đi nghễu nghện. Tụi nó chiếm suối Lươn rồi. Coi
bộ nó tính đóng quân...
- Cha...
- Quyên buột miệng kêu, lo lắng. Và cô nói khẽ với Ngạn:
- Trong hang mình thì có nước nhưng ít quá. Hồi sáng vô hang, em với
chị Ba đi coi lại những cà - om nước thấy có chín cái mà bị chảy
sạch không còn một giọt.
- Sao?
- Mấy cái cà - om đất đó để lâu quá bị rỉ chảy. Em với chị Ba, Năm
Nhớ phải đội cà - om chạy ra suối múc nước. Đội ba chuyến được lại
chín cà - om như cũ. Mà cái cà - om nước sau cùng thì Năm Nhớ làm
rớt bể... lúc đó nghe anh Thẩm bị thương!
- Vậy thì bây giờ còn tất cả được mấy cà - om?
- Cũng còn được tám cà - om, nhưng mình hơi đông...
- Thôi được, để rồi... à, Thẩm với chú Bé bị thương giờ ở đâu?
- Ở kia! Quyên chỉ vào phía trong hang.
- Còn vợ chồng thằng cha trại đáy?
- Trói bỏ trong hang xẻo. Con vợ khóc thôi là khóc. Ngạn bảo Quyên
dắt anh lại chỗ mấy anh bị thương. Bé Thúy cũng chạy theo. Quyên vừa
dẫn Ngạn đi vừa thì thào:
- Tội nghiệp thằng Bé quá! Cũng bị miểng mọt - chê như anh Thẩm. Bộ
hồi nãy tụi nó thụt trúng ngay hả anh? Ngạn gật đầu. Quyên lại nói:
- Em với Năm Nhớ mới rửa và băng vết thương cho hai người. Em thấy
cánh tay của Bé nặng lắm. Còn vết thương nơi bắp chân Thẩm coi vậy
chớ không sao... Ngạn nói:
- Không sao mà đã có người khóc rum lên rồi!
- Ai khóc? Năm Nhớ hả?
- Ngừng một chút, Quyên khẽ bảo:
- Ờ, thì nó thương anh Thẩm nó mới khóc!
- Thương, thương mà hồi trước tới giờ sao không chịu hé ra, cứ êm
ru, bây giờ mới...
- Bộ phải nói ra mới thương à? Tại anh Thẩm, anh Thẩm không nói với
nó. Chớ Năm Nhớ thì làm sao nó dám nói trước được! Ngạn nói giọng
tỉnh như không:
- Vậy còn cô, sao hồi đó cô dám nói trước với tôi!
- Nói hồi nào, hồi nào? Quyên quay phắt lại, vảnh tay tát vào người
Ngạn. Ngạn cười rúc rích. Đi gần đến góc hang, Quyên kêu:
- Năm Nhớ ơi!
- Quyên hả? Ngạn sắp bước vào, chợt thấy bàn tay nhỏ xíu của con
Thúy rút ra khỏi tay mình. Anh nghĩ bụng:
“Chắc con nhỏ sợ". Anh bước tới, nhìn thấy Thẩm đang ngồi trên một
phiến đá phẳng, lưng tựa vào vách hang, cái chân trái của Thẩm duỗi
ra, co co. Thằng Bé thì nằm dài trên chiếu, tay mặt bị thương đặt
lên tấm khăn rằn xếp gấp lại. Năm Nhớ ngồi bên thằng Bé, tay cầm một
cái khăn ve vẩy. Thẩm cất tiếng hỏi:
- Mày đó hả Ngạn?
- Ờ, tao đây, sao?
- Không sao...
- Coi miểng còn dính trong đó không? Năm Nhớ nói:
- Không, em chắc là không có miểng. Nó bay luôn đi rồi!
- Chắc là vậy... Ngạn tháo lấy cây đèn pin móc ở thắt lưng. Anh bấm
đèn soi chân Thẩm. Con bé Thúy giờ cũng rón đến coi. Thẩm giơ tay
nắm lấy tay con bé Thúy, bảo nó ngồi xuống cạnh anh. Vết thương của
Thẩm đã được băng kỹ. Máu không còn chảy nữa. Khi Ngạn cúi nhìn vết
thương, anh nghe Thẩm khẽ nói:
- Tao biết, tao không hề gì đâu... Miểng mọt chỉ chém sơ qua bắp
chuối thôi. Phải chú ý coi sóc cho thằng Bé, cái tay của nó nát quá.
