Đó là một kế hoạch độc ác!
Tay triệu phú Basil Protor nghe tin về một kho báu
ma quỷ. Lời lể về sự giàu có vô biên nằm dưới mặt đất
khiến hắn mất ăn mất ngủ. Hắn muốn có kho báu đó. Hắn
phải có kho báu bằng mọi giá.
Basil Protor mua toàn bộ hòn đảo nằm giữa biển Đại
tây Dương và thiết lập mối quan hệ với những quyền lực
của bóng đêm. Phía bên quyền lực ấy không để tên triệu
phú dễ dàng chạm tay đến kho báu nọ. Chúng đặt ra những
điều kiện riêng khắc nghiệt.
Basil Protor phải thực hiện một số nhiệm vụ.
Bọn quỷ muốn mạng người!
Triệu phú Basil Protor phải chấp nhận bước vào cuộc
thương thuyết tàn khốc. Gã bày cách lừa người lên hòn
đảo có chiếc đầu lâu khổng lồ...
Một đêm tháng 7 tối trời. Những đám mây dày nặng
và đen kịt đang kéo từ vịnh về. Chúng trôi lừ lừ như
những con quái vật trên bầu trời, ngang nhiên che khuất
mặt trăng khuyết anh ánh màu bạc mỏng, rồi lại lừ lừ
trôi tiếp, thẳng hướng đất liền.
Adam Preston thấy lạnh.
Gió thổi tung vạt áo bành tô khiến cho vải kêu sột
soạt. Adam Preston bẻ cổ áo lên cao, vậy mà mái tóc vàng
sậm của anh vẫn bị gió vò rối tơi bời.
Điên khùng thật, anh thầm nghĩ. Ta đang làm một
chuyện điên khùng. Ta đã nghe người ta rủ rê đến cao
nguyên hoang vắng này vào lúc nửa đêm, và thậm chí còn
tuân theo lời mời đó. Nhưng ở phía trước là năm trăm
bảng Anh đang vẫy gọi. Mà Adam Preston đã từng làm không
ít chuyện vì tiền. Thậm chí cho cả những khoản thù lao
nhỏ nhoi hơn. Một trăm bảng trả trước như động đậy trong
túi áo bành tô. Để có món tiền này, một người đàn bà già
nua phải đan len không biết bao nhiêu đêm dài.
Adam Preston không cô độc. Bởi vì còn có bốn con
người khác cũng đang có mặt trên cao nguyên. Hai cặp vợ
chồng ở tuổi trung niên. Một người đàn bà bám chặt vào
chồng mình. Người kia hút thuốc lá. Cô ta khum bàn tay
che gió, thỉnh thoảng đầu thuốc lại lập lòe đỏ hồng
trong bóng tối.
Adam Preston là người London. Anh đã đọc đoạn quảng
cáo đó trong một tờ nhật báo. Anh vẫn nhớ rõ từng câu.
“Tìm những con người độc lập, có đủ lòng dững cảm để
bước vào nguy hiểm và đam mê những cuộc phiêu lưu! Lương
trả đặc biệt cao! Xem thông tin chi tiết ở hộp thư 555!”
Adam Preston viết thư tới. Anh thất nghiệp từ nửa năm
nay. Trong cảnh đó, người ta dễ dàng bám vào mọi cơ hội
đưa đến như một người chết đuối vớ phải bất kỳ vật gì
trôi để bám víu.
Anh cũng đã nhận được thư trả lời. Một ông Basil
Protor nào đó muốn gặp anh. Adam Preston được lênh chờ
đến khi phía bên kia gọi lại.
Vậy là anh chờ. Hai ngày liền. Thế rồi họ gọi lại
thật.
Adam Preston vẫn còn nhớ rõ từng lời.
“Anh hãy đi về Cornwall. Địa điểm nằm tại phía nam
thị trấn Devontown, cách thị trấn này hai dặm và ở trên
một cao nguyên. Anh hãy đến đó vào lúc nửa đêm. Mọi
cuyện khác, tới nơi anh sẽ biết”.
Adam Preston lên đường. Và giờ thì anh thấy mình
không phải là người duy nhất quan tâm đến lời rao nọ.
Bao thuốc lá đang nằm trong túi bành tô. Bật lửa
cũng vậy. Adam Preston rút một điếu, bật lửa lên và ghé
sát lưỡi lửa xuống dưới đầu điếu thuốc. Trong vài giấy
đồng hồ, một vệt sáng chập chờn hắt lên mặt người đàn
ông. Soi rõ một làn da sần sùi, hai vành môi mỏng và một
cái cằm vuông. Vầng trán ông ta rất rộng, gió đang đẩy
những mớ tóc vàng rũ xuống lông mày.
Adam Preston đút bật lửa vào túi. Thèm thuồng, anh
rít một hơi thuốc không đầu lọc vào phổi. Khốn kiếp, rõ
ràng anh đang nôn nao đến mất bình tĩnh. Nhưng ai ở vị
trí anh bây giờ mà bình tĩnh nổi? Tại sao người ta lại
ra lệnh cho anh về Cornwall? Một nơi khỉ ho cò gáy tận
cùng thế giới.
Có lẽ những người kia biết nhiều hơn!
Adam Preston từ từ hướng về phía cặp vợ chồng đang
đứng gần anh nhất.
- Xin ông thứ lỗi. – Anh nói. – Ông có biết trò đang
diễn ra ở đây có nghĩa là gì không?
Hai người nhìn anh. Người đàn bà hình như có vẻ xinh
đẹp. Một chiếc khăn buộc đầu che chắn cho mái tóc thẫm
màu của cô trước làn gió dữ tợn. Người đàn ông nhún vai.
Anh ta có khuôn mặt tròn trĩnh với hai chiếc má bầu.
- Tôi không biết, thưa ông. Chúng tôi chỉ đọc đoạn
quảng cáo trên báo thôi.
- Vâng, tôi cũng vậy. - Adam Preston chỉ về hướng
cặp vợ chồng thứ hai. – Liệu họ có biết hơn chăng?
- Không đâu. Chúng tôi đã hỏi rồi. Họ cũng hệt như
chúng ta, không biết gì cả.
- Kỳ quái thật. - Adam Preston rít một hơi thật sâu.
Thật ra anh đang chớm cảm. – Ông bà có nghi ngờ gì
không? Chúng ta phải làm gì ở đây nhỉ?
Người đàn ông lắc đầu.
- Chắc không có chuyện trầm trọng đâu, nếu không họ
chẳng gọi phụ nữ đi cùng.
Adam Preston nhăn mặt.
- Làm sao mà biết được! A tiện thể, tôi xin giới
thiệu tôi là Adam Preston.
Người đàn ông gật đầu.
- Rất vui được gặp ông! Tôi là Nathan Grey. Đây là
vợ tôi, Linda.
Linda Grey rụt rè mỉm cười, nhưng cô vẫn chưa nói
lời nào.
- Ông biết tên của cặp vợ chồng kia không? - Adam
Preston hỏi.
- Không.
- Cũng chẳng quan trọng. – Adam Preston buông rơi
điếu thuốc, giẫm gót giày lên trên.
Biển cách đó không xa. Họ nghe tiếng sóng đang đập
ào ào vào những vách đá ngoài khơi. Ở đây, ở góc tận
cùng phía Tây Nam của miền Cornwall, cả đất liền lẫn
biển đều thô kệch, hoang dã. Người dân ở vùng này là một
loài người đặc biệt ít nói, kín đáo nhưng chung tủy và
thành thực.
Adam Preston hắng giọng. Anh cảm thấy mình đang làm
phiền đôi vợ chồng kia.
- Thôi, ta chờ xem sao. – Anh lẩm bẩm rồi quay lại
chỗ đứng cũ. Khi ném một cái nhìn qua vai, anh thấy
Linda đang nhìn theo mình.
Adam Preston mỉm cười với cô ta. Người đàn bà vội vã
ngoảnh đầu đi.
Adam Preston giết những phút đồng hồ sau đó bằng
điếu thuốc thứ hai. Người đàn ông nhớ lại những công
việc đã từng làm qua. Nghề bán bảo hiểm cả một thời gian
dài chỉ giúp anh tồn tại hơn là sống. Cuối cùng, để kiếm
tiền, anh bắt tay vào những vụ làm ăn mờ ám. Sự việc đổ
bể, chủ hãng đã đuổi Adam Preston ra đường, cũng còn may
là họ chưa lôi anh ra tòa. Adam Preston tiếp tục bám vào
tiền bảo hiểm thất nghiệp. Nhưng thứ tiền đó không đủ
cho người ta sinh sống. Vì thế Adam Preston nhảy vào cái
trò kiếm chác bằng những lời hứa hẹn hão huyền với các
cô gái ế chồng. Cả vụ này cũng lộ tẩy, anh phải vứt bỏ
tất cả để chạy tháo thân.
Dòng uy nghĩ của người đàn ông bị cắt ngang bởi
tiếng nổ tạch tạch. Aâm thanh đó vang từ bầu trời đan
kịt xuống và nhanh chóng to lên. Adam Preston nhìn lên
cao. Cả bốn người còn lại cũng đưa mắt lên nhìn bầu trời
đêm.
Họ nhìn thấy ánh đèn định vị lập lòe của một chiếc
máy bay trực thăng.
Vậy là sự việc bắt đầu rồi, Adam Preston thầm nghĩ.
Đột ngột tim anh đập nhanh lên một chút. Chiếc máy bay
lượn một vòng tròn, rồi những luồng đèn pha cực mạnh phả
thẳng xuống mặt đất. Chói quá, Adam Preston nhắm mắt
lại.
Chiếc máy bay trực thăng bây giờ đứng trên đầu nhóm
người đang chờ. Chầm chậm, nó xuống thấp, từng chút,
từng chút...
Người đứng bên dưới đã cảm nhận rõ luồng gió từ cánh
quạt phả tới, lá và những cành cây nho nhỏ bị bốc lên
cao. Những cây lớn hơn tì oằn oại. Adam Preston có cảm
giác như đang bị lôi lên khỏi mặt đất. Đôi vợ chồng nhà
Grey bám chặt vào nhau.
Chiếc trực thăng hạ cánh. Đèn pha tắt đi. Hai cánh
quạt vẫn còn quay. Một cánh cửa mở ra và chỉ một vài
giây đồng hồ sau đó, một người đàn ông mặc bộ quần áo
bằng da nâu nhảy khỏi buồng lái.
Cúi khom lưng, anh ta chạy về hướng những con người
đang chờ.
Vẫy một cánh tay, anh ta ra hiệu cho họ lại gần
mình. Bàn tay phải của anh ta cầm một danh sách.
Adam Preston không nhìn rõ mặt người đàn ông. Cặp
kính phi công che quá nửa khuôn mặt anh ta.
- Chào các ông, các bà! – Phi công nói và đưa mắt
bao quát cả nhóm người trứơc mặt. – Năm người, đúng thế.
Bây giờ tôi sẽ đọc tên. Adam Preston!
- Tôi đây!
Người phi công gật đầu.
- Nathan và Linda Grey!
- Có.
Người đàn ông đánh dấu cạnh tên họ trên danh sách.
- Cliff và Marry Kelland.
- Có.
- Tuyệt lắm. – Người đàn ông đút danh sách vào túi,
vẻ hài lòng. – Bây giờ mời các quý ông quý bà lên máy
bay! – Anh ta nói rồi ngay lập tức quay về hướng trực
thăng đậu.
- Khoan đã. - Adam Preston bước lên phía trước.
- Cái gì? – Phi công vừa hỏi vừa quay lại.
- Làm ơn cho chúng tôi biết máy bay sẽ đi về đâu?
Chúng tôi rất muốn biết người ta định đưa chúng tôi đến
chỗ nào. - Adam Preston nhìn quanh, chờ mong sự đồng
tình và gặt hái những cái gật đầu rất rõ ràng.
Người phi công đưa tay sửa cặp kính rồi anh ta tiến
tới vài bước.
- Ông đã nhận được một trăm bảng tiền trả trước
chưa? – Anh ta hỏi.
Adam Preston gật đầu.
- Đó thấy chưa? Thế thì im mồm đi. Lên máy bay đã.
Khoảng nửa tiếng đồng hồ nữa ông sẽ được biết nhiều hơn.
Còn bây giờ thì tôi không muốn ai hỏi han gì nữa hết.
Adam Preston nổi giận.
- Ông bỏ cái kiểu ăn nói đó đi!
Dáng người tên phi công căng lên hệt chiếc bánh
người ta bỏ vào chảo rán. Thế rồi hắn nhún vai, lầm lũi
quay trở lại máy bay. Trong bóng tối, chiếc trực thăng
trông lù bí hiểm như một con quái vật thuở hồng hoang.
Năm con người chẳng còn cách nào khác là đi theo gã
phi công. Adam Preston rất bực. Anh có cảm giác mình
đang bị qua mặt. Cái thằng cha cầm lái khốn kiếp kia
nghĩ nó là ai? Sao nó đối xử với bọn họ như người lớn cư
xử với trẻ con. Trong lòng Adam Preston thật chỉ muốn
quay ngược lại, bỏ về, nhưng nỗi tò mò của anh mạnh mẽ
hơn. Thêm vào đó là sự thúc ép của tình cảnh túng thiếu
hiện thời. Adam Preston là người cuối cùng lên máy bay.
- Nhanh lên! – Gã phi công gầm vào mặt anh.
Adam Preston không trả lời. Anh ngồi vào một trong
hai chiếc ghế còn trống, thắt dây bảo hiểm.
Đôi vợ chồng nhà Grey ngồi phía bên phải anh. Linda
Grey nhìn về lớp kính đằng trước mặt buồn thiu như thể
cô đang trên đường đi đến đám ma của chính mình.
Tay phi công sập cửa. Gã tắt cả ngọn đèn bên trong
máy bay. Những cánh quạt quay mạnh lên. Linda Grey dán
sát người vào chồng mình như muốn tìm sự an toàn. Nặng
nề, chiếc máy bay từ từ cất lên cao. Lần đầu tiên đi máy
bay, Adam Preston đột ngột có cảm giác dạ dày thót tới
tận cổ họng. Những người khác cũng không khá hơn. Mary
Kelland vội đưa tay bụm miệng.
Cảm giác buồn nôn biết mất thật nhanh. Chiếc trực
thăng lượn theo một vòng cung rồi bay ra hướng biển. Gió
ở đây còn mạnh hơn trong cao nguyên. Thỉnh thoảng nó lại
đùa nghịch với con chim sắt. Tay phi công vất vả vật lộn
giữ cho máy bay bay đúng hướng. Có một lần họ rơi xuống
dưới độ vài mét, Linda Grey thét lên, cả Adam Preston
cũng thấy nôn nao xanh mặt.
Nhưng sau đó, chuyến bay trở nên êm ả. Tay phi công
đã quen với trò chơi của thời tiết. Adam Preston nhìn
qua làn kính đằng trước. Mặc dù trời tối, đôi mắt anh
vẫn nhận ra một bức tranh hoang dại. Bên dưới họ là biển
đang trào bọt. Người ta nhìn rõ những con sóng rất dài,
rất cao. Bên trên bầu trời đêm là trùng điệp những dãy
núi mây dày đặc. Trông kỳ quái như sản phẩm của một họa
sĩ siêu thực.
Adam biết rằng dọc bờ biển Cornwall có rất nhiều đảo
nhỏ. Thường chỉ rộng vài dặm vuông, những hòn đảo tạo
thành một cái tổ khổng lồ cho những loài chim lạ. Đó là
nơi cúng không bị xâm phạm, có thể thoải mái đẻ và ấp
trứng. Nhưng cũng có cả hòn đảo có người ở. Có những
thương gia tinh khôn đã mua chúng. Đạ đa số đó là những
hòn đảo nằm ngoài ranh giới ba hải lý. Họ đã xây lên đó
những lũy thành đời mới và biến chúng thành nơi ăn ở. Đa
phần để trốn thuế. Sống ở đây, chẳng sở thuế nào trên
thế giới có thể nắm cổ họ, lại càng không với tới túi
tiền của họ được.
Những giây phút phân vân của mỗi người cứ kéo dài
ra. Chiếc trực thăng bây giờ bay êm hơn. Thế rồi đột
ngột, Adam Preston nhìn thấy phía Nam lóe lên một tia
lửa đỏ. Anh nói cho những người ngồi bên cạnh biết,
nhưng tất cả bọn họ đều nhìn thấy ánh đèn kỳ lạ đó. Nó
nhanh chóng lớn lên, sáng hơn.
Một cảm giác nôn nao khó hiểu dâng lên trong lòng
Adam Preston. Có phải đó là một cây hải đăng? Hay là một
ngọn đèn báo hiệu, hướng dẫn đường cho chiếc trực thăng?
Khách đi máy bay được biết sự thật ngay sau đó. Quầng
sáng lớn lên, tỏa rộng ra, trở thành một thực thể hình
cầu, những đường viền hiện lên rất rõ ràng. Nó trôi bồng
bềnh trước mũi máy bay, một vật thể cực lớn.
Adam Preston có cảm giác như một bàn tay vô hình
đang bóp chặt tim anh. Vốn không phải là người nhút
nhát, nhưng những gì anh đang nhìn thấy quả thật vượt ra
ngòai sức chịu đựng của một người bình thường.
Cái vật thể hình tròn màu đỏ kia không phải một quả
cầu đơn giản, mà là một cái đầu lâu khổng lồ. Hai hốc mắ
to khủng khiếp và mộ cái mõm rấ t rộng đang ngoác ra.
Chiếc trực thăng bay thẳng vào khoang mõm đó...
Adam Preston muốn nhảy lên, nhưng giây bảo hiểm giật
anh lại. Anh nghe tiếng thét sợ hãi của những người đàn
bà và tiếng cười hả hê của gã phi công.
Giờ thì cái mõm khủng khiếp kia đang ở ngay trước
mặt họ.
Chiếc máy bay trực thăng bay thẳng vào trong đó.
Rồi toàn khoảng không gian bao trùm chiếc máy bay
chỉ còn lại là một màu đỏ chòng chành, nhảy nhót. Những
tàn lửa li ti tràn cả vào không gian bên trong máy bay.
Và năm con người có cảm giác họ đang chìm vào máu.
Hai người đàn bà vẫn la hét mãi không ngơi cho đến
lúc mọi việc qua đi.
Không còn ánh sáng, không còn đầu lâu, không còn gì
cả.
Chiếc máy bay trực thăng hạ độ cao. Họ đang trôi lơ
lửng trên một cao nguyên. Cao nguyên này cũng bằng phẳng
và có hình cữ nhật. Adam Preston nhìn rất rõ khoảng đất
bên dưới trong quầng đèn pha của máy bay.
Chỉ còn vài mét nữa thôi, rồi càng máy bay sẽ chạm
đất. Chiếc trực thăng rơi thẳng xuống, dừng lại, chuẩn
bị ha cánh. Tay phi công đưa chiếc máy bay nặng nề vào
bãi đỗ phủ bê tông.
Gã tắt máy. Những chiếc cánh quạt từ từ chậm lại.
Thêm một vài tiếng động nữa, thế rồi cả những âm thanh
này cũng ngưng bặt.
Phi công đứng dậy, xoay về hướng đám khách đi máy
bay. Một nụ cười đểu giả bao quanh khóe miệng gã.
- Xuống thôi, quý vị. Tới nơi rồi!
Gã phi công đẩy cửa ra.
- Nhanh lên! – Gã gọi. –Ông Proctor không thích chờ
đâu đấy.
Đám khách bay lảo đảo rời trực thăng, Adam Preston
là người cuối cùng bước xuống. Tay phi công đứng bên
cạnh cửa nhăn răng ra cười nhìn anh.
Adam Preston đứng lại.
- Những gì anh đang làm ở đây thệt giống cái trò bắt
cóc. – Anh nói.
Gã phi công nhún vai.
- Thế thì anh muốn gì? Anh tự nguyện đến đấy chứ.
Giờ thì nhanh chân lên. Nếu không sẽ gặp phiền toái đấy!
- Phiền toái chỉ xảy ra với anh thôi.
Gã phi công cười lớn hơn khiến bốn người kia phải
quay lại nhìn họ.
- Nếu ông biết chuyện gì đang xảy ra, thưa quý ngài.
– Gã nói.
Adam Preston tự nhủ thầm sẽ quay trở lại hỏi chuyện
gã này lần nữa.
Cái đầu lâu đã biến mất hoàn toàn. Đó chỉ là ảo ảnh,
một bức tranh tưởng tượng thôi sao? Adam Preston không
tin như vậy. Anh đã nhìn thấy cái đầu lâu bốc màu lửa đỏ
quá rõ ràng. Anh bước nhanh lên, kéo ống tay áo Nathan
Grey.
Người đàn ông miễn cưỡng quay lại.
- Gì thế?
Adam Preston đi bên cạnh anh ta.
- Ông cũng nhìn thấy cái đầu lâu đó phải không?
- Vâng.
- Thế sao? Oâng nghĩ thế nào?
- Không biết.
- Ta đi tiếp thôi. – Linda Grey nói.
- Khốn nạn! - Adam Preston gầm gừ.
Hình như anh là người duy nhất bực dọc về chuyện đó.
Chẳng lẽ những người khác không có mắt trên đầu? Hay họ
thấy đó là chuyện bình thường? Không thể tưởng tượng
được! Suy cho cùng thì cái trò bay vào một chiếc đầu lâu
khổng lồ đâu phải là chuyện hàng ngày. Tại sao một thứ
như thế lại hiện ra giữa trời?
Không, câu chuyện này có cái gì đó kỳ quái, điên
khùng, Adam Preston tin chắc như vậy.
