Quảng cáo LH: 0128.543.5547
Online: 1
Bây giờ: 2024-05-14 17:11
Chỉ với 500đ có cơ hội trúng iphone 4, Card (100k, 20k, 10k), hàng trăm game, nhạc chuông, hình ảnh miễn phí (ko tin đừng vào)
Chung Thủy Là Hạnh Phúc
Tôi bắt đầu viết tiểu thuyết "Hòn Đất" tại Hội Văn Nghệ Giải Phóng miền Nam đóng giữa những cánh rừng già thuộc Đông Nam Bộ vào cuối năm 1964. Sang đầu năm 1965 thì tôi viết xong. "Hòn Đất" gởi ra Hà Nội và Nhà xuất bản Văn Học xuất bản đầu tiên năm 1966, đồng thời ở miền Nam tác phẩm này cùng với tập truyện và bút ký "Bức thư Cà Mau" của tôi được tặng giải chính thức giải thưởng Nguyễn Đình Chiểu. Tính đến nay, "Hòn Đất" ra mắt bạn đọc đã trên ba mươi năm và được tái bản tới lần thứ tám. Sách cũng đã được dịch và xuất bản nhiều thứ tiếng: Anh, Pháp, Espéranto, Tây Ban Nha, Nga, Đức, Trung Quốc, Nhật Bản... Ngày viết "Hòn Đất" tôi còn rất trẻ, mới hăm chín. Câu chuyện Hòn Đất là một câu chuyện về một trận đánh trong hàng ngàn trận đánh xảy ra trên chiến trường miền Nam trong giai đoạn sau đồng khởi, Mỹ tiến hành chiến tranh đặc biệt. Cuộc chống cự diễn ra trong hang Hòn Đất và ngoài xóm, trong thế chênh lệch: bên ta có mười mấy người bị vây trong hang với vũ khí thô sơ, cũ kỹ, còn phía Mỹ - ngụy gồm tới gần hai ngàn quân với vũ khí tối tân. Vì sao tôi đã chọn trận đánh có thật xảy ra tại Hòn Đất - Kiên Giang vào cuối 1962 đó để viết thành một tiểu thuyết có cùng tên với địa danh ấy? Trước hết là do bản thân câu chuyện tựa như là cả miền Nam chiến đấu được thu nhỏ, có tính tiêu biểu - có khả năng từ cái tiêu biểu mà khái quát hóa, thể hiện ở các mặt: tinh thần quân dân đoàn kết chiến đấu bất khuất dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng, vận dụng phối hợp ba mũi giáp công, lực lượng đôi bên chênh lệch, và điều quan trọng hơn cả là viết ra câu chuyện này như gióng lên tiếng chuông báo trước: chiến tranh đặc biệt nói riêng và chiến tranh xâm lược nói chung bất kể dưới hình thức nào do Mỹ tiến hành sẽ thất bại. Ngoài ra, về mặt dựng truyện, một yếu tố khiến tôi tin tưởng là ngay từ trong chuyện đã xuất hiện một người con gái, đã sống và đã chết như một nữ anh hùng. Đó là chị Phan Thị Ràng, mà trong tiểu thuyết tôi đặt tên là Sứ. Việc có được và hình thành vun đắp ra được một nhân vật phụ nữ như thế, từ lâu trong đời viết của tôi luôn là niềm khao khát muốn khắc họa, và đó là sự quen thuộc, gần gũi như trước kia tôi đã từng khắc họa chị Tư Hậu trong "Một chuyện chép ở bệnh viện". Bởi lẽ đó, "Hòn Đất" là một tiểu thuyết viết về một cuộc chiến đấu mà cũng là một tiểu thuyết về một đời người con gái. Tôi đã rút ra từ nhiều mẫu người con gái miền Nam anh hùng bất khuất trung hậu đảm đang để đúc lại thành một người. Đó là chị Sứ. Trong hơn ba mươi năm, tôi rất sung sướng về một chị Sứ trong Hòn Đất do tôi xây dựng nên từ một nguyên mẫu, đã trở thành nhân vật văn học đến cùng bạn đọc gần xa. Tôi hy vọng hình tượng chị Sứ sẽ sống lâu trong lòng bạn đọc, qua các thế hệ, nhất là đối với các em gái nhỏ sắp lớn lên thành những người con gái trên xứ sở xanh tươi yên bình của chúng ta hôm nay - đất nước đã thấm biết bao máu của những người cô người dì mình như Sứ. Giờ đây Hòn Đất vẫn còn đó. Trên đường đi từ Rạch Giá lên Hà Tiên, các bạn sẽ nhìn thấy trái núi xanh rì ấy mé tay trái, sát kề bên biển. Cách hang Hòn không xa là ngôi mộ chị Ràng, tức chị Sứ. Câu chuyện chiến đấu ác liệt ngày nào ở Hòn Đất đã qua lâu, nhưng chị Sứ vẫn còn. ở đó, bên vịnh biển Tây Tổ quốc ngày đêm sóng vỗ. Phần 1 Quyên nói: - Chị Ba, bây giờ tin em chưa, em đã nói anh Ba ảnh có quên chị đâu. Thơ ảnh viết đọc thiệt mới cảm động làm sao. Mà ảnh gởi về mười tám cái thơ rồi chớ ít ỏi gì. Đó, vậy mà chị cứ ngỡ thế nầy thế nọ... Thôi, vậy là thơ ảnh lạc hết rồi, còn thơ chị cũng chẳng tới tay ảnh cái nào đâu! Em ức quá, ở ngoài Bắc thì cũng là ở trong nước mình, vậy mà bảy năm trời bao nhiêu thơ gởi đều lạc mất. Thiệt là ức... Nhưng, nhưng bữa nay chị hết thắc mắc rồi, phải không? Kẻo chị cứ nói: “E ra ngoài ổng sung sướng vui vẻ quá rồi không còn nhớ ai nữa! " Đó, chị thấy oan cho anh Ba chưa? Quyên nói với chị ruột của mình một cách vội vàng và mừng rỡ. Coi cô như bênh anh rể, nhưng chính là cô mừng cho chị cô. Cô gái chia xẻ và vun vào cái niềm vui lớn mà suốt bảy năm trời nay chị của cô mới có được. Lúc nói, đôi bàn tay đầy đặn của cô lát lát lại hoa lên, mắt cô long lanh, và đôi khi môi cô mím lại. Cầm cái thư đưa trả cho chị, Quyên giữ lại tấm ảnh. Cô thoắt bước tới túm lấy con bé Thúy từ ngoài bậc thang nhà, kéo nó lại với cô, chìa tấm ảnh ra: - Nghe dì út hỏi nè, Thúy, ông này là ông nào đây? - Ba của con! Con bé nói, rồi đưa đôi bàn tay nhỏ nhắn cầm tấm ảnh, nhìn đau đáu. Nó thì thào nhắc lại: - Ba của con mà! - Sao con biết? - Má nói... má nói đó là ba của con! Con bé ngước đôi mắt đen tròn như hai hột nhãn lên: - Có phải thiệt là ba của con không, hở dì út? Quyên không đáp. Cô bế thốc cháu lên bộ ván, đặt nó ngồi yên trên đùi mình, rồi mới gật nhẹ đầu: - Phải rồi, ba của con đó. Từ giờ phải nhớ cho kỹ, nghe! Vậy là hai cha con biết mặt nhau rồi. Quyên day sang chị: - Chị Ba, theo như thơ anh Ba nói thì ảnh đã nhận được cái thơ sau cùng của chị, cả tấm hình chị chụp với con Thúy... Trời ơi, bảy năm nay ảnh mới biết mặt con Thúy đó nghe! Nghe em gái nói, chị Sứ liền nhớ lại hết sức rõ rệt những ngày cuối cùng anh San, chồng chị trở về nhà trước khi lên đường tập kết. Những hôm ấy, cũng tại cái nhà sàn lát ván cũ kỹ này, anh San vẫn nói chuyện như thường, vẫn cười cái cười cởi mở như ngày thường. Riêng Sứ, chị mới hiểu sự bình thường ấy làm sao. Chồng chị cứ lặp đi lặp lại mấy lần: - "Hai năm thì có lâu la gì! " Nhưng trong đêm chót, anh mới nói thực điều anh đã nghĩ: “ - Em à, nói vậy để má đừng lo, tội nghiệp má. Chớ với em thì anh nói thiệt anh không tin ở hạn định hai năm đâu. Có khi chưa tới một năm thì súng sẽ nổ lại, nhưng có khi không phải hai năm mà là ba bốn hoặc năm năm. Nên tụi mình phải chuẩn bị tinh thần... " Anh ấy còn bảo: - "Hễ cái chuyện gì mà mình có tính trước thì chừng xảy ra mình vẫn vững hơn". Sau đó, trong đêm khuya, anh co cánh tay kéo đầu chị ngả sát vào. Lâu sau, chợt anh nói, như tự nhủ: - "Không biết ở ngoài Bắc có cây trái như ở trong mình không? Có xoài, có măng cụt, có bưởi không? Cái gì chớ bưởi thì chắc có rồi nghe. Mà không biết bưởi ngoài đó tháng nào đâm bông, chưa chắc là gần giáp Tết như trong mình đâu... " Thoạt nghe, Sứ cho rằng anh cố nói lảng đi, nhưng liền đó chị biết. Chị biết anh đã nghĩ gì trước khi anh nói ra cái câu tưởng như bâng quơ ấy. Hai năm trước đó, trong bữa tiệc bà con Hòn Đất thết bộ đội đánh thắng ở chiến dịch Long - Châu - Hà trở về, lúc Sứ bưng dọn thức ăn ra cho bộ đội, chị có ngờ đâu anh San đã để ý tới chị. Theo lời anh, thì lúc đó anh đã nghe thấy mùi hương bông bưởi thoang thoảng mà Sứ đã cẩn thận gội lên mái tóc dày mượt lạ thường của mình. Hai người quen biết nhau trong buổi liên hoan tối đó. Về sau gặp lại Sứ, lựa lúc vắng người, anh San hỏi khẽ: - "Sao lóng rày cô Ba Sứ không gội bông bưởi nữa? " Sứ mím môi cười, thẹn đỏ mặt. Chuyện của hai người là thế. Mối tình đó bắt đầu chớm hé giữa các chiến thắng ngày càng dồn dập trong cả nước, mối tình đó nảy nở giữa tháng chạp các vườn bưởi Hòn Đất đang độ ra hoa. Hai năm sau họ làm đám cưới. ấy là một đám cưới vui nhất ở vùng Hòn, đúng vào lúc ta đại thắng giặc Pháp ở Điện - biên - phủ. Từ bấy đến nay đã hơn bảy năm. Hai người gần gũi nhau nhiều lắm là một tháng. Mãi tới hôm nay họ mới được tin nhau qua một bức thư mỏng và gặp lại nhau qua một tấm ảnh nhỏ. Bảy năm trời! Nghe em gái mình nói, Sứ hầu như không tin thời gian ấy là có thực. Chị thẫn thờ bảo: - Mau quá! Mới đó mà đã bảy năm! - Ờ... mà chị nè, chắc anh Ba ảnh đâu biết tụi mình ở trong này gian nan ra sao đâu hả chị! Phải ảnh mà biết cái năm tụi nó bắt chị lên quận ép làm tờ ly khai chồng, cái trận mà chị bị nhốt "chuồng cọp", "chuồng sấu"... Cha cha, ảnh mà biết!... Sứ mỉm cười hiền hậu: - Biết gì được... Thì chắc cũng có nghe nói, mà không rõ được đâu! Giữa lúc hai chị em nói chuyện với nhau, con bé Thúy se sẽ tụt khỏi lòng Quyên. Nó lồm cồm bò tới bên cái rổ may, mò mẫm tìm trong rổ may lấy ra một chiếc gương tròn. Rồi nó men vào trong góc, chỗ bộ ván áp sát vách. Nó ngồi một mình, lặng lẽ. Lát sau, nó mới từ từ giơ tấm ảnh lên, còn tay kia nó cầm chiếc gương soi. Con bé coi mặt nó trong gương và coi mặt ba nó trong ảnh. Nó coi đi coi lại, coi nó với ba nó có giống nhau không, từ mắt đến mũi, từ miệng đến vành tai. Nó thấy mắt và chân mày ba nó sao không giống nó lắm. Mắt nó thì tròn, mắt ba nó hơi dài mà sắc. Còn chân mày của ba nó thì rậm quá. Song nó mừng rơn lên thấy mũi và miệng ba nó giống nó ghê. Hớn hở, con bé lại nhìn, lại tìm kiếm những nét giống khác. Nó hy vọng rằng mọi nét giữa nó và ba nó đều giống. Vì nó yêu ba nó lắm. Tình yêu ấy được gieo vào tâm khảm trẻ thơ của nó bắt đầu từ khi nó được biết trên đời này nó còn có một người cha. Nó vẫn tin rằng cái gì ba nó cũng tốt, cũng hay, và nhất định là ba nó yêu nó hơn cả. Hồi sáng, khi mẹ nó đưa nó xem tấm ảnh, bảo người trong ảnh là ba nó thì nó tin ngay. Cũng có phần là vì mẹ nó bao giờ cũng nói thật, nhưng chính khi coi ảnh, nó cứ ngờ ngợ như đã có lần gặp ba nó rồi. Thực ra thì nó chỉ gặp ba nó trong trí tưởng trẻ thơ của nó qua những lời mẹ kể. Về việc nầy, phải nói là chị Sứ cứ ân hận mãi. Lúc chia tay, chị có giữ một tấm ảnh anh San, chị vẫn cất kỹ tấm ảnh ấy trong bóp. Năm năm mươi sáu, lúc bọn địch bắt chị giải lên quận, chúng xét gặp và xé nát. Năm đó chị sinh con Thúy. Ngồi trò chuyện với em, Sứ đã liếc thấy con mình làm gì hết cả. Nhưng chị giả vờ như không thấy. Chị đưa mắt nháy Quyên. Quyên ngoảnh nhìn. Thấy con bé Thúy đang lặng lẽ, chăm chú làm cái việc nhận dạng đến mức ấy, thì cô bụm miệng cố nhịn cười. Nhưng lát sau, không nín được, cô cười phì ra. Con bé Thúy đỏ mặt, lúng túng, ngượng nghịu úp tấm ảnh và chiếc gương vào ngực. Sứ không cười. Chị hỏi: - Sao, con? Con với ba có giống nhau không? Con bé ngó lơ chỗ khác, không đáp. Loáng cái đã thấy đôi mắt to đen của nó rân rấn. Sứ biết sớm muộn gì con mình cũng khóc. Tính nó hay hờn mát, từ bé đã vậy. Mẹ chị vẫn nói: - "Con nhỏ nó giống y như mày hồi đó! " Chính chị bây giờ, không hiểu sao, khi thốt hỏi con câu vừa rồi, mí mắt bỗng cay cay, nóng nóng. Chị đứng dậy bước tới góc bộ ván ôm lấy con. Rồi hầu như cùng một lúc, hai mẹ con đều nức nở. Quyên ngồi mỉm cười. Cô biết giọt nước mắt của chị và cháu mình chảy ra cũng chẳng qua bởi niềm vui đến hôm nay đã gợi dậy những nỗi tủi trong bao năm gian khổ, hy sinh và mong đợi, nên cô không lấy thế làm lo. Lát sau, không muốn để tiếng khóc ảnh hưởng đến tin vui cho chị em mình, cho cả nhà, cô vụt đứng dậy, nói: - Khổ ghê, hồi biệt tin biệt tức anh Ba thì chị với con Thúy cứ rủ rỉ thở than với nhau, bây giờ có tin anh Ba thì khóc. Thiệt hết biết hai mẹ con rồi. - Đoạn Quyên quay lưng: - Thôi, hai người ở đó khóc cho đã thèm đi. Tôi đi kiếm má cho má hay coi! - Má hay rồi! - Chị Sứ nói giọng nghẹn ngào, và tiếp: Má đi ra bãi kiếm tôm cá gì đó, nói chiều nay làm bữa cơm. Quyên đứng lại, mặt rạng lên: - Cha!... Mới được một cái thơ của anh Ba mà bà già làm tiệc rồi. Đây tới chừng thống nhất anh Ba về chắc má làm heo... - Tiệc tùng gì, nghe anh Tám Chấn với chú Ngạn về, má mới... - Ờ, ờ... Sáng nay cuộc hội nghị huyện ủy mở rộng đã bế mạc. Xế xế chắc mấy anh về tới đây. Em có gặp mấy anh ở đội VT3 của anh Ngạn đóng ở ấp hai, mấy ảnh nói anh Tám sẽ về công tác ở đây một thời gian ngắn. Chị Sứ hỏi, giọng đã bình tĩnh trở lại: - Nghe nói kỳ này anh Tám được bầu bí thơ huyện rồi phải không? - Phải, ảnh đã được bầu bí thơ, phụ trách cả dân vận... Em nghĩ anh Tám làm bí thơ là xứng đáng. Chị nhớ hồi đen tối không, chỗ nào cơ sở bị đánh phá dữ thì ảnh tới, cực khổ nguy hiểm mấy ảnh cũng tỉnh như thường. - Thiệt, lúc đó lần nào gặp ảnh chị cũng thấy đỡ lo hơn. Nghĩ cũng lạ, nông dân mình qua cách mạng nổi lên nhiều người giỏi dữ. Anh Tám cũng là nông dân rặt đó chớ gì! Má nói hồi còn Tây nhà ảnh ở Vĩnh Hanh mùa gặt nào cũng thấy ảnh quảy nóp xuống đây gặt mướn... - Nghe đâu hồi đó ảnh đã hoạt động rồi. - Ờ, ảnh hoạt động lâu rồi. Coi nông dân vậy chớ hoạt động cách mạng lâu thì hiểu nhiều, biết nhiều, lại được cái chắc chắn. Mà ảnh tình cảm ghê lắm. Nhớ hồi tao bị tụi nó bắt, lúc được thả về, ảnh viết thơ nhắc nhở an ủi hoài. Mấy cái thơ đó tao nhớ có đưa cho mày coi mà, Quyên? - Có, em có coi! Sứ liếc em gái, cười nói tiếp: - Thì chuyện mày với thằng Ngạn không khéo chút nữa là tan rồi. Anh Tám mà không cho hay thì mày còn khóc lâu! Quyên cười chúm chím, có vẻ đắc ý lắm. Nụ cười của cô hoàn toàn vui vẻ và biểu hiện đầy đủ rằng giá mà đời cô gặp sự rủi chăng nữa thì sự rủi đó đâu cũng chỉ là tạm đấy thôi. Bao giờ cũng vậy, ngay trong lúc khổ cực khó khăn cô cũng cứ tươi luôn, tưởng chừng suốt đời cô sẽ tươi mãi như thế. Ngoại trừ cái dạo năm năm mươi tám thì cô đã khóc lóc vật vã trọn một tháng. Nhưng rồi sau cái tháng đó, mọi nỗi đau buồn của cô bỗng dưng lại giũ sạch. Chuyện này có dính dáng tới người thanh niên tên Ngạn mà chị Sứ vừa nhắc tới. Ngạn là anh thợ nhà in, làm liên lạc viên ở nội thành Rạch Giá. Anh bị giặc bắt năm năm mươi lăm rồi bị đưa lên Phú Lợi. Tại Phú Lợi, Ngạn đã tham gia cuộc đấu tranh chống vụ đầu độc tù nhân lớn nhất từ trước tới nay của Mỹ - Diệm. Sau đó, anh là một trong số người sống sót bị giặc bắt chở ra liệng biển. Dọc đường đến bến tàu, anh từ trên xe cam - nhông nhảy đại xuống, lẩn vào phố. Đồng bào ở đó chặt cái còng trên tay anh, giấu kín anh, rồi đưa anh đi. Lúc về Hòn Đất, Ngạn mới có hăm hai tuổi đời, nhưng anh có được tới ba tuổi Đảng. Anh vào Đảng trong tù. Kể chuyện cho Quyên nghe, anh nói rằng trong buổi kết nạp, anh giơ nắm tay chào cờ Đảng tưởng tượng trong lòng chứ không có cờ Đảng treo trước mắt. Về đây cuối năm năm mươi chín, anh phụ trách thanh niên. Và anh đã gặp Quyên trong thời gian ấy. Hồi đó, Quyên mới mười bảy tuổi, hồi Hòn Đất cùng bao xóm xã khác bị bọn Diệm đánh phá khốc liệt. Có lần Ngạn nằm trong cái hầm bí mật dưới sân nhà Quyên gần hai tháng, sắp đặt chỉ vẽ cho Quyên đi công tác. Đến khi Quyên tự động công tác được rồi thì anh lại phải chuyển đi chỗ khác, vì giặc đã đánh hơi được anh. Cái hầm thứ hai của anh ở dưới một nấm mả giả nằm giữa một đám mả thật. Đêm đêm, có một cô gái nhỏ đi ra và chui xuống dưới mả. Cô gái nhỏ ấy là Quyên. Hầu như đêm nào Quyên cũng lẻn ra đó, đem cơm cho anh, bàn bạc công việc. Nhiều khi cô đem cho anh cả chuối và xoài nữa. Cô bắt anh phải thay quần áo, rồi thường vo bộ quần áo đã bẩn của anh đem về giặt. Có những lúc kẹt cô không ra được, thì mẹ Sáu ra. Lần nào xuống hầm, mẹ cũng khóc. Một hôm, mẹ nói với anh: - Tao nghĩ không lẽ mình cứ nhịn nhục như vầy hoài sao Ngạn? Nó mổ bụng mình, nó đập đầu mình, anh em chết không biết bao nhiêu rồi. Hôm qua, con Quyên với con Sứ vô rừng mò kiếm được xương thịt của bảy anh em mình bị nó đập bữa trước, kiếm gặp ở trong bàu... Nói rồi mẹ bưng mặt khóc. Ngạn hỏi: - Vậy chị Ba với em út đem những xương đó về để ở đâu? - Hai đứa nó bọc trong ni - lông đem giấu trong hang Hòn rồi! Có một hôm, bà mẹ nắm tay anh do dự mãi, lúc sau mới chậm rãi nói: - Ngạn à, tao coi mày như con của tao. Tao hỏi thiệt, mày có thương con Quyên không? Nếu như có thương thì nói tao biết, tao gả cho! Ngạn cảm động ôm chầm lấy mẹ. Dĩ nhiên là trước khi mẹ Sáu nói thế, anh với Quyên đã thương nhau nhiều. Nhưng anh cảm động sung sướng hơn vì thấy mẹ Sáu nói ra điều ấy giữa lúc cơ sở bị đánh phá dữ dội nhất, giữa lúc anh phải náu mình dưới cái hầm tăm tối và kỳ lạ nhất. Anh nghĩ mẹ Sáu muốn giao đời cô con gái út cho anh, ngoài sự thương yêu riêng anh, ắt còn vì mẹ tin và yêu thương cách mạng. Nằm trong hầm tối, anh cứ nghĩ sao mẹ không tính đến việc anh có thể hy sinh nay mai? Sao mẹ không sợ con gái mình cơ cực, bởi vì chính anh hiện đang hết sức cơ cực. Ngày ấy, Quyên mới lớn, trông đã xinh, khắp vùng có nhiều người gấm ghé, mai mối, trong đó có cả những tên sĩ quan làm ra vẻ đứng đắn và những gã con trai bảnh bao thường về bãi Tre tắm biển. Bà mẹ đã nhiều lần nói với lối xóm: - Con tôi sanh ra không phải để gả cho hạng đó đâu! Còn Quyên thì trước những lời tán tỉnh của bọn ấy, cô bực bội lắm. Đêm đêm, khi cô sắp đặt chân tới đám mả hoang vắng, thì nỗi bực bội phiền toái của cô về chuyện đó không còn nữa, và lòng cô tràn ngập bao nỗi yêu thương cùng hy vọng. Hồi nhỏ, không bao giờ cô dám đi qua đám mả ấy, kể cả ban ngày, thế mà nay cô đi tới đó chẳng chút sợ sệt. Không, ở đó không có con ma nào cả. Có phải đề phòng là đề phòng bọn công an. Nhưng chỗ này bọn chúng lại không ngờ tới. Ngạn yên ổn sống ở dưới đó ngót hai tháng rồi mới chuyển vào ở cứ rừng. Tai họa xảy đến với anh vào buổi trưa, lúc anh đang trên đường từ cứ ra rìa xóm. Bọn giặc phục kích bắt được anh. Ngay chiều hôm đó, căn cứ trong rừng bị địch bao. May mắn, là anh em đi bắt vọp cả, chỉ có cái chòi trống không. Anh em bắt vọp gần đấy nghe bọn lính biệt kích láo nháo: - Đ. mẹ, sao nó chỉ ở đây? Có thằng bảo: - Nó chỉ ở đây trúng rồi. Chắc tụi nó biết động nên đã dời. Bọn lính nằm rình gần nửa tiếng đồng hồ mới kéo đi. Anh em thoát được về nói: - Thôi, thằng Ngạn khai ra hết rồi! - Thì còn gì nữa, ngoài nó thì ai vô đây! - Thiệt là không hiểu nổi... Anh em mình cứ tin tưởng nó, nghe nó bị bắt mình cũng không dời cứ, vậy mà nó trở mặt như vậy à? Cái tin nói Ngạn bị bắt vừa mới đến với Quyên thì kế đó lại có tin còn ghê gớm hơn nói Ngạn đã khai báo. Trong một ngày, Quyên nhận được hai tin dữ. Ban đầu cô không tin, không bao giờ cô tin Ngạn lại phản bội. Cả nhà, từ mẹ cô đến chị Sứ, cũng đều không tin sự thật là thế. Nhưng không lâu sau, khắp Hòn Đất đều đồn Ngạn là người đã chỉ căn cứ cho địch đánh. Tất cả mọi người tốt đều nhìn Quyên với cặp mắt thương hại. Quyên tối tăm cả mặt mày. Cô có cảm tưởng như bị một cây gậy của ai bất thình lình phang trúng ngang lưng. Cô khóc suốt đêm và nghĩ rằng nếu Ngạn đã vậy thì giữa cô với Ngạn đâu còn có gì nữa, và tình yêu thế là tan nát rồi sao? Đôi lúc nghĩ lại về con người Ngạn, cô bỗng muốn kêu lên: - "Không, không phải vậy đâu! " Có cái gì khiến cô hoảng sợ trước những lời đồn đãi, nhưng lại không muốn tin lời đồn đãi với sự suy xét và lòng tin của cô đối với Ngạn. Cô tìm gặp anh Hai Thép bây giờ đã là bí thơ chi bộ để hỏi. Anh Hai Thép nói: - "Út Quyên à, bây cứ bình tĩnh. Chuyện này trong chi ủy vừa rồi có bàn, nhưng thấy chưa có bằng cớ gì đích xác là do Ngạn khai ra, cho nên chi uỷ vẫn chưa kết luận. Anh Tám Chấn viết thơ về nói: “Chuyện đó khoan đã, với bấy nhiêu sự việc mà đã vội cho đồng chí ta là phản bội thì không được. Đành rằng phải cảnh giác. Nhưng thằng địch bây giờ có nhiều mưu hiểm lắm. Việc này tôi đang cho điều tra, hư thực ra sao tôi sẽ báo cáo cho các đồng chí hay. " Quyên nghe anh Hai Thép nói thì hơi mừng. Cô trở về nhà với niềm hy vọng le lói trở lại. Cô nói với chị Sứ: - Chưa chắc