Thằng nhỏ ngon lắm, không rên la gì hết!
Ngạn bước tới chỗ thằng Bé nằm. Anh bấm đèn nhìn. ống tay áo rách
nát đã được cắt gọn, cánh tay thằng Bé được băng giáp tới sườn, và
máu sẫm bết dính các lớp băng lại. Bàn tay phải còn lại của thằng Bé
cứ cấu chặt xuống mặt chiếc đệm. Đôi mắt thằng Bé nhắm nghiền, miệng
thở phập phào. Da mặt nó hơi tái lại, nhưng đôi môi vẫn tươi bậu,
hênh hếch. Nó nằm đây tợ như nằm ngủ chớ không phải bị thương. Cái
khuôn mặt trẻ thơ ấy tưởng như không phải đang đau đớn, tưởng như
hãy còn vương tiếng cười khanh khách khi nó trườn giỡn với thằng út
em nó trên bãi biển hay hí hửng vụt la ré khi cùng cha nó kéo lên
khoang ghe một vạt lưới đầy cá. Nó còn nhỏ quá. Nhìn cặp mắt nhắm
nghiền, đôi môi tươi bậu hênh hếch kia. Ngạn có cảm giác tim anh như
bị một bàn tay nào bóp mạnh, rồi khi bàn tay đó thả ra, máu trong
huyết quản anh như sôi lên. Đầu anh nhức nhói hình dung ngay tới
bóng mấy thằng giặc lom khom trí những khẩu mọt - chê lên mặt ruộng.
Rồi thì cái bộ tịch loay hoay ngắm nghía của thằng pháo thủ, cùng
những trái lựu đạn đuôi chia, bộ chân súng có bàn rộng bè như chân
vịt từ đó không rời ra khỏi đầu Ngạn nữa. Mãi đến lúc anh nghe thấy
có tiếng anh Hai Thép gọi ở trước hang, anh mới đứng dậy. Anh khẽ
bảo Quyên bấy giờ đang ngồi kéo lại ống tay áo, sửa lại áo quần cho
thằng Bé:
- Mấy ảnh kêu họp kìa. Đi Quyên! Con Thúy nãy giờ vẫn còn ngồi nép
vào vai Thẩm, Quyên nói với nó:
- Thúy ở lại chơi với cô Năm, với mấy chú, nghe?
- Dạ. Tất cả đảng viên hiện có mặt trong hang đều được triệu tập.
Nhưng khi các đảng viên đã đến ngồi vây quanh thì anh Hai Thép lại
nói:
- Ban nãy tôi định triệu tập các đồng chí đảng viên họp trước, nhưng
có lẽ không cần, mình cứ họp tất cả anh em, trừ anh em đang có nhiệm
vụ canh gác và trông coi thương binh. Các đồng chí thấy sao?
- Đồng ý, nên họp tất cả! Ba Rèn chạy đi gọi anh em lại. Anh Hai
Thép lên tiếng:
- Không nói thì các đồng chí cũng biết lần này địch đánh lớn. Có thể
nói đây là một trận càn quy mô hơn hết trong tỉnh. Sau khi đụng độ
với ta ở ngoài Vạn Thanh, giặc đã tràn vô xóm. Ban nãy, chúng tôi có
đứng trên Hòn coi thì thấy rõ ý đồ tụi nó định vây hang. Hiện tụi nó
đã chiếm suối nước, và vòng quân của địch đã ngăn cắt chúng ta với
trong xóm. Mới đây, anh em gác trên Hòn về cho biết có mười tàu mặt
dựng vừa tới đậu cặp bãi, cách bờ chừng một cây số. Theo tôi tụi nó
sẽ đánh hang. Tình hình là như vậy, nên chúng ta phải tìm cách đối
phó... Giữa lúc Hai Thép đang nói, thình lình có những tiếng nổ vang
rền cắt ngang lời anh. Bụi cát trên vòm hang vụt đổ xuống rào rào.
Mọi người đều nhổm bật dậy. Không ai biết là cái gì. Kế đó tiếng nổ
dội đến liên tiếp làm cho những gộp đá bên trên đều rung chuyển như
sắp đổ sụp. Ngạn nói:
- Tôi nghi nó thụt mọt - chê 81 lên triền Hòn!
- Có lẽ! Anh Ba Rèn phủi tay:
- Ối, mình ở đây dẫu nó có bỏ bom tấn mình cũng khỏi sợ! Tiếng nổ
vẫn tiếp tục không ngớt. ở trong hang mọi người nghe tiếng rền vang
dội rất lâu, có đến mười phút sau mới dứt. Ai cũng lấy làm bực vì
không biết bọn chúng đang làm gì. Mãi một lúc sau, Đạt nhỏ từ ngoài
chạy xổ vào, la:
- Tụi nó bắn cà - nông lên Hòn quá sức. Bắn gẫy cây gẫy cối hết.
Cháu núp sau mô đá, nghe tiếng miểng nó đi rẻng rẻng. Hai Thép hỏi
Đạt:
- Còn tụi ở dưới xóm có động tĩnh gì không?
- Tụi nó siết chặt hơn hồi nãy. Quân nó đóng dày chung quanh đây
hết. Từ chân Hòn mình trở ra chừng hai công đất đều có tụi nó!
- Ở gần miệng hang thì sao?
- Nó chưa vô sát miệng hang. Hai Thép nói:
- Tụi này bắn đại bác lên Hòn để dọn dẹp đây. Kiểu này thế nào nó
cũng đánh vô. Tôi đề nghị bố trí ngay bốn tổ ba ba. Một tổ ở ngoài
miệng hang, hai tổ thủ ở trong. Nên tập trung lựu đạn và tôm - xông
cho các tổ đó. Ba Rèn và Ngạn đi bố trí liền đi. Còn bao nhiêu ở lại
đây, tôi sẽ phân công. Anh Ba Rèn và Ngạn đứng lên. Hai tổ du kích
và hai tổ của đội võ trang được chọn đi ngay. Ra cửa hang, Ngạn nói
với anh Ba Rèn bấy giờ đã rút cây mã tấu cầm lăm lăm:
- Anh Ba à, anh thủ ở ngách, để tụi tôi trấn ngoài bìa cho.
- Được mà điều tôi dặn: nếu chú chịu với nó không xiết thì cứ rút.
Tụi tôi đón nó.
- Đồng ý! Ngạn cùng hai tổ của mình đi qua khỏi các bùng binh, luồn
ra miệng hang. Anh chọn những mô đá có lợi thế tốt nhất ở hai bên.
Tới phụ trách một tổ và anh phụ trách một tổ. Tổ của Tới được phân
cho hai khẩu tôm - xông và bảy quả MK3. Tổ của Ngạn thì có một tôm -
xông, một trường mát và tám lựu đạn, cũng là lựu đạn MK3. Bố trí
xong, Ngạn thấy Đạt ở trong hang chạy ra hớn hở:
- Chú Hai biểu em ra đây với mấy anh.
- Vậy hả? Tốt lắm! Vậy em ở đây với anh. Cây cạc - bin của em được
bao nhiêu đạn?
- Bốn mươi lăm viên!
- Nghe nói em bắn "cạc" khá lắm hả? Đạt cười ngượng nghịu:
- Em bắn cũng được thôi. Chắc không bằng anh đâu!
- Anh chỉ bắn mát, chớ "cạc" anh ít bắn lắm! Đạt nói:
- Anh bắn mát giỏi thì nhứt định anh bắn "cạc" giỏi. Cây "cạc" bắn
dễ trúng lắm. Mà bắn cây gì cũng vậy, em gẫm mình tỉnh thì bắn
trúng. Ngạn nhìn bộ mặt chất phác dễ thương của Đạt, cười hỏi:
- Thường thường thì em có tỉnh không?
- Em tỉnh chớ! Đạt đáp dứt khoát.