Nhưng mọi vật bây giờ trông lại bình thường. Nhìn
quanh, Adam Preston biết mình đang đứng trên một hòn
đảo. Chính xác hơn là đang đứng trên mái bằng của một lô
cốt khổng lồ xây bằng bê tông. Anh đoán chiếc lô cốt này
cao chừng bảy mét. Bên dưới kia là đất đảo. Nó mấp mô,
đầy đá. Cách đó một quãng hơi xa, Adam Preston nhìn thấy
mặt biển đang rập rờn đập sóng vào những vách đá và sủi
bọt lên.
Thì ra họ đang đứng trên một hòn đảo mà đã được ai
đó mua làm của riêng. Có lẽ đây là nơi sinh sống của mộ
tay triệu phú nào đó, kẻ đang cần tìm những nhân công rẻ
mạt. Rất có thể. Nhưng nếu thế thì cái đầu lâu khốn kiếp
kia dính dáng gì đến chuyện này?
- Đứng lại! – Tên phi công cắt ngang dòng suy nghĩ
của mỗi người.
Năm người dừng bước. Gã phi công đi ngang qua đám
người, lên phía trước. Gót giày đóng đinh của gã đập như
trong một cuộc duyệt binh tạo âm thanh muốn ghê óc.
Khi đã cách nhóm khách khoảng chừng bốn mét, tên phi
công dừng lại, cúi người xuống và mở một cái cánh cửa
chìm bằng thép được xây lẫn vào mái bằng. Nó được quét
màu ngụy trang khiến người lạ không ai nhận ra.
Tên phi công chỉ tay.
- Xuống! – Gã ra lệnh. – Xuống cho nhanh!
Đầu tiên, đôi vợ chồng Kelland chui xuống dưới. Rồ
vợ chồng Grey bước theo.
Thêm một lần nữa, Adam Preston là người xuống cuối
cùng. Gót giày của anh đạp lên những bậc thanh bằng
nhôm. Anh trèo xuống một bầu không gian tối đen như quạ.
Tên phi công đứng trên mái bằng nhìn xuống dưới.
Dáng người hắn bây giờ chỉ còn là một đường viền lờ mờ.
Thế rồi cánh cửa đóng lại.
Một màn đêm trĩu nặng.
Giọng nói đầy hoảng hốt của Mary Kelland vang lên.
- Cliff, họ định làm gì với ta vậy?
- Anh không biết.
Adam Preston tỏ ra có đầu óc thực tế hơn, anh tìm
bật lửa. Nhưng đúng lúc bàn tay anh chạm vào nó trong
túi áo thì điện đột ngột cháy lên.
Hai ống đèn nêông trần trụi tỏa sáng xuống đầu họ.
Cả năm người nhắm mắt lại vì chói lóa. Tiếng rù rì sau
đó thu hút sự quan tâm của họ vào khoảng tường trước
mặt. Có hai cánh cửa bằng thép đang được kéo sang bên.
Thế rồi Basil Protor xuất hiện.
Và cùng với gã là nỗi kinh hoàng...
Jerry Flint là một gã trai ăn chơi. Ít nhất thì
những người xung quanh cũng nghĩ như vậy. Nhưng họ không
hiểu đúng Flint. Con người đó ngoài mặt không hề quan
tâm đến chuyện gây tiếng tốt, nhưng sự thật anh là một
gã trai đàng hoàng cứng cáp.
Một tính cách không thể thiếu cho nghể nghiệp của
anh.
Jerry Flint là một thám tử. Anh đang làm việc cho
Dịch Vụ Bảo An, cơ quan tìn báo của chính Nữ Hoàng Anh.
Jerry Flint là một trong những thám tử thông minh
nhất và thành công nhất của cơ quan, và vì thế mà được
chọn chọ những kế hoạch dài lâu. Sở trường của anh là
truy lùng dấu vết của những kẻ phạm pháp, những kẻ kiếm
tiền bằng trò làm ăn mờ ám. Anh canh chừng các thương
gia quan hệ nhiều với một số tổ chức trong và ngoài nước
nhất định, những tổ chức nhận được thông tin từ mọi
nguồn khách nhau, không ít thông tin tối mật, và sử dụng
chúng cho mục đích làm ăn. Ở vị trí đó, người ta rất dễ
sai lầm chẳng tận dụng chúng riêng cho bản thân mình, mà
còn thuận bán nó cho khách hàng ngoài nước. Đây chính là
lúc Jerry Flint sẽ ra tay. Nhiệm vụ của anh là phát hiện
và ngăn chặn những hành động bội phản. Anh thường canh
chừng vàtóm bắt những kẻ tình nghi ở những nơi không ai
ngờ đến.
Lần này đối tượng của anh có tên là Basil Proctor.
Gã đàn ông này khiến cơ quan tình báo phải để ý tới
khi gã nhảy sang ngành buôn vũ khí. Hoạt động của gã đầu
tiên nằm hoàn toàn trong vòng pháp luật, thế rồi ngày
càng trở nên u ám và ngoắt ngoéo hơn. Qua những món tiền
bạc triệu, Basil Proctor nhanh chóng gây được nhiều ảnh
hưởng trong guồng máy kinh tế và trở thành một trong
những nhân vật dẫn đầu các nghành công nghiệp. Proctor
bắt đầu mua nhiều nhà máy rất lớn và vương quốc kinh tế
của hắn mỗi ngày một phình to hơn ra, doanh thu tăng
chóng mặt. Vì Dịch Vụ Bảo An rất muốn biết có một số
lượng nhất định kiếm được bao nhiêu tiền ở đất Anh, kiếm
bằng cách nào và tiêu xài chúng ra sao, nên Basil
Proctor rơi vào vòng khaonh đỏ bị canh chừng.
Người canh là Jerry Flint.
Chàng thám tử làm việc rất có hệ thống. Với sự trợ
giúp của các sở kinh tế, anh rọi đèn vào những vụ làm ăn
của tay triệu phú. Rất nhanh chóng, Flint nắm rõ các
dịch vụ chuyển nhượng hợp pháp của Basil Proctor. Kẻ
ganh ghét và những người ngồi lê đôi mách cho anh biết
một vài yếu tố về cuộc sống riêng tư của gã đàn ông đó.
Basil Proctor đã trải qua ba lần cưới vợ. Gã rất e ngại
đám đông và thường chỉ làm việc ở hậu trường. Tòa biệt
thự gần London của gã nằm gọn trong một công viên lớn.
Các ống kính quay phim đảm bao cho một hệ thống canh
chừng liên tục. Và vào mộ ngày nọ, Basil Proctor mua cả
một hòn đảo, cách bờ biển Cornwall chừng hai mươi dặm.
Tên triệu phú đã biến vũng đất nằm giữa Đại Tây Dương
thành mộ lũy thành. Hắn xây ở đó một lô cốt lớn, sống
trong đó với những tay thân tín. Và hắn làm một điều
khiến Jerry Flint còn ngạc nhiên hơn cả việc xây lô cốt:
hắn bán các doanh nghiệp của mình đi. Bán với giá rẻ
mạt. Một thương gia sành sỏi như Basil Proctor đột ngột
lại đánh mất thói quen mặc cả!
Dĩ nhiên cơ quan tình báo bấy giờ càng nghi ngờ
mạnh. Jerry Flint nhận lệnh tìm cho ra tay triệu phú kia
đang chơi trò ngông cuồng hay hắn đang lên kế hoạch cho
một vụ làm ăn khổng lồ mà không ai biết tới.
Cuộc canh chừng của Jerry Flint trở nên cận sát.
Bên cạnh đảo của Basil Proctor có một hòn đảo có
người ở. Đường tàu nối đảo này với đất liền được điều
khiển bằng vô tuyến. Hai chàng thủy thủ già nua, dạn dày
kinh nghiệm như những con gấu biển chịu trách nhiệm canh
chừng trong trung tâm điều khiển. Ngoài ra, lực lượng
quân đội Anh cũng đã xây căn cứ trên mãnh đất đầy sỏi đá
đó. Một sĩ quan và khoảng chừng hai mươi người lính được
điều tới. Tất cả quá quen thuộc với vị khách Jerry
Flint. Họ có nhiều đêm cùng uống rượu với nhau trong
quán nhỏ và mơ tới một ngày tươi sáng, người trên đảo sẽ
được chiêm ngưỡng dáng hình phụ nữ đẹp tuyệt.
Nhưng đó chỉ là một giấc mơ thôi. Những người lính
đã đổ sức biến một cái vịnh nhỏ thành bến cảng tạm thời.
Họ mở rộng và che chắn nó trước sóng biển. Khiến những
chiếc xuồng máy ở đây không bị lật khi trời bão.
Sau khi đã sống trên đảo suốt mười tám ngày trời,
Jerry Flint bắt đầu ngán ngẩm cái trò dùng ống nhòm chĩa
sang đất của Basil Proctor. Anh muốn tự thân sang bên
đó, muốn thăm dò hòn đảo bí hiểm kia từ khoảng cách gần
nhất.
Buổi chiều hôm đó, khi Flint bước vào căn tin, các
vị khách ngồi đó ngạc nhiên khi thấy anh không đặt rượu
whisky.
- Này, cậu ốmhả? – Chàng trung úy hỏi đùa. – Cậu
thích uống nước khoáng từ bao giờ vậy? Cái thứ nước đó
đẻ ra chấy rận trong bụng đấy, biết chưa?
Những chàng lính khác cười lớn, cả Jerry cũng cười.
- Thôi bỏ đi, các cậu. – Anh nói. – Cả đêm hôm qua
mình ngồi trong phòng vệ sinh. Có lẽ hôm trước mình ăn
phải cái gì không hợp dạ dày. Khó chịu lắm, các cậu biết
không?
- Nhưng nguyên nhân chắc không phải rượu whisky của
tôi đâu. – Ông chủ quán béo phị gầm gừ chống cả hai nắm
đấm lên vành hông đầy mỡ.
- Tôi có nói thế đâu, thậm chí đến nghĩ cũng không
giám! – Jerry mỉm cười đáp lại. Lúc này, gương mặt vôn
trẻ trung của anh càng gây ấn tượng trẻ trugn hơn. Jerry
có một mái tóc màu vàng xám, rối bù, thách thức mọi thứ
lược trên đời. Gương mặt anh lốm đốm không biết bao
nhiêu vệt tàn nhang. Hai con mắt xanh sáng, chiếc quai
hạm bạnh ra, chiếc eo thon chắc cùng bờ vai cùng bờ vai
vạm vỡ là niềm mong ước của không ít nam diễn viên điện
ảnh.
Jerry Flint hôm nay ăn mặc xuyền xoàng. Quần jean và
áo len. Aùo len của anh sẽ dài đến tận đầu gối nếu bị
người ta kéo xuống.
Jerry uống nước khoáng, trong khi chàng trung úy và
đám lính uống whisky.
- Còn mười ngày nữa sẽ có người đến thay chúng mình.
Tới lúc đó – chàng trai đấm lên mặt bàn xù xì , - ta sẽ
quậy cho cuộc đời này biết tay...
Những chàng lính gào lên hưởng ứng. Một người đặt mộ
chầu whisky khao cả bọn.
Ông chủ quán bận túi bụi. Mấy tay lính uống rượu mỗi
lúc một nhanh hơn. Đối với Jerry Flint, đây là một cơ
hội tốt để lẻn đi.
Không một ai nhận ra khi anh nhẹ chân đi về hướng
cửa. Thở ra nhẹ nhõm, Jerry Flint bước theo con đường
rải sỏi về khu nhà ở. Anh ngủ cùng với những chàng lính
trong dãy nhà một tầng xây bằng bê tông. Mặc dù không
sang trọng, nhưng cũng tạm đủ cho một thời gian ngắn. Họ
có một chiếc máy phát điện riêng.
Trời đã tối, Jerry Flint nghe tiếng rì rào của sóng
biển. Gió từ ngoài đó thổi vào lồng lộng như một con vật
bất kham đang tung hoành. Nó tru lên trên những vách đá
của những dãy núi ngoài khơi.
Kho đựng vũ khí nằm ngay bên cạnh dãy nhà, bao quanh
là những hàng dây thép gai rất chắc. Jerry Flint mở cánh
cửa bằng sắt của khu nhà ở ra, bước vào một hành lang
dài và hẹp. Hai bên là cửa phòng ngủ. Các chàng lính ở
đây ngủ hai người một phòng, Flint và chàng sĩ quan được
ở phòng riêng. Cặp gấu biển già nua ngủ ngoài kia, trong
trung tâm điều khiển vô tuyến của họ, nằm ở góc đảo tận
cùng phía Tây Nam.
Cứ mỗi tuần một lần, con tàu chở hàng lại tới đây và
mang theo tất cả những đồ vật, dụng cụ cần thiết.
Jerry Flint bước vào phòng mình. Căn phòng rất ngăn
nắp, gọn gàng. Một cái giường sắt, một tủ con và mộ bộ
bàn ghế. Tất cả đồ vật chỉ có vậy. Khúc ống lò sưởi nằm
bên dưới cửa sổ đang tỏa ra hơi ấm.
Vali của Jerry Flint nằm bên dưới gầm giường. Anh
kéo nó ra ngoài, mở nắp, đưa tay cầm lấy khẩu súng lục
nhãn FN của Bỉ rồi chọn một chiếc máy điện đàm rất nhỏ
nhưng cực mạnh. Cả hai thứ được anh cho vào túi vải rồi
quấn quanh cổ như một chiếc tay nải con con. Cuối cùng,
anh đút ống nhòm tia hồng ngọai vào túi, mặc áo khoác
da, rời khỏi ngôi nhà và lên đường ra cảng. Con đường
mòn rất hẹp dốc thoai thoải xuống dưới, chạy thẳng ra bờ
vịnh. Ơû đó đang có nhiều thuyền đỗ, cả con thuyền cuả
Flint với hai động cơ rất mạnh chạy dầu diesel nằm im
lìm chờ đợi.
Không một ai nhìn thấy chàng thám tử khi anh kéo tấm
nhựa phủ sang bên. Rồi anh tháo dây buộc và giơ chân
bước qua mạn thuyền. Anh đi về hướng bánh lái, đút chìa
khóa, bật máy. Cả hai động cơ kêu lạch xạch vài tiếng,
thế rồi nhanh chóng gầm rú to hơn. Khéo léo, Jerry Flint
đưa con thuyền lách qua những thuyền khác , đi về hướng
cửa ra. Sau khi qua cái cửa nhỏ hẹp đó, Flint ngay lập
tức bị sóng biển tóm lấy. Những con sóng bạc đầu lấp
lánh chạy ngược đường làm Jerry Flint phải xoay bánh
lái. Anh đi về hướng Đông Nam, đúng hướng có hòn đảo của
Basil Proctor đang hiện lên như một khối đen lù lù.
Biển hôm nay động nhẹ. Những con sóng thay phiên
nhau vỗ vào mạn thuyền. Thỉnh thỏang bọt nước lại tràn
vào trong trắng xóa.
Jerry Flint đi với vận tốc mười hai hải lý, đủ nhanh
để đến mục tiêu trước nửa đêm. Tới lúc đó, anh sẽ đặt
chân lên hòn đảo và bắt tay vào việc khám phá bí mật của
nó. Chàng thám tử không biết, cuộc phiêu lưu đang chờ
anh ở mảnn đất trên đảo kia sẽ nguy hiểm tới mức nào.
Thời gian trôi bình thản chẳng hay biết ý muốn của
con người. Có những lúc Jerry Flint thấy mình là người
cô đơn nhất thế giới, nhưng anh chịu đựng được. Anh
chẳng phải chỉ được dạy bảo một cách tử tế và lâu dài về
mặt thể chất, mà kể cả về mặt tinh thần. Anh được cánh
vượt qua các cơn khủng hoảng. Quá trình đào tạo ở Dịch
Vụ Bảo An không phải là thời nhàn tản, ăn chơi.
Bầu trời phủ đầy mây khiến Jerry Flint phải đi theo
la bàn. Cặp động cơ diesel gầm gừ no nê như những con hổ
đang thõa mãn. Jerry Flint đã cho kiểm tra và sửa sang
con thuyền của anh rất kỹ, bởi anh biết rất có thể một
lúc nào đó, tính mạng của anh sẽ phụ thuộc vào con
thuyền này.
Kim đồng hồ trên bảng điều khiển chỉ gần nửa đêm.
Những ngọn đèn nho nhỏ màu xanh lá cây phả lên khuôn mặt
Jerry Flint một quầng sáng siêu thực. Những ai nhìn
Flint lúc này sẽ không thể tưởng tượng nổi anh chính là
gã trai càn quấy ngông nghênh thường lệ. Chàng thám tử
cố đưa sự đứng đắn, tập trung vào đầu óc. Từng sợi dây
thần kinh của anh căng thẳng hết cỡ.
Đột ngột anh nhìn thấy một vệt sáng. Đầu tiên đó chỉ
là một điểm nhỏ màu đỏ, nhưng rồi nhanh chóng lớn hơn
lên và lộ rõ hình dạng.
Hai con mắt Jerry Flint mở lớn, trong một thoáng anh
có cảm giác thế giới đi lộn đầu xuống đất.
- Không thể thế được! – Người con trai tự nói. Rồi
anh nheo mắt lại, nhưng bức tranh kia rõ ràngkhông thay
đổi. Jerry vừa nhận ra những đường viền của một chiếc
đầu lâu.
Cái đầu lâu mỗi lúc mỗi to hơn. Như một con quái vật
khổng lồ, nó lừng lững giữa không gian. Một đỉnh cao của
nỗi kinh hoàng với cái mõm mở ngoác ra, trông như một
vực thẳm có thể nuốt chửng tất cả loài người.
Cảm giác nôn nao dâng lên trong tâm khảm chàng thám
tử, trong khi tay vẫn giữ vững con thuyền theo hướng đi
định trước. Phía trên đầu anh văng vẳng một thứ âm thanh
ma quái, nhưng rồi nó nhanh chóng biến đi. Jerry Flint
gài chắc tay lái, với lấy ống nhòm.
Chàng thám tử chĩa lên bầu trời, quan sát. Hai chân
dạng ra, anh đứng giữa con thuyền máy để giữ thăng bằng
và anh phát hiện thấy chiếc trực thăng. Con chuồn chuồn
khổng lồ bằng thép đang bay thẳng vào cái đầu lâu bí
hiểm.
Jerry Flint cắn chặt môi.
- Không thể thế được! – Anh lẩm bẩm. Cuộc đời sự
nghiệp đã đưa anh chứng kiến không ít sự kiện, nhưng một
hiện tượng như thế này thì chưa.
Một cái đầu lâu bốc lửa đỏ mọc ra giữa trời. Không
thể tin được.
Chiếc máy bay trực thăng bay tiếp. Sắp...rồi... nó
đã tới chiếc đầu lâu...
Jerry Flint bất giác nín thở. Anh nhìn thấy chiếc
trực thăng lao vào giữa khoang mõm của đầu lâu. Thế rồi
đột ngột, đầu lâu biến mất.
Mọi việc xảy ra nhanh như chớp. Thật sự chỉ trong
vòng một giây đồng hồ.
Thay vào đó, một ngọn đèn pha cực mạnh được bật lên.
Jerry Flint nhìn chùm sáng cắt qua màn tối như một lưỡi
kiếm rộng bản trắng lóe xẻ đôi bầu trời.
Trực thăng đỗ xuống. Jerry Flint đã chụp ảnh hòn đảo
này từ xa. Anh biết sự tồn tại của cái lô cốt và đoán
rằng chính lô cốt được dùng làm nơi đậu máy bay.
Đối với Jerry Flint, cảnh tượng vừa hiện ra trước
mắt anh là bằng chứng cuối cùng cho thấy hòn đảo của
Basil Proctor đang chứa chấp những thế lực u ám, những
thế lực đang chơi những trò ngoắt ngoéo.
Cái đầu lâu kia không thể tự nhiên mà xuất hiện.
Jerry Flint quyết tâm giải mã câu đố bí hiểm trên hòn
đảo của Proctor.
Sau khoảng mười lăm phút đồng hồ Jerry Flint đã tới
gần hòn đảo đến độ phải hạ bớt động cơ xuống. Đi bằng
một nửa phần mã lực, anh lướt dọc phía Bắc đảo, tìm tòi
trong một loạt những con vịnh nhỏ li ty, mong kiếm một
nơi có thể dừng thuyền.
Chiếc trực thăng đã tắt đèn pha đi nhưng vẫn còn đậu
trên nắp lô cốt. Jerry Flint nhìn thầy người trèo từ
trên máy bay xuống, rồi sau đó chui qua một cửa khoét
trên nóc lô cốt, biến mất.
Jerry Flint không lo đến chuyện lọt vào trong lô
cốt. Chắc chắn anh sẽ tìm được một khả năng nào đó. Hiện
anh phải tập trung vào mặt biển, bởi những luồng nước
gần bờ tương đối hiểm độc. Có những vũng xoáy rất mạnh,
có những tảng đá ngầm dưới mặt nước sắc đến nỗi có thể
xé rách mình thuyền.
An toàn, con thuyền nhỏ của Jerry Flint từ từ trôi
về hướng cái vịnh rất nhỏ mà chàng thám tử cho là thích
hợp hơn cả.
Không một ai ngăn cản khi Jerry tiến vào vịnh. Những
đợt sóng biển đã phần nào bớt đi hung hãn trước khi vào
tới trong này và chúng giờ đây dập bền một cách dịu
dàng. Con vịnh thậm chí còn có một bãi cát rất nhỏ và
chẳng bao lâu sau, đáy thuyền của anh đã chạm vào nền
cát chứa đầy sỏi vụn. Anh để cho con thuyền từ từ nhích
tới. Động cơ đã được tắt đi từ ban nãy, xung quanh không
một tiếng động.