đâu, trong Đảng cũng chưa kết luận kia mà! - Thì tao đã nói, các đảng viên chỉ có được thông báo sự việc như vậy và bảo phải cảnh giác đề phòng thôi. Mày cứ khóc hoài, phải để coi sao đã chớ, lớn rồi chớ bộ còn con nít sao! Quyên nói: - Thôi thì em nghe lời Đảng, nghe lời chị. Em không nghĩ gì nữa. - Ờ, cứ vậy đi!... Nhưng tao hỏi... - Nói đến đây, chị Sứ do dự một lúc rồi nhìn thẳng vào mắt Quyên, nói tiếp - Nhưng... nếu Đảng cho biết Ngạn vẫn tốt thì không nói chi, còn giá như Ngạn hư thiệt rồi thì mày tính sao? Quyên ngồi lặng đi rất lâu mới đáp, giọng uất nghẹn: - Tính sao nữa: coi như không có ảnh, coi ảnh chết rồi chớ sao! Gặp ảnh, em sẽ... - Sẽ sao? Quyên biết chị đã có ý trêu mình, cô vùng vằng: - Tới chừng đó hẵng hay, bây giờ em không nói trước làm chi? May thay, sự việc không phải dẫn đến chỗ như hai chị em giả dụ. Mươi bữa sau, anh Tám Chấn từ trên huyện về, cho gọi Quyên vô cứ. Câu đầu tiên của anh Tám là: - Nè, út Quyên kiếm gà cho tôi ăn đi, rồi tôi nói cho nghe! Trời ơi, mới nghe nói thế Quyên đã hiểu ngay. Tim cô đập thình thịch, cô nhào tới nắm chặt tay anh Tám. Anh Tám mỉm cười nhìn cô với ánh mắt vui vẻ và thông cảm. Anh lặp lại: - Nhưng có đồng ý làm gà cho tôi ăn không chớ? - Có, có... Quyên nói vội, mặt đỏ lên. Anh Tám bấy giờ mới đứng dậy kéo tay cô ra góc chòi. Anh khẽ nói: - Mấy hôm nay nghe út Quyên buồn lắm hả? Thôi, đừng buồn nữa, Ngạn vẫn tốt, rất tốt. Anh dừng lại, giúi tàn thuốc xuống đất, rồi tiếp: - Mới đây, ta vừa bắt được một ổ điệp. Điều tra, chúng có khai ra một số chuyện, trong đó có chuyện giặc bao cứ tháng trước. Nguyên do là bọn điệp ở xóm Chùa ngày nào cũng leo lên cây sao hai ngọn để theo dõi trong rừng tràm. Chúng nói một buổi chiều chúng thấy ở giữa rừng có khói bay lên. Chúng liền báo cho tụi thằng Xăm vô đánh. Đấy, chỉ có vậy, chỉ có một ngọn khói nhỏ vậy thôi... Quyên thở phào, nhẹ cả người. Anh Tám nói tiếp: - Mặt khác, anh em nội tuyến cho biết là từ ngày bị bắt tới nay Ngạn rất vững, rất gan. Mãi tới nay địch cũng không moi được chút gì ở Ngạn, mặc dù Ngạn bị đánh bộn. Còn cái tin nói Ngạn khai báo thì ban đầu không phải do địch phao ra, nhưng về sau dựa theo lời đồn đãi, nó mới phao luôn! Quyên đứng dậy, mặt cứ thẫn ra, vì hối hận và vì vui sướng. Thế là cô quýnh lên như người mất của quý nay tìm lại được hơn số của ấy. Vừa qua, cô căm tức và khinh tệ Ngạn bao nhiêu thì bây giờ cô càng thương yêu khâm phục bấy nhiêu. Chẳng những Ngạn không phải là người tệ như có lúc cô tưởng, mà Ngạn còn tốt hơn cô đã tưởng. Cô không mất Ngạn mà nay cô còn được một Ngạn hơn Ngạn trước. Trong phút giây mừng rỡ, Quyên cứ bíu chặt lấy tay anh Tám Chấn, lòng đầy vui sướng, vì cái tưởng mất nay lại được trả cho hơn, cái tưởng là nỗi nhục giờ lại là điều vinh dự. Lạ lùng hơn, là năm hôm sau khi được anh Tám cho biết việc ấy, Ngạn trở về rất đột ngột. Giữa đêm mưa tầm tã, Quyên nghe có tiếng gõ cửa nhà và tiếng gọi. Đang ngủ với mẹ, Quyên choàng dậy. Cô nghe tiếng Ngạn gọi mà cứ ngỡ mình chiêm bao. Nhưng không, đó là tiếng Ngạn thật sự, thúc bách: - Má, má!... Quyên, Quyên ơi! Mẹ Sáu nhổm dậy. Nhưng Quyên giơ tay ngăn mẹ lại. Tim cô đập thình thịch. Cô lần đi trong bóng tối, ra mở cửa. Cánh cửa mới hé thì cô đụng nhằm Ngạn mình mẩy ướt mem. Anh thì thào: - Quyên hả! - Ối!... Anh Ngạn! - Anh mới trốn... Tụi nó dắt anh ra sông định đâm anh, anh đạp tụi nó, nhảy xuống sông lội về đây... - Trời ơi!... Quyên lại kêu và ôm chầm lấy anh. Ngạn khẽ gỡ tay Quyên ra: - Phải đưa anh về cứ liền. Tụi nó chắc đang quần kiếm bắt anh. Sợ nó tới đây... Quyên suy nghĩ một loáng rồi nói như ra lệnh: - Anh cứ ở đây đi! Ngạn ngạc nhiên: - Ở đây? - Phải, ở dưới sàn nhà, cái hầm cũ vẫn còn, anh xuống đó không sao đâu. Chớ cứ mới, dời rồi. - Quyên lôi tay Ngạn: - Thôi, vô nhà đi, mau đi! Ngạn nghe lời Quyên. Không hiểu tại sao trong lúc đó anh cứ cảm thấy đã có Quyên thì anh sẽ bình yên. Suốt đêm ấy, không có lính nào tới vây nhà cả. Gần trọn ngày hôm sau, Quyên xuống hầm với Ngạn. Cô hỏi tỉ mỉ anh bị bắt bị đánh ra sao. Cô còn bắt anh cởi áo ra để cô xoa thứ thuốc rượu gì đó mà mẹ cô đưa cho. Vừa xoa cô vừa khóc. Trong lúc ở trên nhà mẹ Sáu ngồi canh chừng và chị Sứ làm gà nấu cháo để đưa xuống cho Ngạn ăn. Dưới hầm, Ngạn mệt quá ngủ thiếp. Lúc tỉnh dậy, anh hỏi thăm từ khi anh bị bắt, ở nhà ra sao, công việc thế nào. Quyên kể lại cho anh nghe. Cô do dự chưa biết có nên nói tin đồn về Ngạn dạo nọ không. Sau cùng cô thấy phải nói. Cô thành thật kể cho Ngạn nghe, cả tâm trạng của cô khi đó ra sao. Ngạn chưng hửng, ngồi nhổm dậy: - Ủa, còn có chuyện đó nữa sao? Quyên lo quá. Cô mới bầy tỏ cặn kẽ hơn cho Ngạn rõ. Chừng ấy Ngạn mới ngả lưng nằm xuống. Nhưng anh khẽ ẩy tay Quyên ra, gật gù, lẩm bẩm: - Ra vậy... giờ tôi mới biết. Trên một tháng nay, tôi có biết gì đâu! Bỗng anh lại nhổm lên, đăm đăm nhìn suốt vào mắt Quyên: - Quyên cũng căm thù tôi lắm chớ gì? Hỏi thế rồi Ngạn lại nằm xuống. Anh ngước mắt nhìn lên miệng hầm, cái miệng hầm có những cây bợ bằng tràm lục mà anh rất quen thuộc. Và anh nói như là nói với ai chớ không phải nói với Quyên: - Nếu quả anh Ngạn có như vậy thiệt thì ảnh đáng để cho em băm vằm ra. Nhưng không, ảnh không hề nghĩ tới chuyện đó, ảnh chỉ biết có roi gậy đập vô mình, ảnh chỉ biết cắn răng chịu đựng như lần trước ảnh chịu đựng, hoặc ảnh nói: - "Tao không biết, mà có biết tao cũng không khai! " Anh Ngạn chỉ có nói vậy thôi, em Quyên à! Ngạn nói với giọng ngọt ngào trách móc. ý anh như bảo: “Ai người ta ngờ anh, chớ Quyên mà cũng ngờ anh à? " Quyên hiểu thế, cô ngồi thừ ra coi thật tội nghiệp. Gẫm lại trước nay chưa bao giờ cô bị Ngạn nghiến ngấm như thế. Mãi sau cô mới nói: - Mà... mà Quyên thì có tin hẳn như vậy đâu! Ngạn ngắt ngang: - Không tin hẳn, nhưng cũng là có tin chớ gì! Vừa lúc trên hầm có tiếng gõ cồm cộp. Quyên chỏi miệng hầm lên. Chị Sứ đưa cháo xuống. Bấy giờ chị Sứ ngó thấy nước mắt chảy ướt cả hai má em gái mình. 2 Đang đi, anh Tám Chấn chợt đứng hẳn lại nhìn tới trước, trầm trồ bảo Ngạn: - Cứ mỗi lần về Hòn là tôi thấy cảnh Hòn khác đi. Tháng này Hòn coi xanh tốt quá. Chú ngó kia, mãng cầu ta lên lá non coi mướt chưa? Ngạn và chú bảo vệ anh Tám là Đạt cũng dừng lại. Đứng bên anh Tám, Ngạn đưa mắt nhìn về phía Hòn Đất. Anh cũng đã có cảm giác rất dễ chịu, ngay từ đầu đường rẽ về Hòn. Hòn Đất nổi lên trên Hòn Me và Hòn Sóc, gối đầu lên xóm, về tháng này trông xanh tốt quá. Bấy giờ vừa sang tháng chạp ta, đã nghe gió Tết hây hẩy lùa trong nắng. Cây cối trên Hòn và các xóm nằm liền Hòn vụt rạo rực, tràn trề nhựa sống. Vùng Hòn với những vòm lá của đủ các loại cây ăn quả đều sum sê, nhẫy nhượt. Những ngôi nhà trong xóm, mái lá và ngói đỏ chen nhau coi đông đúc như một thị trấn. Nhà còn cất leo lên trên triền Hòn thoai thoải, ở xa ngó cứ như những chuồng chim câu, có cái vách ván đã bạc thếch vì mưa nắng, có cái còn mới nguyên, vách lát bằng ván sao nổi lên đỏ sẫm. Xa quá khỏi Hòn một đỗi, là bãi Tre. Thấp thoáng những cây tre đằng ngà cao vút, vàng óng, những cây tre lâu nay vẫn đứng đấy, bình yên và thanh thản, mặc cho bao nhiêu năm tháng đã đi qua, mặc cho bao nhiêu gió mưa đã thổi qua. Sau rặng tre ấy, biển cả còn lâu đời hơn, vẫn đang rỡn sóng, mang mang một màu xanh lục. Đứng ở đây, khi sóng sủi bọt âu yếm vỗ bờ, Ngạn thấy dưới chân bãi Tre như có một đường viền bằng ren, thỉnh thoảng lại dợn lên. Anh Tám vịn vai Ngạn, cất bước chầm chậm đi tới và nói: - Cảnh Hòn đẹp thiệt... Từ ngày đồng khởi tới nay chưa đầy một năm mà cảnh đã thay đổi hẳn. Trận càn giữa năm, nhờ quần chúng đấu tranh gắt nên nó cũng không phá được gì. - Nghe đâu nó đã có rải thuốc hóa học ở một số nơi trong tỉnh mình hả anh? - Có, nhưng càng rải nó càng chết. Có điều là sau ngày mình quật nó, nó hoảng một lúc, nay đã tỉnh tỉnh lại. Chúng đã bắt đầu chà xát mạnh ở một số nơi. - Ở đây thì kể như đã bị một trận rồi... - Nó sẽ còn chà nhiều trận nữa chớ. Tụi nó dư biết đây là căn cứ của mình. Nó biết mọi cuộc đấu tranh tràn vô thị xã đều xuất phát từ đây. Vả lại, Hòn Đất là một điểm nằm trong khu vực tập trận của khối xâm lược Đông Nam á. Về phía ta, ta cũng không muốn chúng nó tới chỗ này. Nếu chúng có đóng bót, ta cũng phải nhổ đi... Anh Tám Chấn dừng lại. Lát sau, anh cười rất hóm rồi nói: - Riêng chú thì Hòn Đất còn đặc biệt quan trọng hơn. Mặc tình chú đi đông đi tây gì đi nữa, nhưng chân chú đã bén rễ đất Hòn rồi... Ngạn nhoẻn miệng cười. Anh Tám hỏi: - Sao, tính ngoài ngày làm đám cưới à? Thôi, Tết này làm luôn đi. Tôi ráng "cương" lên làm chủ hôn một trận coi. Sau Tết tôi đi học rồi. ạng bà mình có nói: “Cưới vợ thì cưới liền tay... " gẫm ra rất là biện chứng nghe. Nên nhớ làm cách mạng và cưới vợ, hai chuyện mới coi qua thấy như có mâu thuẫn, nhưng trong điều kiện nào đó lại thống nhứt với nhau. Tất nhiên chuyện đời cũng có anh cưới vợ rồi thì sanh ra bê bết, nhưng có nhiều anh lại yên tâm hăng hái hơn. Cũng tùy, tùy "anh" tùy "em"... Phần chú thì tôi xin miễn nói, còn út Quyên thì tôi có thể nói: đó là một cô gái rất tốt. Công việc Đoàn nó hăng hái tháo vát, công việc vườn tược, nấu nướng may vá nó làm cứ gọn hơ. Về sắc thì khá quá đi chớ. Đành rằng cái chuyện hiểu lầm hồi nẳm có làm chú bực, nhưng chú cũng phải thấy qua chuyện đó út Quyên nói như thế nào. Tôi thấy chú phải mừng, vì nếu cô ta nghe tin chú như vậy mà không vật vã đau đớn chi hết thì mới nguy. Đằng này nó như muốn điên lên được mà... Nghe anh Tám nói, Ngạn cười tủm tỉm. Anh cố giấu nỗi đắc ý của anh. Thực ra, đầu tiên nghe chuyện đó thì anh đóa lắm, nhưng về sau càng nghĩ anh lại càng thấy thương Quyên, tin Quyên hơn. Chính anh cũng tự dặn lòng: “Mình đã hai lần bị bắt, hai lần trốn thoát. Nếu có một lần thứ ba nữa thì cũng phải vững như vậy! " Bởi vì anh biết rõ Quyên đã khổ sở ghê gớm đến như thế nào rồi, khi cô hay một cái tin như thế. Vào tới đầu xóm, anh Tám Chấn hỏi Ngạn: - Anh em trong đội chú đóng đâu? - Ở giữa xóm. Anh ghé đó chớ? - Được, ghé coi có Hai Thép ở đó không? Anh Tám quay lại vỗ vai chú bảo vệ của anh hỏi: - Có muốn về nhà chơi không, Đạt? Đạt nhoẻn cười, gật đầu. Anh Tám nói: - Thôi, cho chú về Lình Quỳnh thăm nhà, mai qua, nghe! Chú Đạt bảo vệ hớn hở xốc lại dây đai khẩu cạc - bin, nói: - Cháu đi! Nói xong, chú rảo bước như chạy. Từ xóm Hòn Đất qua Lình Quỳnh chỉ có bốn cây số. Xóm Hòn Đất ở liền ngay chân Hòn. Cuối xóm là bãi Tre, cách biển vài trăm thước. Sau lưng xóm, còn một quãng vườn cây sum sê, rồi tới sông Vàm Răng. Sông không rộng cho lắm, ngày hai lần, nước sông lớn và ròng theo triều biển, theo tiếng bìm bịp kêu nghe tợ tiếng tù và thổi giục. Nhà cửa ở Hòn Đất san sát bên đường, xen vào giữa những vườn mít trái treo vàng rám, giữa những vườn dừa, vườn cau, và những cây ăn trái khác như mãng cầu, lê - ki - ma, măng cụt. ở đây có nhà cất trệt, nhưng cũng có nhà sàn phải đi lên bậc thang. Tùy theo lối vào nhà mà bậc thang đó bắc bên trái hoặc bên phải. Những nhà lớn lợp ngói thường có bậc thang ở hai bên, lên xuống bên nào cũng tiện. Người ta bảo ngày mùa đứng ngoài Tri - Tôn trông về Ba Hòn thấy giống như hình một cô gái vừa tỉnh giấc nồng nằm trên chiếc chiếu vàng, chân cô gái duỗi ra và đầu nhổm tới phía một dải lụa xanh phơ phớt. Chiếc chiếu vàng là đồng lúa chín tới. Và tấm lụa xanh ấy là dòng sông đó chăng? Anh Tám và Ngạn đi vào gần tới giữa xóm thì nghe trước mặt vẳng tới tiếng đờn ca. Chốc sau, có một giọng nữ cất lên. Ngạn kêu: - Ca sĩ Năm Nhớ tụi tôi bắt đầu trổi giọng rồi! Anh Tám Chấn bảo: - Mấy chú về đóng ở đây coi bộ đời lên hương dữ ha! Năm Nhớ ca đó hả?... Ca khá lắm, giọng đã tốt lại biết điều khiển tiếng ca. Hèn chi tụi lính bót nó mê cũng phải... à, nghe đâu hôm mấy chú làm ăn ở bót Cà - Tưng, tụi lính tuyên bố không bắn để nghe ca hả? Ngạn gật đầu: - Ờ, tức cười lắm. Có thằng kêu: - Cô Năm thương nhớ ơi, làm sáu câu nữa đi, anh em tụi tôi là dân mộ điệu mà, không bắn bậy đâu! - Cũng hay. Tụi nó không bắn bậy là hay rồi. Nhưng nội dung bài ca ra sao? Chuyện này hơi tinh tế đây, tôi cũng dốt lắm, nhưng tôi nghĩ là lời lẽ bài ca của mình có tình có lý, sao cho nó nhớ vợ, nhớ con muốn bỏ trốn ráo. Không nên dùng lời lẽ cứng nhắc, cũng không nên mùi quá... Chà, chắc Năm Nhớ ca nhiều bản mùi dữ hả? Nên chi tụi nó mới kêu là "Cô Năm thương nhớ" đó chớ gì? - Không đến nỗi đâu anh... Lính thì thằng nào cũng ham gái. Mười thằng dê hết chín, Năm Nhớ nhiều phen cũng tức mình lắm. Cô ta nói: - "Tụi lính mắc dịch đó, tôi mà không vì cách mạng, còn lâu tôi mới ca cho tụi nó nghe? " - À, còn chú Diệp học sinh ở Rạch Giá mới vô đó thì sao? - Chú ta cũng tốt thôi. Anh em cũng thương. Nhưng tất nhiên đối với cuộc sống này chú ta còn nhiều bỡ ngỡ. - Ở ngoài thành mới vô thì đứa nào cũng vậy. Cố giúp đỡ nó. Con em của đồng chí mình đã hy sinh, mình phải có trách nhiệm. Tiếng đờn ca vọng lại mỗi lúc một rõ hơn. Anh Tám nghe biết ngay tiếng đờn độc huyền của ông Tư Đờn, liền nói: - Từ ngày bị mù tới giờ, ngón đờn của ông Tư nghe càng xúc động. Anh Tám và Ngạn đi một đỗi nữa thì đã ngó thấy cây me lớn. Cạnh gốc me cổ thụ ấy là nhà ông Tư Đờn, coi như một cái quán cốc. Hai người mới bước vào thì một con chó phèn to từ trong chạy xổ ra kêu ư ử, cúi liếm chân hai người và vẫy đuôi rối rít. Trong nhà vừa chơi dứt bài Vùng lên, anh chị em ơi! theo điệu Kim tiền. Anh em trong đội võ trang ngồi vây quanh cô Nhớ và ông Tư Đờn. Thấy hai người bước vào, họ la lên: - Anh Tám với Năm Ngạn tới rồi kìa! Anh Tám bắt tay mọi người. Anh ôm vai một thanh niên coi dáng dấp rất học sinh, cười hỏi: - Sao! Đi đây có vui không, Diệp? - Dạ vui! Cậu thanh niên Diệp đáp, cười bẽn lẽn như con gái. Anh Tám lại bắt tay cô Nhớ, anh gật gật mấy cái: - Xin chào ca sĩ! Năm Nhớ đỏ mặt kêu lên: - Anh Tám! Anh Tám Chấn đến bên ông Tư Đờn: - Bác Tư lóng này mạnh luôn hả bác? - Tám Chấn đó à? ạng già mù thốt hỏi rồi run run đưa tay sờ lên khắp người anh, nắn nót cườm tay anh một cách lặng lẽ. Lâu sau, ông mới chậm rãi hỏi tiếp: - Sao lâu nay không thấy về? Hay có về mà không ghé tui? Anh Tám nhẹ đặt tay lên đôi vai gầy của ông già: - Mắc công chuyện quá không về được, bác à. Nếu có về thì ắt phải ghé thăm bác chớ! Anh ngó trước sau hỏi: - Con Tím nó chạy đâu rồi bác? - Nó đi mò cá ngoài sông... Anh Tư không nói gì nữa. Anh cứ đưa cặp mắt sâu thẳm như muốn cố nhìn anh Tám. Nhưng ông đâu thể nhìn thấy anh được. Chín năm nay ông không nhìn thấy gì, kể cả thiên nhiên lẫn con người. Ngay như gốc me cạnh nhà ông, hay chõm Hòn, hay bờ bãi, mà nhất là những con người ông yêu mến, ông đều không trông thấy. Đành rằng có những cái ông đã thấy lúc mắt còn sáng, nhưng những cái ấy nay đều đã khác đi. Nỗi khổ tâm bậc nhất giày vò ông già mù này chính là ở đấy. ạng chỉ nghe sự biến thiên quanh mình mà không thấy được sự biến thiên đó, cho nên ông càng phải tưởng ra để thấy. Chính vì thế mà khi uất ức ông cũng uất ức hơn, lúc sung sướng ông cũng sung sướng hơn. Tại cái gốc me cổ thụ, cách đây không lâu, bọn đồn Hòn Đất đã trói quặt tay một chị cán bộ vào thân cây rồi dùng đinh đóng suốt qua hai bàn tay chị. ạng nghe chị chửi rủa, gào thét và tiếng súng nổ. Sau cùng, ông nghe tiếng kêu lớn: "Cô bác ơi, hãy trả thù cho cháu!" Thế rồi một loạt súng nữa nổ vang. Từ trong nhà, ông quờ quạng chạy ra. Bọn giặc đẩy ông trở lại. Lúc chúng đi, ông nhắm hướng gốc me lồm cồm bò tới. Nhưng chị cán bộ không có đấy nữa. Chúng đã đem xác chị đi mất rồi. ạng ôm gốc me khóc. Nước mắt ngập đầy hai hố mắt ông đêm hôm đó và cả những ngày hôm sau. Thế rồi đêm đêm, ông tưởng như thấy chị cán bộ, nghe lại tiếng kêu, hình dung ra gốc me sây sát vết đạn, in sâu vết đinh đóng. Gốc me đối với ông đã đổi khác, là vậy. Những ngày đi đấu tranh, dẫu đường trơn lầy lội vì mưa dầm tháng tám, ông vẫn nắm tay đứa cháu, đợi bà con ùn ùn kéo ngang là nhập vào, đi lên bót, lên quận. Đấu tranh thắng lợi về, ông hình dung con đường trước nhà in đầy những dấu chân. Và ông sung sướng hơn, cũng là sung sướng như thế. Ngày đồng khởi, tất cả những buổi xử tội bọn ác ôn, ông đều có mặt. Hôm xử tên chủ Mưu - Tên già gian ác nhất vùng, lúc anh Hai Thép vừa thay mặt tòa cách mạng hỏi ý kiến bà con có đồng ý xử tử nó không, ông nhóng lên giơ tay và la lớn: - "Tử hình, tử hình!" Bà con ai cũng có cảm tưởng là ông ngó thấy được. Ai cũng nhường chỗ ông đứng. ạng hỏi: - "Bắn à?" Người bên cạnh đáp: - "Không, chém chớ không bắn!" Anh lại hỏi: - "Ai chém? " Khi người ta bảo người chém là Ba Rèn thì ông "à" lên một tiếng đầy tin tưởng. Hồi năm bốn mươi bảy, lúc mắt ông còn sáng, ông có thấy Ba Rèn chém Việt gian bằng mã tấu. Anh ta không bao giờ vung mã tấu lên quá đầu. Anh để lưỡi mã tấu gần cổ tên phản quốc, tưởng như anh chưa chém, thế mà bất ngờ cổ tay anh gặt mạnh một cái, đầu tên phản quốc rụng xuống. Lần đó, ông Tư đứng đợi kỳ đến lúc đầu tên ác ôn chủ Mưu rơi nghe cái "phịch" xuống bãi cỏ, ông mới chịu quơ gậy đi về. Nỗi căm uất, sự hả dạ và niềm vui sướng của ông Tư mù cho đến bây giờ cũng vẫn không có thay đổi. Bây giờ nó cũng sâu thẳm như hai hố mắt ông đang cố nhìn anh Tám Chấn. Chợt ông bảo: - Mà nói vậy chớ rảnh thì ghé, không rảnh thì thôi, tui biết Tám Chấn với anh em mắc lo công chuyện cách mạng. Biết vậy là tui mừng. Tui coi như anh em có ghé thăm tui rồi đó... Anh Tám hỏi: - Bác Tư ơi, độ rày bác còn uống rượu nhiều không? ạng Tư Đờn không đáp ngay. Chốc sau, ông mới nói: - Còn, mà không nhiều... - Bác Tư uống ít là tốt! - Chú Tám nói phải, nói phải... Nhưng hồi đó khác bây giờ khác. Chú nghĩ, hồi đó đêm đêm cứ nghe tiếng cột chèo của tụi nó đập đầu anh em mình, tui hỏi chú liệu tui có ngủ đặng không? Mà tui lại không có mắt, tui còn làm gì được ngoài cái việc bòn mót gạo để dành, đêm đêm lóng tai nghe coi có chú nào về không, để quờ quạng bưng thúng gạo đưa mấy chú. Mấy chú bưng gạo đi rồi, tui thao thức, lúc đó tui mới uống... Dừng lại giây lâu, ông tiếp: - Còn từ ngày mình đứng dậy tới giờ, tui không uống nhiều nữa đâu! Anh Tám từ từ nắm chặt hơn bàn tay gầy guộc của ông già mù. Một lần nữa anh lại nghe thấy có một cái gì trỗi dậy rất mãnh liệt, cứ sôi lên, thôi thúc khẩn thiết trong lòng. 3 Quyên xách con cá chẻm còn tươi rói đặt lên sàn nước. Cô xắn vội tay áo tới khuỷu, rồi cầm con dao phay dưới sàn chặt đứt sợi lạt tre xỏ ở mang cá. Quyên bắt đầu đánh vẩy. Bàn tay trái cô xòe hết năm ngón mà nắm không hết con cá. Con cá chẻm thiệt lớn. Mẹ Sáu nói nó tới cân bốn ký. Mẹ xách nó từ bãi Tre về đây cứ phải đổi tay luôn. Quyên cầm dao đánh soàn soạt lên mình con cá loáng nước, anh ánh sắc tím. Những cái vẩy cá văng ra to gần bằng đồng xu, Quyên thích thú lấy tay xếp nó lại, chồng cái nọ lên cái kia, nhìn cười, rồi lại tiếp tục đánh nốt đám vẩy còn lại. Con cá lớn là thế mà cô xoay trở làm coi gọn hơ. Cô chặt một nhát thì đứt rơi cái kỳ, chặt nhát nữa, đứt tiện cái đuôi. Phút chốc con cá chẻm đã làm xong, chỉ còn mổ ruột. Quyên với chiếc gáo có cán đặt trên miệng khạp múc nước đổ vào cái vịm sành da lươn cạnh đấy, rồi nhấc con cá thả vô. Cô giội mấy gáo nước nữa cho sàn lảng thiệt sạch. Lúc sắp sửa vớt con cá ra để