Nghe Đạt đáp. Ngạn tin ngay là cậu ta nói thật. Đối với cậu thanh
niên mười tám tuổi này, từ lâu Ngạn đã đem lòng thương mến. Mỗi lần
gặp anh Tám trên huyện, Ngạn để ý thấy Đạt hay đi cắm câu, đi bẫy
chim. Ngoài nhiệm vụ bảo vệ, Đạt còn ra sức cải thiện để anh Tám có
được bữa ăn khá. Chính cậu ta đã đãi Ngạn mấy bữa cá nướng và chim
cu đất "rô - ti" ngon lành. Nhưng điều khiến Ngạn thương Đạt hơn cả
là hiện nay Đạt không còn cha mẹ. Mẹ Đạt chết khi sinh ra Đạt. Cha
Đạt là cán bộ xã hồi kháng chiến, năm năm mươi tám bị bọn Diệm bắt
đập đầu vứt xác trong bàu rừng. Hài cốt của cha Đạt và những người
khác được chính chị em Quyên, Sứ gom về, bây giờ cũng hãy còn để
chung trong hang. Nay Đạt chỉ còn có bà ngoại, trên sáu mươi tuổi,
hiện ở bên Lình Quỳnh. Đạt đi bảo vệ anh Tám được hai năm. Nghe đâu
có lần bà ngoại Đạt nhớ Đạt quá cứ đi lần mò kiếm nó thăm. Ngạn hỏi:
- Chiều hôm qua về Lình Quỳnh, em gặp bà ngoại rồi hả?
- Em gặp rồi... Ngoại em mừng quýnh, cứ ngồi rờ mình mẩy em mà khóc.
Rồi ngoại em đi kiếm đu đủ hườm về nạo trộn gỏi cho em ăn. Em khoái
ăn gỏi đu đủ trộn tôm xé lắm. Lần nào về ngoại cũng làm cho em ăn
"đã" thôi.
- Món đó anh cũng khoái lắm.
- Ngạn nói.
- Em có đem về cho mấy anh năm xâu tôm lụi của ngoại em gởi... Ngạn
đặt tay lên khẩu cạc - bin của Đạt, hỏi:
- Cây "cạc" em lên đạn chưa? Đạt gật đầu:
- Em lên rồi, nhưng đã khóa lại. Ngạn dặn:
- Em lựa chỗ núp chỗ day trở cho thiệt ngon đi! Đạt ngắm nghía chỗ
mình, nói:
- Em ngồi đây được rồi! Đạt nâng khẩu cạc - bin lên, chĩa ra miệng
hang, nhắm nghiền mắt trái. Cậu ta nheo mắt mấy lượt, đoạn liếm môi,
bảo:
- Ở đây bắn sướng lắm! Đạt để súng dựa vào đùi, mở lấy bi - đông
nước ra uống. Hớp mấy hớp nước, Đạt đưa bi - đông về phía Ngạn:
- Anh uống? Ngạn chỉ bi - đông nước đeo bên thắt lưng mình nói:
- Anh có đây...
- Dừng lại một giây, anh bảo:
- Uống nước in ít thôi nghe Đạt. Khi khát lắm hãy uống! Rồi Ngạn
cũng dặn tất cả:
- Anh em nhớ phải tiết kiệm nước đấy. Trong hang có rất ít nước. Còn
cơm khô, cốm dẹp của mỗi người là lương thực chính, đừng có buồn
miệng đem ra nhai chơi đó! Tới hỏi:
- Ở trong hang có gạo mà?
- Có, nghe nói có hai giạ gạo. Nhưng hai giạ thì cao lắm là chịu
được ba bốn ngày.
- Ba bốn ngày thì nó rút mất rồi, sợ gì?
- Chuyện đó chưa biết được. Ví dụ tụi nó vây riết mình độ một tuần
lễ thì sao? Nghe Ngạn hỏi thế, không ai nói chi nữa. Mọi người lựa
chỗ, ngồi im. Tất cả các mũi súng đều chĩa ra miệng hang. Ngạn đăm
đăm nhìn cái lối mòn trên bãi cỏ cú. Anh nhìn những cây dừa đứng
yên, những tàu lá dừa nhẫy nhượt, loáng nắng. Thấp thoáng vài tên
lính áo quần xám xịt đang tới lui khuân vác những thứ gì không trông
thấy rõ. Anh nghe tiếng xoong chảo khua loảng xoảng, tiếng la ó nhốn
nháo từ xa vẳng tới và có cả tiếng dừa rụng bịch bịch.