Giờ thì Jerry Flint bộc lộ rõ mình không những là
một người dũng cảm mà còn rất điềm tĩnh, chín chắn.
Chàng thám tử rút máy điện đàm, báo cáo về tất cả những
gì anh vừa nhìn thấy. Tín hiệu phát ra từ đây sẽ được
thu tại một trong những trung tâm nằm dọc bờ biển nước
Anh rồi truyền trực tiếp về London. Dĩ nhiên, tín hiệu
được mã hóa và đưa vào tần số không dễ gì nghe lén.
Công việc báo cáo ngốn của Jerry Flint năm phút. Sau
đó anh bắt tay vào việc buộc con thuyền lại. Anh tìm
thấy một vách đá và cuốn vòng dây quanh nó.
Xong xuôi, Jerry Flint tìm cách định hướng, nhưng
trong bóng tối mọi vật trong thật khác. Lô cốt nằm ở
khoảng giữa đảo. Thoạt nhìn, nó gây ấn tượng như một lũy
thành không gì tấn công nổi. Nhưng kinh nghiệm cho Jerry
Flint biết rằng, nếu đủ lòng dũng cảm và trí tưởng
tượng, con người ta có thể vượt qua được bất cứ tòa nhà
nào, dù bên ngoài có vẻ chắc chắn đến bao nhiêu đi chăng
nữa. Lô cốt tất nhiên không chỉ có một cửa vào, nó cũng
phải có những cửa phụ như cửa thoát hiểm, thường không
chắc chắn và không được canh phòng cẩn mật như cửa
chính.
Trong đêm hôm nay Jerry Flint muốn tìm ra bí mật
trên hòn đảo của Proctor. Và sự kiện đáng chú ý là trong
đêm nay có một chiếc máy bay trực thăng chở đến đây năm
hay sáu con người, rất có thể những người ấy sẽ kể cho
anh nghe được điều gì đó nếu như anh tiếp cận được họ.
Jerry Flint không quên mang theo đèn pin. Aùnh sáng
của nó rất mạnh, chàng thám tử xoáy một màng chắn ra
trước lần kính để giảm cường độ ánh sáng. Thế rồi anh
bật đèn lên và đi tìm một con đường có thể dẫn anh lại
gần lô cốt.
Thình anh nghe thấy một tiếng động. Jerry Flint dừng
phắt lại. Tắt đèn.
Tiếng loảng xoảng của xích sắt.
Rồi một giọng nói.
-Ôi trời, ôi trời, thuyền trưởng ơi! Quân tiếp viện
đã tới kia. Có cả phụ nữ nữa kìa!
-Tốt! Chỉ thêm một chuyến hàng nữa là con tàu sẽ đủ
người. Tập hợp quân lại đi, Howard!
-Tuân lệnh, thưa ngài!
Tiếng chân người! Tiếng ra lệnh!
- Chắc mình điên mất rồi. - Jerry Flint thầm lẩm
bẩm. – Đúng, chẳng lẽ mình nằm mơ? – Giọng người kia
vang từ đâu nhỉ?
Chàng thám tử đã núp xuống đàng sau một vách đá. Anh
hiểu từng lời mà những người đàn ông kia nói lên. Anh
nghe chúng thật rõ ràng, cứ như thể họ đứng sát bên anh.
Nhưng quanh anh không có ai...
-Tôi lên thuyền trước! – Anh nghe tiếng tay thuyền
trưởng nói. – Bao giờ xong thì cho tôi biết, Howard!
-Vâng, thưa ngài!
-Chuẩn bị chèo thuyền! – Tiếng một khẩu lệnh vang
lên. Sau đó là tiếng quệt trên mặt đất, chính xác là
âmthanh của một con thuyền đang bị đẩy trên nền cát.
Trong khoảng vài vài giây đồng hồ, vùng không gian của
con vịnh nhỏ sáng rực lên và Jerry Flint nhìn thấy những
hình người. Những hình người từ thế kỷ trước.
Đám người ăn vận như những tên cướp biển và được
trang bị bằng dao găm, lưỡi hái, gươm và kiếm. Thế rồi
hình ảnh biến mất, nhanh hơn một cảnh chiếu trên màn
hình.
Anh chàng Jerry Flint dày dạn kinh nghiệm thấy rõ da
lưng của mình đang rởn lên. Anh đã trải qua không ít sự
kiện, nhưng việc ở đây quả thật vượt quá khả năng tưởng
tượng. Đám thủy thủ kia đã nói chuyện ngay bên cạnh anh,
vậy mà anh không nhìn thấy họ. Chỉ vài giây trước đây
thôi, giọng nói của họ vang lên như thể giơ tay là chạm
thấy.
Không thể thế được!
Jerry rút khẩu súng FN. Anh từ từ rời khỏi chỗ nấp.
Trò gì đang diễn ra ở đây?
Nghi ngờ, chàng thám tử đưa mắt nhìn quanh. Mọi vật
bây giờ lại trở nên yên tĩnh. Con vịnh nhỏ nằm cô đơn
trong hoang dạinhư người đời đã bỏ quên nó. Chỉ có những
đợt sóng biển nhè nhẹ theo nhau tràn lên bãi cát nhỏ
nhoi ngàn năm không thay đổi.
Chẳng lẽ anh nằm mơ ra tất cả những chuyện đó? Chẳng
lẽ anh đã trở thành một bệnh nhân tâm thần? Jerry Flint
biết những triệu chứng của một bộ dây thần kinh quá căng
thẳng. Không ít người bạn của anh bị hủy hoại sức lực
trong cái nghề này. Nhiều người gặp may và được hưởng
những món tiền hưu hậu hĩnh. Những người khác phải hạ
cánh xuống trại tâm thần trong hội chứng bị truy đuổi.
Không thể đến mức đó, Jerry Flint tự chủ rồi bước đi.
Anh đi được đúng ba bước!
Rồi mọi việc kết thúc.
-Kìa, đứa nào thế nhỉ? – Một giọng người kêu lên.
-Nó không phải quân mình.
Có cái gì kêu loảng xoảng. Nghe như vô vàn cuộn xích
sắt đang đập vào nhau.
-Một nhân chứng! – Giọng thứ nhất nói.
-Phải giết nó thôi!
Jerry Flint nghe rõ từng câu nói đó, thân hình anh
cứng lại. Dạ dày quặn thắt. Anh cầm cán súng chặt hơn.
-Nào cho nó ăn đòn đi!
Giọng nói vang lên ngay đằng sau lưng anh. Jerry
Flint xoay phắt lại. Nhưng đó chính là một sai lầm. Đột
ngột, anh cảm nhận có một cái gì rất lạnh bám vào cổ
họng mình. Một nửa tích tắc sau, khí quản anh bị siết
ngang. Jerry Flint bị giật thật mạnh ra đằng sau. Anh
không ngã. Có những bàn tay tóm lấy anh. Tiếng loảng
xoảng của những sợi xíach sắt bây giờ vang lên ngay
trước mặt anh. Và rồi Jerry Flint biết chuyện gì đang
xảy ra với mình. Có kẻ muốn siết cổ anh. Siết bằng một
đoạn dây xích sắt mà anh không nhìn thấy!
Anh tuyệt vọng kháng cự. Người quẫy, chân đạp. Bàn
tay anh bấm cò ba lần. Những tiếng súng quất vào bầu
không gian xung quanh. Những tiếng vọng lan trên đảo,
những viên đạn chỉ lao vút vào không khí, vô hiệu quả.
Chúng không tìm thấy mục tiêu.
Jerry Flint sặc sụa. Sợi xích sắt siết tới mỗi lúc
một chặt hơn. Đã từ lâu Jerry không còn thở được nữa.
Những chuyển động của anh yếu đi, chậm dần, sau đó ngưng
hẳn. Lực siết của đoạn xích sắt trên cổ anh vẫn không
giảm xuống.
Một bức tranh khủng khiếp, kỳ quái: thân hình hết
sức sống của Jerry Flint bị kéo xềnh xệch như một bó giẻ
trên nền đá, phần vai trên như được treo vào không khí.
Người ta hoàn toàn không nhìn thấy lũ đàn ông tóm lấy
anh kéo đi. Lũ người vô hình kéo Jerry Flint vào tới lô
cốt đổ bê tông. Khi bọn chúng tới nơi thì chàng thám tử
đã chết rồi.
Trên đời này tất nhiên có những căn tin biết cách
nấu ăn. Nhưng căn tin của Scotland Yard không phải thuộc
lọai đó. Ít nhất là đối với John Singlair. Chàng chánh
thanh tra trẻ tuổi này đâu phải thứ công tử quen được
nuông chiều, thế nhưng cái thực trạng muốn ăn thịt bò
rán phải vác cả cưa theo nhiều khi khiến người ta ngán
ngẩm. Vậy là anh để món thịt đứng đó và quay lại với hũ
sữa chua mùi dâu đất. John đâu có cần ăn kiêng để đề
phòng bệnh béo phì, vậy mà cứ thỉnh thoảng lại bị đẩy
vào cảnh sống cả ngày bằng sữa chua và rau trái. Rõ là
chuyện khó hiểu!
Chàng thanh tra đã dành trọn buổi sáng hôm nay cho
việc nghiên cứu hồ sơ cũ. Vụ án gần đây nhất vẫn còn đẻ
tiếp một vài công việc cần hoàn tất. Quán đếm của những
con ma cà rồng mặc dù đã bị đóng cửa, thế nhưng núi báo
cáo và giấy tờ kèm theo nó khiến John Singlair đau đầu
còn hơn cả cuộc truy lùng đám quỷ hút máu kia. Một cuộc
phiêu lưu mới vẫn chưa mở ra. Và John rất mừng vì đều
này. Ba ngày nữa anh muốn ra phi trường đón đôi bạn Suko
và Bill Connolly. Cả hai người vừa qua một chuyến du
lịch mạo hiểm vào vùng núi Himalaya, và John đang rất
nóng lòng muốn biết họ đã gặp gỡ những chuyện gì ở đó.
John Singlair có bí danh là Thợ Săn Ma. Một bí danh
hoàn toàn có căn cứ. Chàng thanh tra tóc vàng quan tâm
đến những vụ án nằm ngoài ranh giới của cuộc sống bình
thường. Anh được cần tới khi những người khác không tiến
bước được nữa, những công cụ thường ngày tỏ ra bất lực.
Khi cuộc chiến chống lại những con ma cà rồng, những
người sói hoặc các loại ma quỷ khác bắt đầu là lúc John
vào cuộc. Và cho tới nay, tỷ lệ giải án của anh khiến
cho không ít đồng nghiệp của anh phát ghen.
Anh chàng John tội nghiệp vừa tức tối nhìn món thịt
bò rán dai hơn cao su trước mặt vừa múc thìa vào hũ sữa
chua thứ hai. Thế rồi anh châm cho mình một điếu thuốc
lá, để thúc đẩy cái gọi là “quá trình tiêu hóa” của một
bữa ăn hoàn toàn không có mỡ.
Bồi bàn đến dọn dẹp. Cô ta là người mới, và cô ta
mỉm cười với John. Chàng thợ săn ma mỉm cười đáp trả.
Khi cô gái tóc vàng quay đi, cái bím tóc hình đuôi ngựa
lúc lắc một cách nghịch ngợm. Chàng thợ săn ma ném theo
cô gái một cái nhìn nữa, rồi dụi thuốc lá.
Tiếng loa đột ngột vang lên, chui vào từng ngóc
ngách căn tin.
“Mời chánh thanh tra John Singlair tới gặp chỉ huy
trưởng Powell. Mời chánh thanh tra Singlair tới gặp chỉ
huy trưởng Powell...” -Lại nữa rồi. – John lầm bầm. –
Giữa giờ nghỉ trưa cũng chẳng cho người ta yên thân.
Anh đi về hướng thang máy.
Đầu tiên, John đi lên phòng làm việc của anh, phủ áo
khoác lên vai rồi mới lên đường tới phòng sếp.
Powell không ở một mình. Người đàn ông ngồi cạnh ông
có khuôn mặt một con chuột đồng sầu não và ánh mắt rắn
như thép của diễn viên Franco Nero. Một hỗn hợp kỳ lạ.
Ngoài ra người đó chỉ cao khoảng chừng một mét sáu mươi.
Oâng ta có mái tóc bạc chẻ đôi thẳng tắp và mặc một bộ
complé màu xám. Oâng ta nhìn chàng thanh tra vừa bước
vào như một con rắn nhìn con thỏ mà chẳng bao lâu nữa nó
sẽ nuốt chửng.
Chàng thợ săn ma đóng cửa lại.
Chỉ huy trưởng Powell ngồi đằng sau bàn viế, giơ tay
chỉ vào một chiếc ghế.
-Mời anh ngồi, John!
-Cảm ơn. – Chàng thợ săn ma ngồi xuống.
Powell hướng về phía gã đàn ông lùn tịt mang bộ điệu
cáu kỉnh.
- Cho phép tôi giới thiệu, đây là đại tá Ryker. Đại
tá là người của Dịch Vụ Bảo An và đến với chúng ta vì
một nhiệm vụ đặc biệt.
John Singlair gật đầu về phía vị khách. Anh không
mấy ưa đám người trong phe tình báo. Thường họ là những
kẻ kiêu căng, và những ai phải làm việc chung với họ
luôn phải chịu đựng cảm giác bị kẻ khác nhìn bằng nửa
con mắt. Ông đại tá bất chấp chiều dài cơ thể rất khiêm
tốn kia, hay õ lẽ chính bởi nó rõ ràng cũng là một thành
viên của lũ dân vênh váo.
-Xin mời ông, đại tá! – Chỉ huy trưởng Powell lên
tiếng.
Người của phe tình báo gật đầu. Ông ta bắt đầu nói,
giọng có âm lượng rất lớn tràn ngập tòan bộ căn phòng.
-Đầu tiên tôi xin nhắc nhở rằng tất cả những gì được
nói ra ở đây tuyệt đối chỉ dành riêng cho ba người này
và không được phép lộ ra với công luận. Suy cho cùng,
đây là vụ án có tầm quan trọng đặc biệt...
-Ông cho phép tôi ngắt lời ông nhé?
Đại tá Ryker bối rối nhăn trán. Chắc ông ta không
quen thấy có kẻ giám ngắt lời mình.
-Vâng, xin mời.
John bất giác mỉm cười. Anh biết quá rõ sếp của
mình. Bản thân chỉ huy trưởng cũng là một cái đầu cứng
ngang đá hoa cương, nhưng một khi có kẻ dám tỏ ra nghi
ngờ phẩm chất đạo đức nhân viên của ông thì Powell sẽ dữ
giằn như một con hổ chúa.
- Chánh thanh tra John Singlair là một người tuyệt
đối đáng tin cậy, đại tá! – Ông nói. – Anh ấy đã chứng
minh điều đó không chỉ một lần. Tôi nói như vậy để ở đây
khỏi xảy ra chuyện nghi ngờ không cần thiết.
Viên đại tá cố làm điệu bộ thẳng người lên như một
cây nến.
- Tôi hiểu rồi, thưa quý ngài!
Và ông đại tá bắt đầu thật. Có lẽ người đàm ông này
rất thích mình được nói. Ông ta lấy đà thật dài, kể lan
man về một tay nào đó tên Basil Proctor. Ông ta kể cuộc
đời của người đàn ông đó, miêu tả quyền lực kinh tế của
ông ta, rồi cuối cùng mới có hành động bán doanh nghiệp
đã gây ra một làn sóng ngạc nhiên trong thế giới tài
chính.
- Tay Basil Proctor đó đã mua một hòn đảo, và đã cho
xây dựng kiên cố như bảo vệ một núi vàng. Gã xây ở đó
một lô cốt bằng bê tông cùng rất nhiều hệ thống canh
chừng. Dĩ nhiên người trong Dịch Vụ Bảo An của chúng tôi
nghi ngờ. Suy cho cùng, chuyện một người tự nhiên bán
tất cả những cơ sở của mình rồi rút lui về Đại Tây Dương
là chuyện bất bình thường. Thám tử của chúng tôi, người
trước đó đã quan sát Basil Proctor, được lệnh đẩy mạnh
cường độ điều tra. Jerry Flint cuối cùng đã quyết định
đến hòn đảo đó để quan sát hiện trường. Anh ta cũng đã
đế nơi, nhưng rồi mọi việc kết thúc. Cho đến nay chúng
tôi không nghe một tin nào nữa của anh ấy. Bản báo cáo
cuối cùng qua đường dây vô tuyến truyền về trạm thu sóng
của chúng tôi đã được giải mã. Tôi có mang nó theo đây.
Đại tá Ryker cúi người xuống, mở khóa chiếc cặp hồ
sơ đựng bên cạnh. Rồi ông ta rút ra tờ giấy A4 và đưa
cho đồng nghiệp.
John Singlair và Powell bắt đầu đọc.
Quả thật là một bản báo cáo thú vị. Anh chàng Flint
đó kể về một cái đầu lâu khổng lồ, trôi bồng bềnh trên
hòn đảo, có một chiếc máy bay trực thăng đã bay vào
trong mõm nó. Anh ta không tìm được lời giải thích và
chính vì vậy mới càng nôn nóng muốn lên đảo để quan sát
tận nơi.
John hạ tờ giấy xuống.
- Như đã nói. – Ryker tiếp tục cất tiếng. – Sau đó
chúng tôi không hề nhận được tin của Jerry Flint. – Ông
ta lại đưa về phía chỉ huy trưởng Powell một tấm ảnh của
Jerry Flint.
Powell đặt tờ giấy xuống mặt bàn.
- Và bây giờ thì ông cần sự giúp đỡ của chúng tôi?
Đại tá nhăn mặt.
-Trợ giúp có lẽ không phải là khái niệm thật sự
chính xác...
Powell nở một nụ cười chua ngọt.
- Bản thân tôi cũng biết, các cơ quan tình báo luôn
có những thanh tra tốt nhất thế giới này. Nhưng ta nói
chuyện cụ thể: ông muốn biết điều gì? Hay nói một cách
khác, ông đến chỗ chúng tôi nhằm mục đích gì?
- Ông đại tá đối diện oằn người né tránh như một con
giun vừa chui ra khỏi lỗ.
- Chuyện này không dễ giải thích. – Ông ta nói. –
Mới nghe bản báo cáo thì người ta cũng có thể cho đây là
hình ảnh tưởng tượng của một anh chàng ba hoa. Một cái
đầu lâu khổng lồ...làm gì có chuyện đó! Nhưng mặt khác
thì Jerry Flint rất được chúng tôi tin tưởng. Chúng tôi
thật sự không cho rằng anh ta nói dối. Bởi bộ phận của
ngài, thưa ông Powell, là chuyên gia cho những vụ án bất
thường, nên cấp chỉ huy cao nhất đã trao nhiệm vụ cho
tôi mời quý ngài cùng cộng tác.
Giờ đến lượt John Singlair lên tiếng.
- Có phải như thế nghĩa là tôi cần phải làm việc
chung với các nhân viên của ngài?
- Vâng.
- Tôi xin lỗi. – John lắc đầu. Vậy thì tôi đứng
ngoài vụ này.
- Ông không thể làm như thế được. – Đại tá Ryker nổi
khùng. – Nếu tôi nói với ông rằng...
- Ông không có quyền nói gì với tôi cả, thưa ông. –
Chàng thợ săn ma bình tĩnh đáp trả. – Tôi chỉ nhận nhiệm
vụ từ thủ trưởng trực tiếp của mình. Người đó là chỉ huy
trưởng Powell. Chỉ khi ông ấy cho việc này là đúng đắn,
tôi mới tham gia.
Ngón trỏ trên bàn tay phải của viên đại tá chồm về
phía trước như móng của một con diều hâu.
- Ông nói cho anh ta nghe đi!
Chỉ huy trưởng Powell nhún vai. Màn kịch của ông và
John đang thành công tuyệt hảo.
- Ông thấy đấy, ông đại tá, chánh thanh tra Singlair
là nhân viên tốt nhất của tôi. Anh ấy đạt tỷ lệ phá án
100%, đó là điều mà ta không thể khẳng định đối với nhân
iên Dịch Vụ Bảo An. – Powell đưa một bàn tay lên khi
thấy đại tá Ryker tỏ ý phản đối. – Tôi biết tôi đang nói
gì, ngài đại tá! Các ông đã không ít lần phải nuốt thất
bại. Nhưng đó chỉ là chuyện pgụ. Còn bây giờ, nếu chánh
thanh tra Singlair tỏ rõ ý muốn làm việc một mình, thì
tôi phải chấp nhận ý kiến đó thôi. Chắc anh ấy sẽ có
những lý do riêng.
- Ra thế, quỷ thật! – Đại tá nói. – Chẳng lẽ anh ta
là siêu nhân?
- Không, nhưng là một chuyên gia. Mà ngoài ra thì
chính ông là người đến chỗ chúng tôi và cầu mong viện
trợ. Ta muốn chơi bài ngửa với nhau và gọi sự việc đúng
tên.
Người đại tá thở phì ra.
- Thôi được, tôi chấp hành yêu cầu của phía ông,
nhưng hoàn toàn không phục.
- Chuyện đó đối với tôi không quan trọng. Powell khô
khan đáp. Ông gỡ kính xuống, rút một chiệc khăn lau hai
mặt kính, rồi nói tiếp. – Chúng tôi có được phép biết
chi tiết không? Ý tôi muốn nói, hòn đảo này nằm cụ thể ở
đâu và chánh thanh tra Singlair làm thế nào đề đến được
nơi đó một cách tốt nhất? Người ta có thể chọn điểm xuất
phát ở đâu?