mổ bụng, Quyên chợt nghe ngoài bậc thang nhà có tiếng gọi vui vẻ, sang sảng: - Má ơi! Cô nghe đúng là tiếng anh Tám Chấn. Kế lại nghe: - Má... Tiếng sau có vẻ mừng rỡ và âu yếm. Quyên biết ngay là tiếng Ngạn. Cô liền để con cá xuống, rửa tay và vãnh bàn tay vuốt những sợi tóc lòa xòa ở hai bên thái dương. Cô nhón gót chạy ra, kêu rối rít: - Úi, anh Tám! Cô vồn vã với anh Tám Chấn, còn Ngạn thì cô chỉ đưa mắt nhìn một cái. Thấy Ngạn mặc cái áo sơ - mi đen của ai rộng thùng thình thì cô tức cười quá. Ngạn cũng vậy, anh chẳng hỏi gì cô cả, cứ thế anh ngồi xuống giữa nhà, dang tay đón con Thúy sà vào lòng. Ngạn hôn con Thúy chùn chụt. Hôn xong một cái lại "ừm" lên một tiếng coi có vẻ ngon lành lắm. Con bé hôn lại anh, hôn không rõ kêu thì anh không chịu. Ngạn mở vòng tay ra, chỉ về phía anh Tám Chấn. Con bé chạy tới anh Tám. Còn một bước nữa tới chỗ anh, nó đứng lại, xuôi tay, rồi mới ôm lấy cổ anh hôn rất kỹ lưỡng. Cả nhà đều nhìn cảnh ấy bằng cặp mắt vui vẻ, trìu mến. Mẹ Sáu đang ngồi nhai trầu, trệu trạo cười. Quyên đứng sau lưng mẹ, dùng ngón tay trỏ ấn nhẹ chiếc lông nhím trên đầu tóc bới của mẹ, và cô cười lúm cả hai má. Nụ cười của chị Sứ có nén giữ hơn. Nhưng mặt chị cứ ngây ra. Mắt chăm chăm để ý từng cử chỉ của con, chị không sao giấu được nỗi sung sướng xen chút hãnh diện. Sự an ủi của chị Sứ ở đây nhiều lắm. Đứa con gái vừa là cái kết quả của tình yêu thương chồng vợ, vừa là sự hiện diện của chị, của anh. Con bé gắn bó mọi người lại hết sức dễ thương và trong trẻo. - Thúy đi học chưa? - Anh Tám hỏi. - Dạ con đi học rồi. - Con bé đáp nhỏ nhẻ. - Con đi học một mình à? - Ngoại đi với con. - Nói tới đây, con Thúy đưa mắt liếc nhìn ngoại nó: - Bữa nào ngoại cũng đi với con hết hà! Mẹ Sáu ngồi trên bộ ván vảnh tay vuốt tém cổ trầu ở mép, nói: - Bữa nào tao cũng đưa nó đi rồi rước nó về đó Tám. Mà nó cứ không chịu chớ, nó nói: - "Ngoại để con đi một mình, con đi được! "... Để nó đi một mình sao được kia chớ! Thằng Tám coi, máy bay bữa nào cũng rù rù, còn tàu sắt lâu lâu cặp mé biển thụt cà - nông phùm phùm. Đưa đón nó như vậy mà suốt buổi tao còn phập phồng, hễ có hơi máy bay thì thôi tim tao nó cứ nhảy lia. Huống hồ là để nó đi một mình, dọc đường rủi máy bay tới, nó biết hầm nào mà chui? - Dọc đường mấy bác có đào hầm! - Con bé nói. - Thằng Tám coi nó nói đó... Có đào hầm? Đành là có, nhưng tao hỏi, rủi hầm có rắn ở dưới thì sao? Têm một miếng trầu mới, mẹ Sáu bỏ vào miệng, nhai rau ráu: - Con nít tới chừng nó quýnh thì nó nhảy đại có biết rắn rít gì đâu. Người lớn còn bị cái nạn đó hoài... Anh Tám đang vén áo tháo thắt lưng súng ngắn, nghe mẹ Sáu nói thì bật cười. Mọi người đều cười. Quyên cười lâu hơn hết. Cô ghé cằm lên vai mẹ, nói: - Má tôi bả nhát lắm, anh Tám ơi! Mẹ Sáu ngoái ra sau lườm cô gái út: - Phải mà, thì tao nhát!... Anh Tám Chấn nghĩ bụng: “Không đâu, mẹ Sáu không nhát đâu! Vì năm năm mươi tám, chính mắt anh trông thấy một thử thách dữ dội nhất xảy đến với mẹ Sáu. Dạo đó xảy ra câu chuyện hai tên lính đang ngồi trên chòi gác đồn Hòn Đất ngó thấy trong mé Hòn có một em bé cưỡi trâu. Tên này thách tên nọ nếu bắn trúng em bé nó sẽ thua cuộc một điếu thuốc thơm. Tên lính giương súng ngắm bắn. Phát súng nổ. Em bé từ lưng trâu ngã lăn xuống. Hay tin đó, bà con Hòn Đất uất quá, họ vác thây em bé ùn ùn kéo ra bót. Anh Hai Thép phải cho Sứ và chị Hai Thép theo. Anh dặn: - "Phải bắt chúng trừng trị tên bắn em bé, phải đạt được yêu cầu đó bất cứ với giá nào". Anh Tám và anh Hai Thép ngồi trong một nhà bên này sông theo dõi cuộc đấu tranh. Bọn giặc ngăn không cho đồng bào kéo tới bót. Khi bà con đòi trừng trị tên giết người, chúng bảo em bé chết là do rủi ro bị lạc đạn. Bà con xông lên. Thằng Xăm, người Khơ - me lai, bấy giờ là đồn trưởng, xách súng cạc - bin chạy ra. Nó chĩa súng vào ngực mẹ Sáu, vì mẹ là người xông tới trước tiên. Thằng Xăm thét: - Đi về! Bà bước tới một bước, tôi bắn liền! Tình thế hết sức găng. Trong bất cứ một cuộc đấu tranh nào, thắng hay không là ở phút ấy. Thằng Xăm ác ôn lắm, nó dám bắn bà mẹ như chơi. Nếu lúc đó, mẹ Sáu lùi lại thì cuộc đấu tranh kể như hỏng. Nhưng không, mẹ Sáu không lùi lại. Mẹ nói với tên Xăm câu gì, anh Tám ở xa không nghe được, nhưng anh thấy mũi súng cạc - bin của tên Xăm cứ run lên. Giữa lúc đó, một người đàn bà ở phía sau lách đứng chen vào giữa họng súng của thằng Xăm và mẹ Sáu. Đó là thím Cà Xợi, mẹ ruột của thằng Xăm. Thím nói gì với thằng Xăm, rồi đột nhiên bước phắt tới đỡ họng súng của thằng Xăm lên. Bà mẹ Sáu cùng đoàn người thừa lúc đó chạy ào vô. Lần ấy, cuối cùng địch phải trói gô tên lính sát nhân lại. Thằng Xăm hứa sẽ bỏ tù nó. Sau đó về, anh Tám hỏi mẹ Sáu khi ấy mẹ đã nói gì với thằng Xăm. Mẹ bảo: - Tao nói: - "Xăm à, mày bắn tao như bắn bà Cà Xợi thôi". Và câu nói của bà Cà Xợi khi đó là: - "Đừng bắn bà Sáu, bắn tao đây. Ngực tao nè, bắn đi, Xăm! " Thằng Xăm không bắn được. Nó là một tên ác ôn khét tiếng, nhưng nó chưa thể bắn mẹ nó... Bây giờ, nhìn mẹ Sáu, anh Tám nhớ rõ ràng ngày ấy mũi súng đã chĩa vào ngực mẹ như thế nào. Anh hỏi mẹ: - Máy bay thì má sợ như vậy, còn hồi nẳm lúc đứng trước họng súng của thằng Xăm, sao má không sợ? Mẹ Sáu không đáp. Lát sau mẹ chậm rãi nói: - Máy bay tao cũng không sợ đâu. Sợ là sợ cho con cho cháu. Chớ tao thì già rồi, sắp xuống lỗ rồi mà còn sợ nỗi gì, Tám! Má tiếp lời: - Nói là nói vậy chớ tao chưa chết đâu. Tao còn phải mở mắt để nhìn nước nhà thống nhứt, để thấy mặt Cụ Hồ. Được thấy hai điều đó thì tao nhắm mắt mới đành! Anh Tám nói: - Sớm muộn gì má cũng sẽ thấy hai điều đó! - Chắc hôn Tám, chắc thiệt hôn Tám? Mẹ Sáu hỏi lại và ngước mắt khẩn thiết nhìn anh Tám như thầm hỏi thêm: “Sao? Có gì mới không? Đảng nói sao, nói lại tao nghe, tao mừng với coi! " Mẹ Sáu cho rằng anh Tám cái gì cũng biết, cũng thông trước hết. Hễ anh Tám nói là mẹ tin, tin rằng cái đó phải, cái đó đúng. Mẹ tin anh Tám là tin ở Đảng, tin anh là người của Đảng dẫn dắt bao bọc cho mẹ, cho con cháu của mẹ và xóm làng sống yên ấm, vui vẻ và hiếu thuận. - Chắc chắn chớ, - Anh Tám nói với mẹ: - má à, bây giờ không phải như trước. Hồi đó, mình muốn sống yên, muốn thống nhứt, nhưng Mỹ - Diệm nó không cho mình sống. Ai đòi thống nhứt thì nó chặt đầu, mổ bụng. Chịu không nổi bà con mình mới làm đồng khởi. Đã đồng khởi lên rồi thì chừng nào mình giành được lại cuộc sống tử tế đàng hoàng mình mới chịu, bằng không mình sẽ không buông súng. - Đánh hoài à? - Bà mẹ hỏi. Anh Tám đáp: - Nếu nó còn ức hiếp mình thì mình còn đánh hoài. Hết người này tới người khác. Chừng nào Mỹ rút hết mới thôi! - Tao ngó bộ Mỹ nó ngoan cố lắm, chừng nào nó mới chịu rút hết? - Mình có đánh nó mới rút. Tây hồi đó cũng vậy! Bà mẹ để hai tay vào lòng, thấp giọng: - Biết vậy rồi... Đoạn mẹ chép miệng: - Lo cho tụi bây thôi, chồng vợ xa nhau, chớ tao thì già cả rồi... Mà điều tao nói thiệt với Tám, tao già thì già chớ tụi bây tới đâu tao cũng bươn theo tới đó. Đi đấu tranh chính trị tao đi hoài được. Hay là nấu cơm tiếp tế cho bộ đội tao cũng nấu được... Chợt ngoảnh lại thấy Quyên vẫn còn đứng bên cạnh, mẹ lấy tay xô khẽ con: - Sao mà còn đứng đây? Rồi mẹ dịu giọng: - Đi làm cá đi, con. Chiều rồi. Nấu cơm cho mấy anh mày nó ăn! Quyên từ từ nhắc cằm khỏi vai mẹ, đi ra nhà sau. Ngạn cũng nắm tay con Thúy đi theo... Quyên lật bụng con cá để lưỡi dao lên. Cô khẽ hỏi Ngạn bấy giờ đang đứng sau lưng cô tháo súng ngắn treo lên vách: - Anh bận khính cái áo của ai vậy, anh Ngạn? - Áo của anh Thẩm! - Còn bộ quần áo em gửi cho anh đâu? - Cho anh em rồi! - Lại cho! Quyên mổ cá, đem rửa. Tay làm miệng cô nói: - Nè anh, chị Ba mới được thơ anh Ba, anh biết chưa? - Biết rồi! Sao, ổng vẫn đàng hoàng chớ? Quyên hơi giẩu môi: - Ở ngoải mà không đàng hoàng! Ai cũng được học tập, được giáo dục. Anh Ba ảnh tốt lắm. Đọc thơ, em tội nghiệp cho ảnh quá. Thôi, ảnh căn dặn chị Ba đủ thứ nghe... Nào là phải bình tĩnh, phải cho con Thúy đi học... Nói tới đó, Quyên ngừng lại một giây, và tiếp, giọng nhỏ hơn: - Nghe vụ tụi mình, ảnh cũng có hỏi thăm... - Sao ảnh biết mà hỏi thăm? - Thì chị Ba viết thơ nói... Mà nè, anh Ba ảnh viết cho chị Ba tới mười tám cái thơ... Đâu phải như anh, hễ đi là biệt khỏi có gởi thơ về! Ngạn nghe Quyên nói vậy, liền thò tay nắm chéo áo Quyên giật giật: - Thiệt không có gởi à? Quyên cười chúm chím mà không nói sao cả. Ngạn tức mình, càng giật chéo áo cô. Rồi anh xỉa nhẹ ngón tay trỏ vào sườn cô, làm cô giật bắn người: - Anh Ngạn phá không cho em mần cá à? ... Thì..., thì anh gởi về một cái thơ chớ mấy? - Mấy, mấy? Vừa hỏi Ngạn vừa tiếp tục xỉa ngón tay. - Hai, hai... Con bé Thúy cũng vỗ tay bem bép trợ lực cho Ngạn: - Chọc lét dì út nữa đi, dượng út! Quyên quay lại trừng mắt ngó con Thúy, bậm môi: - Mày cũng binh dượng út mày à? Được rồi, tao không thèm chơi với mày nữa! Con bé níu tay Ngạn, ngó Quyên: - Dì không chơi với con thì con chơi với dượng út. - Ừ, cho dượng cháu mày chơi với nhau. Mai dượng mày đi rồi coi mày chơi với ai cho biết! Con Thúy nép vào người Ngạn, ngước hỏi: - Dượng út chưa đi đâu, hả dượng út? ở chơi với con tới bữa kia, bữa kìa hãy đi nghe, dượng út? Giữa lúc ấy, có tiếng chân mẹ Sáu đi vào bếp... Ngạn nánh ra nhường lối cho mẹ đi. Mẹ hỏi: - Mày về chơi được bao lâu, Ngạn? - Dạ, có lẽ ngày kia con đi, má à! Ngạn nhẹ nhàng đáp lời mẹ. Cử chỉ anh bây giờ coi hết sức nghiêm túc. Anh đưa tay lên vuốt tóc và đặt nhẹ bàn tay sau gáy, Quyên liếc thấy, cố nén cười. Nhưng cô cũng vậy, cô cầm dao khứa cá cùm cụp, dáng coi chăm chú lắm. Mẹ Sáu hỏi: - Tính làm món ăn gì đó, Quyên? - Con định chưng tương. - Ờ, con cá đó chưng thì ngon. Còn tôm với cua? - Tôm thì chiên lăn, còn cua xào dấm, được không má? Mẹ Sáu nói: - Làm sao cho mấy anh mày ăn nó chê đó thì làm! Rồi mẹ cười và đi ra. Nói là nói vậy chớ mẹ Sáu tin ở con gái mình lắm. Cả hai chị em Sứ và Quyên đều nấu ăn khéo. Hồi hai chị em còn nhỏ, mẹ đã chỉ dạy từng ly từng tý. Mẹ vẫn bảo: - "Nhà mình nghèo, có con cá kho cũng phải kho cho ngon". Thiệt ra nhà mẹ Sáu nghèo là nghèo trước kia, chớ sau cách mạng, nhà mẹ được cấp bốn công đất tốt có vườn, gọi là ưu tiên cho gia đình liệt sĩ. ạng Sáu chết năm 40, vì "tội làm cộng sản, bắt được có khí giới giết người". ạng bị đem về xử bắn tại Hòn Đất cùng năm người khác. ạng là tay chế súng, chế lựu đạn ở chùa ông Đồng, tức Long Sơn tự, nay chùa ấy cũng còn. Anh con trai lớn của mẹ Sáu, tức anh Hai của Quyên thì chết hồi kháng chiến, hy sinh trong trận kinh xáng Mớp Văn. Người con rể thứ ba của mẹ Sáu tập kết ra Bắc mới gởi thư về đó, trước kia là bạn chiến đấu với anh Hai. Gia đình mẹ Sáu là một gia đình cách mạng, từ chồng tới con, con rể, và cả chính mẹ nữa. Sáu mươi hai tuổi với bao khổ cực, mừng vui, cay đắng, tóc mẹ nay bạc hết cả. Nhưng, như mẹ vẫn hằng nói: - "Nhờ Trời Phật, tao còn đi cấy, đi làm cỏ vườn được. Vậy chắc là tao còn ngó thấy nước nhà thống nhứt, ngó thấy Cụ Hồ! " Thật vậy, mẹ Sáu gắn bó đời mình với cách mạng bằng nhiều thứ quá. Chồng con, đất đai, máu thịt. Niềm hy vọng của mẹ đều hướng cả vào cách mạng. Niềm vui mà mẹ có được cũng đều từ đấy mà ra. Niềm vui đó chan chứa trong cõi lòng bình dị, mênh mông, khi lắng lặng, lúc lại trào lên của mẹ. Không phải khó khăn gì mới thấy được niềm vui ấy. Những lúc này chẳng hạn, có con cháu anh em về, khuôn mặt nhăn nheo của mẹ lại rạng rỡ hẳn lên. Mẹ Sáu trở vào nhà trước, gặp lúc Sứ đang đem khoe cái thơ với anh Tám. Mẹ nói với anh Tám: - Tao cũng chưa nghe kỹ cái thơ. Mới nghe nó đọc qua thôi. Mày coi đi Tám, còn tao tối nay để tao bắt con Quyên nó đọc rành rẽ cho tao nghe. Thằng Ba nó ý tứ trượng lắm, một chữ của nó nói cũng phải suy gẫm ra mới thấu được. Anh Tám coi thơ, thỉnh thoảng anh lại nhoẻn cười. Sứ đưa cả tấm ảnh cho anh coi. Anh Tám cầm tấm ảnh, nhìn chăm chú. Anh nhướn mắt, xây xây tấm ảnh: - Coi mập mạp trắng trẻo hơn hồi đó! Đưa tấm ảnh lại cho Sứ, anh cười bảo: - Ở xứ xã hội chủ nghĩa mà! Mẹ Sáu nghe nói, vẻ mặt càng thêm rỡ ràng. Sứ thì bảo với giọng hơi bứt rứt: - Còn tấm hình của em gởi cho ảnh là chụp sau ngày em bị bắt về. Coi ốm lắm! Mẹ Sáu chép miệng: - Bị ở chuồng cọp, chuồng sấu mà biểu mập sao cho được! Anh Tám Chấn lại cười. Nhưng nụ cười ấy tắt ngay trên môi anh. Anh nói: - Tấm hình của cô chụp gởi chú Ba mà cô vừa nói đó thiệt là quý... Những tấm hình như vậy không phải ai cũng có. Tôi nghĩ chắc chú Ba sẽ quý tấm hình đó của cô hơn tất cả những tấm hình mà trước nay cô đã cho chú ấy. Rồi anh hỏi Sứ: - Khi viết thơ cho chú Ba, cô có nói cô chụp tấm hình đó sau khi cô bị bắt không? - Có... Nhưng em nói khác. Em nói: “Tấm hình này em chụp sau ngày bị tai nạn... " - Vậy ắt chú ấy biết! - Chắc... biết! 4 Mẹ Sáu đem trải lên bộ ván gõ chiếc chiếu bông. Chiếc chiếu bông này là một trong đôi chiếu của nhà mẹ Sáu chỉ đem trải khi có giỗ kỵ, đám tiệc. Ngạn ngồi uống nước trà trên ván với anh Tám chợt nghe ngoài đường có tiếng ai nói chuyện giống như tiếng anh Hai Thép. Ngạn chạy ra. Hai Thép đã đi vào tới sân. Anh bí thư chi bộ nầy vóc người hơi gầy mà chắc. Đầu anh buộc ngang một cái khăn rằn, nách cắp một cái cặp da giả thứ của trẻ con đi học và mang một chiếc ra - đi - ô bán dẫn kiểu Nhựt. Một tay anh giơ chào Ngạn theo kiểu nhà binh rồi bước như nhảy lên bậc thang. Bàn chân trái của anh bị đứt hai ngón, cứ hếch hếch lên tấm gỗ bậc. - Mới về hả chú? ạng Tám Chấn đâu? - Ở trong nhà. Vào nhà, anh Hai Thép liệng cái cặp da giả vào góc ván, ngó anh Tám Chấn cười và nháy mắt: - Mới xuống hả ông? Hỏi xong, anh gấp gấp mở thêm một cái cúc áo nữa, tay tháo cái khăn trên đầu xuống đập đập mồ hôi đổ hột ở ngực. Anh Tám rót một chun trà, đặt trước mặt Hai Thép. Hai Thép nhấc chén trà lên, cười nói: - Tụi tôi đợi ông xuống quá xá. Cái vụ đất bị cha con thằng chủ Mưu xáo canh hồi đó nay giải quyết lại nột dữ. Không phải dễ đâu nghe ông! Anh Tám Chấn cười cười: - Thì tôi có nói là dễ đâu! Hai Thép đưa chun trà lên tợp một hớp rất kêu, chép chép miệng: - Tôi đợi ông xuống đặng hỏi ý kiến ông về mấy khoản, giả tỷ như cái khoản... Anh Tám Chấn vội giơ tay khoát khoát: - Thôi, uống nước đi, rồi ở đây ăn cơm với tụi tôi. Mai đã, mai hẵng tính. Bữa nay ông xả hơi "giải nghệ" một bữa đi! Hai Thép ngồi xuống ván, rót nước uống liên tiếp hai ba chun nữa. Mẹ Sáu ở sau bếp đi ra, thấy Hai Thép liền hỏi: - Hai Thép đó à? Còn Ba Rèn với thằng Năm Tấn đâu? - Cháu không gặp. Cháu ở nhà đi thẳng tới đây. - Tôi có nhắn mấy đứa nó chiều nay lại ăn cơm, giờ sao chưa thấy tới? - Ối, hơi nào mà lo cho mấy thằng đó, má ơi! Quyên đã bưng thức ăn ra. Mọi người đang ngồi nói chuyện liền lánh chỗ cho cô đặt đĩa cua xào dấm và đĩa tôm chiên vào giữa. Mùi chiên xào bay thơm quá. Đĩa tôm chiên coi mới thích làm sao. Những con tôm to bằng ngón chân cái đã lột vỏ, hồng hào nằm cong mình dưới lớp nước sốt cà chua đỏ tươi. Kế đó, chị Sứ lại bưng tiếp ra một thau nhôm đựng gỏi đu đủ trộn với khô cá bổi xé. Anh Hai Thép cúi nhìn thau gỏi, xoa xoa tay khều Sứ nói: - Mấy món này tao ngó đều khá. Thế nào rồi tao cũng cho má bầy trẻ tới học tập, nhưng nếu chị em bây chỉ dọn bấy nhiêu món thì tụi tao chưa chịu ăn đâu! Quyên mau miệng: - Còn cá chẻm chiên nữa, anh Hai à! Hai Thép vỗ tay đánh bộp một cái: - Có cá chẻm chiên nữa à! - Nhưng anh vội khoát nhẹ tay: - Không, có cả cá chẻm tụi tao cũng chưa ăn. Quyên trố mắt. Sứ nói: - Con Quyên khờ quá, anh Hai mà mày không biết à, ảnh nói xa nói gần đó mà... Hai Thép cười, hài lòng: - Con Sứ khá lắm... Vậy cái tao nói xa nói gần đó có không? Có thì đem ra đây, mau đi! Sứ ngó mẹ, cười. Mẹ Sáu nói: - Thôi, con vô trong buồng... đem ra đi, một chai thôi. Chớ không có, Hai Thép nó không ăn thiệt đa! Sứ vào buồng, lát sau cầm ra một chai rượu trong vắt, Hai Thép đưa tay với ngay chai rượu, ôm vào lòng như sợ bị đòi lại. Anh vừa rung đùi vừa khoát tay ra lệnh cho anh Tám và Ngạn qua. Rồi anh quay nhìn thẳng vào mắt Ngạn, cố lấy giọng thật dịu dàng: - Mày về nhà tao thấy mày nhu mì điềm đạm, tao thương quá, Ngạn! Anh day qua mẹ Sáu nói: - Má à, về nhà đây coi nó mủ mỉ vậy chớ ở chỗ khác, tự nãy giờ thôi bể nhà bể cửa với nó rồi nghe má! Mẹ Sáu lắc đầu cười. Anh Hai Thép khoái chí nhìn Ngạn đang ngượng nghịu leo lên ván... Hai Thép rót rượu ra ly. Anh nài nỉ mẹ Sáu phải uống một chút. Mẹ không chịu uống. Anh mời tới Quyên, Sứ. Hai chị em cười, lắc đầu. Anh đưa lên chạm với anh Tám Chấn và Ngạn. Ba cái ly ấy mới giơ lên vừa chạm vào nhau đánh "cốp" một cái chợt ngoài sân có tiếng chân đi thình thịch. Và tiếng chân đó lát sau vội vã nhảy lên bậc thang. Ba người cầm ly rượu trên tay chưa ai uống một hớp thì Tấn và anh Ba Rèn xồng xộc bước vào. Hai anh bắt tay anh Tám và Ngạn, ngồi ghé xuống ván. Tấn thì thào: - Vừa có tin cho hay địch tập trung tại Tri - Tôn ngót ngàn quân. Thế nào mai nó cũng càn, nhưng chưa biết càn đâu. - Bao nhiêu, gần một ngàn quân à? - Anh Tám hỏi lại. Tấn gật đầu: - Một tiểu đoàn chủ lực, một tiểu đoàn bảo an và thêm một đại đội biệt kích. - Đại đội biệt kích của thằng Xăm. Anh em cho biết rõ như vậy! - Ba Rèn nói. Anh Tám Chấn lặng thinh, cau mày. Anh chồm người tới trước thò tay nhặt cái nút, thong thả nhét miệng chai rượu lại, đưa cho Sứ bảo cô đem cất. Anh nói với mọi người: - Thôi, tụi mình làm bậy ly này thôi. Tranh thủ ăn cơm đi. Má, cô Sứ với cô Quyên cũng lấy chén ra ăn cơm luôn thể. Tôi nghi nó đánh đấy. Nhưng nếu có đánh thì cũng giác hừng đông. Có đại đội thằng Xăm thì phải coi chừng. Có thể nó "đột" sớm hơn! - Sao mấy bữa nay không thấy "đầm già" nó quần cà? - Đâu nhứt thiết phải có "đầm già" quần. Đợi mọi người ăn cơm xong, mẹ Sáu thu dọn mâm chén. Cũng trên bộ ván đó, bây giờ mọi người ngồi quây lại. Anh Hai Thép buộc siết chặt cái khăn lên đầu, nói: - Thấy rõ là nó đánh vùng Hòn rồi. Tôi đề nghị có bàn gì thì bàn mau mau để rồi chuẩn bị đối phó ngay. Theo tôi, một mặt Ba Rèn cho tập hợp anh em du kích lại xuống chông, gài lựu đạn. Còn vợ tôi để nó lo bố trí các tổ đấu tranh. Cần hết sức chú ý mặt đấu tranh hợp pháp để ngăn chặn sức đánh phá của địch. Chút nữa, tôi sẽ tạt qua nhà cho vợ tôi hay luôn! Anh Tám Chấn đặt bàn tay lên bàn, ngón tay trỏ của anh nhịp nhịp: - Đồng ý với Hai Thép. Nhưng nên nhớ như vậy là quân số địch đông đấy! Về tình hình HBM thì ra sao? Khi đánh nhau với chúng, có chỗ lánh né không? - HBM còn tốt thì ít thôi. Chỉ đủ cho một vài tổ. Đất cát khó đào quá, cứ bị sụp hoài. Mới đây lại bị sụp nữa, chưa củng cố lại kịp. Tụi tôi tính bố trí chặn đánh chúng ngoài vườn. Chừng nào thắt ngặt quá thì lánh né vô hang. Anh Tám Chấn im đi một lúc. Gương mặt anh thoáng vẻ lo lắng. Anh bảo: - Phải ráng khắc phục vụ hầm hố sao chớ để như vậy thì bị động quá... Anh Ba Rèn nói: - Hang Hòn là chỗ cố thủ rất ngon. ở đó một người mình có thể chống chỏi lại một trăm thằng. Lần trước cũng vậy... - Lần trước khác, bây giờ khác... Tôi cũng tin là hang Hòn có địa hình chống đỡ thuận lợi, nhưng nếu chỉ xét về mặt địa hình không thì không được... Nhưng thôi, hiện tại là không có hầm đảm bảo ở ngoài xóm, cũng phải đành giải quyết như vậy thôi. Chớ nói về lâu về dài thì không thể cứ chỉ lấy hang Hòn làm chỗ dựa duy nhất được đâu. Day qua Ngạn, anh Tám nói: - Đội công tác của chú cũng kết hợp với anh em du kích chiến đấu luôn. Ngạn gật đầu: - Được rồi, đội tụi tôi có sáu súng: ba mát, ba tôm - xông, và mười lăm trái MK3. Tất cả đều có thể chiến đấu. Ba Rèn hớn hở, nắm tay Ngạn gặc gặc. Anh Hai Thép bảo: - Tôi thấy anh Tám không nên ở đây. Anh Tám Chấn suy nghĩ một chốc rồi nói: - Không việc gì, tôi cứ ở đây thôi! Rồi kéo anh Hai Thép lại, anh nói nhỏ: - Tôi sẽ ở lại ngoài xóm chỉ đạo bà con đấu tranh chánh trị. Anh liệu coi ở nhà nào thì tiện. Hai Thép thoáng vẻ mừng rỡ, nói luôn: - Anh Tám cứ ở lại nhà tôi. Vợ tôi trực tiếp nắm các tổ đấu tranh chánh trị có anh giúp thì hay quá. Hầm bí mật ở nhà tôi cũng vững, thôi anh cứ ở đó! Anh Tám Chấn gật đầu. Rồi anh tiếp: - Hai Thép cho ai chạy qua Lình - quỳnh kêu chú Đạt của tôi về. Cứ để Đạt tham gia chiến đấu. Như vậy sẽ có thêm một cây cạc - bin. Đạt nó bắn cạc - bin khá lắm! Ba Rèn nói sẽ cho người đi qua Lình - quỳnh ngay. Giữa lúc ấy, Tấn an ninh nhích lại gần mọi người, khẽ bảo: - Còn việc này nữa... Nếu địch nó càn vô đây thể nào nó cũng xài tụi điệp, dùng tụi này chỉ chọc. Hiện nay, còn thằng Ba Phi mình để đó theo dõi chưa bắt. Mình phải tính sao, chớ không... - Phải bắt thôi. Thằng chủ trại đáy đó nguy hiểm lắm. Cả vợ nó nữa. - Tôi cứ tưởng mấy ông đã bắt nó rồi chớ! - Anh Tám nói. Và anh bảo tiếp - Cho bắt đi! Nhưng không biết nghĩ sao, anh lại hỏi: - Từ đó tới nay theo dõi nó thấy có hiện tượng gì mới không? Tấn đáp: - Chưa thấy gì mới. Anh Tám gõ ngón tay xuống ván: - Chắc bây giờ nó đang chờ địch tới lắm. Nếu bắt nó khai thác liền được ý đồ địch thì hay quá. Thế nào nó cũng biết. Ngạn nghe nói bắt gián điệp thì xen vào bảo: - Từ trước tới nay mình có để lộ ra cái gì chứng tỏ là mình theo dõi nó không? Tấn nói: - Không, nó không biết đâu! Hai Thép bảo: - Đi bắt nó phải bố trí cho kỹ. ở đó meo lắm, cần ghé rà trước coi hồi chiều tới giờ tụi quận có thả lính vô không? Ngạn hỏi: - Để cánh tụi tôi giúp cho một tay! Hai Thép gật đầu: - ừ, vậy thì tốt lắm. Phải làm liền đi. Tối rồi. Đi ra tới ngoải là vừa. Ngạn đứng lên. Quyên lẹ làng chạy ra nhà sau lấy xanh - tuya súng đem ra đưa Ngạn. Ngạn thắt súng vào lưng, rồi cùng Tấn bước thót ra cửa. Hai Thép dặn: - Bắt được cứ đưa thẳng nó về hang nghe! Ra tới đường, Ngạn đi sát vào Năm Tấn, nói: - Tôi tính mình bắt thằng này phải mánh lới một chút, anh Năm! Phải gạt nó khai rồi hẵng bắt! Tấn chưa hiểu, hỏi: - Gạt làm sao? Ngạn kề miệng nói rỉ vào tai Tấn. Tấn nghe xong lộ vẻ thích thú lắm. Anh ta khen: Hay, hay! Ngạn nói thêm: - Tụi tôi có đồ sĩ quan. Đừng lo!... Bởi trước sau gì mình cũng bắt nó mà. Nhưng trước sau một chút quan hệ lắm... Anh thì nó biết mặt, cứ bố trí vòng ngoài, để tụi tôi vô. Phần 2 1 Cái thị trấn Tri - Tôn bé nhỏ chiều hôm ấy bỗng dưng ầm ĩ hẳn lên. Xe cam nhông chở lính từ Rạch Giá nối đuôi nhau chạy xuống. Bụi bốc mù mịt trên con đường phố nhỏ độc nhất của quận lỵ. Bụi xông vào các tiệm nước, các tiệm tạp hóa, các căn phố trệt và phố lầu mới cất. Bọn lính từ trên xe nhảy xuống, lũ lượt kéo đi trong vầng bụi. Bọn lính chủ lực mặc đồ trai - di, bọn biệt kích mặc đồ rằn, giày da và giày bố nện rầm rập, bồm bộp. Đồng bào bên phố đứng xem chúng kéo qua, xì xầm bàn tán. Người ta thấy có những tên quen mặt trong đại đội biệt kích, nhưng chẳng có ai dám dòm bọn nầy cả. Bọn lính chủ lực từ Sài Gòn xuống còn đưa mắt nhìn xem hai bên phố, chớ bọn biệt kích thì mặt gầm gầm, lạnh lùng, súng tôm-xông và cạc-bin của chúng mang đều chúi mũi xuống đất. Thằng Xăm, tên trung úy, chỉ huy đại đội biệt kích có đôi mắt trắng dã, lịch phịch đi sau cùng. Hắn mặc bộ đồ rằn thủy quân lục chiến rỡn hình sóng biển, bó sát lấy khổ người rất lực lưỡng. Đầu hắn đội cái kết vải vằn vện có ba mảnh vải để che gáy và che hai bên mang tai. Loại kết này vẫn gọi là kết "ba rèm". Nơi đùi thằng Xăm đeo sề sệ khẩu súng ngắn Côn 12, bao da súng màu hung hung gần giống như màu da mặt của hắn. Ngoài ra, hắn còn khoác một khẩu cạc - bin và một cái cúp cúp. Những tên lính biệt kích trong đại đội hắn đều ăn mặc giống như hắn, đeo cạc-bin hoặc tôm-xông, tên nào cũng có dao găm Mỹ, và trông tên nào cũng hung tợn. Đang đi, bỗng tên trung uý Xăm ghé tạt vào một quán giải khát ở giữa phố. Hắn ngang nhiên vớ lấy một chai la-ve, đưa mắt nháy người chủ quán Hoa Kiều một cái rồi đi ra. Vừa đi, thằng Xăm vừa rút soạt lưỡi dao bên hông. Một tay hắn cầm la-ve giơ lên, một tay hắn trở sống dao phạt mạnh ngang cổ chai. Cổ chai văng toạc đi. Bọt rượu trào ra. Hắn dừng lại, ngửa cổ đưa chai la - ve rót vào miệng. Hắn uống hết độ hai phần ba chai, rồi đưa cho tên lính đi trước. Tên lính cầm chai la - ve khoái trá uống nốt chỗ còn lại. Chừng như tên lính này đã quen uống như vậy nhiều lần rồi. Bấy giờ, có lệnh từ tiểu đoàn lính bảo an chuyền lại: - Dừng lại, đừng đi nữa! Nguyên là đồn quân chi khu này chỉ có thể chứa thêm được hai tiểu đoàn trong số ba tiểu đoàn lính mới đến. Đó là hai tiểu đoàn lính chủ lực. Bọn còn lại là bọn bảo an và biệt kích thì được lệnh đóng ở ngoài, trên những khoảnh ruộng trống khô nẻ. Một tên đại úy tiểu đoàn trưởng bảo an cao lớn truyền lệnh ấy ra sau, rồi cho những đại đội của hắn kéo vào khoảng ruộng. Tên Xăm càu nhàu: - Đ. mẹ, về xứ của tôi mà bắt tôi ngủ ruộng à? Song nói thế chứ hắn cũng khoát tay xua bọn lính áo rằn của hắn kéo vào chỗ đất trống giáp phố. Nắng chiều vàng vọt trải xuống mặt ruộng. Trên khoảnh đất trống bị dọn sạch quanh chi khu, bọn lính chạy tới chạy lui. Chúng trải những tấm tăng, dành chỗ làm bếp nấu, tu ừng ực nước hoặc rượu chứa trong các bi - đông Mỹ. Có tên chưa chi đã nằm lăn kềnh, ngửa mặt lên trời phì phèo hút thuốc. Từ đám lính ấy nghe toát ra mùi chua loét của mồ hôi, mùi thuốc lá Bát - tô xanh, mùi rượu trắng và cả mùi sáp bôi tóc loại rẻ tiền. Tất cả những mùi đó hợp lại là cái mùi lính nói chung, nghe lờm lợm, vốn dĩ rất sẵn có ở những tên lính đánh thuê. Thằng Xăm cởi phanh áo. Hai cổ tay hắn đeo không biết bao nhiêu dây bùa cà tha vàng hoặc đỏ. Và trên bộ ngực nở nang của hắn lủng lẳng một sợi dây chuyền buộc cái mặt chằn bằng ngà có nanh vàng chìa ra coi rất dễ sợ. Cái mặt chằn với những dây cà tha ấy thằng Xăm coi như bùa hộ mạng của hắn. Hắn bật nằm ngã ngửa ra trên tấm vải bạt xám. Điếu thuốc trên môi hắn đã cháy muốn hết mà chừng như hắn không hay. Thình lình, hắn đưa tay giật phắt mẩu thuốc, vứt đi và ngồi bật dậy. Hắn lừ lừ giương đôi mắt trắng dã ngó bọn lính của hắn bấy giờ đang lôi bánh mì ra. Một tên lính bé choắt luồn tới bên hắn: - Mời anh Hai đi ăn cơm! Thằng Xăm uể oải đứng dậy đi theo tên lính đến trước một tấm vải bạt. Trên tấm vải bạt có trải giấy báo, đặt nửa con gà quay, hai ổ bánh mì lớn và một hộp cá mòi đã mở nắp. Xăm ngó qua, xẵng giọng hỏi: - Hết rượu hả mậy? - Thưa anh Hai, còn. Tên lính bé choắt ấy xăng xái đặt vào giữa tấm vải bạt một bi - đông nặng trịch. Mắt thằng Xăm vụt sáng lên. Hắn với tay chụp cái bi - đông lắc lắc, ra vẻ hài lòng. Hắn mở nút đưa lên miệng tợp ngay một hớp, rồi một hớp nữa. Cầm bi - đông đưa cho tên lính, tay hắn chộp lấy đùi con gà quay đưa lên miệng, cắn, rứt ra, nhai nghiến ngấu. Những chiếc răng vàng trong mồm hắn lóa sáng, nhồm nhoàm. Hắn đưa tay quệt mỡ gà dính ở hai bên mép. Tên lính cùng ăn, cùng uống với hắn, coi hơi cóm róm nhưng có vẻ hể hả. Thằng Xăm tu rượu ừng ực. Hắn "khà" một cách khoái trá rồi lại xé thịt gà ăn. Tên lính và hắn ăn hết nửa con gà, uống hết một bi - đông rượu thì ánh nắng đã tắt. Nhưng mặt trời thì vẫn còn đỏ sẫm dưới ven đồng xa. Thằng trung uý biệt kích ngà ngà rượu ấy chới với đứng lên, đưa hai tay cào cào sườn. Hắn ngước nhìn mặt trời, miệng lẩm bẩm một câu chửi tục chỉ có mỗi mình hắn hiểu, rồi nhe răng cười không ra tiếng. Bọn lính cũng đã có nhiều đứa say như hắn. Nhưng rượu đã hết, và chúng đang bẻ bánh mì chia nhau ăn. Có những tên lính đã cởi hẳn áo, để lộ bộ ngực đen bóng xăm đầy hình rồng rắn. Có một số lính đi khuân củi. Thứ củi tràm gộc bổ đôi, mỗi đứa xách hai miếng, không biết chúng lấy từ đâu. Đêm tối vừa sụp xuống thì chúng đốt lửa. Nơi này một đống, nơi kia một đống. Lửa bốc phừng phừng, cháy sáng từng lõm ruộng. Bọn lính nấu nước bằng hang - gô xỏ xâu vào, ngồi lổm nhổm bên ngọn lửa. Mặc dù có lệnh cấm vào phố, chúng vẫn lén đi mua rượu, mua thêm la - ve và đồ nhậu. Lệnh cấm là lệnh của bộ chỉ huy hành quân, nhưng các tên chỉ huy đơn vị không cấm lính của chúng. Thằng Xăm chẳng những không cấm mà hắn còn ó ré nhậu nhẹt cùng bọn đàn em biệt kích. Bọn này không ngớt mời mọc, tán tụng hắn. Tên nào cũng đều gọi hắn bằng anh Hai. Chúng còn mời mọc một tên thiếu úy mặt xương, mắt sâu thỏm và gọi tên này bằng anh Ba. Thằng Xăm thích lính gọi mình bằng anh Hai hơn là gọi hắn bằng "ngài trung uý". - Anh Hai uống với em một phát, anh Hai! - Anh Hai thiệt uống không biết say đa! Thằng Xăm hể hả khi nghe những câu ấy. Hắn uống hết, không từ chối một ai. Hắn quả là một thằng biệt kích mạnh rượu. Hắn uống nhiều mà không say mấy. Cặp mắt bình thường trắng dã của hắn nay đỏ lên như có pha ánh lửa và hoe máu. Bọn biệt kích ác ôn thân tín ngồi vây quanh. Những tên này đã phục sợ thằng Xăm trong các cuộc đánh phá giết người bao nhiêu thì chúng càng phục thằng Xăm trong sự nhậu nhẹt bấy nhiêu. Một tên trong bọn chợt hỏi: - Mai về Hòn, anh Hai ghé nhà không? Thằng Xăm sắp đưa bi - đông rượu lên, nghe hỏi, hắn liền để bi - đông xuống. Bàn tay hắn hơi run run. Câu hỏi của tên lính hình như chạm vào một cái gì trong lòng hắn. Hắn im lặng mất một lúc lâu rồi mới nói: - Ghé. Thể nào tao cũng phải ghé thăm bà già với con em. - Cô Cà Mỵ à? Chà, năm nay cô Mỵ chắc lớn lắm rồi? - Đâu như mười chín tuổi... Thằng Xăm thờ thẫn nói: - Con Mỵ nó giống tao. Tao thương bà già tao. - Nghe nói anh Hai có kêu bà già với cô Mỵ ra chợ ở, sao không thấy bà già với cô Mỵ ra? - Không, lần này tao về đóng bót Hòn Đất. Để bả ở đó luôn! Hắn nói xong thở "khì" một cái rất mạnh. Nốc thêm một ngụm rượu nữa, hắn lắc đầu lia lịa: - Nghe nói bà già tao theo Việt cộng. Bả thù ông già tao lắm. Thằng Xăm nói thế, rồi nhắc tới Hòn Đất với cái giọng bỗng dưng hạ thấp hẳn xuống: - ở Hòn Đất vui, vui lắm... Hồi tao còn làm xếp bót ở đó, tao vui hơn bây giờ. Có đủ thứ trái cây, có khô trâu. Con gái ở đó cũng có nhiều. Nhiều đứa coi ngộ lắm, vú lớn như cặp dừa, tay tụi bây thằng nào nhỏ bóp không giáp... Bọn lính cười nhăn nhở, thích thú. Tên nào cũng khoái trá, vì chúng biết nội ngày mai chúng sẽ được tới đó. Bây giờ ít có đứa nghĩ đến cái chết, mà chỉ nghĩ tới sự vơ vét, sự ăn uống và sự cưỡng hiếp. Trong bọn này, có tên đã biết Hòn Đất. ở đó, chúng đã làm bất cứ chuyện gì chúng có thể làm được. Chúng đã kháo với nhau và kể lại cho bọn khác nghe, giả dụ như muốn ăn thịt trâu, chúng chỉ cần ngắm cho trúng đích những con trâu ăn cỏ trên triền Hòn và nổ súng. Có tên còn kể tỉ mỉ mình đã hiếp những phụ nữ ở đó ra sao, và đắc chí bảo rằng chính tay nó đã xé được mười ba cái quần lãnh của họ. Cũng có tên bảo chính tay nó đã đập đầu Việt cộng bằng cột chèo, đập vỡ óc văng tung tóe cả vào áo. Chúng kháo nhau rằng ở đấy, "anh Hai" đã mổ rất nhiều người, mổ rất khéo, chỉ cần chọc một nhát dao nơi chấn thủy, lách chếch lên, đường dao rạch chỉ vừa đủ thọc bốn ngón tay vào để bợ trọn buồng gan ra. Thật là thằng Xăm đã mổ rất nhiều người, nên trong đám ác ôn, hắn nổi tiếng là đứa mổ gan lấy mật người gọn lẹ nhất. Nhưng hắn không chỉ khéo mổ lấy gan và mật. Hắn còn có nhiều cách giết người lạ lùng quái gở hơn. Dòng máu của hắn chính là dòng máu của cha hắn, một tên địa chủ người Việt trước kia làm bá chủ vùng Hòn. Người ta nói thằng Xăm không còn chút máu nào của bà Cà Xợi, tức mẹ hắn, là một người đàn bà Khơ me uất ức và đau khổ suốt đời, đến nay vẫn còn như điên dại. Mẹ hắn, bà Cà Xợi ấy, ngày xưa là một người con gái Khơ me khá đẹp với nước da nâu rám mặn mòi và dáng đi uyển chuyển, chỉ có những cô gái Khơ me nắn nồi và đội cà - om đi lấy nước suối ở đây mới có được. Người con gái Khơ me ở đây lớn lên với nghề nắn nồi đất, ngày ngày đi quanh bàn nắn, tính trung bình mỗi ngày họ đi có tới khoảng ba mươi cây số, tức là bằng từ Hòn Đất đi lên tỉnh Rạch Giá. Thành ra công việc lao động ấy tự nhiên luyện cho họ một vóc người uyển chuyển, dịu dàng. Hơn nữa, họ lại thường đội cà - om đi lấy nước suối về dùng. Khi đặt cà - om nước lên đầu, cô gái Khơ me bước đi duyên dáng lạ thường. Trên đường từ suối nước về nhà, các cô không bao giờ vịn tay lên cà - om. Đôi tay các cô đánh đường xa, vây vẫy dịu dàng trên lối cát. Bà Cà Xợi ngày xưa là một người con gái như thế. Tên chủ Mưu đã ép cô gái Cà Xợi xinh đẹp về ở với hắn. Ngày ấy anh Thạch Kha là người yêu Cà Xợi buồn quá bỏ đi làm phu bè cây lên tận Kôm - pông - chàm. Sau khi đẻ được thằng Xăm, tên chủ Mưu bắt đầu không ngó ngàng tới Cà Xợi nữa. Y để ý những cô gái khác, trẻ hơn. Nhưng lúc đó Cà Xợi đã có mang với y đứa con thứ hai. Sau cùng y đuổi Cà Xợi ra khỏi nhà, còn thằng Xăm thì y giữ lại nuôi. Bà Cà Xợi bỏ hòn máu của mình lại, ôm bụng thất thểu bước ra khỏi cái nhà nền đúc. Bà về xóm Hòn Đất che tạm một túp chòi, ban ngày đi gặt lúa mướn, tối về chòi ngủ. Lúc sắp đẻ, bà đau quá, bò lê ra đồng cứ vơ gốc rạ mà nhai. Tình cờ đêm ấy hai mẹ con mẹ Sáu đi đâu bên bến đò Vàm Răng về gặp, mới đem bà Cà Xợi về nhà. Bà Cà Xợi sanh con Cà Mỵ tại nhà mẹ Sáu. Được một tuần lễ sau thì anh Thạch Kha trên Kông - pông - chàm về. Anh đến nhà sụp trước mặt mẹ Sáu lạy mà xin cho rước bà Cà Xợi lẫn đứa con mới đẻ. Hai người ăn ở với nhau không đầy một năm thì anh Thạch Kha bị chủ Mưu cho người rình chém khi anh đang đi vô rừng đốn củi. Anh Thạch Kha dùng búa chém lại chết một thằng, nhưng anh thì bị chúng vây chém trọng thương, chạy về chết gục trước sân nhà. Thế là từ đó bà Cà Xợi nắn nồi nuôi con Cà Mỵ tới lớn. Cà Mỵ càng lớn càng dễ thương, giống mẹ như đúc. Duy có thằng Xăm từ bé đến lớn ở với chủ Mưu, được nưng niu, càng lớn càng giống chủ Mưu về mọi mặt. Thằng Xăm gắn bó với cha nó ngay từ những miếng vườn trên Hòn, ngay từ những mảnh đất nắn nồi cha nó độc chiếm bán ra từng thước khối. Nó ở trong ngôi nhà nền đúc phông - tô và lớn lên. Ngôi nhà ấy hồi kháng chiến đã bị phá, và vườn đất cũng bị cách mạng lấy chia cho dân. Chủ Mưu bỏ chạy lên Rạch Giá. Mãi hòa bình lập lại, y trở về với thằng Xăm bấy giờ đã là thiếu úy quân đội tay sai Diệm. Y giựt đất, cất nhà lại, và cùng thằng con trả thù cách mạng với tất cả nỗi căm oán chất chứa trong bao năm. Thằng Xăm còn độc địa hơn cả cha nó, vì chính tay nó cầm súng Mỹ, và đi theo nó có cả một bầy ác ôn liều mạng nhất được nó tuyển từ các đồn lẻ quanh vùng. Bọn biệt kích của thằng Xăm thằng nào cũng chạy giỏi như ngựa. Chúng rượt nà cán bộ trên đồng trống, mò vào các khu rừng tràm, đánh phá căn cứ cách mạng cả ngày lẫn đêm. Có khi giữa đêm mưa tầm tã hoặc lúc trời vừa rạng sáng, súng của chúng nổ ran. Bà con trên Hòn mỗi khi nghe tiếng súng của bọn thằng Xăm ai cũng lo sợ nghĩ đến con mình, cháu mình và những người cán bộ thân thiết của mình vừa ngã xuống. Nhưng có một người nghe tiếng súng ấy còn hoảng sợ đau đớn gấp trăm ngàn lần hơn người khác. Người đó là bà Cà Xợi vậy. Ngày đồng khởi, tên chủ Mưu bị bắt đem chém. Thằng Xăm chạy thoát. Từ đó, nó càng thêm hung dữ. Cho dù ở Hòn Đất hay là ở trên khắp thế gian, người mẹ nào mà chẳng có nỗi đau khổ riêng của mình, nhưng thật cũng ít có người mẹ nào lại có nỗi đau khổ như bà Cà Xợi. Hồi còn làm xếp bót Hòn Đất, thằng Xăm vẫn thường đem vải vóc, vàng bạc mà nó cướp được về cho bà Cà Xợi và con Cà Mỵ. Nhưng hai mẹ con đều không lấy. Thậm chí có lần bà Cà Xợi đã liệng vãi các thứ ấy ra sân, rồi bưng mặt khóc. Nên thằng Xăm nói: - Nghe bà già tao theo Việt cộng rồi! Nó nói đúng. Chẳng phải có lần chính mẹ nó đã đứng trước mũi súng của nó đó sao? 2 Vào giờ ấy, bà Cà Xợi đang lầm lũi đi tới quán của thím Ba ú ở ngã ba Hòn Đất. Bà đi trong đêm tối, tay cầm một cái chai xị không. ở Hòn Đất ban đêm, hễ thấy dạng người nào đi không đèn đóm thì bà con đều đinh ninh người đó là bà Cà Xợi. Bởi ngoài bà thì chẳng có ai đi như một cái bóng thế cả. Nhưng người đàn bà mà khắp Hòn Đất này ai cũng cho là có hơi dài dại ấy khi đi trong bóng tối mới tài chứ! Chẳng bao giờ bà ta vấp chân vì một mô đất hay một lỗ trũng. Hình như bà biết trước và tránh trước hết. Lúc bà Cà Xợi đến quán ngã ba thì quán vắng ngắt không có một ai. Bà bước vào quán, thấy trên quầy cạnh ngọn đèn ống khói có mỗi mình thím Ba ú đang ngồi đếm lại đống tiền lẻ bán được trong ngày. Nghe tiếng chân người bước vào, thím Ba ú ngước lên. Thím hỏi, giọng nghe êm như ru: - Thím Cà Xợi đó à? Đi mua chi mà đi khuya vậy? Bà Cà Xợi không đáp, giơ cái chai xị không lên. Thím Ba ú hiểu ngay. Thím đếm nốt cho xong số tiền lẻ còn lại rồi lách ra quầy, đi đong rượu cho bà Cà Xợi. Thím Ba ú này thật là xứng với cái tên của thím quá. Người thím béo mập làm sao! Thím lách qua cửa quầy một cách khó khắn. Cổ tay thím lúc với ra đón lấy chai xị không của bà Cà Xợi coi mập có ngấn, núc ních. Thím xách cái chai bước tới hũ rượu, cầm một cái cóng tre múc rượu trong hũ đổ vào chai. Tuy chai xị không có đặt phễu, thế mà thím rót không đổ ra ngoài một giọt. Cầm chai rượu đưa cho bà Cà Xợi, thím Ba ú nhìn bà Cà Xợi lúc lâu và hỏi bằng tiếng Khơ me: - Ne, néak dâng rương ây tê? Bà Cà Xợi lắc lắc cái đầu tóc bù rối vàng sém: - Rương ây? Thím Ba ú nói rỉ vào tai bà: - Nè, thằng Xăm nó mới về Tri - Tôn đó nghe! Hôm qua, tôi đi bổ hàng (3) ngó thấy nó ở trên xe nhà binh nhảy xuống... Bà Cà Xợi chớp chớp mắt, hỏi lại: - Thằng Xăm hả, thằng Xăm nó về Tri - Tôn hả? Hỏi thế xong, bà ngó xuống đất, dáo dác như tìm kiếm vật gì bà vừa đánh rơi. Rồi bà lập cập đi ra cửa. Lần này, bà vấp chân nơi ngạch cửa, ngã chúi. Cái chai rượu bà cặp ở nách rơi xuống đụng phải ngạch cửa, vỡ toang, rượu chảy lênh láng trên nền nhà. Nhưng bà bước đi luôn, người rướn tới. Thím Ba ú phục phịch chạy theo, đưa cánh tay béo mập nắm lấy tay bà Cà Xợi kéo lại. Thím Ba nói vội vã: - Thím Cà Xợi, thôi trở vô tôi đong cho chai khác cầm về. Đi đi, vô đây! Thím Ba ú kéo bà Cà Xợi trở vào. Rồi thím đi tìm lấy cái chai xá xị không, đong rượu vào, nhét nút và đưa bà Cà Xợi: - Cầm kỹ nghe, coi chừng rớt nữa đa! Tội nghiệp, bà Cà Xợi bây giờ giống như một đứa trẻ, dặn sao làm vậy. Bà nắm cổ chai rượu thật chặt, lùi lũi bước ra cửa quán. Dọc đường về nhà, bà vấp ngã liên miên, mấy lần lồm cồm trở dậy trong đêm tối. Nhà bà Cà Xợi ở khỏi ngã ba một đỗi, trơ vơ một mình, không ở gần nhà nào cả. Bấy giờ trong cái nhà bé nhỏ một gian ấy, cô Cà Mỵ đang ngồi bệt trên tấm đệm trải đất, tay thoăn thoắt đan bao cà - ròn. Cạnh cô đặt một cây đèn dầu có chân, cháy tỏa ra ánh sáng vàng vọt. Thấy mẹ về, Cà Mỵ ngước mắt nhìn mẹ một cái rồi lại cắm cúi đan tiếp. Cà Mỵ có khuôn mặt gần với khuôn mặt bà Cà Xợi hơn thằng Xăm. Cô mười chín tuổi, vóc vạc phây phây coi rất khỏe. Nước da cô cũng nâu rám, nhưng trắng hơn nước da bà Cà Xợi. Cặp mắt Cà Mỵ đen to, lông mi ở mắt cô rất dài, mướt mượt. Dưới ánh đèn không lấy gì làm sáng đó, môi Cà Mỵ vẫn đỏ tươi. Cô là hình ảnh bà Cà Xợi ngày trẻ, nhưng theo lời bà con Hòn Đất thì cô trội hơn bà Cà Xợi ngày trẻ. - Cà Mỵ à, thằng Xăm nó về rồi, nó về Tri - Tôn rồi! Cà Mỵ ngước lên, nhớn nhác: - Về Tri - Tôn à? Ai nói với má? - Thím Ba ú nói! Bà Cà Xợi cho con gái hay cái tin đó rồi lại bộ ván, ngồi kéo xổm một gối lên. Lát sau, bà rót rượu ra chén, uống như uống nước. Nhưng bà chỉ uống một chén. Rồi ngồi đó, bà ngó bóng mình in trên vách. Đêm nào cũng vậy, sau khi đan xong hai hoặc ba bao cà - ròn, bà Cà Xợi lại uống một chén rượu. Ai người ta uống rượu vào thì say và quên hết mọi sự, chớ bà Cà Xợi uống rượu vào thì ngược lại, càng uống vào bà càng tỉnh và nhớ hết. Bà nhìn Cà Mỵ (thường khi cô vẫn còn ngồi đan mải mốt), nhớ lại thời bà bằng tuổi nó, nhớ những cái nồi đất nung đỏ rực do tay bà nắn, nhớ những đêm dù - kê anh Thạch Kha bên Sóc - tưng qua sắm vai hoàng tử còn bà thì sắm vai cô gái bắt ốc. Rồi bộ mặt của chủ Mưu hiện lên, rồi kiếp sống trong cái nhà nền đúc phông - tô. Những ngày cực mà vui với anh Thạch Kha. Tai hoạ đến, hình ảnh Thạch Kha ngã sấp trước nhà, hai tay vã xuống đất. Bà nhớ tất cả, nhớ giữa lúc nhìn bóng mình in trên vách và nhìn bóng con gái đang đươn đát. Bà không quên ngày bà được cách mạng cấp đất. Rồi thì là thằng Xăm, với những bà con anh em bị nó mổ bụng, đập đầu. "Thằng Xăm mới về trên quận! " tiếng của thím Ba ú nói ban nãy bây giờ hãy còn văng vẳng bên tai bà. "Lại đi bắn giết bà con nữa chớ gì? " bà lẩm bẩm nghĩ bụng rồi muốn kêu: - "Trời ơi nó léo hánh về đây chi vậy hở trời? Phải chi nó chết đi có hơn không? " Người mẹ nào mà lại muốn con mình chết? ấy vậy mà nhiều lần bà Cà Xợi mong mỏi cái chết đến với thằng Xăm đấy. Bởi bà nghĩ nếu thằng Xăm chết, chắc bà sẽ bớt khổ hơn. Nếu nó cứ còn sống và đi sát hại mọi người thế này mãi thì đến lúc nào đó chắc bà phải chết. Hoặc là nó chết, hoặc là bà chết. Chỉ có một trong hai lẽ ấy mới xong. Cà Mỵ có lần nói với bà: - Má sanh y ra làm chi? Y không phải anh của tui đâu! ấy, Cà Mỵ có lần nói bà như thế. Bà cũng có lần bảo với lối xóm: - "Thằng Xăm, nó có phải là con của tôi đâu!" Nhiều lần bà xuống giọng van vỉ: - "Mấy người làm ơn làm phước đừng coi nó là con của tôi." Nhưng sau câu nói đó, bà Cà Xợi càng đau lòng như điên như dại. Một người mẹ đẻ con ra vì lẽ gì đó mà không dám nhận là con của mình thì sự đau lòng đã lớn rồi, chỉ có cái mức độ ít hay nhiều. Bà Cà Xợi thì đau lòng thái quá, và vì bà vốn lại là một người Khơ me có tánh tình ngay thật, nên nỗi đau đớn đó ghê gớm lắm, có lúc làm bà như đãng trí. Bảy năm nay, bà Cà Xợi ở trong trạng thái như điên như không điên. Nét mặt bà ngơ ngác, khoen mắt bà càng tím đậm, và người ta ít thấy bà đi ra đường ban ngày. Bà chỉ hay ra đường lúc bóng đêm sụp xuống. Có lẽ bà cho là đêm đen sẽ phủ kín để không ai nhìn thấy bà. Có đến hàng trăm lần bà đã lựa lời khuyên thằng Xăm. Trước mặt bà, thằng Xăm không bao giờ cãi. Có khi hắn ngúc ngoắc đầu vẻ khó chịu, hoặc nói giả cách bậm trợn: - "À, má nghe lời Việt cộng dụ tôi hả?" Nhưng rồi hắn cười ngay. Nụ cười của hắn coi còn hiền lành nữa là khác. Những lúc gặp mẹ, thằng Xăm chừng như có vẻ trở lại hình dáng một đứa con, chớ không có cái dáng dấp của một thằng biệt kích. Thành ra ban đầu bà Cà Xợi cứ lầm lẫn, cứ ngờ ngợ không biết con mình nó có mổ bụng moi gan người thật như người ta đồn đãi không. Nhưng rồi bà không còn ngờ ngợ gì nữa. Một hôm, thằng Xăm ghé nhà. Thấy khóe mép hắn dường như chảy máu, bà Cà Xợi kêu: - Sao miệng mày chảy máu vậy, Xăm? Thằng Xăm vội đưa tay chùi mép, không nói chi hết. Khi hắn đi rồi, bỗng Cà Mỵ từ ngoài xóm hơ hải chạy về ôm mặt rú lên và cho biết thằng Xăm vừa mổ bụng hai người ở bãi Tre, lấy gan, vô nhà bà con mượn đĩa nhôm xào ăn. Bà Cà Xợi nghe nói té xỉu. Lúc tỉnh dậy bà sực nhớ những vết máu rây ở mép thằng Xăm thì lại ngã quay ra xỉu một lần nữa. Lại một hôm khác, thằng Xăm đi biệt kích ở Vàm Răng bắt về mấy người chẳng biết là cán bộ hay dân thường. Nghe tin thằng Xăm sắp mổ bụng họ tại ngã ba, bà Cà Xợi vội chạy ra định năn nỉ thằng Xăm tha cho họ. Khi bà chạy ra đến nơi thì thằng Xăm đã dùng dao bén khoét đít mấy người này, khoét sâu lõm vào. Rồi hắn mở trói. Những người này được mở trói vừa nhỏm tới thì ruột đã lòi ra ở phía sau. Lần ấy, bà Cà Xợi thét lên một tiếng rồi cũng ngã lăn bất tỉnh ở giữa đường. Thằng Xăm sai lính khiêng bà về nhà. Lúc chiều tối, bà tỉnh dậy, thấy Cà Mỵ đứng bên, bà liền chỏi chỏi hai bàn tay thét to: - "Trời ơi! Thằng Xăm, mày đi đi! " Bà con nói rằng bà Cà Xợi bắt đầu điên dại là kể từ hôm đó. Điều này cũng có phần đúng mà cũng có phần không hẳn đúng. Bà Cà Xợi điên hay không điên thiệt là chuyện khó phân dứt khoát. Bởi vì đối với làng xóm bà chẳng phá phách gì, mà chỉ tỏ vẻ sợ sệt lẩn tránh một cách đáng thương. Vả lại có lúc bà rất tỉnh. Như mua chịu đồ ở quán thím Ba ú bao nhiêu, bà nhớ hết và tới kỳ đếm bán cà - ròn, bà đều bảo Cà Mỵ trả đủ hết. Đan bao cà - ròn bà cũng đan khéo như ngày trước, chẳng lẫn một cọng bàng nào. Nhưng có điều là khi gặp người đi ngang cửa, bất kỳ người đó là ai, bà chạy xổ ra, ngồi thụp xuống ôm chân người đó khóc hu hu. Tiếng khóc của bà khi ấy như lời van xin thứ tha tội lỗi. ở Hòn Đất, những người như anh Hai Thép, anh Năm Tấn, anh Ba Rèn, mẹ Sáu, chị em Sứ, là những người thường phải khổ tâm gỡ tay bà ra nhiều lần nhất. Những người đó cũng là thường hay đến nhà bà nhất. Trước kia đến là để bầy vẽ cho bà khuyên bảo thằng Xăm; sau này cái chuyện lôi kéo ngăn chặn thằng Xăm không có hiệu quả, họ vẫn đến để an ủi giúp đỡ bà. Anh Hai Thép có bảo: - Thím Cà Xợi à, bà con chúng tôi đều thương thím với con Cà Mỵ. Thím đừng sợ, bà con không bỏ thím đâu! Thế là bà Cà Xợi lại òa khóc nức nở. Trong chuyện đi đấu tranh trực diện, ban đầu bà không dám đi vì nghĩ rằng mình không đáng được đi. Nhưng mẹ Sáu và bà con bảo: - Thím Cà Xợi, thím sửa soạn đi với tụi tôi đi! Nghe bà con rủ thế, bà Cà Xợi mừng rỡ khôn xiết. Chen vào hàng ngũ đấu tranh mà đôi chân bà cứ quýnh lên, lập cập. Từ đó, không có cuộc đấu tranh nào vắng mặt bà. Chính vì vậy mà lần nọ bà đã đứng đối mặt trước thằng Xăm, trước mũi súng. Với sức mạnh vô song của người mẹ, trong cái phút quyết liệt ấy, bà đã điều khiển được mũi súng không cho nó nổ lấy một phát, để đoàn người tràn lên... Vậy chuyện bà Cà Xợi điên hay không điên là như thế. Và một điều rõ ràng hơn nữa là hầu hết những người ở Hòn Đất đều không có ai căm thù bà. Họ cho rằng bà Cà Xợi là một người Khơ me nghèo cực, còn cha con thằng Xăm thì lại là cha con thằng bóc lột. Nhưng riêng bà Cà Xợi sao bà vẫn thấy lướng vướng. Bởi nói gì đi nữa thì bà vẫn là người đẻ ra thằng Xăm. Nó thuộc huyết hệ của bà. Tất cả nỗi đau khổ của bà đều ở chỗ đó. Còn Cà Mỵ, cô có khá hơn. Không phải cô chỉ nói ngoài miệng: “Y không phải là anh tôi", mà trong thâm tâm, cô cũng thấy thằng Xăm xa lạ. Chẳng những xa lạ mà còn đầy ác cảm. Những lúc thằng Xăm ghé tạt qua nhà, cô không thèm nói với hắn một tiếng. Cô giãy nảy la lối và buồn rầu thật sự nếu ai nói chuyện về thằng Xăm mà có dính líu tên cô vào đó. Trong năm đen tối, cô đến với anh em cán bộ, đến với cách mạng mới tội nghiệp làm sao! Chừng như cô chạy nhào đến, chừng như sau lưng cô có lửa rượt vậy. Cà Mỵ giờ là đối tượng cảm tình của chi đoàn thanh niên. Mới đây, sau khi được mời đi dự mấy cuộc họp đoàn, Mỵ càng tỏ ra chăm chỉ. Đi cắm chông, đi đào hầm núp, đi làm gì Mỵ cũng mau lẹ. Cô hay hát và hát hay. Những bài cha mẹ Mỵ hát ngày xưa, giờ Mỵ hát lại khiến người lớn tuổi nghe đều bồi hồi nhớ những đêm lội ruộng đi coi dù kê bên Sóc - tưng, nhớ anh Thạch Kha và mẹ cô hồi trẻ. Còn bà Cà Xợi khi nghe con hát, mặt bà cứ đờ đẫn, nước mắt chảy ròng xuống má. Một người đàn bà như vậy mà phải sanh tật uống rượu, thật đáng thương. Bà Cà Xợi uống rượu từ khi thằng Xăm nổi lên hung ác, từ khi hắn xát vào lòng bà nỗi đắng cay khôn tả. Chính tấm lòng đã cưu mang hắn từ thuở hắn chưa có tên, chưa có cái tên Xăm. Đêm nay cũng vậy, bà Cà Xợi lại uống... Đáng lẽ như lệ thường, bà chỉ uống một chén. Nhưng giờ uống hết chén thứ nhất, bà lại run rẩy mở nút chai, rót thêm chén nữa. Chén rượu thứ hai bà uống chậm rãi chớ không uống vội như chén trước. Cà Mỵ cắm cúi đan, miệng lầu bầu: - Má uống nữa hả? Thôi, má không được uống nữa! Thôi đi... má ơi! Ngoài đường bấy giờ chợt có tiếng chó sủa gâu gâu. Rồi có tiếng hỏi từ sân vọng vào: - Mỵ ơi, ôn min nâu phờ téc tê? Cà Mỵ nghe ra tiếng Quyên, liền buông cái bao đan dở, đứng dậy đáp ra: - Chà min Cô lè lẹ mở cửa. Quyên đợi Mỵ ở sân, kéo tay Mỵ ngồi xuống, thì thầm: - Nè, Mỵ đã hay gì chưa? - Chưa. - Giặc rục rịch sắp bố đấy. Một chút nữa sẽ có loa thông báo cho bà con hay. Lính về Tri - Tôn đông lắm. Anh em du kích đều đã chuẩn bị. Tôi mới đi xuống chông về đây! Mỵ thắc mắc: - Sao không kêu tôi đi? - Cà Mỵ có chuyện làm mà, đừng lo. Kỳ này định để Cà Mỵ ở trong tổ hợp pháp. Mỵ biết không, nghe có thằng Xăm về Tri - Tôn nữa đó? - Em biết rồi! Quyên rủ rỉ: - Cà Mỵ nè, nếu càn vô đây, mình đánh chông đánh lựu đạn đã đành, nhưng phải đấu tranh, phải giúp đỡ du kích. Cà Mỵ chưa bị lộ, với lại tụi giặc nó cũng nể Cà Mỵ là em thằng Xăm, Cà Mỵ ráng lo công chuyện liên lạc, tiếp tế... Cà Mỵ nằn nì: - Thôi mà, để em đi gài lựu đạn cho! - Lựu đạn thì có người khác gài rồi. Cà Mỵ ngẫm nghĩ một giây, rồi nói: - Thôi được. Thiệt... Mỵ không muốn gặp mặt tụi nó chị Quyên à. Gặp tụi nó khó chịu lắm! Quyên quàng cổ Mỵ, thân thiết: - Thì có ai muốn gặp tụi nó đâu, nhưng cách mạng cần vậy... à, mấy anh có dặn, Mỵ phải khéo léo đừng nóng nẩy, có tức mình cũng ráng dằn xuống, khi cần nói ngọt phải nói ngọt, cần hát Xa ri ca keo cũng cứ hát... Đó, vậy đó, chắc Mỵ dư hiểu rồi. Tin tưởng Mỵ lắm à, nghe! Cà Mỵ mím môi, gật mạnh đầu trong bóng tối. Trước khi Quyên ra về. Cà Mỵ ôm chầm Quyên hôn chùn chụt rồi mới buông cho Quyên đi. 3 Cánh cửa nhà ông Tư Đờn đã khép chặt. Ngạn và hai đội viên của đội anh là Trọng và Tới đang mặc những bộ quần áo biệt kích. Ngạn mặc xong bộ đồ rằn sĩ quan gắn lon thiếu uý, liền chụp lên đầu cái kết ba rèm. Tới và Trọng cũng đã cải trang xong. - Sao, coi giống chưa? Tấn nói: - Giống lắm. Thế nào thằng Ba Phi cũng bị mắc! Tới và Trọng khoác mỗi người một khẩu tôm - xông, Ngạn rút khẩu côn 12, tháo băng, lảy đạn trên lòng bàn tay. Đếm thấy đạn vẫn còn đủ tám viên, anh đóng băng cho súng vào bao. Năm Tấn không mang súng. Anh giắt cây mã tấu sáng lóa ở sườn, được thít ngang bằng một cái khăn choàng sọc. Ngạn nói: - Đi thôi! Bốn người mở cửa ra khỏi nhà. Họ đi một mạch khỏi xóm Vạn Thanh, băng qua ruộng. Vào gần tới đầu xóm Vạn Hiệp. Tấn bảo ba người ngồi đợi, để anh vào bám. Ba người ngồi được một chốc thì Tấn trở ra, thì thào: - ????????, đi đi! Bốn người lại đi. Tấn dắt mọi người đi men ra bờ sông. Xa xa, phía trước mặt đã thấy ánh đèn trại đáy Ba Phi. Nước sông đang đổ ra biển, réo lên ở những chỗ xoáy. Ngọn đèn xanh treo ở cột đáy giữa cứ rung lên bởi dòng nước chảy xiết. Năm Tấn khẽ bảo: - Đêm nay đáy nó không đóng? Lệ thường đêm nào có đóng đáy thì một cột đáy có treo đèn đỏ. ánh đèn xanh ngoài cột đáy Ba Phi soi lờ mờ một khoảng nước sông cuồn cuộn. Trại đáy hiện rõ dần. Nói là cái trại chứ nó là cả một cái nhà sàn cất chìa ra sông, gác mình trên những cây cọc lớn. Trong nhà le lói ánh đèn. Càng tới gần, mọi người càng ngửi thấy rõ mùi tanh của tôm cá, mùi muối, mùi vỏ sắn ngâm, những cái mùi mà bất cứ trại đáy nào cũng có. Tấn rỉ tai Ngạn: - Nó có ở nhà? - Được rồi, để tụi tôi vào. Anh cứ đợi đây! Dứt lời, Ngạn và Tới, Trọng bước dấn lên. Đã quen xông xáo vào những nơi nguy hiểm, Ngạn đi riết thẳng tới cửa không chút do dự. Tới và Trọng bám sát gót Ngạn. Ngạn dừng lại ở cửa nghe ngóng. Bên trong có tiếng nói chuyện rầm rì. Ngạn cố lắng nghe mà nghe không rõ. Anh giơ tay vỗ độp độp vào tấm cửa lợp lá. Tiếng nói chuyện bên trong im bặt. Ngạn lại vỗ cửa một lần nữa và khẽ gọi: - ạng Ba có nhà không? Trong nhà im thin thít. Lát sau, ở trong bỗng cất lên một tiếng hỏi rất dõng dạc: - Ai kêu cửa đó? - Tụi tôi đây, mở cửa đi! Ngạn nghe có tiếng dép kéo lẹp xẹp trên sàn ván, đi ra phía cửa. Kế đó, nghe cây ngáng cửa phía trong rút "soạt" một cái. Cánh cửa mở hé. Một mụ đàn bà, mặt bự thịt, xách cây đèn trai giơ lên. Mụ đưa cặp mắt lá răm liếc nhìn Ngạn. Ngạn chưa hề gặp mụ ta bao giờ. Nhưng anh đoán chắc đây là mụ chủ trại đáy. Anh hỏi: - Có ông Ba ở nhà không? Đôi con mắt lá răm của mụ đàn bà chợt nháy sáng: - Có, có. Mời mấy ông vô nhà. Ngạn đưa tay lên miệng ra hiệu bảo mụ nói khẽ. Mụ đàn bà nánh ra một bên cho anh bước vào. Tới và Trọng cũng vào theo. Ngạn thản nhiên đưa gót giày đá khép cánh cửa lại. Vừa lúc ấy, tấm màn che cửa buồng bên trái chợt động đậy và một cái đầu sói bóng thò ra. Đó là một thằng đàn ông trạc chừng năm mươi tuổi, mặc áo thun lá, người mập bệu, hai mắt thoạt trông có vẻ lờ đờ như người mới ngủ dậy. Ngạn gật đầu chào y: - ạng là ông Ba Phi? Y khom lưng, chắp hai tay vô ngực: - Thưa phải! Nhìn cái vẻ cóm róm của y, Ngạn thấy công việc bước đầu đã xuôi lọt. Anh bảo: - Tôi có chuyện muốn nói với ông. Xin tự giới thiệu, tôi là thiếu úy ở đại đội ông Xăm. Trung uý phái tôi tới gặp ông... Anh giơ tay chỉ bao quát phía sau lưng nhà: - Tụi tôi mới ở chi khu vô tới. - Biết rồi, biết rồi... Xin mời quý ông vô trong này! Nói xong, y vén tấm rèm vải lên. Ngạn bước qua cửa rèm. Bên trong là gian buồng rộng, có kê một bộ ván ngựa lên nước rất bóng. Trong nữa là một cái giường lớn đã buông mùng. Ba người đi lại ngồi lên bộ ván ngựa. Ngạn nheo mắt nhìn qua gian buồng rồi quay lại nói: - ạng ở đây sung sướng quá hả? Tụi tôi không được ăn ngon ngủ yên như ông đâu... Việt cộng lóng rày phá rối dữ lắm! Tên chủ trại đáp lại cung kính: - Dạ, thưa thiếu úy tôi cũng biết. Hồi xế, tôi có hay tin quý ông về. Vợ chồng tôi mừng lắm. ở đây, vợ chồng tôi mong mỏi quý ông về, đợi hoài, đợi hoài... Tới đây, y ngó vợ bảo: - Này, nấu nước đi! Đoạn y nhướn mắt chỉ tay ra ngoài: - Mấy ông về nằm ở ngoài hết rồi hả? - Ừ. - Trời đất, tôi có hay biết gì đâu, mấy ông về êm quá! Kế đó y chửi tục một câu, rồi rít chặt hai hàm răng: - Đ. mẹ, trận này cho tụi nó thấy mẹ hết. ở đây, tụi Việt cộng nó lộng lắm, thiếu uý. Để tôi chỉ thằng nào con nào, ở đây, tôi nắm hết thảy. Tôi chỉ cho ông "xạ" tụi nó như xạ mỏ nhác chơi! Ngạn gật đầu: - Tôi gặp ông cũng là vì chuyện đó. - Được, được. Vừa nói tên Ba Phi bước nhón tới cái kệ treo trên vách, bưng lại một cái khay bằng gỗ trắc đen mun. Trên khay có bộ ấm chén sứ vẽ hình con rồng màu đỏ, và một gói thuốc thơm hiệu Ru - bi. Y mở gói thuốc, rút thuốc cung kính đưa mời Ngạn, Tới và Trọng, rồi đi vào bếp coi nước. Ngạn cầm điếu thuốc, khẽ động đầu điếu thuốc vào móng tay cái. Mụ vợ, sau khi đã bắc ấm nước lên bếp, giờ bước ra đứng xán gần Ngạn, híp mắt hỏi: - Mấy cậu còn "ém" ở đây lâu không? Ngạn đáp: - Lâu. Chi vậy? Đuôi mắt lá răm của mụ Ba Phi nháy rất lẳng: - Mấy cậu có muốn "lai rai" chút đỉnh "ba xị đế" không? Nghe mụ ta hỏi, Ngạn nghĩ: “Mình không nên từ chối". Anh đưa mắt liếc mụ đàn bà, cười lại với mụ, chân nhịp nhịp: - Có tôm cua gì không? - Chà, bữa nay tôm cua tươi không có. Có tôm khô... à, mà mấy cậu ăn cháo vịt nghe, có vịt tơ mập lắm!... Rồi, không đợi Ngạn trả lời, mụ quay vào bếp khiển chồng: - ạng ơi, bắt vịt đi ông, bắt hai con!... Thằng chồng đang đứng coi lửa ở trong đáp: - Ờ, được, để đó... thiếu úy với mấy cậu uống trà, nước sôi rồi! Y xách ấm nước ra, chế vào bình đã bỏ trà sẵn. Đợi một chốc, y nhấc bình rót nước ra các chun. Xoa xoa đôi bàn tay béo múp míp, y mời mọi người uống. Y cũng hớp vội một chun, khà khà rồi để ba người ngồi đó, xăng quần bước tới rút mấy cây lót sàn, buông chân xuống. Tiếng vịt kêu cạp cạp. Ngạn ngồi cầm chun trà ngó xuống thấy tấm lưng của thằng chủ trại trắng hếu. Y đang quờ quạng chụp vịt. Ngạn ngó thấy nó hăng hái bắt vịt bao nhiêu lòng anh càng căm giận bấy nhiêu. Anh nghĩ bụng: “Thằng này quả là một thằng tay sai đắc lực". Bầy vịt càng kêu và chạy tán loạn dưới sàn. Con mụ vợ ngồi chổm hổm trên sàn, miệng ngậm mấy sợi lạt dừa. Thằng chồng bắt được con vịt nào đưa lên, mụ ta liền thộp chéo cánh, lấy lạt dừa trói chân liệng xuống sàn. Bắt vịt rồi, thằng chồng lội sồn sộn ra sông tắm. Tắm xong, y lên nhà đi vòng ra phía sau, giội lại nước ngọt nghe ào ào. Mình y vận một cái xà - rông sặc sỡ, sột soạt đi ra, tay cầm lược chải cái đầu sói sọi chỉ còn lại mớ tóc ốp xuống ót. Ngạn đưa tay ngoắc y: - ạng Ba, để khỏi mất thì giờ, trước khi ăn cháo vịt, mình bàn công chuyện một chút! - Dạ, được! - ạng có bản đồ vùng này chớ? Tên chủ trại đáy không đáp, lùi lũi đi vào nhà sau. Một lát, y trở ra, hai ngón tay kẹp một cái ống trúc đã khô. Y ngồi xuống ván, để cái ống trúc đó lên bắp vế, và lôi ra từ ống trúc một tấm giấy cuộn nhỏ bằng mút đũa. Ngạn với cầm cuộn giấy trên tay y, tháo ra. Tới và Trọng lanh lẹn nhấc bốn cái chun nước dằn bốn góc ra để t‘ấm bản đồ đừng vo cuộn lại. Trên tờ giấy manh nguyên, Ngạn thấy nét bút chì bi màu xanh vẽ vụng, nhưng rất chi li: nhà cửa, vườn cây, và những khoanh tròn như trôn ốc mà anh đoán là các hòn. Nhưng trông thế thì biết thế, chứ anh không hiểu ra nổi. Tên chủ trại đáy chợt đưa mắt nhìn anh. Sau đó, y nhớn nhác trông ra cửa, cánh cửa đã gài tự nãy giờ. Ngạn nói: - Đừng sợ, xung quanh đây không có ai ngoài lính của tôi. ạng cứ việc nói. Chắc ông biết là ngày mai tụi tôi đánh vô Hòn... - Tôi biết... Tên chủ trại đáp khẽ rồi kéo mí xà - rông nơi bụng vận guộn lại cho chặt, người hơi nhổm tới. Cái móng tay trỏ để dài, vàng khè khói thuốc của y gí tới gí lui trên tấm bản đồ: - Đây, cái nhà nào tôi có đánh dấu chéo đỏ là nhà tụi Việt cộng ráo. Thiếu úy chú ý nghen! Ngạn lập lại: - Nhà có dấu chéo đỏ... biết rồi! Tên chủ trại đáy lại dùng móng tay cái, cũng cáu bẩn như ngón trỏ của y, bưa bưa xuống mặt giấy: - Ở cụm này có một cái công trường của tụi nó chế súng tự tạo. Chỗ đó, tôi có báo cáo một lần rồi, máy bay tới liệng cháy rừng mà tụi nó vác chạy được hết... Còn hang Hòn đây rất nguy hiểm. Trận càn trước, tụi nó rút vô hang, mình tấn vô bao nhiêu chết bấy nhiêu. Nay nếu muốn đánh phải cắt đường rút vô hang mới được. Nghe tên điệp nói, Ngạn nghĩ thầm: “Mẹ, thằng này lợi hại thật!... Được rồi, tao sẽ giết mày như giết một con chó! " Đợi cho tên chủ trại đáy vạch đường chỉ nẻo xong xuôi, Ngạn cuốn tấm bản đồ lại, đưa trả y và vỗ vai y. - Được rồi. Tốt, tốt lắm!... Trận này mà kết quả thế nào ông cũng được lãnh tiền thưởng. Quay vào bếp, Ngạn vui vẻ cất tiếng: - Sao, có gì nhậu được chưa, bà chủ trại đáy? - Có, có... Món lòng xào rồi đây! Mụ chủ nói và đảo chiếc vá xúc chạm đáy chảo nghe xoang xoảng. Rồi mụ lạch bạch bưng ra một đĩa lòng vịt xào hành. Lòng của hai con vịt đầy vun một đĩa, coi rất sum sê. Thằng chồng ghé mũi xuống đĩa lòng đó, hít hít rồi dón chân lỏn vào buồng trong cắp ra một chai rượu "Rồng xanh" thứ lớn, đồng thời bốn ngón tay y kẹp theo bốn cái ly. Y kề chai rượu "Rồng xanh" lên miệng, cắn nhá cái vỏ nút bằng nhựa đỏ, phun phèo phèo. Ngạn ngó đĩa lòng xào, đột nhiên nhìn thẳng vào mặt tên chủ trại đáy, hỏi: - Nè, ông Ba có lần nào nếm thịt người ta chưa? Tên chủ trại đáy nghe hỏi liền đặt chai rượu xuống ván, ngó Ngạn, lắc đầu: - Cha cha... thưa thiếu uý, cái món đó thì tôi chưa dám. Tôi nghe nói nhiều ông ăn khen ngon... Còn tôi, tôi hơi ngán! Ngạn cười, hỏi tiếp, nửa giỡn, nửa thật: - Vậy làm cái nghề chỉ chọc này ông không ngán sao? - Có gì đâu mà ngán, thưa thiếu úy. Cái chánh là phải kỹ... Tôi không phải là thằng dại, tôi đâu có chường mặt... Nói thế xong, tên chủ trại đáy thu hai tay vào bụng, ghé miệng sát tai Ngạn hỏi: - Thiếu úy à, thiếu úy có nếm qua cái món đó chưa? - Món đó là món nào? - Thịt... thịt người ta ấy mà! - À... Ngạn đưa mắt nhìn về phía Tới và Trọng, bảo: - Hai thằng này thì có nếm. Còn tôi, tôi không ăn. Thịt người thì có thiếu gì, tại tôi không ăn... Tôi chỉ ăn gan thôi. Với lại tôi khoái mật. Mật người pha rượu uống khỏi sợ ho lao. Nói thế rồi Ngạn hỏi ngược lại y: - Còn ông, nói giả tỷ nếu có, ông dám ăn không? Tên chủ trại đáy lặng im. Lát sau, y ngúc ngoắc cái đầu sói, cười khè: - Thiệt tình là ghê quá... Nhưng giả tỷ có, tôi cũng nếm thử coi nó ra làm sao mà mấy ổng khen ngon dữ quá! - Được, mai tôi sẽ cho ông một hai ki - lô. Thế nào mai cũng có! Rồi vờ như sực nhớ ra điều gì. Ngạn hỏi: - À, tôi quên... Còn mấy người làm chung công chuyện với ông thì sao? - Mấy người làm đáy cho tôi à? Ngạn lắc đầu. Tên Ba Phi hiểu ra, bèn nói: - Ạ, ạ... không, tôi không làm chung với ai ở đây hết. Tôi sợ làm chung với nhiều người lắm. Hai vợ chồng tôi đủ rồi. Tới đây, Ngạn thấy chẳng cần kéo dài tấn kịch này một cách vô ích. Bấy nhiêu cũng đủ lắm. Bấy nhiêu cũng đủ khiến tim anh sôi lên rồi. Anh đưa mắt nháy Tới và Trọng. hai người nheo mắt đáp lại. Ngạn vỗ nhẹ vào vai tên chủ trại đáy bấy giờ đang cúi rót rượu ra ly: - Thôi ông bạn, đừng rót nữa. Không ai uống đâu. - Đang nói, Ngạn đứng phắt lên quát: - Dẹp đi! Nói cho mày biết, tao không phải là ngài thiếu úy của mày đâu. Chúng tao là lực lượng võ trang cách mạng tới bắt mày đây, hiểu chưa? Lúc Ngạn mới bắt đầu nói, Tới đã gí sát nòng khẩu tôm - xông vào ngực tên chủ trại đáy. Y chỏi tay, la: - ?????, ê... đừng giỡn! - Không giỡn đâu! Ngạn lấy dây trói thúc y lại. Mụ vợ bị Trọng lôi xềnh xệch từ bếp ra. Lát sau, cả hai vợ chồng mới vỡ lẽ, mặt tái mét. Thằng chồng chưa uống một giọt rượu nào mà mắt cứ đỏ ngầu lên. Sau lần dây trói, hai tay y run giật. Con mụ vợ trố mắt, cái cặp mắt kinh dị và sợ hãi muốn đứng tròng. 