- Đáng tiếc là tôi hoàn toàn không thể cung cấp dữ
liệu cho quý ngài. – Đại tá Ryker đáp. – Mặc dù chúng
tôi có đầy đủ thông tin về Basil Porctor, nhưng tất cả
chỉ là những chi tiết vào khoảng thời gian ông ta bán
doanh nghiệp. Chúng tôi không biết hiện ông ta đang theo
đuổi mục đích gì. Đó chính là điều mà Jerry Flint muốn
tìm ra.
- Còn có người nào khác quan hệ với Basil Porctor
không? - John Singlair hỏi.
- Không. Gã ta bán đi tất cả, chỉ trừ một biệt thự ở
gần Plymouth.
John gật đầu.
- Plymouth nằm cạnh bờ biển Cornwall. Có lẽ nó còn
một mối liên hệ.
Powell đồng tình.
- Rất có thể.
Đại tá Ryker đứng dậy.
- Thưa quý ngài, tôi nghĩ vậy là tôi đã nói tất cả.
Chúng ta sẽ liên lạc thường xuyên với nhau chứ?
Powell gật mạnh.
- Dĩ nhiên!
- Chúc thành công. – Ryker nói tiếp. Rồi ông đi ra
cửa.
- Ph...phù!!! – John thở phì ra khi anh chàng tình
báo đã khất bóng. – Rõ là một định kiến xa xưa nhưng
hoàn toàn có lý. Bọn con trai này còn kiêu ngạo cho tới
chết. Lúc nào chúng nó cũng tự cho mình là kẻ vĩ đại
nhất.
- Thôi, bỏ đi. – Chỉ huy trưởng phẩy tay. – Ta quan
tâm đến vụ án. Anh có tin đằng sau nó có chuyện gì tầm
cỡ không?
John cẩn thận phát biểu.
- Tôi nghĩ có thể. Cái đầu lâu khổng lồ kia không
thể do Jerry Flint bịa ra. Hơn nữa, anh đã mất tích. Nếu
không thì chắc chắn cơ quan của anh đã nhận được tin
rồi.
- Đúng, anh có lý. – Powell uống cạn cốc nước của
mình. – Nếu tôi không lầm thì anh sẽ về Plymouth ngay
ngay hôm nay, đúng không?
- Ông không lầm đâu, thưa ngài chỉ huy. Tôi sẽ đến
ngôi nhà đó. Rất có thể tôi sẽ tìm được ở đó dấu vết đầu
tiên.
- Tốt. Chúc may mắn!. – Powell cười, một chuyện rất
hiếm khi xảy ra. Trò cãi vã với tay đại tá vừa rồi chắc
chắn là một niềm vui không nhỏ.
John Singlair không thể không thông cảm với ông.
Mười phút sau, anh đã đứng trong tầng nhà để xe của
Scotland Yard, nơi có chiếc Bentley đang đậu. Chiếc xe
ánh bạc đang chờ được đưa ra ngoài. John Singlair quyết
định chiều chuộng nó.
Đầu tiên, anh lái xe về căn hộ của mình. Chàng thợ
săn ma không muốn tay không vào cuộc chiến. Có một số đồ
vật mà anh cần đến bằng mọi giá, bởi ma quỷ không thể bị
hủy diệt bằng súng đạn bình thường...
Mặc dù vậy, John Singlair vẫn thầm coi vụ này không
có gì đặc biệt. Anh thậm chí tính còn tính toán đến khả
năng sẽ gặp một tay triệu phú có tính kỳ quặc, người sẵn
sàng vì một ý thích điên khùng bất chợt nào đó mà hành
động chẳng giống ai.
Chẳng mấy khi chàng thợ săn ma lại nhầm lẫn trầm
trọng đến thế..
Như đã bị thôi miên, Adam Preston và hai cặp vợ
chồng nhìn trân trối vào cánh cửa nặng nề. Hiện thởi họ
vẫn chưa nhận ra những dáng hình nọ, bởi không gian nằm
phía bên kia cánh cửa hoàn toàn chìm trong bóng tối.
Thế rồi, như một ngọn đòn giáng xuống cuộc đời họ!
Basil Proctor ngồi trong một chiếc ghế lăn. Những
bánh xe bằng cao su êm ái quay trên nền đất. Chiếc ghế
được trang bị một động cơ chạy điện, tiếng rù rì nhè nhẹ
của nó là âm thanh duy nhất vang lên trong bầu không khí
tĩnh lặng đến ngộp thở.
Basil Proctor hãm xe. Ông chúa của hòn đảo này có
một ngoại hình thật tởm lợm. Đó là một người tàn phế.
Một thân xác nhăn nhúm nhét trong ghế lăn. Cái đầu ngoẹo
hẳn sang một bên, vai trái trễ sâu xuống dưới. Những
đường nét trên khuôn mặt người đàn ông đó bị biến dạng
hoàn toàn. Làn da phủ đầy những vết sẹo to bằng đồng xu,
khuôn đầu trọc lóc không môt sợi tóc, đôi mắt ánh lên
ngôn lửa của quỷ Satan. Phủ lên trên đôi chân là một lớp
chăn dài màu xám, chạm đất.
Linda Grey thốt lên một tiếng kêu nhẹ khi nhìn thấy
người đàn ông đó. Adam Preston hít một hơi thật sâu.
Ra đó là ông chủ bí hiểm của họ đây.
Một kẻ tàn phế kinh khiếp chưa từng thấy!
Adam Preston nhớ lại là anh đã từng nhìn thấy ảnh
của con người này. Trên bức ảnh đó Basil Proctor là một
người đàn ông cao lớn, đẹp trai.
Có lẽ Basil Porctor đang đọc được suy nghĩ trong đầu
Adam Preston, ông ta nói:
- Đúng thế, trước đây trông ta khác hẳn, anh bạn
Preston thân mến. Nhưng rồi ta sẽ quay trở lại với ngoại
hình cũ. Chính vì việc đó mà ta đã cho đưa các bạn về
đây. – Người đàn ông nhìn mặt từng người đối diện. Aùnh
mắt ông ta dừng lại lâu hơn ở hai người đàn bà. - Thế
rồi ông ta gật đầu. – Đòn thủy thủ chắc sẽ rất mừng vì
có thêm phụ nữ. Trên tàu hiện nay chưa có ai thuộc giới
nữ. – Rồi ông ta cười bằng cái giọng khàn khàn khùng
khục.
Adam Preston ném một cái nhìn thật nhanh về phía hai
người đàn ông còn lại. Họ đang đứng đó, đờ đẫn vì kinh
hãi. Không một ai giám bước về phía Basil Proctor.
Chỉ trừ Adam Preston. Anh ta mạnh dạn tiến lên phía
trước một bước, đứng rất sát cái ghế lăn. Mặt anh ta đỏ
bừng lên. Với một nếp nhăn khinh thị quanh khuôn miệng,
người đàn ông nhìn xuống bộ mặt tay triệu phú.
- Ông Proctor, - anh ta nói, - chẳng lẽ ông tin rằng
lũ chúng tôi sẽ ở lại trên hòn đảo này của ông? Máy bay
vẫn còn đứng trên nóc nhà. Chỉ vài phút nữa là phi công
sẽ đưa chúng tôi ra khỏi đây và chẳng một ai ngăn được
chúng tôi. Cả ông cũng không!
- Đó cũng là ý kiến của tôi. – Cliff Kelland lên
tiếng. – Chúng tôi không ở lại đây thêm một phút nào nữa
đâu. – Người đàn ông thả tay vợ ra và bước lên đứng cùng
Adam Preston khi Nathan Grey còn chần chừ.
Proctor cười phá lên.
- Những thằng ngu. Gã gào to. – Dĩ nhiên là bọn mi
sẽ rời đảo như không phải theo cái kiểu mà bọn mi nghĩ
đâu. Còn ciếc trực thăng? Mở tai mà nghe kỹ đi. Có lẽ
bọn mi sẽ thấy tiếng nó đang cất cánh.
Adam Preston đột nhiên trở nên bối rối. Giống như
những người khác, anh nhìn trân trối lên nóc phòng. Đung
như vậy. Họ đang nghe văng vẳng tiếng cách quạt trực
thăng đang bay.
Khuôn mặt Adam Preston nhăn lại. Anh nắm chặt hai
nắm đấm, trông như sẵn sàng nhảy xổ vào Basil Proctor
bất cứ lúc nào. Người đàn ông cố giữ bình tĩnh.
- Vậy thì bản thân ông phải đưa chúng tôi ra khỏi
chỗ này! – Anh kêu lên.
- Không có chuyện đó. – Proctor giơ tay phải lên và
búng hai ngón tay rất dài, gầy gò như tay nhện. Lập tức
có tiếng bước chân vang lên.
Thế rồi từ trong bóng tối của căn phòng đằng sau
Proctor hiện ra một gã đàn ông. Trông gã giống như một
người Ả Rập. Ít nhất thì chiếc khăn trên đầu hắn cũng
được quấn theo kiểu Ả Rập. Gã mặc một áo choàng thật
dài, phủ sát đất, trông hơi giống áo liệm người chết.
Khuôn mặt cứng đờ vô cảm như được làm bằng đá hoa cương,
nhưng cấy súng tự động trong hai bàn tay mạnh khỏe lại
ngầm nói một thứ ngôn ngữ rất rõ ràng.
- Đây là Ali. – Basil Proctor giới thiệu. – Anh ta
sẽ lo lắng sao cho bọn mi ở lại trên hòn đảo này. Ít
nhất là tong thời gian tới.
Adam Preston lùi một bước. Khẩu Mpi trong bàn tay
người Ả Rập khiến anh kính nể.
- Thì ra ông muốn giữ chúng tôi ở lại đây bằng vũ
khí? – Nathan Grey thốt lên.
Cô vợ Linda của anh bắt đầu khóc.
Basil Proctor không phủ nhận.
- Đúng thế. – Gã đáp. – Đâu có khác được. Bọn mi
định chạy trốn, mà đó là điều ta không thể chấp nhận.
- Tại sao ông lại cho gọi bạn tôi về đây? - Adam
Preston hỏi.
Basil Proctor giơ cả hai cánh tay.
- Ta muốn có một đoàn thủy thủ.
- Chúng tôi không phải thủy thủ.
- Ta biết...
Adam Preston nhăn trán.
- Thế thì tôi không hiểu, ông nhận chúng tôi để làm
gì? Nếu điều khiển một con tàu, người ta cần những thủy
thủ dày dạn kinh nghiệm...
Basil Proctor cáu kỉnh vẩy ta.
- Vớ vẩn. – Gã nói. – Bọn mi đâu phải đi biển cho
ta.
- Thế thì cho ai?
- Thuyền trưởng Barell!
Hai con mắt Adam Preston nheo lại thành hai vệt nhỏ.
- Barell...Barell. – Anh lẩm bẩm. Không biết tôi đã
nghe cái tên này ở đâu rồi thì phải.
- Có phải đó là người đàn ông có con tàu đã bị chìm
cách đây tới cả hai trăm năm? – Cliff Kelland hỏi. – Mới
vừa đây trên báo còn nói về ông ta.
Basil Proctor cười khúc khích.
- Té ra mi biết tin cũng nhanh đấy. Đúng thế. Con
tàu đó có tên là Cornwall Love, quả thật đã chìm xuống
cách đây gần hai trăm năm. Thuyền trưởng Barell là người
Ấn Độ. Ông ta đã tìm thấy một kho báu có giá trị không
ai ngờ tới. Một kho báu của quỷ sứ gồm rất nhiều vàng và
vô vàn đá hiếm. Đó là những thứ mà tiền ngày hôm nay
không mua được. Nhưng ta sẽ nhận được nó.
- Chúng tôi dính dáng gì đến chuyện này? – Linda
Grey kêu lên.
Gã đàn ông tàn phế nhăn răng ra cười một cách tởm
lợm.
- Thuyền trưởng Barell đã đặt một điều kiện, nói cho
chính xác hơn thì ông ta bắt buộc phải đặt điều kiện.
- Điều kiện nào? - Adam Preston bình tĩnh hỏi.
- Từ từ đã, chàng trai trẻ. Rồi bọn mi sẽ được biết
chính xác mọi chi tiết. Kho báu mà thuyền trưởng Barell
mang về đây là kho báu bị nguyền rủa. Con thuyền của ông
đã bị nhấn chìm. Đúng ở đây, ngay trước bãi biển này. Ta
tình cờ biết chuyện và đã tìm cách lặn tìm kho báu đó.
Chỉ tiếc là ta hoàn toàn không biết đến lời nguyền rủa
đối với cá linh hồn. Chính lời nguyền đã biến ta thành
một kẻ tàn phế, và kho báu bây giờ vẫn còn nằm dưới đáy
biển. Nhưng có một khả năng đưa kho báu đó lên bờ, đồng
thời hóa giải lời nguyền: Đó là phải gom góp cho đủ một
đội thủy thủ mới. Khi thuyền chìm, Barell và thủy thủ
của ông ta đã chết, nhưng linh hồn của họ bị Maharadscha
nắm giữ. Từ hai trăm năm nay, những hồn ma đó canh giữ
kho báu cho vị thần dữ tợn. Đến nay, chưa một ai có thể
với tay được vào chỗ có vàng. Xác chết của những kẻ thử
làm điều đó bây giờ đang mục ruỗng dưới biển. Chỉ riêng
ta đã ký được một hợp đồng với thuyền trưởng Barell. Nếu
thỏa mãn được tất cả những điều kiện của ông ta, thì sẽ
nhận được ngoại hình ngày trước cùng kho báu đó. Giờ thì
đã hiểu tại sao ta không thể để bọn mi bỏ về rồi chứ? Lũ
mi chính là một phần của đoàn thủy thủ mới!
Bối rối, Adam Preston lắc đầu.
- Tôi không thể tin được. – Rồi anh lẩm bẩm. – Không
thể có chuyện đó. Ông đang lừa dối chúng tôi, đang giễu
cợt chúng tôi, ông già kia.
Basil Proctor cười lớn lên, giơ hai bàn tay gầy guộc
xoa vào nhau.
- Ta biết, chuyện rất khó tin. Bản thân ta thời gian
đầu cũng không thể quen nổi với chuyện thân hình mình
lại thay đổi chỉ trong vòng có một đêm và trở thành một
kẻ tàn phế như thế này. Mi có biết cuộc đời của mộ kẻ
tàn phế là như thế nào không? không đâu, không một ai có
thể tưởng tượng được, không một ai có thể hiểu được cảnh
chết dần chết mòn đó. Chẳng một ai giúp đỡ và ta chỉ có
thể tin cậy vào cái ghế lăn khốn nạn này.
Basil Proctor đập bàn tay xuống ghế.
- Nhưng mọi việc sẽ khác đi! Ta muốn quay trở lại
với ngoại hình ngày xưa, dù có phải dùng đến bất kỳ
phương tiện nào.
- Hóa ra ông...ông hy sinh tính mạng của những kẻ
khác để lấy lại hình dạng của con người ông? – Linda
Grey thì thào, giọng ngập trong nước mắt. – Ông đã làm
bao nhiêu con người vô tội trở thành bất hạnh rồi, ông
Proctor?
- Cô sẽ gặp họ ngay bây giờ. Ta đã cho xây dựng cả
một khu nhà riêng cho đội thủy thủ mới. Cho tới khi lên
tàu, cả đám các anh chị sẽ ở đó. Nhưng đừng sợ, không
phải chờ lâu nữa đâu. Chỉ thêm một chuyến hàng nữa là đủ
số.
Suốt thời gian qua, Adam Preston im lặng. Anh dồn
toàn bộ sự tập trung vào gã Ả Rập và thầm vạch một kế
họach táo bạo. Anh tin vào những lời giải thích của tay
triệu phú kia và có thể tưởng tượng được rằng, Basil
Proctor sẽ quyết tâm đạt đến mục đích của gã bằng mọi
cách.
Nhưng không thể làm trò đó với anh, Adam Preston mím
môi tự nghĩ.
Gã Ả Rập đứng bên trái chiếc ghế lăn. Nòng súng của
gã không chỉ vào một người nào cụ thể mà chỉ hướng vào
phòng. Đó là điểm tựa cho kế hoạch mà Adam Preston
thầmvạch ra. Anh bước một bước về phía trước. Không có
phản ứng. Tay người Ả Rập chẳng chuyển động.
Adam Preston thấy tim mình đập nhanh lên. Trong khi
Basil Proctor vẫn tiếp tục miêu tả kế hoạch của hắn và
thu hút sự chú ý của những người còn lại, Adam Preston
lẹ làng bước tiếp.
- Ali! – Giọng ra lệnh như ngọn roi quất ngang căn
phòng trần trụi. Lệnh của Basil Proctor.
Ali giật người một cái, nòng súng máy chĩa thẳng vào
Adam.
Nỗi sợ xuyên dọc người anh như một tia chớp. Gã đàn
ông kia chỉ cần kéo nón tay thôi là mọi việc kết thúc.
Nhưng người đàn ông nặng nhọc thở. Đó là những âm thanh
duy nhất vang lên trong bầu tĩnh lặng nặng nề. Thế rồi
Basil Proctor lên tiếng.
- Đừng giết nó, Ali! Nó gặp may là được ta cần tới.
Nhưng cho nó một bài học, để nó biết kháng lệnh ta thì
hậu quả sẽ ra sao.
Ali gật đầu. Hình như tên Ả Rập này bị câm. Với một
cử chỉ hầu như có vẻ điềm đạm, gã đàn ông hạ khẩu súng
xuống đất, dựng đứng ngả vào tường. Rồi gã từ từ quay
người lại, vừa quay người, vừa ra đòn.
Không đời nào Adam Preston nghĩ rằng ngọn đòn đó sẽ
trúng được anh. Bởi suy cho cùng, khoảng cách giữa hai
người dài quá hai mét. Nhưng Ali là một con quỷ. Có vẻ
như thân hình gã trong chớp mắt đã dài ra gấp đôi. Gã
người Ả Rập cho Adam Preston biết hiệu chứng của một quá
trình luyện Karaté suốt mười mấy năm trời Ali giáng
trúng miệng Adam. Môi người đàn ông há ra. Sức mạnh của
ngọn đòn đẩy anh bay qua căn phòng. Thân hình anh đập
rất mạnh vào khoảng tường trần trụi. Loáng thoáng trong
tiềm thức, anh nghe tiếng thét kinh hãi của hai người
đàn bà trong nhóm. Ngọn đòn nhanh như chớp và cứng như
thép thiếu chút nữa khiến anh gục hẳn lìa đời.
Khi gã Ả Rập cúi xuống bên thân người nằm trên mặt
đất thì Proctor ra lệnh ngưng hành động.
- Đủ rồi! – Cái hình người trong ghế lăn bỗng sủa
lớn.
Ali dừng tay, xoay người, giơ tay cầm súng máy lên.
Cảm giác đau dịu xuống từng chút một. Adam Preston
đưa tay lên chùi máu trên miệng, rên rỉ nhỏm dần lên.
- Lẽ ra mi không nên làm như vậy. – Proctor nói.
Đoạn gã quay về phía những người còn lại đe dọa trắng
trợn. – Giờ thì bọn mi đã biết, điều gì sẽ xảy ra nếu
bọn mi gây khó dễ cho công việc của ta.
Bốn người kinh sợ lặng im.
Ba, bốn giây đồng hồ liền, căn phòng chìm xuống với
câm nín chết chóc. Trong không gian đó, tiếng loảng như
vang lên gấp bội.
Marry Kelland là người đầu tiên phát hiện ra người
chết. Nửa phía trên cơ thể anh trôi trên mặt đất. Tiếng
gót giày kéo lệt xệt trên nền bê tông. Chen vào đó là
tiếng bước đi, tiếng rung của những đoạn xích sắt và
những giọng người.
Basil Porctor quay ghế lăn lại. Gã đột ngột cười phá
lên và nói.
- A ha, bạn bè ta tới rồi kìa. Họ muốn chào đón bọn
mi.
Một lời tuyên bố kỳ quặc, bởi chẳng một ai nhìn thấy
bạn bè của gã đâu cả.
Vậy mà rõ ràng chúng hiện hữu...
Linda Grey là người đầu tiên sợ quá hóa điên.
- Tôi không chịu được nữa! – Người đàn bà gào lớn,
da nhợt ra như giấy trắng rồi ngoẹo đầu xuống. Chồng
Linda chỉ kịp tóm lấy cô ta trong giây phút cuối.
Marry Kelland đứng đó, không nói lên lời, toàn thân
run rẩy. Cả ba người còn lại cũng không hiểu trò gì đang
diễn ra ở đây. Như đã bị thôi miên, họ nhìn trân trối
vào xác chết người đàn ông tóc vàng đang bị những bàn
tay vô hình kéo vào phòng.
Lại có tiếng xích sắt vang lên. Thế rồi một giọng
khàn khàn ra lệnh:
- Thả nó ra!
Xác chết rơi xuống đất.
Basil Proctor chỉ xuống người đã chết.
- Ai thế?
Giọng khàn trả lời.
- Bọn ta tóm được nó trên bãi cát. Nó kháng cự. Bọn
ta phải giết nó.
- Các anh có biết nó không?
- Không. Giọng kia đáp lại.
- Khám xét! – Proctor ra lệnh cho tê Ả Rập.
Ali cúi xuống. Một bàn tay hắn sờ dọc thân thể người
chết. Gã lôi ra một khẩu súng lục và một chiếc máy điện
đàm.
Mặt Basil Proctor trắng bệch ra. Những đường nét tởm
lợm của gương mặt nhăn lại thành một vệt mặt ma quỷ.
- Máy điện đàm!- Gã rít lên. – Một thằng gián điệp.
Thằng đàn ông này là một tên gián điệp!
- Nhưng nó chết rồi. – Giọng ma đáp. Những giọng đàn
ông khác cười hưởng ứng.
- Thì đã sao? Chắc nó đã báo tin về đâu đó và thông
báo truyện gì xảy ra trên đảo này. Xem lại đi, Ali, xem
nó có mang giấy tờ gì không.
Tên Ả Rập vâng lời. Nhưng gã không tìm thấy gì cả,
không tìm thấybất kỳ một mẩu giấy nào giúp Proctor nhận
dạng người đã chết.
Tên triệu phú buộc miệng chửi rủa. Gã vung vẩy hai
cánh tay vì giận giữ, nhưng rồi đột ngột nhớ ra và kêu
lên:
- Bọn chúng nó đây! – Chỉ cần một chuyến hàng nữa là
đội quân của các anh sẽ thừa kẻ thế mạng.
- Bọn ta thấy rồi! – Lại có tiếng chân người vang
lên, đến gần năm con người bây giờ đang đờ ra vì quá
khiếp sợ.
Đột ngột, Marry Lelland thét lớn. Ngườii đàn bà cảm
thấy có những ngón tay sờ nắn cơ thể cô. Chúng vuốt dọc
bờ vai, rồi vuốt xuống hông.
- Một phụ nữ tốt. Nó sẽ khiến cho bọn ta vui thú!
- Không! – Kelland kinh hoảng gào lên, chạy vào góc
tận cùng của căn phòng.
- Tóm lấy nó! – Giọng ma gào to hơn.
Cliff Kelland không bình tĩnh được nữa. Anh chạy về
phía vợ, muốn đứng che cho chị, nhưng trước khi anh tới
nơi thì những kẻ vô hình đã ra tay. Những quả đấm giáng
tới, đẩy lùi anh trở lại. Đồng thời những ngọn đòn rào
rào đổ xuống thân hình người đàn ông trong khi Basil
Proctor há mồm cười sặc sụa như một kẻ hóa điên.
Cliff Kelland lảo đảo, bị đẩy sang bên này rồi bên
khác. Một bàn tay vô hình tóm lấy tóc anh, kéo giật đầu
anh về phía sau. Cliff rên lên biểu lộ đau đớn cùng cục.
Mặc dù không nhìn thấy, anh vẫn cảm nhận rất rõ ràng
mũi dao găm đang gí vào cổ anh. Một giọt máu nhỏ xíu
chảy ra khỏi làn da, rồi từ từ lăn dọc theo cần cổ.
- Như vậy là đủ rồi. – Kẻ vô hình nói. – Nếu mi dám
kháng cự bọn ta một lần nữa, bọn ta sẽ cắt cổ mi!
Một tiếng cười khàn khàn nổi lên, Cliff Kelland bị
xô ngã xuống dưới đất.
Vợ anh khom người ngồi trong góc phòng, nức nở thảm
thương.
Tiếng bước chân rút đi.
- Bọn ta đợi chuyến hàng cuối. – Tên cầm đầu bọn ma
cướp biển tuyên bố. Trong vài giây đồng hồ, khoảng không
gian trong phòng lóe sáng và nhóm tù nhân nhìn thấy hình
ảnh một bọn người Trung Cổ thoáng hiện ra. Những khuôn
mặt hung dữ râu ria xồm xoàm, một gã đàn ông có đeo băng
bịt mắt màu đen, và tất cả bọn người đó được trang bị vũ
khí tới tận răng.
Cuối cùng bóng ma biến đi. Basil Proctor vỗ hai tay
vào nhau.
- Bạn bè của ta đó. Bọn mi còn giám ngi ngờ không?
Không có câu trả lời. Nhóm người trước mặt gã im
lặng. Nỗi kinh hoàng đã giơ móng vuốt chạm vào họ, chụp
lấy họ như làn hơi bệnh dịch thoát ra từ địa ngục. Cả
năm con người hiểu ra rằng họ không còn cơ hội để né
tránh số phận khủng khiếp. Người đàn ông tóc vàng có lẽ
đã tìm cách phát hiện bí mật hòn đảo này.
Nhưng anh chẳng thành công... Anh chịu trả giá đắt!
Basil Proctor quay sang tên cận vệ.
- Đưa chúng nó sang chỗ bọn kia, Ali! – Gã ra lệnh.
– Chúng nó còn phải chờ hai mươi tư tiếng đồng hồ nữa.
Sau đó chúng nó sẽ được đưa lên con tàu ma. Còn tao thì
sẽ được nhận lại ngoại hình cũ và kho báu khổng lồ của
Quỷ!
Proctor quay cái ghế lăn, trượt như một bóng đen vào
màn tối hành lang.
Ali dồn các nạn nhân lại. Lần lượt từng con người bị
ép rời phòng. Họ lê chân bước tới, đầu cúi thấp. Ý chí
phản kháng của họ đã bị bẽ gãy. Một cơn ác mộng trở
thành hiện thực.
Đoạn đường London – Plymouth dài khoảng ba trăm năm
mươi kýlômét. John Singlair muốn tới đích trước khi trời
đổ tối. Chàng thợ săn ma đi với tốc độ cao nhưng vẫn cần
nhiều thời gian hơn định trước vì trên đường quá đông
xe.
Khoảng sáu giờ chiều, John cũng đến được thành phố
cảng. Đây không phải là lần đầu tiên tới Plymouth nên
anh có quen đường chút đỉnh. Joh n biết áng chừng ngôi
nhà tên triệu phú ở khoảng nào: Phía đông Plymouth,
trong một dãy rừng bên kia thành phố.
Ngôi nhà rất khó tìm. John phải hỏi hai lần mới biết
đường.
Theo một con phố hẹp trải nhựa đường uốn lượn như
con rắn, chàng thanh tra đi tiếp cho tới khi gặp một ngã
rẽ, một chiếc biển rất nhỏ chỉ hướng tới ngôi nhà.
John lái xe theo biển chỉ đường, rồi cuối cùng phải
dừng lại trước một thanh barie chắn ngang. Một tấm biển
giao thông cùng một tấm biển nhỏ cho anh biết, người ta
cấm anh đi qua khuôn viên. Tấm biển còn ghi rõ: ai vi
phạm sẽ bị trừng phạt.
John xuống xe. Anh đang đứng giữ một dải rừng hỗn
hợp tương đối thưa, không gian mát và đầy bóng râm.
Những tán lá lọc bớt nắng của mặt trời tháng bảy đã gần
xuống núi. Tiếng chim ríu rít. Có con thỏ thoáng hiện
rồi nhảy bằng những bước rất dài vào bụi rầm gần đó.
John Singlair khóa chiếc Bentley, rồi lấy đà nhảy
qua thanh barie sơn đỏ trắng.
Một con đường trải sỏi dẫn thẳng qua cách rừng. Sau
khoảng chừng nửa dặm, cánh rừng thưa ra và John thấy
mình đứng giữa một công viên rộng lớn với những thân cây
rất già và rất cao, cùng một thảm cỏ được chăm sóc cẩn
thận. Con đường trải sỏi cắt thảm cỏ xanh ngắt thành hai
nửa và dẫn thẳng vào tòa biệt thự. Anh quan sát kỹ ngôi
biệt thự được xây theo phong thái kiến trúc thờ
Victoria, trông như một lũy thành kiên cố.
Những bức tường rất giày, đồ sộ. Một thềm bằng đá
thật rộng. Rất nhiều góc tường, đường viền và những
khung cửa sổ rất cao, những miếng kính đang lấp lóa anh
mặt trời. Không hề có dấu hiệu của một sự xuống cấp, mặc
dù ông chủ nhà không sống ở đây nữa. Nhưng cũng không hề
có một dấu hiệu của sự sống. Ngôi nhà khổng lồ gây ấn
tượng trống rỗng, nhưng chàng thợ săn ma muốn tự mình
xem lại cho chắc chắn.
Anh đi về hướng những bậc thềm được xây hai đầu bằng
một cặp tường rất cao.
- Kìa ông! – John nghe một giọng nói vang lên từ
phía lưng anh. Ông không biết là người lạ không được
phép vào đây hả?
John đã đứng sát bậc thềm dưới cùng, anh xoay người
lại.
Từ tong bóng tối của một bụi cây xùm xòa, có một
người đàn ông đang tiến về phía anh. Một người làm vườn
mẫu mực như vừa bước xuống từ một đoạn phim quảnh cáo.
Ông ta đeo một chiếc yếm rất dài màu xanh, mặc một chiếc
áo sơ mi kẻ ca rô và một chiếc quần nhung màu nâu. Khuôn
mặt như được làm bằng những nếp nhăn, làn da rám nắng.
Bên dưới vành mũ ló ra những lọn tóc đã bạc trắng. Bàn
tay phải người đàn ông cầm một cái bình tưới cây.
John mỉm cười:
- Có lẽ ông là người làm vườn ở đây? – Anh tự tin
hỏi.
Người đàn ông nhăn mặt khiến những nếp nhăn càng nổ
bùng về số lượng.
- Thông minh quá đi! – Ông ta diễu cợt. – Nhưng bây
giờ thì tìm cách biến khỏi đây ngay, nếu không sẽ gặp
phiền toái đấy!
John lờ đi như không nghe thấy giọng nói hiếu chiến
của người làm vườn.
- Ông chủ ngôi nhà này không có ở đây, đúng không?
- Không, anh cũng thấy đấy.
- Ông là người duy nhất đang canh chừng ngôi nhà
sao? – Chàng thợ săn ma hỏi.
Ông thợ làm vườn lấy hơi thất sâu đáp.
- Tôi không biết chuyện này thì có kiên quan gì đến
anh. Nhưng bây giờ anh biến đi hay là tôi thả chó cho
chúng xé xác?
Giờ thì cả John Singlair cũng đâm bực bội. Thôi
được, anh không phải là bạn bè của ngôi nhà này, nhưng
anh cũng không muốn để người ta đối xử với anh như đối
xử với mộ kẻ lang thang trộm cắp.
- Cảnh sát! – Chánh thanh tra nói và rút chứng minh
thư ra.
Ông thợ làm vườn ngay lập tức tỏ ra bình tĩnh hơn.
Bàn tay trai của ông ta cầm thẻ, đọc thật kỹ. Thế rồi
ông ta trao thẻ lại cho John và trở nên thân thiện hơn.
- Xin lỗi ông, nhưng tôi không...
John phẩy tay.
- Bỏ đi. – Anh chỉ bằng ngón tay trái qua bờ vai. –
Ông là người duy nhất ở đây hả?
Người thợ làm vườn chần chừ chưa trả lời ngay. John
Singlair hiểu ông ta đang tìm cách né tránh.
- Ông Proctor không ở đây. – Cuối cùng người thợ làm
vườn nói.
- Cái đó thì tôi biết. Tôi...
John dừng lại giữa câu, bởi giọng nói thô bạo của
một người đàn ông khác bất ngờ chen tới.
- Ông nhặt đâu ra cái thằng đó, Jos? Nó muốn gây khó
dễ hả?
John Singlair quay lại.
Từ phía Tây của ngôi nhà, một người đàn ông đang
bước về phía anh. Gã mặc một bộ quần áo bằng da, loại
dành cho phi công, tay cầm một khẩu súng. Nòng súng chỉ
xuống đất, nhưng John đánh giá kẻ mới xuất hiện thuộc
dạng người sẵng sàng chĩa vũ khí vào đồng loại mà không
áy náy lương tâm.
Chàng thợ săn ma cảm nhận một sự co thắt khó chịu
trong dạ dày mình.
Gã đàn ông dừng lại, đứng cách John ba bước chân. Gã
có một mái tóc đen, cắt tương đối ngắn, một cái mũi ghồ
ghề của dân đánh quyền Anh, hai con mắt thâm hiểm nằm
rất gần nhau. Cằm gã có một vết sẹo màu đỏ như một minh
chứng cho sự bất lương.
- Thế nào? – Thằng đàn ông hất mặt. – Mày làm cái gì
ở đây?
- Rick, ông này là...
Tên phi công khó chịu quay đầu lại.
- Ông ra ngoài kia, Jos! Đi làm việc của ông đi!
Chần chừ là biết tay tôi đấy!
Ông già làm vườn nhún vai, ngoan ngoãn mỉm cười rồi
cất bước.
John Singlair giơ tay rút thuốc lá. Ngay lập tức
nòng súng của kẻ đứng đối diện giật lên cao. Chàng thợ
săn ma ngạc nhiên nhướng lông mày.
- Ông có lối nói chuyện thân thiện đấy, tôi phải
công nhận là như vậy.
- Mày muốn gì?
John khoan thai rút một điếu thuốc ra khỏi bao, châm
lửa. Rồi thong thả và thích thú hít một hơi thật sâu.
- Thật ra tôi muốn nói chuyện với ông Proctor.
- Ông ta không có ở đây.
- Thế thì chắc chắn ông là đối tác thích hợp.
- Tao không ti như thế. – Tên phi công mà hầu như
không chuyển động môi. – Tốt nhất là mày biến ngay đi.
Và đừng có quay trở lại. Nếu không sẽ gặp phiền toái
đấy.
- Hay là ông gặp phiền toá? – John hỏi.
Tên đàn ông cười lạnh lùng.
- Mày đe dọa tao hả?
- Còn ông muốn bắn chết một cảnh sát viên phải
không?
Tên phi công nhăn trán.
- Tại sao lại là cảnh sát viên?
- Scotland Yard! – Lần thứ hai trong vòng chỉ năm
phút đồng hồ, John phải chìa chứng minh thư của mình ra.
Anh thấy tên phi công thoáng giật mình khi nghe thấy chữ
cảnh sát.
- Thì đã sao? – Gã hỏi vẻ khiêu khích. – Anh muốn gì
ở tôi? - Tuy nhiên gã cũng chúc mũi súng xuống.
- Tôi muốn gặp ông Proctor!
- Ông ấy không có nhà!
John mỉm cười.
- Thế thì dẫn tôi tới gặp ông ấy, ông...mà tên ông
là gì nhỉ?
- Rick Terry!
- Tốt, ông Terry. Ông sẽ dẫn tôi đến gặp ông
Proctor.
Rick Tery lắc đầu.
- Tôi không làm được.
- Tại sao?
- Bởi bản thân tôi không biết ông Proctor đang ở
đâu.
John lấy hơi thật sâu, rồi anh nói:
- Tôi vốn là người không ưa chiến tranh. Nhưng tôi
không chịu nổi một điều, đó là dối trá. Mà rõ ràng là
anh đang nói dối. Trước khi đến đây, tôi đã được cung
cấp đầy đủ thông tin. Tôi biết ông Proctor đã mu một hòn
đảo, và khi nhìn thấy anh trong bộ quần áo phi công này,
tôi thấy rõ ràng là anh đang nắm giữ sợi dây liên lạc
với Proctor, chắc chắn là qua đường trực thăng. Đâu có
ai thích mặc bộ đồ chật chội đó cả ngày lẫn đêm. Vậy anh
định đi và hẳn sẽ bay ra hòn đảo của Proctor. – John
cười lạnh lùng. – Nếu tôi phỏng đoán sai thì cứ bình
tĩnh mà sửa lại đi.
Nét mặt Rick Terry đã nhợt ra khi nghe John nói.
- Không, anh đoán không sai. Nhưng cũng chẳng có ích
gì đâu! Giơ tay lên!
Nhanh như chớp, tên phi công chĩa nòng súng về phía
chàng chánh thanh tra. Một tia sáng nguy hiểm bùng cháy
trong con mắt hắn. John tự mắng mình là đồ ngu, bởi đã
không bắt tên phi công buông vũ khí ra. Anh tưởng hắn
biết sợ quyền lực nhà nước. Rõ là một sai lầm nghiêm
trọng.
- Ông muốn giết một cảnh sát viên thật hả? – Chàng
thợ săn ma hỏi, đưa hai cánh tay lên cao.
- Nếu không còn cách nào khác thì sẽ giết. Mà trong
trường hợp này thì không còn cách nào khác thật. Xoay
lại!
John Singlair tuân lệnh.
Qua khóe mắt, anh nhận thấy tên phi công vẫn giự một
khoảng cách an toàn. Ra gã là một tay chuyên nghiệp.
Chàng thợ săn ma bây giờ không có cơ hội nhảy bổ về phía
hắn mà không lãnh đạn. John mím chặt đôi môi. Rick Terry
co vẻ hoàn toàn không ngại việc đưa một viên cảnh sát
sang thế giới bên kia. Một tình huống kỳ quái. Những gì
mà ma quỷ không làm nổi, thì tay ohi công này có thể
thực hiện với chỉ duy nhất một viên đạn tầm thường.
Những khuôn mặt nhợt nhạt không còn chút sắc máu
dường như bất động. Aùnh đèn trên tường phả ra một màu
xanh lá khiến làn da những nạn nhân trông như da những
xác chết đã làm quen với huyệt mộ. Đấy là cảnh ghê rợn
trong một căn hầm.
Căn hầm đó nằm rất sâu dưới mặt đất. Nó được trang
bị tương đối đầy đủ. Có ghế độn nệm, có nhiều giường và
bàn. Nền được trải thảm. Chỉ những bức tường bằng đá lởm
chởm là đi ngược lại bức tranh toàn cảnh.
Cùng với nhóm người mới tới, bây giờ có tất cả mười
một con người đang ngồi trong tầng hầm. Người ta xuống
đây qua một đoạn thang sắt, dẫn từ lô cốt xuống cái hang
nằm dưới mực nước biển.
Cánh cửa sắt đóng lại sau lưng Adam Preston với một
âm thanh trầm đục. Nghe như tiếng nắp quan tài sập
xuống.
Những người mới ngạc nhiên đưa mắt nhìn. Một người
đàn ông khá cao tuổi đứng dậy từ một chiếc ghế dài. Mái
tóc ông bạc trắng, , rối bù. Ông mặc một bọ complê sờn
cũ.
- Xin đón chào những người chiến bại. Ông khàn khàn
nói rồi đưa tay khoát quanh, chỉ vào nhóm những người
kia. – Chúng tôi ngồi đây đã tr6n một tuần rồi. Chỉ còn
một chuyến hàng nữa thôi là tất cả chúng ta sẽ bị đưa
lên tàu.
Linda và Mary bắt đầu khóc. Hai người chồng dẫn vợ
về những chỗ ghế còn trống.
Adam Preston đứng giữa căn phòng bất bình thường đó,
chăm chú nhìn quanh. Anh phát hiện ra bốn ống kính thep
dõi được gắn ở bốn góc trần phòng. Người đàn ông tóc
trắng nhận ra ánh mắt của anh.
- Đúng thế. – Ông nói. – Chúng ta bị quan sát. Họ
nắm chúng ta cả ngày lẫn đêm, nhưng chúng tôi đã quen
rồi.
Adam Preston nhún vai. Mặc dù bề ngoài ra vẻ chán
nản, nhưng thật ra trong lòng anh chưa chịu đầu hàng.
Chỉ cần có cơ hộ là Adam sẽ tìm cách thoát ra khỏi cái
bẫy này ngay.
Ánh mắt anh bắt gặp những người đến trước và bắt gặp
những nét tuyệt vọng chán nản hiện rõ trên những khuôn
mặt ấy. Nhóm người ở đây đã chấp nhận hoàn cảnh hiện tại
một cách bi đát.
- Căn phòng này còn cửa thứ hai không? – Adam
Preston hỏi ông già tóc trắng.
- Còn. Nó là lỗ thông hơi. – Người đàn ông đưa tay
chỉ lên trần.
- Vậy thì người ta có thể...- Adam nheo mắt, đưa tay
xoa cằm.
- Ý anh muốn nói là chạy trốn? – Ông già tóc bạc
cười lớn. – Không trốn được đâu. Anh đừng quên bốn ống
kính canh chừng.
- Không thành vấn đề!
Trong vài giây, mối quan tâm cháy lên trong mắt
người đàn ông già nua.
- Anh có kế hoạch hả?
- Có lẽ...- Adam Preston chưa muốn nói ra những suy
nghĩ của mình. – Thức ăn được đưa đến đây bằng cách nào?
– Anh hỏi.
- Chúng nó thả một cái làn qua lỗ thông hơi. Mọi đồ
ăn ở trong đó. Sau khoảng ba mươi phút chúng nó lại kéo
làn lên.
Adam Preston đưa mắt nhìn lỗ thông hơi. Anh bước đến
dưới miệng lỗ, ngửa đầu ra sau gáy, nhìn lên. Một luồng
khí lạnh phả xuống mặt khiến Adam phải nhắm mắt. Luồng
khí lạnh rất khó chịu. Lỗ thông hơi bên trên không rộng.
Nhưng có thể là cơ hội lý tưởng cho một người đàn ông
muốn chống tay chân lên tường mà trèo lên.
- Anh muốn thoát ra bằng đường lỗ thông hơi? – Ông
già tóc bạc thì thào.
- Đúng.
- Anh quên mấy những ống kính canh chừng.
- Đó là chuyện nhỏ nhất. – Adam Preston đưa tay chùi
trán. Cả những tù nhân khác cũng quay lại, nhìn dồn về
phía anh. Trong vài cặp mắt đang lóe lên một thứ anh
sáng có thể được coi là hy vọng. Người đàn ông đang đứng
dưới lỗ thông hơi kia hình như biết rất rõ anh đang muốn
gì.
- Bao giờ thì lại có thức ăn? – Adam hỏi.
- Còn lâu. Nó là bữa điểm tâm.
Adam Preston nhìn đồng hồ. Bên ngoài kia trời đã
phải sáng từ lâu rồi. Bây giờ là sáu giờ. Người đàn ông
nghĩ có lẽ phải hai tiếng đồng hồ nữa mới đến bữa sáng.