4 Ba người giải vợ chồng tên chủ trại về tới đầu xóm Vạn Thanh thì đêm đã khuya. Tấn cho hai du kích dẫn vợ chồng tên chủ trại về Hòn. Còn Ngạn, Tới, Trọng, sau khi thay quần áo, cùng Tấn vào ven vườn, chỗ bố trí chiến đấu. Ven vườn này giáp với những cánh đồng rộng trải từ Tri Tôn đến vùng Hòn. Địch muốn đánh Hòn Đất, thường chúng ập vào đây trước. Ba người mới len vào vườn thì gặp anh Ba Rèn. Ba Rèn hỏi: - Sao? Bắt được nó chưa? Tấn đáp: - Bắt đưa về Hòn rồi! Mọi người kể cho Ba Rèn nghe chuyện bắt vợ chồng tên chủ trại đáy, Ba Rèn khoái chí cười ha hả. Anh kéo tay mọi người chỉ vô vườn, nói: - Hiện anh em còn đào công sự. ạng Tám Chấn mới tới bảo phải đào công sự cho tổ ba ba. Đào riêng, nhưng chụm lại thành tổ. ổng nói không có hầm ở ven vườn thì không thể đánh được. Và ổng còn hăm nếu hầm đào không kỹ thì ổng không cho đánh. 99 100 - Anh đâu rồi? - Ổng với Hai Thép về rồi. Cả cô Nhớ, chú Diệp, ổng cũng kêu về trỏng hết! ạng Tám Chấn bình thường thấy ổng dễ, tới chừng làm công chuyện tôi ngán ổng quá! Ba Rèn nói xong xách cây đèn chai xăng xái dắt ba người ra ven vườn. Vừa đi anh vừa dặn: - Đi theo tôi nghe, coi chừng chông lụi què đa! Năm Tấn vốn thạo đường, ở đâu có hầm chông anh ta đều biết. Ngạn không thạo, nên anh bám sát chân anh Ba Rèn. Họ đi xuyên qua đám vườn mãng cầu ta rậm rạp. Mùi mãng cầu chín bay thơm ngát. Thỉnh thoảng lại có một trái mãng cầu chín rụng cái "bịch" gần đó. Ngạn nói: - Chống càn ở đây không sợ đói. Cùng lắm lượm mãng cầu ăn cũng sống được. Tấn bảo: - Mãng cầu ăn xót ruột lắm, thứ đó không ghé tôi. Đói thì tôi kiếm chuối chín bói, vững hơn. Ba Rèn cười: - Chưa chi mà mấy cha lo đói. Tôi thì cứ lo mấy cây "quảnh tầm sào" của tụi tôi hẻo (3) đạn quá, với lại không biết mấy "ông ngựa trời" có khẹt ra lửa được không? - Nghe đồn mấy cây ngựa trời đem thử nổ nghe đã lắm mà? - Bắn thử thì nổ ngon đó, còn bắn thiệt không biết ra sao! - Chắc nổ mà... ờ, còn cái vụ đạn thì hẻo thiệt đó! Tụi tôi cũng ít lắm. Nên phải chơi kỹ mới được! - Hai Thép với anh Tám Chấn có dặn mình ở đây ráng tiêu hao nó. Cùng lắm mới rút vô hang. Ngạn gật đầu: - Như vậy là đúng. Chừng nào nột quá hẵng rút vô hang. Cái hang đó ở trong đánh ra cũng sướng. Tôi tính một người mình ngồi tại miệng hang thủ một cây búa, tụi nó cũng khó vô. Vô thằng nào mình gõ đầu thằng nấy! Ba Rèn bảo: - Tôi tính trước chú rồi, mà điều tôi xài cây dầu vuông hay hơn. Cầm cây dầu vuông nặng chịch, chú đánh ngang, thằng nào cũng phải té hết thảy! Bốn người vừa đi vừa nói chuyện, lát sau họ đã nhìn thấy cành lá mãng cầu phía trước chập chờn ánh lửa. Khi họ tới nơi, anh em đang còn hì hục kẻ vét người đắp miệng hầm. Những cái hố mới đào nằm rải dài theo ven vườn. Anh em treo đèn chai trên những nhánh mãng cầu. Cây đèn nào cũng có che một miếng lá chuối để ánh đèn không hắt ra mặt ruộng. Ngạn đi coi lại từng cái hố, lòng thầm cảm ơn anh Tám đã đôn đốc việc đào những cái hố ấy. Trong cuộc sống chiến đấu, Ngạn hiểu rất rõ giá trị của cái công sự. Nó hết sức cần thiết cho sự tấn công cũng như sự chống đỡ. Cái công sự càng cần thiết cho người yếu vũ khí chống lại với kẻ địch có vũ khí mạnh. Anh em cũng đã đào cho Ngạn một cái hố. Thẩm, đội phó đội tuyên truyền, chỉ cái hố dành cho Ngạn, nói: - Đây, cái của mày đây! Ngạn nhảy xuống hố xem xét. Anh gọi Tới đem giùm cây trường mát 36 lại cho anh. Đứng dưới hố, Ngạn nâng cây trường mát tì vào vai, ngắm. Anh ngắm mấy lượt, rồi hạ súng xuống đưa lại cho Tới cầm. Anh với tay lấy cây vá dẫy bớt lớp đất trên miệng. Anh thấy miệng hố đắp có hơi cao, chưa thật vừa với tư thế đứng bắn. Khi liệu chừng lớp đất miệng hố đã thấp bớt xuống rồi, anh liệng cây vá, cầm lại khẩu súng nơi tay Tới, nâng lên ngắm lần nữa. Lần này, anh có vẻ ưng ý, mới chỏi tay nơi miệng hố nhảy thót lên. Tới thấy Ngạn rà lại hố kỹ thế thì hơi chột dạ, cũng vội chạy về coi lại cái hố của mình. Thấy công việc chuẩn bị đã ổn, Ngạn nói: - Anh nào gác thì lo gác, còn anh em bẻ lá nghi trang hố mình rồi đi ngủ. Khuya rồi... Có một người nói trong bóng tối: - Ừ, phải ngủ một chút mới được. Lần nào nó càn sao tôi cũng buồn ngủ ghê! Ba Rèn nói: - Chém vè mới buồn ngủ chớ đánh thì tôi không biết buồn ngủ đâu. Tôi cho hay, sống chết gì mai tôi cũng nổ ngựa trời nghe mấy cha! Công trình tôi với thằng Hai Cá Trèn o bế nó mấy tháng nay! Ngạn dọa: - Mấy ông bắn ngựa trời thì phải lo chân lo cẳng để vác chạy. Thứ đó phải bắn sát, chớ bắn xa không ăn thua đâu! Anh du kích có biệt hiệu là Hai Cá Trèn lên tiếng: - Tôi đợi sát mới bắn chớ không thèm ở xa bắn gãi ngứa đâu, anh em tin tôi đi! Mọi người vừa kéo lá ngụy trang hầm vừa lao xao nói chuyện. Anh nào cũng khấp khởi, mặc dù anh nào cũng biết ngày mai địch vào rất đông. Nhưng hình như họ không để ý tới quân số địch ngót một ngàn. Họ thấy việc đánh như là sự sống, tin rằng không giết được nhiều cũng giết được ít. Mà hễ có giết được một thằng giặc thì lòng họ cũng đỡ bị đè trĩu bởi cái cảnh anh em đồng chí bị chúng sát hại thê thảm trong năm đen tối. Sau ngày đồng khởi, rõ ràng ai cũng muốn rửa hận riêng và hận chung, và mặc dù súng ống chẳng có mấy cây, họ đều tin rằng thằng giặc không thể ức hiếp họ như trước được nữa. Bây giờ vấn đề đã đặt ra rõ ràng là thằng giặc bắn họ thì họ bắn lại. Cái chết sẽ không phải chỉ ở một bên, mà sẽ ở cả hai bên. Chính vì thế mà cái chết ngày nay có nghĩa hơn so với cái chết trước nhiều lắm, và sự ky sinh trong chiến đấu họ nghĩ rằng bao giờ cũng có nhưng sẽ có ít hơn so với sự hy sinh trong chịu đựng im lặng, trong mấy năm gọi là hòa bình mà thằng địch vẫn tấn công. Anh em trải nóp dưới chân những gốc mãng cầu. Anh du kích Hai Cá Trèn chun vô nóp rồi vẫn còn cà kê nói chuyện. Thẩm trải đệm rủ Ngạn lại nằm chung. Ngạn ngồi xếp bằng trên đệm, móc khẩu côn 12 lẩy đạn ở băng ra, chỉ chừa lại ba viên. Đạn trong những băng dự bị anh cũng lẩy ra hết. Anh gọi Trọng lại, chỉ đống đạn 12 ly mới lẩy trên đệm, nói: - Đem chia thêm số đạn này cho ba cây tôm xông. Tôi chỉ chừa lại ba viên thôi! Trọng được cho thêm đạn, mừng quá, lấy cái nón bèo trên đầu xuống hốt đạn bỏ vào. Ngạn coi lại đạn của khẩu trường mát, kéo giật cơ bẩm rôm rốp, rồi mới yên tâm đặt khẩu súng bên cạnh. Tuy đã có khẩu côn 12 nhưng đụng trận Ngạn vẫn thường bắn trường mát. Anh bắn khẩu này rất khá. Ngạn thường nói: - Thằng Tây chế cây "quảng tầm sào" thì dở, chớ nó chế cây mát 36 thì được. Tôi bắn thấy "xuya" lắm! Ngạn ngả lưng nằm xuống đệm. Lưng anh đấu vào lưng Thẩm. Lát sau, cả hai tấm lưng đều âm ấm. Thẩm năm nay nhỏ hơn Ngạn vài tuổi, nhưng hai người vẫn "mày tao" với nhau. Trong đội, Thẩm xuất thân ở gia đình tiểu tư sản, là tay viết ra các bài để đem ăn nói với lính bót. Anh có văn hóa, nhưng tính lặng lẽ, ít nói. Cha mẹ anh đều tham gia kháng chiến lần thứ nhất. Hòa bình lập lại, cha anh đã bị giặc giết, mẹ anh bị bắt đày ra Côn Đảo. Có lần anh tâm sự với Ngạn: - Má tao hiền lắm. Hồi đó má tao làm cô giáo. Tao cũng có một năm học lớp má tao, nhưng bao giờ má tao cũng tỏ ra nghiêm khắc với tao hơn tụi học trò khác. Lúc bị bắt, má tao đang có thai. Nghe nói đứa em má tao đẻ ra chết ở khám Chí Hòa rồi. Mấy năm nay bị đày ra Côn Đảo, không biết má tao ra sao?... Nằm đối lưng với Thẩm, Ngạn nghĩ bụng chắc thường đêm Thẩm vẫn lo không gặp lại người mẹ thân yêu của anh. Khi mà ở Ngạn thì không còn có được nỗi lo ấy nữa. Ngạn từ bé đã mồ côi. Những gì anh còn nhớ được về mẹ của mình đều là những nét vất vả, tỷ dụ như tấm áo không bao giờ lành lặn trên người mẹ, như những giọt mồ hôi tần tảo chiều nào cũng dán bệt tóc mẹ vào thái dương, như đôi quang gánh hàng bông ngày ngày mẹ anh tất tả gánh đi. Chợt Thẩm hỏi: - Bữa nay, mày về nhà bà già vợ mày có gặp vợ không? Ngạn cười: - Gặp chớ... Ngừng một chút, Ngạn tiếp: - Con Quyên nó thấy tao mặc cái áo của mày nó hỏi tao mặc khính áo của ai vậy? - Quyên có hỏi bộ đồ mày cho ai không? - Có, tao nói tao cho mày rồi, nó cười. Hồi nãy, nó nằng nặc đòi ra đây, anh em không cho. Ngạn im lặng một lát rồi nói: - Theo như lời thằng chủ trại đáy thì chắc mai nó bố ở đây thiệt. Thôi, ngủ đi để mai còn có sức mà ăn chịu với tụi nó. Ngạn nói xong, nằm co lại như con tôm. Hai tay anh ôm lấy Thẩm. Chốc sau, anh đã cất tiếng ngáy. Gần sáng Thẩm đánh thức Ngạn dậy. Mọi người đem cơm dở hồi hôm ra ăn. Mới ăn mấy miếng thì Ba Rèn chạy lịch phịch tới la: - Ra hầm hết đi! Tổ đi bám về cho hay tụi nó đã tới Hòn Sóc rồi! Ngạn xách súng đứng bật dậy, chạy ra hố. Trọng và Thẩm cũng chạy theo. Đứng dưới hố, Ngạn vừa nhai cơm vừa nói: - Cứ ăn cơm xong đi. Tụi nó chưa tới đâu. Mọi người ăn cơm rồi trời mới sáng tỏ. Trên đồng trống bấy giờ đã ngó thấy địch từ Hòn Sóc dăng hàng ngang kéo qua. Chúng đi lúc nhúc, xám xịt cả một khoảng đồng mới le lói vài tia nắng. Ngạn đưa bàn tay lên che mắt nhìn, anh nói: - Tụi nó đông nghe! - Rồi anh vẫn vừa nhìn ra nói: - Đi coi nghinh ngang dữ ha! Anh day qua Thẩm: - Dặn chuyền anh em cứ bình tĩnh... Đợi chừng nào nó lọt vô bãi chông ngoài ruộng mới bắn. Bắn sao cho nó nhảy lọt hầm! Ba Rèn đi lom khom tới sau lưng Ngạn, hỏi: - Nè, bãi chông ngoài ruộng nhắm có lộ không ta? - Nguỵ trang khéo lắm, không lộ đâu. Anh Ba, nhớ dặn anh em sống chết gì cũng đừng vọt khỏi miệng hố, chừng nào có lịnh rút mới bỏ công sự. - Nếu rút thì cánh chú rút trước nghe! - Ba Rèn bảo Ngạn. - Không, tụi tôi rút sau. Mấy anh thuộc đường thì rút trước. Chừng nào anh thấy cần rút thì cứ cho rút. Tụi tôi sẽ theo. Còn bây giờ nổ súng thì để tôi nổ trước! - Ờ! Nhưng khi rút thì mấy chú phải rút trước, tôi cho người dắt. Để tụi tôi rút sau, cản hậu. Ba Rèn nói hai tiếng "cản hậu" nghe rất xôm, tưởng như anh có đủ sức cản được cả ngàn quân địch thật vậy. Rồi Ba Rèn lại lịch phịch chạy đi. Nhìn cái lưng trần vạm vỡ cùi cụi của Ba Rèn khuất sau những cành lá mãng cầu, Ngạn khoái chí nhoẻn cười. Chưa bao giờ anh thấy Ba Rèn hăng như lúc này. Ngay lúc quai búa ở lò rèn, Ba Rèn cũng không hăm hở như vậy. Ngạn nhớ hồi còn ẩn náu trốn tránh trong rừng trong bụi, Ba Rèn là người đòi đánh nhiều nhất. Không ngày nào anh không đòi bắn lại tụi công an và tụi tự vệ hương thôn. Hễ ai đem đường lối đấu tranh hoà bình ra giải thích với anh thì anh ghét lắm... Có lần anh đem cây "quảng tầm sào" của anh tới để trước mặt anh Hai Thép, nói: - "Bữa nay, sau khi suy nghĩ, tôi xin giao cây súng của tôi lại cho Đảng! " Anh Hai Thép trố mắt nhìn anh. Ba Rèn điềm nhiên bảo: - "Thiệt tình mà... Tôi giữ súng như không, nên tôi xin nạp lại. Nếu rủi tôi có đụng tụi nó bất tử thì tôi đấm đá hoặc tôi cắn cổ tụi nó vài thằng rồi tôi chết, cũng đặng". Anh nói chữ "cũng đặng" một cách khó nhọc. Hai Thép cũng không vừa: - "Anh giao súng cho Đảng tức là anh phản đối đường lối của Đảng chớ gì. Vậy cũng tức là anh muốn tự mình tách ra khỏi Đảng chớ gì? " Ba Rèn nghe Hai Thép nhấn mạnh câu: “tự mình tách ra khỏi Đảng" thì chột dạ. Chính Hai Thép biết Ba Rèn sợ điểm đó nhất nên anh mới nhấn mạnh như thế. Rồi sau khi nói thế, Hai Thép đứng lên: - "Thôi được, để tôi báo cáo lên ông Tám Chấn! " Ba Rèn bối rối kêu: - "????, nói vậy chớ đừng báo cáo bậy nghe! Tôi giao súng cho ông, không lãnh thì thôi, báo cáo khỉ gì! " Hai Thép bỏ đi. Ra gặp Ngạn, anh cười hì hì, kể lại chuyện cho Ngạn nghe, và rồi Hai Thép cũng chẳng báo cáo lên anh Tám Chấn gì cả. Rốt cuộc Ba Rèn vẫn giữ cây lơ - ben. Hai tháng sau, Đảng xuống lệnh vũ trang đồng khởi, Ba Rèn vác cây lơ - ben về xóm cùng anh em đánh diệt bót Hòn Đất. Bây giờ, khi bàn tới chuyện rút, chính Ba Rèn cũng bảo cánh Ngạn rút trước. Trong chiến đâu, Ngạn hiểu tình huống của người rút sau hơn ai hết. Và không phải ai cũng có thể rút sau, không phải ai cũng có thể dễ dàng nói: “Để tôi cản hậu" như Ba Rèn đã nói. Trước mắt Ngạn, dáng dấp từng tên giặc đã hiện rõ. Dẫn đầu bọn biệt kích mặc đồ rằn, cầm súng chạy xốc tới. Trong phút chờ đợi, Ngạn thấy thời gian trôi đi thiệt chậm và không khí quanh anh nặng trĩu. Tuy đã nhiều phen đối mặt với cái chết, tim Ngạn cũng không khỏi đập mạnh, hồi hộp. Song anh chỉ hồi hộp chớ không sợ, nhất là khi anh có một khẩu súng trong tay. Trước kia, hai tay anh bị trói chặt mà anh còn đá tụi giặc chạy thoát được, thì bây giờ có cây súng, có đồng đội, anh thấy vững dạ. Hơn nữa, anh tin tưởng ở bãi chông. Thì kia, bọn giặc đã tiến sát bãi chông ngoài ruộng. Chúng chạy vào cái khoảnh trống giống hệt như những khoảnh ruộng khác đang hiền lành hóng lấy những tia nắng ấm áp ban mai. Nhưng chưa có tên nào bị sụp chông cả. Bọn lính áo rằn sấn lên, chừng như thằng nào cũng muốn chen lấn vào ven vườn mãng cầu sum sê này trước. Ngạn nín thở, tì nhẹ súng vào vai. Khoảng cách giữa bọn giặc và ven vườn chỉ còn chừng hai trăm thước. Ngạn nghĩ bụng: “Bây giờ mình bắn thì tụi nó cũng không ào về kịp". Ngạn ngắm kỹ một tên to cao nhất ở giữa đám giặc, bóp cò ngay. Phát súng nổ vang. Từ các công sự, anh em cũng bắn vãi ra. Ngạn nhìn lại, không thấy bóng thằng giặc to cao nãy nữa. Trên ruộng, bọn giặc bị bất ngờ, nhảy lung tung. Bỗng Ngạn ngó thấy có mấy thằng tự dưng tụt hẫng xuống ruộng. Cánh tay cầm súng của chúng chới với, chới với. Anh em la ré lên: - Nó sụp chông rồi! - Rồi, rồi, sụp nữa rồi! Bọn giặc ngoài ruộng hốt hoảng, càng chạy bậy càng bị sụp. Chúng nằm sát xuống mặt ruộng, không tiến mà cũng không lùi. Bọn phía sau trấn tĩnh lại, ôm súng máy bắn sả vào vườn. Mãng cầu rụng nghe lịch bịch. Một nhánh mãng cầu bị đạn súng máy cắt đứt rơi xuống vai Ngạn. Anh hất nhánh mãng cầu, đứng nhóng lên. Thấy bọn giặc ở bãi chông vẫn nằm im, anh nói lớn: - Đừng bắn nữa, anh em! Chừng nào tụi nó đứng dậy sáp vô hãy bắn! Quả nhiên, bọn giặc nằm im một lát thì lồm cồm đứng dậy tiến tới. Lần này, bọn đi sau hò hét, la lối rất dữ. Còn những tên đi đầu lò dò từng bước, tiến rất chậm. Ngạn nghe bên cánh Ba Rèn nổ luôn mấy phát lơ - ben, "păng, păng, păng" hệt như tiếng trung liên. Bọn giặc liền nhốn nháo. Một số nữa lại bị sụp chông, người cứ biến đi dưới mặt ruộng. Nhưng lần này có nhiều tên thuộc đại đội biệt kích tiến được một quãng khá xa. Mặc dù nghe súng nổ, chúng vẫn xống lưng chạy tới. Bọn phía sau theo gót chúng chạy dấn lên. Đội hình giặc bỗng dưng biến thành một dọc dài. Chúng đã vượt qua được tuyến chông thứ hai. Ngạn thấy nếu cứ để chúng tiến vào kiểu ấy thì chỉ trong vài phút nữa là chúng sẽ tới nơi. Anh nhảy thoắt lên khỏi công sự, xách súng chạy riết lại ngay mũi tiến của giặc, nằm rạp xuống. Đợ ba bốn tên nhập một, anh nổ ngay một phát. Hai tên biệt kích bị viên đạn của anh xỏ xâu, tên sau té trước, tên trước đứng sững lại, buông súng, người hơi ưỡn ra sau rồi loạng choạng ngã gục. Bây giờ, trên ruộng, bọn giặc tiến vào dễ dàng hơn, vì chỗ nào không có chông đều đã lộ ra cả. Chúng trí mọt - chê giữa ruộng, bắt đầu nã vào. Đạn mọt - chê kêu "hụp, hụp, hụp", bay rú tới ven vườn, nổ "uỳnh, uỳnh" bứng nguyên từng gốc mãng cầu. Khói xám bốc lên. Ngạn bắn tiếp mấy phát nữa và la lớn: - Chuẩn bị rút nới vô! Anh bảo một anh du kích: - Dẫn anh em rút đi! Toàn độ Ngạn chạy theo anh du kích. Ba Rèn dặn: - Vô tới miếng vườn trong thì ở lại đợi tụi tôi nghe! - Bây giờ anh chưa rút à? - Tôi hả, tôi cũng vô trỏng liền mà! Ba Rèn nói vậy nhưng vẫn chưa đi. Ngạn len qua mấy gốc mãng cầu, lúc ngoảnh lại thấy Ba Rèn với mấy anh du kích lom khom vác cây ngựa trời chạy ngược ra hướng giặc. Ngạn lo quá. Nhìn cây súng ngựa trời sần sùi thô kệch, bỗng dưng Ngạn thấy thương Ba Rèn và anh em du kích vô hạn. Vào tới mương vườn trong, Ngạn cùng anh em bám dưới mương. Bọn giặc chia ba mặt ập vào vườn. ở mặt Ngạn, anh em đánh với chúng tám trận. Thình lình Thẩm bị miếng mọt - chê phạt trúng chân trong lúc anh vọt qua một bờ vườn. Anh em xốc Thẩm lên, vác chạy. Bọn giặc nhảy thòm thọp qua mương, la ó vang vườn. Thấy chúng tràn tới dữ quá, mà chẳng thấy cánh du kích Ba Rèn đâu cả, Ngạn cho anh em cõng Thẩm rút ra đường. Anh cùng anh em bắn cản hậu, rồi cũng rút theo. Trên đường về Hòn, Ngạn vừa chạy vừa ngó thấy dấu máu nhỏ dài trên cát. Anh nghĩ bụng: “Máu của Thẩm! " phía trước, Tới đang cõng Thẩm chạy lúp xúp. Hai chân Thẩm thòng xuống muốn chấm cát. Bắp chân trái 113 114 của Thẩm đã được buộc lại bằng một cái khăn rằn. Ngạn chạy riết theo cho kịp Tới. Anh sấn lên, kêu: - Thẩm, Thẩm, có đau không? Thẩm nhoẻn cười đáp: - Hơi ê ê! Ngạn thấy mặt Thẩm hơi tai tái. Máu nơi chân Thẩm chảy trông rất sợ. Lớp khăn buộc vết thương bị máu thấm ướt hết, và máu cứ chảy ròng theo gót chân Thẩm, nhỏ thành giọt xuống cát. Giọt nào vừa nhểu xuống