Anh vẫn còn đủ thời gian.
- Tôi tìm cách đây. – Adam Preston quả quyết nói.
Cliff Kelland đứng dậy.
- Anh nói thật hả?
Adam Preston gật đầu.
- Dĩ nhiên rồi. Và một khi đã ra tới ngoài kia, thể
nào tôi cũng tìm được một con đường rời đảo. Chắc chắn
bọn chúng ở đây phải có một con thuyền.
- Anh quên mất bọn ma hải tặc. – Ông già tóc bạc
nói.
- Ai không liều sẽ không chiến thắng. Đằng nào thì
cũng chết. Gặp bọn chúng thì đã sao? Bọn mình ở đây
không bi nghe lỏm, đúng không?
- Ít nhất thì cho đến nay tôi cũng chưa nhận ra hiện
tượng đó. – Người đàn ông tóc bạc đáp lời.
- Thấy chưa, thế thì rất tốt. Vậy là ta quan tâm đến
mấy cái ống kính kia đã. Ta chọn cái ống kính đứng đối
diện với lỗ thông hơi. Cliff Kelland, anh là người khỏe
mạnh nhất ở đây. Anh có chịu được trọng lượng của tôi
không?
Cliff nhìn Adam.
- Tôi hy vọng là được.
- Tốt lắm, ta bắt đầu thôi!
Adam Preston cởi áo khoác ra, đi về hướng ống kính
quay phim đã chọn. Anh đang hy vọng vào sự lười biếng
của con người. Chắc chắn chẳng có kẻ nào ngồi trước màn
hình và theo dõi cả ngày lẫn đêm, chăm chú quan sát tù
nhân suốt hai mươi tư tiếng đồng hồ. Mà cũng rất có thể
những ống kính này chỉ cắm giả vờ vào đây để dọa nạt họ.
Ngoài Basil Proctor và Ali, Adam Preston chưa nhìn thấy
một người thứ ba nào trên đảo. Hai tay đó chắc chắn có
nhiều việc khác phải làm, thay vì suốt ngày ngồi ôm lấy
cái máy màn hình canh chừng. Cliff Kelland đặt hai bàn
tay lên nhau, tạo thành một bậc thang tạm thời cho Adam
Preston trèo lên. Adam đã kẹp cái áo khoác xuống dưới
nách anh.
- Mọi người chúc cho tôi gặp may đi! – Adam nói.
Anh giơ thật cao chân phải, bước lên trên hai bàn
tay đang khom lại. Thế rồi, anh rút chân kia khỏi mặt
đất. Tất cả mọi người trân trối nhìn anh.
- Hy vọng là thành công. – Linda Grey thì thào.
Cliff Lelland lảo đảo trước sức nặng cơ thể của anh
chàng liều lĩnh. Adam Preston tóm thật chặt hai bàn tay
vào vai anh ta.
- Cố giữ nào. – Anh nói khẽ.
- Vâng...
Adam Preston từ từ đưa người lên cao. Rồi anh nhấc
chân trái, đặt nó lên vai Cliff.
Người đàn ông bật tiếng rên, oằn người chịu đựng.
- Đừng sợ. - Adam Preston thì thào. – Tìm cách lùi
nửa bước.
Cliff làm theo chỉ dẫn.
Những tù nhân khác nín thở chờ đợi. Theo dõi và hy
vọng. Cliff Kelland bây giờ đã đứng sát tường. Adam
Preston hơi ngả về phía trước một chút, chống hai tay
vào tường.
- Tuyệt lắm. – Anh nghiến răng nói. Thế rồi anh giơ
chân phải lên, cầm áo khoác lên tay và nhanh như chớp
trùm nó lên đầu ống kính. Adam Preston gặp may, móc treo
của áo khoác vướng ngay vào một cạnh nhọn nào đó của ống
kính quay phim.
Adam Preston nhảy khỏi vai Cliff.
- Tuyệt lắm. – Anh kêu lên khi đã đặt chân xuống
đất. – Anh làm tuyệt lắm.
Cliff Kelland tựa lưng vào tường, giơ cùi tay quyệt
mồ hôi trán. Cả thân hình run rẩy. Người đàn ông tóc bạc
nhảy lên, giơ tay đập vào vai Adam Preston.
- Giờ thì tôi cũng tin là có thể được. Ông vui mừng
nói, hai mắt sáng rỡ.
Adam Preston phẩy tay.
- Chầm chậm đã, từ từ thôi, anh bạn thân mến. Phần
việc nặng nề nhất vẫn còn nằm ở phía trước. – Anh vỗ nhẹ
vào tay Cliff Kelland. – Anh còn sức để làm lại lần nữa
không?
Cliff cười dũng cảm.
- Nếu cần thiết thì có lẽ được.
- Thế thì tốt, bắt đầu thôi. Nhưng giờ chúng ta đứng
dưới lỗ hổng kia. Thử xem có được không?
Họ thử thật. Hai lần thất bại. Thế rồi Nathan Grey
và một người đàn ông nữa tiế tới đứng sát bên Cliff, cho
Adam Preston một chỗ đứng tốt hơn.
Trót lọt. Thành công thứ hai lại đến sau một hồi vất
vả. Nhưng người đàn ông giơ tay đỡ lấy đế giày của Adam
Preston và nâng lên cao.
Những ngón tay Adam Preston sờ vào thành tường bên
trong lỗ thông hơi. Chúng xù xì và rất nhiều vết nứt,
rất tốt cho việc trèo lên cao.
- Đẩy mạnh lên. – Anh nói.
Thêm những người đàn ông khách nhảy ra trợ giúp. Họ
đẩy Adam Preston lên phía lỗ thông hơi. Hình như phía
bên kia không nhận biết gì về kế hoạch chạy trốn này, cả
Basil Proctor lẫn Ali đều chưa xuất hiện. Nửa người bên
trên của Adam Preston đã chui vào được ống thông hơi.
Những ngón tay phải tìm thấy mộ khúc tường lồi nho nhỏ
và bám chặt vào đó. Giờ thì anh có thể rút hai chân lên,
dạng chúng ra và đạp chắc vào hai bên tường.
- Tốt lắm, các bạn, ngồi cầu nguyện cho tôi nhé! –
Anh gọi xuống dưới, giọng nhỏ nhẹ.
Những tù nhân bên dưới bối rối, không biết nên làm
gì giúp anh hành động tốt hơn.
Adam Preston bắt đầu trèo lên. Từng chút, từng chút
một, anh nhích lên cao. Quần áo anh rách tươm ra nhưng
anh không để ý. Có thể thay một bộ complé, nhưng không
thể thay tính mạng một con người. Da trên đầu ngón tay
tróc rách. Máu nhỏ dọc hai bàn tay Adam Preston. Cả điều
đó cũng không khiến người đàn ông nhụt chí. Đối với anh
bây giờ yếu tố đáng kể là tự do.
Và anh cứ tiếp tục lên cao mãi trong bóng tối của lỗ
thông hơi. Cứ mỗi lần bám tay lên cao hơn một chút, anh
lại gập chân rồi kéo chân lên theo.
Chẳng bao lâu, thân hình anh ướt đẫm, mồ hôi chảy
thành từng dòng trên mặt và trên da, nhưng Adam Preston
không đầu hàng. Anh không cho phép mình nghỉ lấy một
giây. Cuối cùng, người đàn ông không biết mình đã trèo
được bao nhiêu mét nhưng làn khí thổi xuống khuôn mặt
của anh đã mỗi lúc mỗi mát hơn, thoáng hơn Anh hy vọng.
Thế rồi Adam Preston đã tìm thất một vệt sáng. Anh
đã tới gần mục tiêu. Người đàn ông cố gắng gấp đôi. Đột
ngột, những ngón tay bên phải sờ vào rìa lỗ.
Thành công!
Adam Preston lúc này có thể hét lên vì sung sướng.
Nhưng anh cố kìn nén. Trút hết sức lực, anh co người
lên, rút thân hình ra khỏi lỗ thông hơi và nằm ra ngoài
trời.
Người đàn ông nhắm mắt lại vì chói. Anh đang ở bên
một dãy bụi rậm mọc trên đầu một vách đá có hai bên
thành bị nước bào trơ trọi.
Thở hổn hển, anh nằm đó. Tiếng sóng biển rì rào bây
giờ là âm thanh đẹp đẽ nhất mà hình như đã lâu lắm rồi
anh mới được nghe lại.
Anh không biết anh đã nằm bao lâu. Tới một lúc nào
đó, Adam Preston đứng dậy. Đầu tiên muốn gọi xuống dưới
cho những tù nhân biết rằng anh đã thành công, thế rồi
anh thay đổi ý định, không nên đánh thức Proctor hoặc
Ali.
Trầm ngâm, người đàn ông đứng bên trên, nhìn theo lỗ
thông hơi xuống dưới. Cái lỗ được đào tương đối đơn
giản. Chỉ cần trời đổ một cơn mưa thật lớn là nước sẽ
lọt xuống dưới kia. Nhưng có lẽ Basil Proctor cũng đã có
giải pháp cho trường hợp đó.
Adam Preston lên dường ra bãi cát. Tường bê tông của
lô cốt cách anh chẳng mấy xa. Anh muốn tìm một con
thuyền, một con thuyền ít nhất cũng giúp anh rời đảo.
Chẳng khó khăn gì, anh ra tới bãi cát. Basil Proctor
và tay Ả Rập hoàn toàn mất bóng. Sự tình cờ đưa đẩy
người đàn ông đến cái vịnh nhỏ mà Jerry Flint đã hạ
cánh. Và ở đó, chúng tóm được anh.
Bất chợt, Adam Preston nghe thấy những giọng người
lao xao vang lên, rồi đến tiếng cười tởm lợm của một gã
đàn ông.
Người con trai biết rằng, mọi cố gắng vậy là uổng
phí.
Rick Terry ra lệnh cho John Singliar đi ra phía
sau ngôi nhà. Chàng thợ săn ma nghe tiếng bước chân của
kẻ canh chừng nghiến lạo xạo trên lớp sỏi. Những suy
nghĩ nóng lên trong đầu. Anh tìm một con đường thoát,
anh biết, nếu không cân nhắc cẩn thận thì kết quả sẽ là
một viên đạn găm vào người anh mà thôi.
Cả ở phía sau ngôi nhà, thảm cỏ vẫn được cắt rất sát
và rất đều. Tại một số chỗ, cỏ gây ấn tượng như bị rất
nhiều dấu chân người đạp lên.
John nhìn ra nguyên nhân.
Một chiếc máy bay trực thăng loại Sikorsky đang đứng
giữa tấm thảm xanh ngắt. Một chiếc máy bay sơn màu xanh
lục thẫm với những càng đỗ rất rộng và không hề mang
biển hiệu.
John đi về hướng máy bay trực thăng.
- Đứng lại! – Anh nghe giọng Rick Terry hét sau
lưng.
Chàng thợ săn ma tuân lệnh rồi nói.
- Ông muốn bắn vào sau lưng tôi hả?
Rick Terry cười khúc khích.
- Sáng kiến không đến nội tồi. Nhưng tao muốn làm
người nhân đạo. Thằng cớm kia, mày sẽ ăn đạn từ trước
mặt. Quay lại!
John Singlair quay người lại. Hai tay anh vẫn giơ
cao ngang vai.
Rick Terry đứng trước mặt anh, cười trâng tráo.
- Sợ không?
John gật đầu.
- Có.
Tay phi công cười ré lên như một con ngựa hí. Gã đã
kẹp khẩu súng vào trong khỷu tay phải. Ngón tay trỏ nằm
trên cò. Cách cầm vũ khí cho thấy gã là một tay bắn xuất
sắc.
- Thế mà tao cứ tưởng bọn cớm chúng mày không biết
sợ. Chúng mày luôn ra vẻ thế mà.
- Chắc anh chỉ tưởng tượng theo phim ảnh. – John
Singlair đáp.
Rick Terry lại cười phá lên.
- Mày muốn được ăn đạn ở đâu hả? Vào đầu? Vào ngực?
Chọn đi!
John Singlair im lặng nhìn gã đàn ông. Anh tìm cách
tính xem anh có bao nhiêu thời gian để tránh đạn. Chắn
chắn là chẳng có giây đồng hồ nào. Và Rick Terry cũng
biết điều đó.
Điều mà hắn không biết cũng nhưng không hề nhìn thấy
được là ông làm vườn đã rón rén đi quanh góc nhà. Oâng
kiễng chân lên, tay phải cầm một cây gậy gỗ.
Hiện thời, khoảng cách giữa ông và Rick Terry còn
khoảng chừng hai mươi mét.
Một khoảng cách dài đến khủng khiếp, nếu tình huống
đã đến mức phải đếm từng giây đồng hồ thì xem như quá
trễ.
Rick Terry cong ngón trỏ.
- Vĩnh biệt hả, thằng cớm. - Gã nhăn mặt nói...
- Khoan! – John hét lên khiến tay phi công chần chừ,
mất đi vài giây đồng hồ. Cơ hội cho người làm vườn lao
tới.
Ông già đã thẳng chân chạy những mét cuối cùng, chấp
nhận cả mối nguy hiểm bị Rich Terry nghe thấy. Tên phi
công xoay người lại, nhưng đó cũng chính là tích tắc mà
khúc gậy gỗ bổ xuống đầu hắn. Vì chuyển động quá đột
ngột của gã, khúc gỗ không đập trúng vào xương sọ tên
gangster mà giáng vào vai trái hắn.
Rick Terry gào lên, tay còn cố bóp còi. Đoành! Viên
đạn sát sạt qua người làm vườn, ông này hốt hoảng lùi
về.
Rick Terry không còn cơ hội để bóp cò lần thứ hai,
bởi lúc đó John Singlair đã tới sát bên. Và anh chỉ cho
hắn biết, cảnh sát viên không phải chỉ biết sợ, mà còn
biết chiến đấu. Cú đá trúng vào hõm khuỷu chân, đập tên
phi công thâmhiểm té xuống mặt đất. Rick Terry ngã xuống
nhưng nhổm lên ngay lập tức, tìm tất công John.
Thêm một lần nữa, bàn chân John lại làm việc. Khẩu
súng bị đá văng khỏi tay Rich Terry, nằm lại cách đó vài
mét. Rick Terry cong người, muốn nhảy lên. John giật
phắt hắn về phía sau. Trong một giây đồng hồ, anh nhìn
khuôn mặt nhăn nhúm của tên phi công ngay sát mặt mình,
thế rồi quả đấm bên phải của anh thọc từ dưới lên, thẳng
hướng cằm đối phương. Gã phi công hầu như bị đẩy bay ra
khỏi giày. Gã quay nửa vòng trên không tring rồi rơi độp
xuống nền cỏ, nằm ngửa ra đó với đôi mắt trợn ngược.
John thổi nắm đấm cho đỡ đau.
- Ôi trời! – Ông già làm vườn rên lên. – Quả đấm của
ông nặng ký ghê!
John mỉm cười. Anh cúi xuống nhặt súng, tháo đạn.
Rồi anh ném những viên đạn ra xa và bắt tay ông già làm
vườn.
- Ông đã cứu mạng tôi. – Anh nói. – Cảm ơn ông rất
nhiều!
Khuôn mặt người làm vườn đỏ lên. Ông già lúng túng
không biết nói năng gì. Cuối cùng ông bảo:
- Chuyện dĩ nhiên mà, làm sao tôi có thể đứng nhìn
một vụ giết người.
- Chẳng phải ai cũng giám hành động như ông đâu. –
John đáp lời. Anh chỉ về phía tên phi công đã ngất đi. –
Ta có thể đưa hắn đi đâu được? Ông có chìa khóa vào nhà
không?
- Chìa khóa Rick cầm! – Ông già đáp.
John Singlair khám những túi quần túi áo trên bộ đồ
phi công và tìm được chìa khóa. Ông làm vườn lúc đó đã
đến bên cửa sau ngôi nhà. Ông đứng nhìn John Singlair
vác tên phi công lên vai, khuân hắn ta về phía bậc thềm.
- Ông đưa chìa khóa cho tôi. – Ông già làm vườn bảo.
John làm theo, và người làm vườn mở cửa ra. Họ bước
vào một dãy hành lang hẹp, dẫn ngang qua những căn nhà
kho. Khôg khí trong nhà bốc mùi ẩm thấp, ngột ngạt trộn
với mùi khói thuốc đã cũ.
Hành lang dẫn tới một phòng khách, mặc dù được trang
trí đắt tiền nhưng không hề gây cảm giác ấm áp. Những
cụm ghế bành bọc da, những chiếc bàn bằng đá hoa cương,
những cáo đèn đứng kiểu cổ. Tất cả rèm cửa đều được kéo
kín mít.
John đặt gã đàn ông đã ngất lên một chiếc ghế hình
bán nguyệt. Cằm Rick Terry đã đổi màu xanh. Ngọn đòn của
John quả thật đã đập trúng đích như một cú đá trời
giáng.
Ông làm vườn cười.
- Gã cũng xứng được xử thế này từ lâu.
John mời ông hút thuốc. Nhưng ông từ chối.
- Cảm ơn, tôi không hút. Phải giữ lá phổi, ông biết
không?
John gật đầu, song cho phép mình hưởng thụ một điếu.
- Ông có biết gì về những chuyện xảy ra gần đây
không? – Anh hỏi ông làm vườn.
- Hầu như không.
- Nhưng ông có quen ông Basil Proctor?
- Có. Tôi có nhìn thấy ông ta một vài lần, nhưng
không nói chuyện. Tôi chỉ biết làm việc và nhận tiền,
thế thôi.
- Ông có biết là ông Proctor đã mua một hòn đảo? –
John hỏi.
- Không. – Hai mắt người làm vườn mở to. – Vì vậy
Rick Terry hay bay như thế.
- Ông tin hắn bay ra đảo phải không?
- Có lẽ. – Ông thợ làm vườn ngồi xuống. – Ông biết
không, Basil Proctor là một người kỳ quặc.
- Ông ấy hầu như chẳng nói chuyện với ai. Một người
cô độc thật sự. Thỉnh thoảng ông ta lại đưa những cô gái
trẻ về đây, những cô gái rất trẻ, hầu như chưa hết tuổi
học trò. Ông ta làm gì với bọn chúng, thật tôi không
muốn nói, nhưng nhiều khi tôi nghe thấy những âm thanh
rất kỳ quặc. Mà tường của nhà này vốn được xây rất giày.
Nhưng chắc là Rick Terry có thể nói chi tiết hơn về
chuyện đó.
- Nếu hắn tỉnh dậy.
Ông thợ làm vườn nhổm lên.
- Để tôi đi lấy xô nước. Dùng cái này là ai ngất
cũng tỉnh ngay. Ở trong phim người ta cũng làm như vậy.
John bật cười. Chỉ một lúc sau, ông thợ làm vườn đã
quay trở lại với một xô nước đầy.
- Tôi đã mong ước được làm chuyện này bao nhiêu lần
rồi. – Ông ta cười, giơ xô nước lên, trút toàn bộ chỗ
nước đó vào mặt Rick Terry.
Nước không phải chỉ đổ xuống đầu tên phi công, mà
còn chui vào bên trong bộ đồ da và tràn vào ghế sofa.
Động tác đổ nước quả mang lại hiệu ứng mong đợi. Rick
Terry rên lên, thế rồi gã bắt đầu sặc sụa và nổi một cơn
ho dữ dội. Cuối cùng bối rối, gã mở mắt ra.
John lúc đó đã ngồi xuống chiếc ghế sofa thứ hai,
xoay ghế làm sao để anh nhìn thẳng vào mặt Rick Terry.
Ông thợ làm vườn đứng thẳng người cạnh cửa. Ông quan
sát gã phi công tỉnh dậy bằng niềm vui không giấu giếm.
- Tôi hy vọng là ông đã ngủ đủ. – Chàng thợ săn ma
nói khi Rick Terry nhìn anh.
Tên phi công nhổm dậy, nhưng rồi hắn nhăn mặt lại vì
đau. Hành động vừa rồi quá vội vàng. Hắn đưa bàn tay
phải chùi ngang mắt, quệt đi những giọt nước tèm lem.
- Đừng có vào vai người chết. – John nói. – Đòn chưa
mạnh đến mức đó đâu. Nếu xét đến chuyện anh định giết
tôi thì như thế còn may đấy.
- Cút xuống địa ngục đi! – Tên phi công rít lên.
- Mời anh đi trước, anh bạn thân mến! Nhưng trước đó
thì hai ta phải bay cái đã. Bay về đảo của Proctor.
Chuyến bay tới được lên kế hoạch lúc mấy giờ?
- Tôi không biết anh nói chuyện gì.
- Nhưng mà tôi thì biết. – Ông già làm vườn chen
vào.
- Mày câm mõm lại đi, Jos. – Rick Terry phun phì
phì.
- Không. Tôi sẽ nói cho ông biết. – Ông thợ làm vườn
bước lại gần. – Rick Terry muốn bay tối hôm nay. Gã đã
nói với tôi như vậy trước đây vài tiếng đồng hồ.
- Về đảo của Proctor phải không? – John hỏi.
- Tôi đoán thế.
- Cảm ơn ông, Jos. – Chàng chánh thanh tra quay trở
lại với tên phi công. – Ra là tối nay anh bay. Thôi
được, lần này anh không bay một mình. Tôi sẽ ngồi đằng
sau anh trong buồng lái.
Rick Terry nhình John chăm chăm bằng hai con mắt
nheo nhỏ. Chàng thợ săn ma đoán ra những suy nghĩ nào
đang ẩn hiện đằng sau vầng trán kia.
- Đừng có giở mánh, anh cầm lái! Nếu cần thì mình
tôi cũng đủ sức lái máy bay.
Rick Terry im lặng cười.
- Bao giờ anh lên đường? – John hỏi.
- Vài giờ đồng hồ nữa. – Hai con mắt Rick Terry vụt
sáng lên. – Thôi được, thằng cớm, mày có thể đi cùng.
Tao thậm chí còn rất vui nữa là đằng khác. Nhưng đừng có
ngạc nhiên đấy! Họ sẽ giành cho mày một buổi đón tiếp
trọng thể, yên tâm đi!
- Cứ chờ xem! – John Singlair vẫy tay về hướng người
làm vườn. – Ở trong nhà này có phòng nào cho anh bạn
chúng ta nghỉ ngơi yên ấm một chút được không?
- Có, phòng để chổi.
Chàng thợ săn ma gật đầu.
- Tốt lắm, còn chờ gì nữa? Đứng dậy đi, Rick Terry.
Và đừng có giở mánh, chỉ thiệt vào thân anh thôi.
Rick Terry vừa rên rỉ vừa nhỏm người lên. John đạp
cái ghế sofa ra phía sau và cũng đứng dậy. Anh cảnh giác
như một con cáo. Và quả thật, tay phi công giở trò. Đột
ngột, gã ném mình về phía trước. Cả hai nắm đấm muốn
thọc thẳng vào người John.
John xoay đi. Hai nắm đấm kia trượt ngang hông anh,
vậy mà vẫn còn đủ lực khiến anh lảo đảo. Chàng chánh
thanh tra chạm người vào ghế sofa, rồi nghiêng người qua
tay ghế, ngã vào lòng ghế.
Rick Terry lao tới.
Chàng thợ săn ma phi cả hai chân về phía trước.
Trúng thẳng vào ngực đối phương.
Như bị bắn bằng một giàn phi tên lửa, tên phi công
bật ngửa về phía sau. Hai tay gã chới với, tìm cách giữ
thăng bằng nhưng vô ích. Một cái tủ buýp phê chặn ngang
đường bay không trực thăng của Rick Terry. Nhanh như tia
chớp, John Singlair đã đến bên. Lần này anh sử dụng cánh
tay.
Rên lên một tiếng, Rick Terry gục xuống sau cú chặt.
Gã ngã xấp xuống nền thảm trải phòng và không động đậy
nữa.
- Ôi khốn kiếp! Thằng này dai sức thật. – Ông thợ
làm vườn nói.
John gật đầu.
- Đúng đấy, hắn dai sức thật. Ông làm ơn lấy hộ một
đoạn dây để ta trói hắn lại.
Ông thợ làm vườn kiếm được một đoạn giây nylon. John
Singlair trói gã con trai theo đúng kỹ thuật đã được
luyện tập, rồi để gã nằm trên nền thảm. Bây giờ anh mới
nhìn thấy Jos vừa mới mang thêm một thứ khác tới. Một
túi đựng bản đồ. Ông thợ làm vườn đập bàn tay lên lần
túi da.
- Đây là bộ đồ bay của Terry. Ông thử nhìn xem, có
thể nó giúp được ông.
- Cảm ơn ông nhiều. – John cầm lấy chiếc túi.
Anh mở khóa, rút ra một cặp hồ sơ bọc da màu xanh,
tờ ở trong đó được sắp xép rất nghiêm chỉnh. John xem kỹ
bản đồ bay. Trên bản đồ có ghi bán đảo Cornwall. Thị
trấn Devotown được khoanh tròn bằng mực đỏ. Và bên cạnh
đó là một con số chỉ thời gian.
Nửa đêm!
Chàng chánh thanh tra cân nhắc. Có cái gì đó khiến
anh suy nghĩ. Anh xoay bản đồ lại. Đằng sau bản đồ có
ghi năm tên người, đó là: Philip Pullman, Harry Quiller,
Ty Queston, Morton Graves, Phil Slater.
John nhăn trán, suy nghĩ. Anh chỉ cho ông thợ làm
vườn đọc năm cái tên đó.
- Ông có biết những người này không?
- Không. Hoàn toàn không quen. Tôi cũng không biết
thế này có nghĩa gì.
John Singlair đút những tờ giấy vào trong túi.
- Nhưng qua tối hôm nay thì chắc chúng ta sẽ hiểu
ra. Tôi đoán đêm tới này sẽ là một đêm rất dài...
Giọng người nổi lên từ mọi hướng!
Adam Preston nhận ra rằng anh đã bị bao vây. Bị bao
vậy bởi những kẻ vô hình.
Sự hoảng hốt hiện lên trong con mắt người đàn ông.
Anh nhìn ra mặt biển xanh xám ngoài kia, làn sương buổi
sớm vẫn còn là là trên những đầu sóng, chỉ tan dần từng
chút trong ánh mặt trời. Giấc mơ về tự do vây là chấm
dứt. Giờ anh phải chiến đấu để sống sót. Người đàn ông
nhìn thấy một chiếc xuồng nhỏ. Có ai đó đã kéo nó lên
trên bãi cát. Thế rồi anh phát hiện ra một chiếc xuồng
máy, chắc là của người đàn ông đã bị bọn người vô hình
kéo xác vào trong phòng kia. Một chiếc thuyền có hai
động cơ! Một thuyền máy có tốc độ cao!
Hy vọng cháy lên. Nếu đến được con thuyền kia và bật
động cơ lên, rất có thể anh sẽ thoát được đám người hung
bạo vô hình.
Ngay sau đó anh lại nghe thấy tiếng người.
- Nó muốn chạy trốn!
Tiếng cười rùng rợn nổi lên, dai dẳng.
- Làm sao nó trốn được. Cứ thử xem. Bọn mình sẽ xẻ
xác nó ra làm bốn, lột da thành từng mảnh một.
- Kiếm của ta đang chờ xuyên thủng người nó ra đây.
Nào, vào việc thôi. Không nói nhiều nữa.
- Đúng thế! – Một gã khác gào lên. – Tóm lấy nó.
Adam Preston thấy lưng mình ớn lạnh. Đột ngột, nỗi
sợ hãi chết chóc dâng tràn. Anh kinh khiếp nhìn quanh,
rồi co cẳng chạy. Nhưng chỉ được hai bước chân đã có kẻ
kéo anh ngã xuống. Adam cảm nhận rõ những bàn tay vô
hình đang tóm lấy mình. Một nắm đấm đập thẳng vào mặt
anh. Người đàn ông thét lên. Bất giác, anh giơ hai bàn
tay lên cao và bị trừng ohạt ngay lập tức. Ngọn đòn
giáng thẳng xuống khu dạ dày. Adam Preston cong người
lại. Những kẻ vô hình cười ré lên. Chúng bỏ anh nằm đó.
Người đàn không ông đầu hàng. Anh vất vả nhổm dậy. Vừa
thở hổn hển vừa hét.
- Lũ chó dữ! – Anh gào lên. – Lộ mặt ra đi! Chiến
đấu như đàn ông thật sự đi nào!
Anh khoanh hai cánh tay lại, bước lảo đảo trên nền
cát. Thế rồi bất thần, Adam co cẳng chạy thật nhanh. Chỉ
sau ba bốn bước chân thật dài, anh đã đến gần con thuyền
máy. Anh đạp vào cát, tóm dước vào vách thuyền, đập đầu
gối lên phía ngoài mạn thuyền rồi kéo ngược người lên.
Anh bò bằng cả tứ chi về hướng tay lái.
Chìa khóa! Nếu như chìa khóa còn cắm ở đây...Kia
rồi! Chìa khóa còn cắm trong ổ.
Adam Preston khẽ reo lên vì vui sướng. Những ngón
tay phải của anh muốn tóm lấy chìa khóa, muốn xoay nó để
khởi động máy.
Đúng lúc đầy ngón tay anh chạm được vào miếng thép
mát lạnh đó thì có hai cánh tay băng giá đột ngột siết
ngang cổ họng anh. Adam Preston phát ra một tiếng kêu
sặc sụa. Anh bị kéo lùi về phía sau, mất thăng bằng
trong khu lái rất hẹp và đập người xuống nên thuyền.
Lưng anh đập ngang vào hai bậc thềm. Cảm giác đau khiến
anh tê liệt. Ngay trước mặt anh, không gian đang sáng
rực lên. Nó là một bức tranh mờ ảo, nhảy nhót, bắt đầu
xoay tròn.
Thế rồi giữa khoảng không gian bừng sáng đó hiện lên
một giáng người khổng lồ được vật chất hóa trong vòng
một phần giây đồng hồ. Một tên đàn ông rất cao lớn. Phần
người trên của hắn để trần, lộ làn da nâu và khoảng ngực
đầy lông. Đầu trọc không một sợi tóc. Gã mặc một cái
quần rất chật, nhe hai hàm răng ra và cầm bằng cả hai
tay một lưỡi kiếm cong cong. Một lưỡi kiếm của địa ngục.
Gã lấy đà.
- Đừng...! – Adan Preston gào lên, tiếng gào vang
vọng trên hòn đảo cô độc.
Chỉ vô ích. Tên đao phủ tàn nhẫn ra tay.
Từ khi Adam Preston trốn đi, người đàn ông cao
tuổi tóc trắng nắm lấy quyền chỉ huy. Thỉnh thoảng ông
lại lên tiếng khích lệ những người đồng cảnh tù đày.
- Anh ta đã đi được, anh ta đã leo lên được qua lỗ
thông hơi. – Ông nói. – Anh ta cũng sẽ đi tiếp, tôi tin
chắc như vậy.
- Tôi sợ quá. – Linda Grey run run nói.
- Chúng ta ai cũng sợ. – Người đàn ông tóc bạc trả
lời. – Chỉ có điều chúng ta phải học cách để vượt lên
nỗi sợ.
- Nghe ông nói thì dễ quá.
Người đàn ông tóc bạc nhún vai. Ông đã đưa ra biết
bao lời an ủi, giờ ông không biết cần phải nói những gì
nữa. Ông đành ngồi xuống. Đa số tù nhân vẫn còn nhìn lên
lỗ thông hơi, như thể họ chờ một vị cứu tinh xuất hiện
từ trên đó. Rất nhiều người đang chắp tay lại trong tư
thế cầu nguyện. Vài người cầu nguyện thật với những đôi
môi run rẩy.
Một người đàn ôg trạc tuổi trung niên rút ra một
điếu thuốc lá. Thế rồi anh ta bóp bao thuốc lại rồi ném
nó xuống đất.
- Điếu cuối cùng của đời tôi. – Anh nói khi ngẩng
đầu lên, người ta nhìn thấy hai mắt anh ẩm ướt.
Thèm thuồng, anh hít làn khói vào phổi. Hai bàn tay
cầm điếu thuốc lá run bần bật. Những giây phút đồng hồ
chậm chạp lê đi. Thế nhưng với thời gian, nỗi hy vọng
cũng lớn dậy. Cho tới nay, những tù nhân vẫn chưa nghe
thấy âm thanh đặc biệt nào. Không có tiếng súng nổ.
Không có tiếng còi báo động tru lên.
Có phải Adam Preston đã thoát khỏi đảo?
- Chắc chắn anh ta đã thoát được. – Cliff Kelland
đột ngột nói vào trong sự im lặng nặng nề. – Chắn chắn
là anh ấy đi được rồi. Mọi người chỉ cần tin thôi.
Những người khác gật đầu. Người đàn ông vừa hút xong
điếu thuốc lá cuối cùng dụi mẩu thuốc. Bỗng anh cười lớn
lên.
- Điếu thuốc sau thể nào tôi cũng được hút tự do.
Không một ai trả lời anh. Sự căng thẳng đã vượt quá
sức chịu đựng. Những nạn nhân cảm thấy hoàn toàn cô độc.
Bình thường ra, vào giờ này họ đã nhận được bữa điểm
tâm, nhưng hôm nay thì không.
Thế rồi hết sức bất ngờ, họ phải đối mặt với nỗi
kinh hoàng.
Một tràng cười rùng rợn nổi lên, vọng vào lỗ thông
hơi. Tràng cười chát chúa đẩy toàn bộ những con người
bên dưới hầm vào hoảng hốt.
- Bọn ngu đần! – Một giọng người gào lớn. – Bọn ngu
đần! Không một kẻ nào thoát khỏi tay thuyền trưởng
Barell! Ông ta sẽ tóm được tất cả. Bọn mi giờ đã là một
phần của đoàn thủy thủ. Kẻ đào ngũ sẽ bị trừng trị giống
như tên này!
Tiếng cười lại ào lên như một trận cuồng phong âp
tới. Hai người đàn bà sợ muốn ngất. Họ giơ hai tay bịt
tai lại, họ không thể tiếp tục nghe tiếng cười rùng rợn
kia.
- Nó là một thằng phản bội!
...Phản bội...phản bội...phản bội...
Tiếng vọng của giọng nói khủng khiếp kia đập qua đập
lại trong lỗ thông hơi.
- Gửi nó cho bọn mày đây!
Có tiếng đập. Những con người ở dưới hầm nín thở. Có
cái gì đó bay qua lỗ thông hơi, rớt xuống dưới nền phòng
và nằm lại.
Hai người đàn bà thét lên chát chúa. Họ giơ hai bàn
tay lên cao, che mặt.
Những người đàn ông mặt trắng nhợt như vôi.
Có người cúi xuống nôn thốc nôn tháo.
Quá kinh khủng! Quá tàn nhẫn!
Đó là cái đầu người.
Đầu của Adam Preston...
John Singlair dùng một con dao làm bếp cắt dây
trói cho tên phi công.
Rick Terry hầu như đã im lặng suốt thời gian qua.
Chỉ một lần hắn lên tiếng xin thuốc lá. John đưa thuốc
cho hắn. Không có tay cầm thuốc mà hắn vẫn hút rất ngon
lành.
Giờ thì gã đan xoa tay xoa chân vào nhau cho mạch
máu chảy lại bình thường. Mặt gã nhăn nhó. Johh biết cảm
giác này. Hai bàn tay kia chắc chắn đang tê dai như có
hàng ngàn con kiến đang bò bên trong.
Trời bên ngoài đã tối. Gió đêm thổi vù vù trên những
tàn lá của cây cao. Nhiệt độ hạ xuống, không khí lành
lạnh dễ chịu.
- Chúng ta sẽ cùng bay đến điểm hẹn. – John nói. –
Tức là vào khoảng nửa đêm. Chuyện gì sẽ xảy ra với những
con người có tên trong danh sách kia?
Tên phi công lạnh lùng cười nhìn John.
- Tôi đưa họ ra hòn đảo của Proctor.
- Rồi sau đó?
- Tôi không biết.
Chàng thanh tra tin chắc là Rick Terry nói dối.
Nhưng anh chưa thể chứng minh cho hắn thấy, mà anh cũng
không thể ra đòn để bắt tên này khai ra sự thật.
- Máy bay được đổ đủ xăng chưa?
Rick Terry gật đầu không nói.
- Từ đây đến thị trấn Devontown cần bao lâu?
- Chưa đến nửa tiếng đồng hồ.
- Và đó là điểm hẹ gặp? – John hỏi tiếp.
- Không chính xác. Nhóm người đó sẽ chờ trên một cao
nguyên, không xa Devontown bao nhiêu.
- Tại sao bây giờ anh tự nguyện trả lời như thế? –
Chàng thợ săn ma hỏi dồn.
Rick Terry nhún vai.
- Tôi đã cân nhắc lại.
John mỉm cười.
- Tùy anh.
Rồi chàng thanh tra nhìn đồng hồ.
- Nào, Terry, ta lên đường.
- Bây giờ vẫn còn sớm quá.
- Tôi muốn xem xét khu vực đó.
Tên phi công nhún vai và đi về phía cửa. John
Singlair đi theo. Cả hai người xuyên qua bãi cỏ, hướng
tới chiếc trực thăng. Ông già làm vườn Jos đứng bên cửa
sổ và nhìn theo họ.
Rick Terry mở cửa. Cánh cửa ngoác ra rất rộng. John
có thể nhìn vào phía bên trong máy bay. Anh thấy phía
sau có nhiều ghế, nhưng anh muốn ngồi sát sau lưng tên
phi công. Rick Terry trèo lên. John nhanh lẹ trèo theo
hắn và ngồi xuống chỗ cùng lúc với tên phi công. Chàng
thợ săn ma chỉ cho gã đàn ông nhìn thấ khẩu súng của
mình.
- Đừng có tưởng là tôi không có vũ khí. – John giải
thích. – Mà chuyến bay này cũng không phải trò đùa đâu.
- Tôi biết.
- Thế thì tốt.
John Singlair lại đút khẩu Beretta vào người. Khẩu
súng chứa đầy những viên đạn bạc được rửa nước thánh.
Những viên đạn có thể hủy diệt rất nhiều loại ma quỷ
khác nhau. Ngoài ra trên ngực anh còn đeo một cây thánh
giá thần bằng bạc cùng một mặt ngọc thần.đây là hai
thánh vật tỏ ra là một bức tường thành chở che tương đối
hữu hiệu trước quyền thế của bóng tối. Nhưng nếu John
phải đối chọi với một đoàn quân đông đảo của cái Ác thì
kể cả hai bảo bối đó cũng không giúp anh kháng cự được
lâu.
Rick Terry kiểm tra máy móc trên máy bay.
- Ổn rồi. – Gã báo cáo. Xong, gã giơ tay định chụp
đôi tai nghe lên đầu, nhưng John rút nó ra khỏi tay gã.
Tôi không muốn anh báo tin cho sếp anh biết. – John nói.
– Như thế này tốt hơn.
Rick Terry nghiến răng nuốt một câu chửi thề, rồi gã
mở máy. Những cánh quạt chầm chậm quay, phát ra tiếng
phập phập. Thế rồi mỗi lúc chúng quay một nhanh hơn và
trực thăng rời đất. Chiếc máy bay nặng nề bốc lên cao,
rồi tăng tốc độ và bồng bềnh trôi sát tàn lá của những
cây thân cao, hướng về phía Đông.
Gió đã xua tan những đám mây, trời đêm nay quang
đãng. John nhìn thấy mặt trăng đang từ từ bò lên cao và
vô và những vì sao nhấp nháy. Thỉnh thoảng anh lại liếc
nhanh xuống bờ vai tên phi công và thấy mình có thể an
tâm.
Rick Terry không hề biểu lộ vẻ chống đối. Cả hai bàn
tay gã tập trung vào việc điều khiển máy bay. Phía trời
Tây đã hiện lên đèn của thành phố Plymouth. Chếch xuống
phía Nam là khu bến cảng, đằng sau đó là mặt biển.
Rick Terry là phi công xuất sắc. Chiếc máy bay lướt
rất êm, thẳng tới mục tiêu.
Thế rồi họ cũng đã bay qua mái nhà của thị trấn
Devontown. Chiếc trực thăng Sikorsky từ từ hạ độ cao.
- Ta đến rất sớm. – Tên phi công nói qua bờ vai.
- Không sao. – Chàng thợ săn ma đáp trả.
Rick Terry đưa máy bay lượn vòng, hạ xuống thấp hơn
và cuối cùng đỗ hẳn.
Mặt đất trên cao nguyên mọc đầy một thứ cỏ rất cao.
Gió từ canh quạt đè những cọng cỏ nằm rạp xuống. Lá cây
và những cành cây nhỏ bị bốc lên cao, thế rồi cả hai cái
càng rất rộng của chiếc trực thăng chạm đất. Cánh quạt
còn quay tiếp một lúc trước khi dừng lại.
- Xuống! – John ra lệnh.
Rick Terry xoay đầu.
- Tại sao? Ta có thể ngồi trên trực thăng này...
- Không, tôi muốn nhìn thấy họ ngay khi họ tới.
- Tốt thôi, tốt thôi. – Rick Terry ra vẻ nặng nề
nhỏm người ra khỏi ghế ngồi. Vừa nhổm lên, hắn vừa kéo
khóa trên chiếc áo khoác bằng da lại. Cúi khom người
xuống, hắn đi về hướng cửa ra. John bám theo.
Rick Terry là người đầu tiên nhảy xuống tấm thảm
bằng cỏ trên mặt cao nguyên. Đôi ủng đóng đinh của gã dù
cao đến ngang bắp chân nhưng vẫn chìm hẳn vào làn sóng
màu xanh lá.
Bóng tối bao trùm như một tấm chăn rất rộng, tung ra
trên toàn bộ cao nguyên. Đứng ở đây người ta có thể cảm
nhận được sự gần gũi của biển cả. Người ta có thể nghe
thấy tiếng sóng, có thể ngửi ra mùi nước mặn do gió mang
về.
Cả năm người hẹn tới vẫn chưa có mặt. Cô đơn như bị
bỏ rơi, hai người đàn ông cùng chiếc máy bay trực thăng
đứng lặng giữa đêm.
Cao nguyên kết thúc ở một triền đá rất thấp. Tấm
thảm bằng cỏ kéo tới đó thì đột ngột chấm dứt. Ở dưới độ
cao chóng mặt tới bốn trăm mét là những con sóng biển
đang hung dữ đập vào vách đá.
Rick Terry thong thả đi về hướng bờ vực.
John gọi theo.
- Anh đi đâu vậy?
Tên phi công xoay người. Chàng thanh tra nhìn hàm
răng đối thủ lóe lên trong bóng tối. Rick Terry đang
cười.
- Tôi phải ra cái nơi mà ai cũng có lúc phải đến. –
Gã giải thích.
- Tùy anh...
Gã phi công xoay lưng lại phía John. Chàng thợ săn
ma tiến lên phía trước vài bước, rồi rút gói thuốc lá ra
khỏi túi. Trước khi anh kịp châm thuốc, Rick Terry đã
lại đứng sừng sững trước mặt anh.
- Cho tôi một điếu. – Gã đòi hỏi.