liền bị cát hút ngay, đổi thành màu sẫm như màu sét sắt. Ngạn hơi lo, nhưng anh cũng cười, nói: - Ráng một chút nữa vô tới Hòn, tao kêu Năm Nhớ nó băng cho. Năm Nhớ mà băng thì mày bớt đau liền. Thẩm nhếch mép cười, nhưng không nói gì cả. Tới cõng Thẩm nãy giờ mệt thở hồng hộc. Trọng liền thay Tới, cõng Thẩm. Ngạn xách súng đi một bên, lát lát lại ngó ngoái về cụm vườn, có ý ngóng coi cánh du kích của Ba Rèn ra chưa. Phía vườn, súng vẫn nổ không ngớt. Thình lình, anh nghe mấy tiếng nổ "ầm ầm" dội lại, nhỏ hơn tiếng lựu đạn và mọt - chê 61 một chút. Chốc sau, đằng cụm vườn có bóng người liên tiếp chạy vọt ra. Anh em trong đội Ngạn kêu lên: - Cánh Ba Rèn dông rồi kia kìa! - Bộ tụi nó rượt lắm sao mà mấy chả chạy dữ quá! - Chắc nó chiếm được mí vườn rồi! Ngạn nói: - Anh em mình cũng chạy mau mau lên đi, còn Trọng cõng Thẩm cứ chạy vừa phải thôi. Để tôi đi với Trọng, chừng nào Trọng mệt, tôi cõng tiếp. Anh em du kích vượt qua mặt Ngạn chạy lên trước. Ngạn và Trọng chạy chậm, nên lát sau anh em du kích đã lên tới. Ngạn ngó thấy anh em dìu thằng Bé con của chú Tư Râu đi thất thểu. ống tay áo bên trái của thằng Bé lòng thòng, rách bươm. Ngạn giật mình, hỏi: - Bị mọt - chê phang à? Thằng Bé gật đầu. Ba Rèn vác cây ngựa trời chạy lúp xúp về phía Ngạn, hỏi oang oang: - Có nghe ngựa trời nổ không? Ngạn đáp: - Tôi có nghe hai tiếng nổ. Anh bắn hả? - Tôi với Hai Cá Trèn mỗi người đả một phát. Cách có hai tầm đất, nghe! Ba Rèn vung tay: - Tụi nó bò càng hết thảy. Bắn mỗi đứa một phát, tôi với Hai Cá Trèn nhắm không êm, cõng chạy. Tụi nó xổ đạn theo như mưa. Ngạn hỏi: - Bây giờ tính sao đây? - Vô Hòn thôi. Mọi người chạy thẳng tới Hòn Đất, bấy giờ đã ở sát trước mặt. Gần tới Hòn, thình lình Ngạn thoáng thấy sau rặng dừa có một người tất tả chạy ngược lại phía anh. Anh nhìn kỹ, thì ra là Năm Nhớ. Cô chạy, tóc bay xấp xõa. Đến nơi, cô thở hổn hển, mặt tái mét. Gặp Trọng đang cõng Thẩm, cô liền quay lạiđi theo sau lưng, tất tưởi. Rồi cô lấy cái khăn quàng cổ của cô cúi xuống luýnh quýnh chùi bắp chân ướt máu của Thẩm. Nhưng vừa chùi qua một lượt, máu lại chảy ròng xuống. Năm Nhớ òa khóc. Ngạn nói: - Chưa chi mà khóc rùm lên vậy, Năm Nhớ? Nó không chết đâu mà! Ngạn nhìn Năm Nhớ, nghĩ: “Bây giờ con nhỏ hết biết mắc cỡ gì hết rồi. Coi kìa, nó cứ quýnh lên. Vậy mà hồi trước mình nhắc tới chuyện nó với Thẩm thì nó cứ làm bộ ngủng ngẳng. Cha, con nhỏ này thương thằng Thẩm thiệt rồi! " Nhìn dáng vẻ của Năm Nhớ, bỗng dưng anh tự hỏi nếu mình bị thương thì không biết Quyên có khóc không. Và anh cảm thấy có cái gì khoai khoái khi nghĩ rằng nếu mình bị thương mà Quyên thì luýnh quýnh lên như vậy. 4 Ba người giải vợ chồng tên chủ trại về tới đầu xóm Vạn Thanh thì đêm đã khuya. Tấn cho hai du kích dẫn vợ chồng tên chủ trại về Hòn. Còn Ngạn, Tới, Trọng, sau khi thay quần áo, cùng Tấn vào ven vườn, chỗ bố trí chiến đấu. Ven vườn này giáp với những cánh đồng rộng trải từ Tri Tôn đến vùng Hòn. Địch muốn đánh Hòn Đất, thường chúng ập vào đây trước. Ba người mới len vào vườn thì gặp anh Ba Rèn. Ba Rèn hỏi: - Sao? Bắt được nó chưa? Tấn đáp: - Bắt đưa về Hòn rồi! Mọi người kể cho Ba Rèn nghe chuyện bắt vợ chồng tên chủ trại đáy, Ba Rèn khoái chí cười ha hả. Anh kéo tay mọi người chỉ vô vườn, nói: - Hiện anh em còn đào công sự. ạng Tám Chấn mới tới bảo phải đào công sự cho tổ ba ba. Đào riêng, nhưng chụm lại thành tổ. ổng nói không có hầm ở ven vườn thì không thể đánh được. Và ổng còn hăm nếu hầm đào không kỹ thì ổng không cho đánh. 99 100 - Anh đâu rồi? - Ổng với Hai Thép về rồi. Cả cô Nhớ, chú Diệp, ổng cũng kêu về trỏng hết! ạng Tám Chấn bình thường thấy ổng dễ, tới chừng làm công chuyện tôi ngán ổng quá! Ba Rèn nói xong xách cây đèn chai xăng xái dắt ba người ra ven vườn. Vừa đi anh vừa dặn: - Đi theo tôi nghe, coi chừng chông lụi què đa! Năm Tấn vốn thạo đường, ở đâu có hầm chông anh ta đều biết. Ngạn không thạo, nên anh bám sát chân anh Ba Rèn. Họ đi xuyên qua đám vườn mãng cầu ta rậm rạp. Mùi mãng cầu chín bay thơm ngát. Thỉnh thoảng lại có một trái mãng cầu chín rụng cái "bịch" gần đó. Ngạn nói: - Chống càn ở đây không sợ đói. Cùng lắm lượm mãng cầu ăn cũng sống được. Tấn bảo: - Mãng cầu ăn xót ruột lắm, thứ đó không ghé tôi. Đói thì tôi kiếm chuối chín bói, vững hơn. Ba Rèn cười: - Chưa chi mà mấy cha lo đói. Tôi thì cứ lo mấy cây "quảnh tầm sào" của tụi tôi hẻo (3) đạn quá, với lại không biết mấy "ông ngựa trời" có khẹt ra lửa được không? - Nghe đồn mấy cây ngựa trời đem thử nổ nghe đã lắm mà? - Bắn thử thì nổ ngon đó, còn bắn thiệt không biết ra sao! - Chắc nổ mà... ờ, còn cái vụ đạn thì hẻo thiệt đó! Tụi tôi cũng ít lắm. Nên phải chơi kỹ mới được! - Hai Thép với anh Tám Chấn có dặn mình ở đây ráng tiêu hao nó. Cùng lắm mới rút vô hang. Ngạn gật đầu: - Như vậy là đúng. Chừng nào nột quá hẵng rút vô hang. Cái hang đó ở trong đánh ra cũng sướng. Tôi tính một người mình ngồi tại miệng hang thủ một cây búa, tụi nó cũng khó vô. Vô thằng nào mình gõ đầu thằng nấy! Ba Rèn bảo: - Tôi tính trước chú rồi, mà điều tôi xài cây dầu vuông hay hơn. Cầm cây dầu vuông nặng chịch, chú đánh ngang, thằng nào cũng phải té hết thảy! Bốn người vừa đi vừa nói chuyện, lát sau họ đã nhìn thấy cành lá mãng cầu phía trước chập chờn ánh lửa. Khi họ tới nơi, anh em đang còn hì hục kẻ vét người đắp miệng hầm. Những cái hố mới đào nằm rải dài theo ven vườn. Anh em treo đèn chai trên những nhánh mãng cầu. Cây đèn nào cũng có che một miếng lá chuối để ánh đèn không hắt ra mặt ruộng. Ngạn đi coi lại từng cái hố, lòng thầm cảm ơn anh Tám đã đôn đốc việc đào những cái hố ấy. Trong cuộc sống chiến đấu, Ngạn hiểu rất rõ giá trị của cái công sự. Nó hết sức cần thiết cho sự tấn công cũng như sự chống đỡ. Cái công sự càng cần thiết cho người yếu vũ khí chống lại với kẻ địch có vũ khí mạnh. Anh em cũng đã đào cho Ngạn một cái hố. Thẩm, đội phó đội tuyên truyền, chỉ cái hố dành cho Ngạn, nói: - Đây, cái của mày đây! Ngạn nhảy xuống hố xem xét. Anh gọi Tới đem giùm cây trường mát 36 lại cho anh. Đứng dưới hố, Ngạn nâng cây trường mát tì vào vai, ngắm. Anh ngắm mấy lượt, rồi hạ súng xuống đưa lại cho Tới cầm. Anh với tay lấy cây vá dẫy bớt lớp đất trên miệng. Anh thấy miệng hố đắp có hơi cao, chưa thật vừa với tư thế đứng bắn. Khi liệu chừng lớp đất miệng hố đã thấp bớt xuống rồi, anh liệng cây vá, cầm lại khẩu súng nơi tay Tới, nâng lên ngắm lần nữa. Lần này, anh có vẻ ưng ý, mới chỏi tay nơi miệng hố nhảy thót lên. Tới thấy Ngạn rà lại hố kỹ thế thì hơi chột dạ, cũng vội chạy về coi lại cái hố của mình. Thấy công việc chuẩn bị đã ổn, Ngạn nói: - Anh nào gác thì lo gác, còn anh em bẻ lá nghi trang hố mình rồi đi ngủ. Khuya rồi... Có một người nói trong bóng tối: - Ừ, phải ngủ một chút mới được. Lần nào nó càn sao tôi cũng buồn ngủ ghê! Ba Rèn nói: - Chém vè mới buồn ngủ chớ đánh thì tôi không biết buồn ngủ đâu. Tôi cho hay, sống chết gì mai tôi cũng nổ ngựa trời nghe mấy cha! Công trình tôi với thằng Hai Cá Trèn o bế nó mấy tháng nay! Ngạn dọa: - Mấy ông bắn ngựa trời thì phải lo chân lo cẳng để vác chạy. Thứ đó phải bắn sát, chớ bắn xa không ăn thua đâu! Anh du kích có biệt hiệu là Hai Cá Trèn lên tiếng: - Tôi đợi sát mới bắn chớ không thèm ở xa bắn gãi ngứa đâu, anh em tin tôi đi! Mọi người vừa kéo lá ngụy trang hầm vừa lao xao nói chuyện. Anh nào cũng khấp khởi, mặc dù anh nào cũng biết ngày mai địch vào rất đông. Nhưng hình như họ không để ý tới quân số địch ngót một ngàn. Họ thấy việc đánh như là sự sống, tin rằng không giết được nhiều cũng giết được ít. Mà hễ có giết được một thằng giặc thì lòng họ cũng đỡ bị đè trĩu bởi cái cảnh anh em đồng chí bị chúng sát hại thê thảm trong năm đen tối. Sau ngày đồng khởi, rõ ràng ai cũng muốn rửa hận riêng và hận chung, và mặc dù súng ống chẳng có mấy cây, họ đều tin rằng thằng giặc không thể ức hiếp họ như trước được nữa. Bây giờ vấn đề đã đặt ra rõ ràng là thằng giặc bắn họ thì họ bắn lại. Cái chết sẽ không phải chỉ ở một bên, mà sẽ ở cả hai bên. Chính vì thế mà cái chết ngày nay có nghĩa hơn so với cái chết trước nhiều lắm, và sự ky sinh trong chiến đấu họ nghĩ rằng bao giờ cũng có nhưng sẽ có ít hơn so với sự hy sinh trong chịu đựng im lặng, trong mấy năm gọi là hòa bình mà thằng địch vẫn tấn công. Anh em trải nóp dưới chân những gốc mãng cầu. Anh du kích Hai Cá Trèn chun vô nóp rồi vẫn còn cà kê nói chuyện. Thẩm trải đệm rủ Ngạn lại nằm chung. Ngạn ngồi xếp bằng trên đệm, móc khẩu côn 12 lẩy đạn ở băng ra, chỉ chừa lại ba viên. Đạn trong những băng dự bị anh cũng lẩy ra hết. Anh gọi Trọng lại, chỉ đống đạn 12 ly mới lẩy trên đệm, nói: - Đem chia thêm số đạn này cho ba cây tôm xông. Tôi chỉ chừa lại ba viên thôi! Trọng được cho thêm đạn, mừng quá, lấy cái nón bèo trên đầu xuống hốt đạn bỏ vào. Ngạn coi lại đạn của khẩu trường mát, kéo giật cơ bẩm rôm rốp, rồi mới yên tâm đặt khẩu súng bên cạnh. Tuy đã có khẩu côn 12 nhưng đụng trận Ngạn vẫn thường bắn trường mát. Anh bắn khẩu này rất khá. Ngạn thường nói: - Thằng Tây chế cây "quảng tầm sào" thì dở, chớ nó chế cây mát 36 thì được. Tôi bắn thấy "xuya" lắm! Ngạn ngả lưng nằm xuống đệm. Lưng anh đấu vào lưng Thẩm. Lát sau, cả hai tấm lưng đều âm ấm. Thẩm năm nay nhỏ hơn Ngạn vài tuổi, nhưng hai người vẫn "mày tao" với nhau. Trong đội, Thẩm xuất thân ở gia đình tiểu tư sản, là tay viết ra các bài để đem ăn nói với lính bót. Anh có văn hóa, nhưng tính lặng lẽ, ít nói. Cha mẹ anh đều tham gia kháng chiến lần thứ nhất. Hòa bình lập lại, cha anh đã bị giặc giết, mẹ anh bị bắt đày ra Côn Đảo. Có lần anh tâm sự với Ngạn: - Má tao hiền lắm. Hồi đó má tao làm cô giáo. Tao cũng có một năm học lớp má tao, nhưng bao giờ má tao cũng tỏ ra nghiêm khắc với tao hơn tụi học trò khác. Lúc bị bắt, má tao đang có thai. Nghe nói đứa em má tao đẻ ra chết ở khám Chí Hòa rồi. Mấy năm nay bị đày ra Côn Đảo, không biết má tao ra sao?... Nằm đối lưng với Thẩm, Ngạn nghĩ bụng chắc thường đêm Thẩm vẫn lo không gặp lại người mẹ thân yêu của anh. Khi mà ở Ngạn thì không còn có được nỗi lo ấy nữa. Ngạn từ bé đã mồ côi. Những gì anh còn nhớ được về mẹ của mình đều là những nét vất vả, tỷ dụ như tấm áo không bao giờ lành lặn trên người mẹ, như những giọt mồ hôi tần tảo chiều nào cũng dán bệt tóc mẹ vào thái dương, như đôi quang gánh hàng bông ngày ngày mẹ anh tất tả gánh đi. Chợt Thẩm hỏi: - Bữa nay, mày về nhà bà già vợ mày có gặp vợ không? Ngạn cười: - Gặp chớ... Ngừng một chút, Ngạn tiếp: - Con Quyên nó thấy tao mặc cái áo của mày nó hỏi tao mặc khính áo của ai vậy? - Quyên có hỏi bộ đồ mày cho ai không? - Có, tao nói tao cho mày rồi, nó cười. Hồi nãy, nó nằng nặc đòi ra đây, anh em không cho. Ngạn im lặng một lát rồi nói: - Theo như lời thằng chủ trại đáy thì chắc mai nó bố ở đây thiệt. Thôi, ngủ đi để mai còn có sức mà ăn chịu với tụi nó. Ngạn nói xong, nằm co lại như con tôm. Hai tay anh ôm lấy Thẩm. Chốc sau, anh đã cất tiếng ngáy. Gần sáng Thẩm đánh thức Ngạn dậy. Mọi người đem cơm dở hồi hôm ra ăn. Mới ăn mấy miếng thì Ba Rèn chạy lịch phịch tới la: - Ra hầm hết đi! Tổ đi bám về cho hay tụi nó đã tới Hòn Sóc rồi! Ngạn xách súng đứng bật dậy, chạy ra hố. Trọng và Thẩm cũng chạy theo. Đứng dưới hố, Ngạn vừa nhai cơm vừa nói: - Cứ ăn cơm xong đi. Tụi nó chưa tới đâu. Mọi người ăn cơm rồi trời mới sáng tỏ. Trên đồng trống bấy giờ đã ngó thấy địch từ Hòn Sóc dăng hàng ngang kéo qua. Chúng đi lúc nhúc, xám xịt cả một khoảng đồng mới le lói vài tia nắng. Ngạn đưa bàn tay lên che mắt nhìn, anh nói: - Tụi nó đông nghe! - Rồi anh vẫn vừa nhìn ra nói: - Đi coi nghinh ngang dữ ha! Anh day qua Thẩm: - Dặn chuyền anh em cứ bình tĩnh... Đợi chừng nào nó lọt vô bãi chông ngoài ruộng mới bắn. Bắn sao cho nó nhảy lọt hầm! Ba Rèn đi lom khom tới sau lưng Ngạn, hỏi: - Nè, bãi chông ngoài ruộng nhắm có lộ không ta? - Nguỵ trang khéo lắm, không lộ đâu. Anh Ba, nhớ dặn anh em sống chết gì cũng đừng vọt khỏi miệng hố, chừng nào có lịnh rút mới bỏ công sự. - Nếu rút thì cánh chú rút trước nghe! - Ba Rèn bảo Ngạn. - Không, tụi tôi rút sau. Mấy anh thuộc đường thì rút trước. Chừng nào anh thấy cần rút thì cứ cho rút. Tụi tôi sẽ theo. Còn bây giờ nổ súng thì để tôi nổ trước! - Ờ! Nhưng khi rút thì mấy chú phải rút trước, tôi cho người dắt. Để tụi tôi rút sau, cản hậu. Ba Rèn nói hai tiếng "cản hậu" nghe rất xôm, tưởng như anh có đủ sức cản được cả ngàn quân địch thật vậy. Rồi Ba Rèn lại lịch phịch chạy đi. Nhìn cái lưng trần vạm vỡ cùi cụi của Ba Rèn khuất sau những cành lá mãng cầu, Ngạn khoái chí nhoẻn cười. Chưa bao giờ anh thấy Ba Rèn hăng như lúc này. Ngay lúc quai búa ở lò rèn, Ba Rèn cũng không hăm hở như vậy. Ngạn nhớ hồi còn ẩn náu trốn tránh trong rừng trong bụi, Ba Rèn là người đòi đánh nhiều nhất. Không ngày nào anh không đòi bắn lại tụi công an và tụi tự vệ hương thôn. Hễ ai đem đường lối đấu tranh hoà bình ra giải thích với anh thì anh ghét lắm... Có lần anh đem cây "quảng tầm sào" của anh tới để trước mặt anh Hai Thép, nói: - "Bữa nay, sau khi suy nghĩ, tôi xin giao cây súng của tôi lại cho Đảng! " Anh Hai Thép trố mắt nhìn anh. Ba Rèn điềm nhiên bảo: - "Thiệt tình mà... Tôi giữ súng như không, nên tôi xin nạp lại. Nếu rủi tôi có đụng tụi nó bất tử thì tôi đấm đá hoặc tôi cắn cổ tụi nó vài thằng rồi tôi chết, cũng đặng". Anh nói chữ "cũng đặng" một cách khó nhọc. Hai Thép cũng không vừa: - "Anh giao súng cho Đảng tức là anh phản đối đường lối của Đảng chớ gì. Vậy cũng tức là anh muốn tự mình tách ra khỏi Đảng chớ gì? " Ba Rèn nghe Hai Thép nhấn mạnh câu: “tự mình tách ra khỏi Đảng" thì chột dạ. Chính Hai Thép biết Ba Rèn sợ điểm đó nhất nên anh mới nhấn mạnh như thế. Rồi sau khi nói thế, Hai Thép đứng lên: - "Thôi được, để tôi báo cáo lên ông Tám Chấn! " Ba Rèn bối rối kêu: - "????, nói vậy chớ đừng báo cáo bậy nghe! Tôi giao súng cho ông, không lãnh thì thôi, báo cáo khỉ gì! " Hai Thép bỏ đi. Ra gặp Ngạn, anh cười hì hì, kể lại chuyện cho Ngạn nghe, và rồi Hai Thép cũng chẳng báo cáo lên anh Tám Chấn gì cả. Rốt cuộc Ba Rèn vẫn giữ cây lơ - ben. Hai tháng sau, Đảng xuống lệnh vũ trang đồng khởi, Ba Rèn vác cây lơ - ben về xóm cùng anh em đánh diệt bót Hòn Đất. Bây giờ, khi bàn tới chuyện rút, chính Ba Rèn cũng bảo cánh Ngạn rút trước. Trong chiến đâu, Ngạn hiểu tình huống của người rút sau hơn ai hết. Và không phải ai cũng có thể rút sau, không phải ai cũng có thể dễ dàng nói: “Để tôi cản hậu" như Ba Rèn đã nói. Trước mắt Ngạn, dáng dấp từng tên giặc đã hiện rõ. Dẫn đầu bọn biệt kích mặc đồ rằn, cầm súng chạy xốc tới. Trong phút chờ đợi, Ngạn thấy thời gian trôi đi thiệt chậm và không khí quanh anh nặng trĩu. Tuy đã nhiều phen đối mặt với cái chết, tim Ngạn cũng không khỏi đập mạnh, hồi hộp. Song anh chỉ hồi hộp chớ không sợ, nhất là khi anh có một khẩu súng trong tay. Trước kia, hai tay anh bị trói chặt mà anh còn đá tụi giặc chạy thoát được, thì bây giờ có cây súng, có đồng đội, anh thấy vững dạ. Hơn nữa, anh tin tưởng ở bãi chông. Thì kia, bọn giặc đã tiến sát bãi chông ngoài ruộng. Chúng chạy vào cái khoảnh trống giống hệt như những khoảnh ruộng khác đang hiền lành hóng lấy những tia nắng ấm áp ban mai. Nhưng chưa có tên nào bị sụp chông cả. Bọn lính áo rằn sấn lên, chừng như thằng nào cũng muốn chen lấn vào ven vườn mãng cầu sum sê này trước. Ngạn nín thở, tì nhẹ súng vào vai. Khoảng cách giữa bọn giặc và ven vườn chỉ còn chừng hai trăm thước. Ngạn nghĩ bụng: “Bây giờ mình bắn thì tụi nó cũng không ào về kịp". Ngạn ngắm kỹ một tên to cao nhất ở giữa đám giặc, bóp cò ngay. Phát súng nổ vang. Từ các công sự, anh em cũng bắn vãi ra. Ngạn nhìn lại, không thấy bóng thằng giặc to cao nãy nữa. Trên ruộng, bọn giặc bị bất ngờ, nhảy lung tung. Bỗng Ngạn ngó thấy có mấy thằng tự dưng tụt hẫng xuống ruộng. Cánh tay cầm súng của chúng chới với, chới với. Anh em la ré lên: - Nó sụp chông rồi! - Rồi, rồi, sụp nữa rồi! Bọn giặc ngoài ruộng hốt hoảng, càng chạy bậy càng bị sụp. Chúng nằm sát xuống mặt ruộng, không tiến mà cũng không lùi. Bọn phía sau trấn tĩnh lại, ôm súng máy bắn sả vào vườn. Mãng cầu rụng nghe lịch bịch. Một nhánh mãng cầu bị đạn súng máy cắt đứt rơi xuống vai Ngạn. Anh hất nhánh mãng cầu, đứng nhóng lên. Thấy bọn giặc ở bãi chông vẫn nằm im, anh nói lớn: - Đừng bắn nữa, anh em! Chừng nào tụi nó đứng dậy sáp vô hãy bắn! Quả nhiên, bọn giặc nằm im một lát thì lồm cồm đứng dậy tiến tới. Lần này, bọn đi sau hò hét, la lối rất dữ. Còn những tên đi đầu lò dò từng bước, tiến rất chậm. Ngạn nghe bên cánh Ba Rèn nổ luôn mấy phát lơ - ben, "păng, păng, păng" hệt như tiếng trung liên. Bọn giặc liền nhốn nháo. Một số nữa lại bị sụp chông, người cứ biến đi dưới mặt ruộng. Nhưng lần này có nhiều tên thuộc đại đội biệt kích tiến được một quãng khá xa. Mặc dù nghe súng nổ, chúng vẫn xống lưng chạy tới. Bọn phía sau theo gót chúng chạy dấn lên. Đội hình giặc bỗng dưng biến thành một dọc dài. Chúng đã vượt qua được tuyến chông thứ hai. Ngạn thấy nếu cứ để chúng tiến vào kiểu ấy thì chỉ trong vài phút nữa là chúng sẽ tới nơi. Anh nhảy thoắt lên khỏi công sự, xách súng chạy riết lại ngay mũi tiến của giặc, nằm rạp xuống. Đợ ba bốn tên nhập một, anh nổ ngay một phát. Hai tên biệt kích bị viên đạn của anh xỏ xâu, tên sau té trước, tên trước đứng sững lại, buông súng, người hơi ưỡn ra sau rồi loạng choạng ngã gục. Bây giờ, trên ruộng, bọn giặc tiến vào dễ dàng hơn, vì chỗ nào không có chông đều đã lộ ra cả. Chúng trí mọt - chê giữa ruộng, bắt đầu nã vào. Đạn mọt - chê kêu "hụp, hụp, hụp", bay rú tới ven vườn, nổ "uỳnh, uỳnh" bứng nguyên từng gốc mãng cầu. Khói xám bốc lên. Ngạn bắn tiếp mấy phát nữa và la lớn: - Chuẩn bị rút nới vô! Anh bảo một anh du kích: - Dẫn anh em rút đi! Toàn độ Ngạn chạy theo anh du kích. Ba Rèn dặn: - Vô tới miếng vườn trong thì ở lại đợi tụi tôi nghe! - Bây giờ anh chưa rút à? - Tôi hả, tôi cũng vô trỏng liền mà! Ba Rèn nói vậy nhưng vẫn chưa đi. Ngạn len qua mấy gốc mãng cầu, lúc ngoảnh lại thấy Ba Rèn với mấy anh du kích lom khom vác cây ngựa trời chạy ngược ra hướng giặc. Ngạn lo quá. Nhìn cây súng ngựa trời sần sùi thô kệch, bỗng dưng Ngạn thấy thương Ba Rèn và anh em du kích vô hạn. Vào tới mương vườn trong, Ngạn cùng anh em bám dưới mương. Bọn giặc chia ba mặt ập vào vườn. ở mặt Ngạn, anh em đánh với chúng tám trận. Thình lình Thẩm bị miếng mọt - chê phạt trúng chân trong lúc anh vọt qua một bờ vườn. Anh em xốc Thẩm lên, vác chạy. Bọn giặc nhảy thòm thọp qua mương, la ó vang vườn. Thấy chúng tràn tới dữ quá, mà chẳng thấy cánh du kích Ba Rèn đâu cả, Ngạn cho anh em cõng Thẩm rút ra đường. Anh cùng anh em bắn cản hậu, rồi cũng rút theo. Trên đường về Hòn, Ngạn vừa chạy vừa ngó thấy dấu máu nhỏ dài trên cát. Anh nghĩ bụng: “Máu của Thẩm! " phía trước, Tới đang cõng Thẩm chạy lúp xúp. Hai chân Thẩm thòng xuống muốn chấm cát. Bắp chân trái 113 114 của Thẩm đã được buộc lại bằng một cái khăn rằn. Ngạn chạy riết theo cho kịp Tới. Anh sấn lên, kêu: - Thẩm, Thẩm, có đau không? Thẩm nhoẻn cười đáp: - Hơi ê ê! Ngạn thấy mặt Thẩm hơi tai tái. Máu nơi chân Thẩm chảy trông rất sợ. Lớp khăn buộc vết thương bị máu thấm ướt hết, và máu cứ chảy ròng theo gót chân Thẩm, nhỏ thành giọt xuống cát. Giọt nào vừa nhểu xuống liền bị cát hút ngay, đổi thành màu sẫm như màu sét sắt. Ngạn hơi lo, nhưng anh cũng cười, nói: - Ráng một chút nữa vô tới Hòn, tao kêu Năm Nhớ nó băng cho. Năm Nhớ mà băng thì mày bớt đau liền. Thẩm nhếch mép cười, nhưng không nói gì cả. Tới cõng Thẩm nãy giờ mệt thở hồng hộc. Trọng liền thay Tới, cõng Thẩm. Ngạn xách súng đi một bên, lát lát lại ngó ngoái về cụm vườn, có ý ngóng coi cánh du kích của Ba Rèn ra chưa. Phía vườn, súng vẫn nổ không ngớt. Thình lình, anh nghe mấy tiếng nổ "ầm ầm" dội lại, nhỏ hơn tiếng lựu đạn và mọt - chê 61 một chút. Chốc sau, đằng cụm vườn có bóng người liên tiếp chạy vọt ra. Anh em trong đội Ngạn kêu lên: - Cánh Ba Rèn dông rồi kia kìa! - Bộ tụi nó rượt lắm sao mà mấy chả chạy dữ quá! - Chắc nó chiếm được mí vườn rồi! Ngạn nói: - Anh em mình cũng chạy mau mau lên đi, còn Trọng cõng Thẩm cứ chạy vừa phải thôi. Để tôi đi với Trọng, chừng nào Trọng mệt, tôi cõng tiếp. Anh em du kích vượt qua mặt Ngạn chạy lên trước. Ngạn và Trọng chạy chậm, nên lát sau anh em du kích đã lên tới. Ngạn ngó thấy anh em dìu thằng Bé con của chú Tư Râu đi thất thểu. ống tay áo bên trái của thằng Bé lòng thòng, rách bươm. Ngạn giật mình, hỏi: - Bị mọt - chê phang à? Thằng Bé gật đầu. Ba Rèn vác cây ngựa trời chạy lúp xúp về phía Ngạn, hỏi oang oang: - Có nghe ngựa trời nổ không? Ngạn đáp: - Tôi có nghe hai tiếng nổ. Anh bắn hả? - Tôi với Hai Cá Trèn mỗi người đả một phát. Cách có hai tầm đất, nghe! Ba Rèn vung tay: - Tụi nó bò càng hết thảy. Bắn mỗi đứa một phát, tôi với Hai Cá Trèn nhắm không êm, cõng chạy. Tụi nó xổ đạn theo như mưa. Ngạn hỏi: - Bây giờ tính sao đây? - Vô Hòn thôi. Mọi người chạy thẳng tới Hòn Đất, bấy giờ đã ở sát trước mặt. Gần tới Hòn, thình lình Ngạn thoáng thấy sau rặng dừa có một người tất tả chạy ngược lại phía anh. Anh nhìn kỹ, thì ra là Năm Nhớ. Cô chạy, tóc bay xấp xõa. Đến nơi, cô thở hổn hển, mặt tái mét. Gặp Trọng đang cõng Thẩm, cô liền quay lạiđi theo sau lưng, tất tưởi. Rồi cô lấy cái khăn quàng cổ của cô cúi xuống luýnh quýnh chùi bắp chân ướt máu của Thẩm. Nhưng vừa chùi qua một lượt, máu lại chảy ròng xuống. Năm Nhớ òa khóc. Ngạn nói: - Chưa chi mà khóc rùm lên vậy, Năm Nhớ? Nó không chết đâu mà! Ngạn nhìn Năm Nhớ, nghĩ: “Bây giờ con nhỏ hết biết mắc cỡ gì hết rồi. Coi kìa, nó cứ quýnh lên. Vậy mà hồi trước mình nhắc tới chuyện nó với Thẩm thì nó cứ làm bộ ngủng ngẳng. Cha, con nhỏ này thương thằng Thẩm thiệt rồi! " Nhìn dáng vẻ của Năm Nhớ, bỗng dưng anh tự hỏi nếu mình bị thương thì không biết Quyên có khóc không. Và anh cảm thấy có cái gì khoai khoái khi nghĩ rằng nếu mình bị thương mà Quyên thì luýnh quýnh lên như vậy. Phần 3 1 Một tiếng đồng hồ sau khi anh em rút hết vào hang, bọn giặc từ mí vườn đã tràn tới khắp xóm Hòn Đất. Anh Hai Thép đứng với anh em trên triền Hòn rậm rạp mít và vú sữa, nhìn thấy bọn giặc đi lúc nhúc dưới xóm. Bóng chúng loáng thoáng hiện ra sau những vòm lá mít, măng cụt, lê - ki - ma. Có tên đã vội vã leo dừa. Tiếng chúng nói chuyện la hét ầm ĩ, mọi người đều nghe thấy. Trong ánh nắng sớm chiếu rực các vườn cây bên dưới, xóm Hòn Đất náo động cả lên, bởi tiếng giặc la ó, tiếng súng nổ "bóc đùng", tiếng gà kêu oang oác và cả tiếng bò rống nghe rất thảm thiết. Những thằng lính áo rằn ngồi dưới các gốc dừa thì coi hệt như những bụi lá. Lúc chúng đi đứng tới lui mới phân biệt ra chúng được. Một toán vác xoong chảo vừa lấy của đồng bào kéo đi lểnh nghểnh. Một toán khác cũng chừng một trung đội lũ lượt tràn ra phía suối. Con suối này chảy uốn quanh Hòn Đất, nên gọi suối Lươn. Bà con gọi thế vì dưới suối từ lâu có một cặp lươn trắng rất lớn. Trước nay không ai dám bắt cặp lươn đó cả. Nhất là từ cái dạo có ông già Khơ me tên Suôn lén câu, chẳng những bao nhiêu lưỡi câu ông thả xuống đều bị cắn đứt, mà sau đó về nhà ông còn bị vật mình vật mẩy đau tới ba bốn tháng. Chuyện ông Suôn thì không biết ra sao, chớ cặp lươn thì có thật, và suối Lươn rõ ràng là một suối nước lành, bao đời nay vẫn là nguồn tươi trong cho cả Hòn Đất... Bọn giặc xổ ra suối đã bắt đầu đóng cọc che lều. Chúng cắm bốn năm cái lều vải bạt lớn cặp theo suối. Anh Hai Thép lo lắng nói với Ngạn: - Tụi này bộ tính đóng lâu nghe? Nó chiếm suối kìa! Ngạn lẩm bẩm: - Ờ, nó chiếm suối rồi! Hai Thép nói: - Nó chiếm cái suối thì ngặt cho mình lắm! - Trong hang nói mình có trữ nước mà! - Có, nhưng sợ không đủ, nếu kéo dài đôi ba bữa thì kẹt lắm! Anh Hai Thép vẫn đau đáu nhìn xuống xóm, hỏi: - Thôi, mình vô hang đi. Vô trỏng tính toán coi sao! Anh dạy bảo chú Đạt ở lại gác nếu có gì chạy về cho hay, rồi cùng mọi người men theo vách đá, đi lần xuống phía miệng hang. Hòn Đất có một chu vi bao bọc lối bốn cây số. Nó hơi dài, giống như một chiếc mai rùa. Chiều dài Hòn Đất trên một cây số, còn chiều ngang ước độ bảy trăm thước. Cả Hòn chỉ có một miệng hang độc nhất. Luồn quá miệng hang một chút là gặp cái hang nhỏ bùng binh. Tại đây có ba ngách tối om, chạy sâu hút vào trong. Anh Hai Thép, Ba Rèn và Ngạn vừa khom lưng luồn vào tới hang nhỏ thì gặp hai anh du kích ngồi gác. Một anh nói: - Anh em vô hang lớn hết rồi, mấy anh à! Ngạn hỏi: - Mấy anh ngồi đây dòm thấy phía ngoài rõ không? - Thấy! - Để tôi coi thử! Ngạn quành lại gộp đá. Anh du kích nánh sang một bên. Ngạn ghé mắt nhìn ra ngoài. Anh thấy ở ngoài rất rõ, thấy bãi cỏ trống và những cây dừa trĩu quả sát Hòn, thấy cả bọn địch lố nhố. Anh reo lên: - Hay lắm, ở đây quan sát được! Rồi anh bước ra, đi theo anh Hai Thép và chui vào cái ngách bên trái. Ba người đi vòng vèo, khi lội qua trái, khi lội qua phải. Có tới năm phút sau họ mới tới một cái hang khá rộng, sáng mờ, đang có tiếng người lao xao. Đấy gồm toàn những anh chị em cán bộ lộ mặt, không ở lại xóm được và những anh em du kích. Đáng lẽ càng vào sâu hang càng tối, nhưng ở trong chỗ này lại sáng dần ra. Những gộp đá xếp chất chồng trên vòm hang có nhiều kẽ hở, nhờ vậy ánh sáng từ ngoài lan vào được. Nhưng ánh sáng len vào cũng không nhiều, nó chỉ vừa tạo ra cái cảnh tranh tối tranh sáng, khiến những ai ở trong hang đều cảm thấy như mình ở giữa đêm sắp hầu tàn mà ngày thì chưa rạng. ấy là màu của buổi tinh mơ mới chớm, màu bóng đêm nhòa xóa, nhưng bình minh lại chưa đến. Trong cái hang có vẻ sinh động riêng biệt, hơi huyền ảo, với những bước chân không động, tiếng nói cười nghe cũng ấm hơn và mọi người chỉ có thể vừa đủ nhận ra nhau chứ không trông thấy rõ mặt nhau lắm. Khi có người và hơi thở, khi có tiếng nói và những bước đi, cái hang liền khác trước, đến nỗi lúc Ngạn mới bước vào, anh nghe tiếng Quyên khẽ gọi, thì anh vẫn biết là tiếng Quyên đấy, mà sao nghe cứ lạ hẳn. Anh dừng lại, chưa trông thấy Quyên đâu, thì đôi bàn tay quen quen mát rượi của Quyên đã nắm chặt lấy tay anh. Đôi bàn tay ấy rờ rẫm người anh, rờ từ gáy dọc xuống lưng anh một cách gấp gấp, như để coi anh có phải thực là một Ngạn còn nguyên vẹn không vậy. Quyên thì thào: - Đánh chông kết quả quá, hả anh? Hồi nãy, em nôn quá cứ đòi ra đó mà mấy ảnh không cho! Vậy thì hôm trước kêu em đi tập bắn súng chi cho uổng công...! Nghe nói tụi nó vừa chết vừa bị thương gần năm chục phải không anh? Trời ơi, em với chị Ba, với con Thúy đứng trên Hòn coi rõ hết. Coi thiệt là sướng. - Chị Sứ với con Thúy đâu? - Ngạn hỏi. Quyên không đáp, vội chạy đi kiếm Sứ dắt lại. Ngạn thấy một cái bóng nhỏ vụt nhào tới ôm chặt mình: - Dượng út, dượng út! - Con bé Thúy kêu lên mừng rỡ. - Sao con cũng vô đây? Thôi, nguy rồi! Ngạn nói và nhắc bổng con bé lên. Chị Sứ nói: - Nó đi theo chị từ sáng. Biểu ở nhà với má cứ không chịu... Bây giờ làm sao mà về được... Mày thấy chưa, Thúy? - Con không về, con ở hang con chơi! Con bé ngẩng nhìn Ngạn: - Vui quá hả dượng út! ở trong này vui quá. Hồi nãy dượng út có bắn chết tụi Mỹ - Diệm nào không? Con vỗ tay hoan nghinh ghê lắm, chắc dượng đâu có nghe. Con Thúy nói rối rít. Nó vui vẻ, lăng xăng trong vòng tay Ngạn. Hình như được ở trong hang nó thấy thú vị lắm. Lẽ khác, người nào trong hang cũng đều quen với nó cả. Nó đi lọ mọ thế mà ai cũng nhận ra và kêu đúng tên nó. Nên nó sung sướng. - Ngạn à, nãy giờ em ở trên Hòn ngó thấy dưới xóm ra sao? - Chị Sứ hỏi. - Ngó thấy rõ lắm, chị ạ. Tụi nó tràn vô khắp xóm rồi. Đông lắm. Lính vác xoong chảo đi nghễu nghện. Tụi nó chiếm suối Lươn rồi. Coi bộ nó tính đóng quân... - Cha... - Quyên buột miệng kêu, lo lắng. Và cô nói khẽ với Ngạn: - Trong hang mình thì có nước nhưng ít quá. Hồi sáng vô hang, em với chị Ba đi coi lại những cà - om nước thấy có chín cái mà bị chảy sạch không còn một giọt. - Sao? - Mấy cái cà - om đất đó để lâu quá bị rỉ chảy. Em với chị Ba, Năm Nhớ phải đội cà - om chạy ra suối múc nước. Đội ba chuyến được lại chín cà - om như cũ. Mà cái cà - om nước sau cùng thì Năm Nhớ làm rớt bể... lúc đó nghe anh Thẩm bị thương! - Vậy thì bây giờ còn tất cả được mấy cà - om? - Cũng còn được tám cà - om, nhưng mình hơi đông... - Thôi được, để rồi... à, Thẩm với chú Bé bị thương giờ ở đâu? - Ở kia! Quyên chỉ vào phía trong hang. - Còn vợ chồng thằng cha trại đáy? - Trói bỏ trong hang xẻo. Con vợ khóc thôi là khóc. Ngạn bảo Quyên dắt anh lại chỗ mấy anh bị thương. Bé Thúy cũng chạy theo. Quyên vừa dẫn Ngạn đi vừa thì thào: - Tội nghiệp thằng Bé quá! Cũng bị miểng mọt - chê như anh Thẩm. Bộ hồi nãy tụi nó thụt trúng ngay hả anh? Ngạn gật đầu. Quyên lại nói: - Em với Năm Nhớ mới rửa và băng vết thương cho hai người. Em thấy cánh tay của Bé nặng lắm. Còn vết thương nơi bắp chân Thẩm coi vậy chớ không sao... Ngạn nói: - Không sao mà đã có người khóc rum lên rồi! - Ai khóc? Năm Nhớ hả? - Ngừng một chút, Quyên khẽ bảo: - Ờ, thì nó thương anh Thẩm nó mới khóc! - Thương, thương mà hồi trước tới giờ sao không chịu hé ra, cứ êm ru, bây giờ mới... - Bộ phải nói ra mới thương à? Tại anh Thẩm, anh Thẩm không nói với nó. Chớ Năm Nhớ thì làm sao nó dám nói trước được! Ngạn nói giọng tỉnh như không: - Vậy còn cô, sao hồi đó cô dám nói trước với tôi! - Nói hồi nào, hồi nào? Quyên quay phắt lại, vảnh tay tát vào người Ngạn. Ngạn cười rúc rích. Đi gần đến góc hang, Quyên kêu: - Năm Nhớ ơi! - Quyên hả? Ngạn sắp bước vào, chợt thấy bàn tay nhỏ xíu của con Thúy rút ra khỏi tay mình. Anh nghĩ bụng: “Chắc con nhỏ sợ". Anh bước tới, nhìn thấy Thẩm đang ngồi trên một phiến đá phẳng, lưng tựa vào vách hang, cái chân trái của Thẩm duỗi ra, co co. Thằng Bé thì nằm dài trên chiếu, tay mặt bị thương đặt lên tấm khăn rằn xếp gấp lại. Năm Nhớ ngồi bên thằng Bé, tay cầm một cái khăn ve vẩy. Thẩm cất tiếng hỏi: - Mày đó hả Ngạn? - Ờ, tao đây, sao? - Không sao... - Coi miểng còn dính trong đó không? Năm Nhớ nói: - Không, em chắc là không có miểng. Nó bay luôn đi rồi! - Chắc là vậy... Ngạn tháo lấy cây đèn pin móc ở thắt lưng. Anh bấm đèn soi chân Thẩm. Con bé Thúy giờ cũng rón đến coi. Thẩm giơ tay nắm lấy tay con bé Thúy, bảo nó ngồi xuống cạnh anh. Vết thương của Thẩm đã được băng kỹ. Máu không còn chảy nữa. Khi Ngạn cúi nhìn vết thương, anh nghe Thẩm khẽ nói: - Tao biết, tao không hề gì đâu... Miểng mọt chỉ chém sơ qua bắp chuối thôi. Phải chú ý coi sóc cho thằng Bé, cái tay của nó nát quá. Thằng nhỏ ngon lắm, không rên la gì hết! Ngạn bước tới chỗ thằng Bé nằm. Anh bấm đèn nhìn. ống tay áo rách nát đã được cắt gọn, cánh tay thằng Bé được băng giáp tới sườn, và máu sẫm bết dính các lớp băng lại. Bàn tay phải còn lại của thằng Bé cứ cấu chặt xuống mặt chiếc đệm. Đôi mắt thằng Bé nhắm nghiền, miệng thở phập phào. Da mặt nó hơi tái lại, nhưng đôi môi vẫn tươi bậu, hênh hếch. Nó nằm đây tợ như nằm ngủ chớ không phải bị thương. Cái khuôn mặt trẻ thơ ấy tưởng như không phải đang đau đớn, tưởng như hãy còn vương tiếng cười khanh khách khi nó trườn giỡn với thằng út em nó trên bãi biển hay hí hửng vụt la ré khi cùng cha nó kéo lên khoang ghe một vạt lưới đầy cá. Nó còn nhỏ quá. Nhìn cặp mắt nhắm nghiền, đôi môi tươi bậu hênh hếch kia. Ngạn có cảm giác tim anh như bị một bàn tay nào bóp mạnh, rồi khi bàn tay đó thả ra, máu trong huyết quản anh như sôi lên. Đầu anh nhức nhói hình dung ngay tới bóng mấy thằng giặc lom khom trí những khẩu mọt - chê lên mặt ruộng. Rồi thì cái bộ tịch loay hoay ngắm nghía của thằng pháo thủ, cùng những trái lựu đạn đuôi chia, bộ chân súng có bàn rộng bè như chân vịt từ đó không rời ra khỏi đầu Ngạn nữa. Mãi đến lúc anh nghe thấy có tiếng anh Hai Thép gọi ở trước hang, anh mới đứng dậy. Anh khẽ bảo Quyên bấy giờ đang ngồi kéo lại ống tay áo, sửa lại áo quần cho thằng Bé: - Mấy ảnh kêu họp kìa. Đi Quyên! Con Thúy nãy giờ vẫn còn ngồi nép vào vai Thẩm, Quyên nói với nó: - Thúy ở lại chơi với cô Năm, với mấy chú, nghe? - Dạ. Tất cả đảng viên hiện có mặt trong hang đều được triệu tập. Nhưng khi các đảng viên đã đến ngồi vây quanh thì anh Hai Thép lại nói: - Ban nãy tôi định triệu tập các đồng chí đảng viên họp trước, nhưng có lẽ không cần, mình cứ họp tất cả anh em, trừ anh em đang có nhiệm vụ canh gác và trông coi thương binh. Các đồng chí thấy sao? - Đồng ý, nên họp tất cả! Ba Rèn chạy đi gọi anh em lại. Anh Hai Thép lên tiếng: - Không nói thì các đồng chí cũng biết lần này địch đánh lớn. Có thể nói đây là một trận càn quy mô hơn hết trong tỉnh. Sau khi đụng độ với ta ở ngoài Vạn Thanh, giặc đã tràn vô xóm. Ban nãy, chúng tôi có đứng trên Hòn coi thì thấy rõ ý đồ tụi nó định vây hang. Hiện tụi nó đã chiếm suối nước, và vòng quân của địch đã ngăn cắt chúng ta với trong xóm. Mới đây, anh em gác trên Hòn về cho biết có mười tàu mặt dựng vừa tới đậu cặp bãi, cách bờ chừng một cây số. Theo tôi tụi nó sẽ đánh hang. Tình hình là như vậy, nên chúng ta phải tìm cách đối phó... Giữa lúc Hai Thép đang nói, thình lình có những tiếng nổ vang rền cắt ngang lời anh. Bụi cát trên vòm hang vụt đổ xuống rào rào. Mọi người đều nhổm bật dậy. Không ai biết là cái gì. Kế đó tiếng nổ dội đến liên tiếp làm cho những gộp đá bên trên đều rung chuyển như sắp đổ sụp. Ngạn nói: - Tôi nghi nó thụt mọt - chê 81 lên triền Hòn! - Có lẽ! Anh Ba Rèn phủi tay: - Ối, mình ở đây dẫu nó có bỏ bom tấn mình cũng khỏi sợ! Tiếng nổ vẫn tiếp tục không ngớt. ở trong hang mọi người nghe tiếng rền vang dội rất lâu, có đến mười phút sau mới dứt. Ai cũng lấy làm bực vì không biết bọn chúng đang làm gì. Mãi một lúc sau, Đạt nhỏ từ ngoài chạy xổ vào, la: - Tụi nó bắn cà - nông lên Hòn quá sức. Bắn gẫy cây gẫy cối hết. Cháu núp sau mô đá, nghe tiếng miểng nó đi rẻng rẻng. Hai Thép hỏi Đạt: - Còn tụi ở dưới xóm có động tĩnh gì không? - Tụi nó siết chặt hơn hồi nãy. Quân nó đóng dày chung quanh đây hết. Từ chân Hòn mình trở ra chừng hai công đất đều có tụi nó! - Ở gần miệng hang thì sao? - Nó chưa vô sát miệng hang. Hai Thép nói: - Tụi này bắn đại bác lên Hòn để dọn dẹp đây. Kiểu này thế nào nó cũng đánh vô. Tôi đề nghị bố trí ngay bốn tổ ba ba. Một tổ ở ngoài miệng hang, hai tổ thủ ở trong. Nên tập trung lựu đạn và tôm - xông cho các tổ đó. Ba Rèn và Ngạn đi bố trí liền đi. Còn bao nhiêu ở lại đây, tôi sẽ phân công. Anh Ba Rèn và Ngạn đứng lên. Hai tổ du kích và hai tổ của đội võ trang được chọn đi ngay. Ra cửa hang, Ngạn nói với anh Ba Rèn bấy giờ đã rút cây mã tấu cầm lăm lăm: - Anh Ba à, anh thủ ở ngách, để tụi tôi trấn ngoài bìa cho. - Được mà điều tôi dặn: nếu chú chịu với nó không xiết thì cứ rút. Tụi tôi đón nó. - Đồng ý! Ngạn cùng hai tổ của mình đi qua khỏi các bùng binh, luồn ra miệng hang. Anh chọn những mô đá có lợi thế tốt nhất ở hai bên. Tới phụ trách một tổ và anh phụ trách một tổ. Tổ của Tới được phân cho hai khẩu tôm - xông và bảy quả MK3. Tổ của Ngạn thì có một tôm - xông, một trường mát và tám lựu đạn, cũng là lựu đạn MK3. Bố trí xong, Ngạn thấy Đạt ở trong hang chạy ra hớn hở: - Chú Hai biểu em ra đây với mấy anh. - Vậy hả? Tốt lắm! Vậy em ở đây với anh. Cây cạc - bin của em được bao nhiêu đạn? - Bốn mươi lăm viên! - Nghe nói em bắn "cạc" khá lắm hả? Đạt cười ngượng nghịu: - Em bắn cũng được thôi. Chắc không bằng anh đâu! - Anh chỉ bắn mát, chớ "cạc" anh ít bắn lắm! Đạt nói: - Anh bắn mát giỏi thì nhứt định anh bắn "cạc" giỏi. Cây "cạc" bắn dễ trúng lắm. Mà bắn cây gì cũng vậy, em gẫm mình tỉnh thì bắn trúng. Ngạn nhìn bộ mặt chất phác dễ thương của Đạt, cười hỏi: - Thường thường thì em có tỉnh không? - Em tỉnh chớ! Đạt đáp dứt khoát. Nghe Đạt đáp. Ngạn tin ngay là cậu ta nói thật. Đối với cậu thanh niên mười tám tuổi này, từ lâu Ngạn đã đem lòng thương mến. Mỗi lần gặp anh Tám trên huyện, Ngạn để ý thấy Đạt hay đi cắm câu, đi bẫy chim. Ngoài nhiệm vụ bảo vệ, Đạt còn ra sức cải thiện để anh Tám có được bữa ăn khá. Chính cậu ta đã đãi Ngạn mấy bữa cá nướng và chim cu đất "rô - ti" ngon lành. Nhưng điều khiến Ngạn thương Đạt hơn cả là hiện nay Đạt không còn cha mẹ. Mẹ Đạt chết khi sinh ra Đạt. Cha Đạt là cán bộ xã hồi kháng chiến, năm năm mươi tám bị bọn Diệm bắt đập đầu vứt xác trong bàu rừng. Hài cốt của cha Đạt và những người khác được chính chị em Quyên, Sứ gom về, bây giờ cũng hãy còn để chung trong hang. Nay Đạt chỉ còn có bà ngoại, trên sáu mươi tuổi, hiện ở bên Lình Quỳnh. Đạt đi bảo vệ anh Tám được hai năm. Nghe đâu có lần bà ngoại Đạt nhớ Đạt quá cứ đi lần mò kiếm nó thăm. Ngạn hỏi: - Chiều hôm qua về Lình Quỳnh, em gặp bà ngoại rồi hả? - Em gặp rồi... Ngoại em mừng quýnh, cứ ngồi rờ mình mẩy em mà khóc. Rồi ngoại em đi kiếm đu đủ hườm về nạo trộn gỏi cho em ăn. Em khoái ăn gỏi đu đủ trộn tôm xé lắm. Lần nào về ngoại cũng làm cho em ăn "đã" thôi. - Món đó anh cũng khoái lắm. - Ngạn nói. - Em có đem về cho mấy anh năm xâu tôm lụi của ngoại em gởi... Ngạn đặt tay lên khẩu cạc - bin của Đạt, hỏi: - Cây "cạc" em lên đạn chưa? Đạt gật đầu: - Em lên rồi, nhưng đã khóa lại. Ngạn dặn: - Em lựa chỗ núp chỗ day trở cho thiệt ngon đi! Đạt ngắm nghía chỗ mình, nói: - Em ngồi đây được rồi! Đạt nâng khẩu cạc - bin lên, chĩa ra miệng hang, nhắm nghiền mắt trái. Cậu ta nheo mắt mấy lượt, đoạn liếm môi, bảo: - Ở đây bắn sướng lắm! Đạt để súng dựa vào đùi, mở lấy bi - đông nước ra uống. Hớp mấy hớp nước, Đạt đưa bi - đông về phía Ngạn: - Anh uống? Ngạn chỉ bi - đông nước đeo bên thắt lưng mình nói: - Anh có đây... - Dừng lại một giây, anh bảo: - Uống nước in ít thôi nghe Đạt. Khi khát lắm hãy uống! Rồi Ngạn cũng dặn tất cả: - Anh em nhớ phải tiết kiệm nước đấy. Trong hang có rất ít nước. Còn cơm khô, cốm dẹp của mỗi người là lương thực chính, đừng có buồn miệng đem ra nhai chơi đó! Tới hỏi: - Ở trong hang có gạo mà? - Có, nghe nói có hai giạ gạo. Nhưng hai giạ thì cao lắm là chịu được ba bốn ngày. - Ba bốn ngày thì nó rút mất rồi, sợ gì? - Chuyện đó chưa biết được. Ví dụ tụi nó vây riết mình độ một tuần lễ thì sao? Nghe Ngạn hỏi thế, không ai nói chi nữa. Mọi người lựa chỗ, ngồi im. Tất cả các mũi súng đều chĩa ra miệng hang. Ngạn đăm đăm nhìn cái lối mòn trên bãi cỏ cú. Anh nhìn những cây dừa đứng yên, những tàu lá dừa nhẫy nhượt, loáng nắng. Thấp thoáng vài tên lính áo quần xám xịt đang tới lui khuân vác những thứ gì không trông thấy rõ. Anh nghe tiếng xoong chảo khua loảng xoảng, tiếng la ó nhốn nháo từ xa vẳng tới và có cả tiếng dừa rụng bịch bịch.

XtGem Forum catalog