John đưa hộp thuốc về phía hắn và trong tích tắc đó
chuông báo động nổ ra trong đầu anh.
Không một giây quá sớm.
Rick Terry đang áp nắm đấm tay phải sát người. Đột
ngột, cánh tay đó vọt thẳng về phía trước. John thấy một
lưỡi dao găm lóe lên. Anh không biết Rick Terry lấy đâu
ra món vũ khí này. Chắc chắn nó nằm trong trực thăng.
Nhưng bây giờ chuyện đó cũng không còn quan trọng nữa.
Nhanh như chớp, John tóm lấy bàn tay phải của tên phi
công. Những ngón tay của anh siết chặt quanh cổ tay tên
kia. Gắng hết sức, anh chặn được bàn tay hắn khi mũi dao
chỉ còn cách bụng anh vài centimet.
Rick Terry thở hộc lên. Gã thọc quả đấm tay trái về
phía trước, đúng vào ngực John. Chàng thợ săn ma ngửa
người ra, kéo đối thủ cùng ngã theo. Tên phi công đè lên
người anh.
- Thằng chó. – Gã gầm gừ.- Tao cho mày chết.
Gã tìm cách đâm vào người John, nhưng chàng thanh
tra giữ cổ tay hắn cứng như thép. Anh căng cơ lên, lấy
đà rồi xoay người một vài vòng. Không thành công. Rick
Terry không buông tha, ngược lại, gã tóm chặt hơn nữa.
Tên phi công chắc chắn đang tận dụng hết tất cả những
sức lực tiềm ẩn trong cơ thể gã. Nỗi căm hận chàng thanh
niên khiến hắn mạnh mẽ thêm. Trong lúc cả hai tóm chặt
lấy nhau và lăn lộn trên mặt đất, mũi dao găm mỗi lúc
mỗi lại gần hơn nơi yết hầu.
Đó là một cuộc chiến quyết liệt. Cả hai người không
nhận ra rằng mỗi lúc họ một lăn đến gần bờ vực hơn. Họ
thở hổn hển, lấy hơi. Rick Terry tìm cách đập trán vào
mặt John. Chàng thanh tra xoay được mặt sang bên trong
tích tắc cuối cùng. Cú đập trượt gây cho gã sự hụt hẫng.
Gã buông lời chửi rửa độc địa.
Thế rồi chàng thanh tra co được hai chân lên. Rick
Terry không nhận ra điều đó kịp thời. Chỉ tới khi đầu
gối của John thúc thẳng vào thân hình gã, gã mới thét
lên một tiếng chói lói pha cả ngạc nhiên lẫn đau đớn.
John thúc gối một lần nữa, Rick Terry bị văng trở về
phía sau. Như trong một đoạn phim quay chậm, John nhìn
thấy hắn bay về phía vực. Chàng thanh tra muốn lên tiếng
cảnh báo nhưng quá muộn rồi.
Thân hình tên phi công gập xuống. Một tiếng thét
rùng rợ xé rách màn đêm. Rick Terry còn va một lần nữa
vào những mõm đá nhô ra, rồi cứ thế rơi thẳng xuống cái
vực sâu đen kịt đang nổi sóng.
Thở hổn hển như kiệt sức, John Singlair từ từ đứng
dậy. Mãi bây giờ anh mới nhận thấy anh đã đến gần bờ vực
tới mức nào. Thất kinh, hai đầu gối John run lên. Anh
ném một cái nhìn xuống dưới. Những vách đá bẻ ngang sóng
biển. John thấy rất rõ những vệt sóng bạc đầu đang cuồn
cuộn. Anh có cảm giác chòng chành khi nghĩ tới khả năng
anh đang nằm thay cho Rick Terry ở dưới kia.
Chàng thanh tra rút thuốc lá. Ngọn gió thổi tắt hai
lần lưỡi lửa, nhưng rồi điếu thuốc cũng cháy lên được.
Dần dần chân tay anh bình thường trở lại. John đứng tựa
vào chiếc trực thăng, chờ năm người đàn ông đã được hẹn
đêm nay. Rất có thể họ sẽ kể cho anh nghe được ít nhiều.
Nhưng không đời nào anh mang họ cùng bay đến hòn đảo nọ.
John Singlair chẳng những là một con Át chủ bài
trong cuộc chiến chống lại lực lượng của bón đêm, anh
còn là một phi công suất sắc. Anh điều khiển trực thăng
Sikorsky với một độ chính xác hoàn hảo, cứ thể cả đời
anh chưa làm một việc gì khác.
Chàng thanh tra đã nói chuyện với năm người đàn ông
đó. Họ đã đến điểm hẹn hầu như đồng thời, vào lúc nửa
đêm năm phút. Họ chẳng kể được gì nhiều cho anh nghe.
Ngược lại, họ tỏ vẻ nghi ngờ khi John tuyên bố sẽ không
mang họ đến hòn đảo của Proctor. Chỉ tới khi anh chìa
thẻ công vụ ra, họ mới hiểu ra nên quay về nhà là tốt
hơn cả.
Trên đầu chàng thanh tra bây giờ là bầu trời vô tận,
dưới kia là mặt biển nổi sóng. Anh đã chụp ống nghe lên
đầu, nhưng chưa bật mối liên lạc qua điện đàm. Không khí
trong buồng lái im lặng. John biết hòn đảo đó ở đâu. Anh
đã nhận được thông tin từ lúc còn ở London, qua bản báo
cáo cuối cùng của chàng thám tử bị mất tích. Chàng thanh
tra hy vọng rằng anh sẽ nhìn thấy cái đầu lâu quỷ quái
mà Jerry Flint đã nói tới.
Chiếc trực thăng Sikorsky bay êm ả trong không khí.
Rất may là trời bây giờ lặng gió, John không phải chiến
đấu với những luồng xoáy đột ngột đem theo hiểm họa đẩy
máy bay đi lệch hướng. John nhìn qua lớp kính buồng lái
vào bầu trời đêm. Anh nhìn mỗi lúc một chăm chú hơn,
lòng thầm mong sẽ phát hiện ra cái đầu lâu màu đỏ. Quả
nhiên, thình lình chàng thanh tra nhận ra một đốm sáng.
Đốm sáng ánh lên màu đỏ như một đống lửa bồng bềnh
trên mặt biển.
Chắc là nó rồi!
John cảm nhận rõ tim anh đang đập mạnh liên hồi. Anh
biết mình đang đứng rất gần giải pháp của câu đố. Chàng
thanh tra lái thẳng chiếc máy bay trự thăng về hướng vệt
sáng màu đỏ kia.
Đột nhiên xuất hiện tiếng lạo xạo trong tai nghe của
anh. Rồi một giọng nói.
Một giọng người cứng và sắc như được tôi luyện bằng
chất thép.
- Tốt lắm Rick Terry, tôi đang nhìn thấy anh trên
màn hình radar. Anh có thể bay bình thường. Thuyền
trưởng Barell đã phi biểu tượng chiến thắng lên trời.
Việc của anh ổn chứ? Bọn khách hàng có gây khó dễ gì
không?
John im lặng. Căng thẳng. Hồi hộp.
- Kìa, lên tiếng đi, Terry!
Chàng thanh tra nhất quyết giữ im lặng, anh muốn đẩy
gã đàn ông dưới kia mà anh nghĩ chắc chắn là Basil
Proctor, vào cảnh bối rối, bất an. Cho tới khi gã biết
những gì xảy ra thì John rất muốn đủ thời gian đặt chân
được lên đảo. Ít nhất thì anh cũng hy vọng thế...
Basil Proctor đã nhắc đến một cái tên chẳnh hề xa
lạ. Thuyền trưởng Barell! Anh đã nghe tiếng hắn. Cứ mỗi
mùa hè đến là đám báo chí lại đề cập chủ đề đó. Họ viết
về con tàu Cornwall Love đã bị chìm và một kho báu khổng
lồ đang nằm dưới đáy biển. Chỉ có điều cho tới nay chưa
ai tìm ra nó.
John chưa bao giờ tin vào loại chuyện như thế. Chẳng
lẽ nó có một phần sự thật?
Chàng thanh tra cho trực thăng bay thẳng. Vệt sáng
mỗi lúc một lớn hơn, một sáng hơn, giờ nó đã tạo thành
một hình tròn, thỉnh thoảng lại chòng chành chút đỉnh và
liên tục thay đổi hình dạng.
Bất chợt, vòng tròn biến thành hình đầu lâu. Nó
phình to ra, thành một cái đầu khổng lồ, gần như chạm
vào những ngôi sao trên trời. Cái mõm của đầu lâu há
thật to. John có thể nhìn vào bên trong vực thẳm màu đỏ
lửa. Anh cũng nhìn thấy hai hốc mắt khổng lồ. Một cảm
giác nôn nao vụt xuất hiện. Mọi thứ trước mặt anh đều
màu đỏ, như chìm trong máu.
Thuyền trưởng Barell, phút đối đầu!
Như có vô vàn những sợi băng nhỏ li ti đang bám trên
lưng John. Mỗi lúc anh đến gần hơn cái mõm kinh tởm nọ.
Có vẻ như chiếc máy bay đang bám vào một sợi dây vô hình
và bị kéo về phía trước.
Những dải sương mù xuất hiện quanh đầu lâu. Một đám
bông bồng bềnh khổng lồ, đỏ như máu, phía bên trong rách
toác thành muôn vàn dải nhỏ.
Không né tránh, chiếc trực thăng lao thẳng về phía
trước. Bàn tay John căng lên, bám chặt lấy tay lái.
Những đốt xương tay trắng nhợt lồi hẳn lên. Mồ hôi lạnh
đọng lấm tấm trên trán.
Đến rồi! Anh chìm vào mõm quái vật.
Chiếc Sikorsky lao vào trong. Vài giây đồng hồ, nó
chìm hẳn vào màu đỏ máu, thế rồi John Singlair đã phi
qua chiếc đầu lâu.
Anh lấy hơi hật sâu. Hiện anh vẫn còn bay trên mặt
biển, nhưng anh đã nhìn thấy hòn đảo hiện ra như một
khối đen lù lù bên dưới.
John Singlair nhìn thấy cả chiếc lô cốt bằng bê
tông, lũy thành của triệu phú Basil Proctor. Trên nóc lô
cốt có gắn đèn pha. Aùnh sáng chói chang hắt thẳng lên
trên, tràn vào cả buồng lái khiến chàng thanh tra lóa
mắt.
John buột miệng nguyền rủa.
Thế nhưng chỉ một vài giây sau đó những âm thanh
định phát ra tắc nghẽn trong cổ họng anh. Tiếng động
khủng khiếp dưới kia xuyên thẳng vào tủy não người cầm
lái.
Tắc...Tắc...Tắc...
Giọng một khẩu súng máy.
Và rồi anh nghe tiếng đạn đập tới. Có viên xuyên qua
vỏ máy bay, lầm kinh trước buồng lái trở thành một mạng
nhện khổng lồ. Hai viên đạn khác huýt gió sát sạt đầu
John. Chàng thanh tra cuối người xuống.
Khẩu súng máy dưới kia tiếp tục gầm gào. Chỉ cần một
viên đạn trúng bình xăng là John hậm chí sẽ chẳng còn
thời gian để nói câu cầu nguyện cuối cùng.
Đột ngột, chiếc Sikorsky xỉu xuống. Giống như một
hòn đá, nó rơi thẳng xuống dưới, vừa lao vừa nghiêng đi.
John mất thăng bằng, lăn người trên nền máy bay, lăn
đúng về hướng cửa ra vào. Phía trên mặt anh có chiếc áo
phao màu đỏ trắng treo sát tường.
John tóm lấy. Anh khoác chiếc áo lên người đúng lúc
chiếc trực thăng rung lên dữ dội dưới chùm đạn thứ hai.
Thân hình John vừa trượt đi, vừa xoay tròn.
Anh bị đập từ bên này sang bên kia. Anh không biết
đâu là trên, đâu là dưới nữa. Chỉ trong tiềm thức vẫn
còn tiếng găm phầm phậm chát chúa của những viên đạn
súng máy. Kính vỡ tung. Chàng thợ săn ma trượt dọc qua
phòng khách, tuyệt vọng tìm cách bám vào đâu đó nhưng
anh bị đập đầu rất mạnh vào một khúc sắt.
John có cảm giác đầu anh đang bốc lửa. Cố gắng đừng
ngất đi! Đừng ngất đi! Một tiếng kêu bùng thét trong nội
tại. Dùng hết sức lực còn lại, anh vật lộn với cơn ngất
đang chực phủ xuống như đôi cánh của một con ác điểu.
Những giây đồng hồ trong chiếc trực thăng đang rơi kéo
dài ra như vô tận.
Thế rồi một cú va chạm. Chiếc máy bay đập trực diện
như cả vách núi đổ xuống mặt nước biển. Thân hình John
Singlair lắc rất mạnh. Anh chỉ còn duy nhất một suy nghĩ
khẩn thiết.
Ra khỏi đây!
Chiếc Sikorsky nặng nề không nằm yên, nhưng chưa
chìm xuống bởi còn quá nhiều không khí bên trong. Nó bị
những làn sóng biển kéo ra xa, rung lắc quăng vật từ
phía này sang phía khác. Đoạn máy bay nghiêng hẳn sang
một phía. Nước tràn vào qua lần kính đã thủng.
John Singlair vật lộn với thời gian. Anh phải ra
khỏi cái quan tài bằng thép này nhanh nếu như anh không
muốn bị tẩm liệm trong lòng đại dương.
Chành thanh tra đã rủ bỏ được những cơn sóng êm ái
lừa lọc của trạng thái bất tỉnh. Vận dụng cả tay lẫn
chân, anh nhoài mình về phía cửa ra. Khuôn kính nhỏ phía
bên cánh cửa đã bị bắn thủng. Vẫn còn những vệt kính
thật dài mắc lại quanh viền cửa.
John tìm cách đẩy cửa ra.
Không được. Cửa kẹt.
Chàng thợ săn ma nghiến răng nuốt một câu chửi. Có
cái gì đó âm ấm rơi lả tả trán. Anh đưa cùi tay lên
quyệt, lúc rút tay về mới phát hiện đó là máu đỏ tươi.
Nước tràn vào trong chiếc trực thăng ngày càng
nhiều. Máy bay bắt đầu chìm rồi, tình thế đe dọa tột
cùng. John Singlair gập cánh tay lại, dùng khuỷu tay đập
bay những mảnh kính còn sót trong khuôn gỗ. Thế rồi anh
chui người qua lỗ hổng đó ra ngoài. Tay anh phải bám
chặt vào chiếc áo phao cấp cứu. John vừa đưa được nửa
người trên ra khỏi khung cửa sổ bị phá hỏng thì một làn
sóng mặn chát đã tát thẳng vào mặt anh.
Chàng thanh tra sặc sụa, nhổ nước ra. Con sóng đó
tràn qua đầu, rồi đến con sóng kế tiếp. Nhưng lúc đó
John đã thoát được ra ngoài. Anh co người đạp vào chiếc
trực thăng, nhào ra xa, lặn vào dòng nước xám.
Chiếc áo phao tự động nở phình khi chạm nước và kéo
John lên trên bề mặt biển. Với những cử chỉ vội vàng,
chàng thanh tra gắng sức bơi ra khỏi khu vực có chiếc
trực thăng càng nhanh càng tốt, tranh sa vào những luồng
nước xoáy nguy hiểm sẽ xuất hiện quanh máy bay khi nó
chìm xuống.
John bơi hối hả như đang tham dự cuộc thi bơi chính
thức và anh đang ở nước rút đường về đích. Có thể nói
đấy chính là cuộc đua giành chính sinh mạng mình.
Chiếc áo phao chẳng giúp anh được là bao. Anh nghe
thấy sau lưng mình vang lên tiếng ùng ục, rít sóng. Mặc
dù anh đã bơi được một đoạn khá xa, nhưng lực hút vẫn
tóm lấy anh.
John vùng vẫy chống đối, và cuối cùng may mắn thoát
ra khỏi vũng nước xoáy. Tuy nhiên anh không thoát được
quầng sáng của ngọn đèn pha quỷ ám.
Như được điều khiển bằng bàn tay ma, nó quét trên
mặt biển. Vài giây đồng hồ, có vẻ như nó cắm phập vào
luồng nước xoáy, thế rồi nó tiếp tục di chuyển về hướng
John. Chàng thanh tra cố gắng lặn xuống, nhưng áo phao
ngăn trở.
Ngay lập tức, một luồng mưa đạn nổ tới.
Tắc...tắc...tắc...
Anh căm ghét cái âm thanh khốn kiếp này biết bao
nhiêu! Nước vọt lên từng cột lớn bên trái và bên phải
anh. Nước quất lên những ngọn roi tàn nhẫn khi những
viên đạn rơi vào lòng bể. Aùnh đèn pha bám lấy chàng
trai không thương xót. Chắc nó được gắn trên một giá đỡ
có thể quay tròn, để dõi theo John Singlair đi khắp mọi
nơi.
Người con trai phải sử dụng biện pháp cuối. Anh tháo
áo phao cấp cứu. Cái áo nhẹ nhàng trượt ra khỏi thân thể
anh và chỉ vài giây đồng hồ sau đó, anh lặn xuống.
Anh lặn xuống dưới sâu hầu như theo chiều thẳng
đứng. Tất nhanh, khung cảnh xung quanh tối sầm lại. Vùng
nước dưới ánh đèn pha trên kia giờ chỉ còn là khoảng
sáng mờ mờ. Chàng thanh tra bơi dưới sâu. Những viên đạn
súng máy không tới được nơi anh nữa.
Thay vào đó, anh sắo thiếu không khí.
Anh phải lên trên kia ngay lập tức để nạp ôxy.
John Singlair bơi chênh chếch lên mặt nước. Anh mở
to mắt, định hướng được khoảng sáng mờ mờ. John ráng sức
bơi. Cánh phổi anh như sắp vỡ tung. Ở hai mét cuối cùng,
chàng thanh tra nhoài người lao thẳng lên trên như một
quả tên lửa. Anh há mồm ra, thèm thuồng hút khí.
Quầng sáng đèn pha đang lướt qua lướt lại một khoảng
cách tương đối xa. John thậm chí không bị vướng vào phần
rìa của nó.
Tiếng súng máy đã ngưng. Từ khi tên bắn súng thâm
hiểm không nhìn thấy mục tiêu nữa, gã đã quyết định tiết
kiệm đạn.
Nhưng còn lâu gã mới bỏ cuộc. Cái hình nón sáng rực
lại từ từ đi về hướng John.
Thêm một lần nữa, chàng thanh trahối hả lặn xuống.
Anh xoay người bên dưới làn nước, không bơi ra biển mà
bơi về hướng hòn đảo. Nhưng con người chẳng chịu được
lâu dưới nước. John lại phải trồi lên, hút không khí vào
hai cánh phổi đã bị hành hạ quá mức.
Lần này thì quầng sáng đã xa đến mức John không cần
phải chiu xuống nước lần nữa. Anh có thể bơi bình
thường. Mặt biển trợ giúp anh. Những làn sóng rất dài
đẩy anh về hướng đảo nhỏ. Trời đêm hôm nay không quá
tối. Mặt trăng thả đủ ánh sáng xuống cho John định
hướng. Anh thấy hòn đảo hiện nên như một vệt dài mờ. Anh
thậm chí còn nhận ra những đường viền của lô cốt bê
tông, chỉ có điều anh không nhìn thấy gã đàn ông đứng
trên nóc nó.
John vào gần bờ. Sóng dội ngược ra chốc chốc lại đẩy
anh về chỗ cũ.
Chàng thanh tra dồn sức vật lộn. Những chuyển động
của anh mạnh mẽ hơn. Anh khoát tay thật nhanh, cố gắng
uống càng ít nước càng tốt. Bộ trang phục ướt đẫm và
nặng trĩu khiến mọi việc càng thêm phần nặng nhọc.
Những vách đá xuất hiện. Chúng nổi lên từ mặt nước
như những chiếc lưng gù. Cẩn trọng hết mực, John tránh
không để những cạnh đá rất sắc kia xé nát da mình. Thế
rồi đột ngột, anh nghe thấy giọng người!
John bất giác ngừng bơi. Anh thả thân hình dập dềnh
theo sóng biển, căng tai nghe.
Chỉ có tiếng rì rào của sóng.
John đã tưởng những âm thanh nọ là ảo giác, nhưng
đúng lúc anh định tiếp tục bơi thì tai anh lại nhận ra
tiếng nói.
- Nhanh lên, tóm nó lên thuyền!
- Vâng, nó đến đây bằng con chim sắt!
- Tất cả về vị trí!
- Ô, mình không điên đấy chứ?
Chàng thợ săn ma ngẫm nghĩ. Anh nghe thấy tiếng đàn
ông nhưng chẳng thấy ai. Dần dần, John thấy bất an. Anh
bơi nhanh hơn. Anh tìm cách lên đảo nhanh như có thể.
Lại có những đợt sóng rút ra khơi, đẫy anh lùi môt
đoạn.
- Chèo nhanh lên, bọn con lừa!
Chàng thợ săn ma nghe thấy giọng nói đó vang rất sát
bên anh. Giờ thì anh nghe thấy cả tiếng mái chèo khua
mạnh xuống nước.
- Đúng thế, ta sắp tóm được nó rồi, thằng con hoang!
Rồi lại tiếng mái chèo khua dồn dập.
- Phía dưới chèo nhanh lên! Chú ý, khéo không lại
đập nó vỡ đầu.
Còi báo động vang lên trong óc John. Bọn đàn ông đã
đến sát bên anh rồi, anh nghe rất rõ.
Và đột ngột anh nhớ ra tay thuyền trưởng Barell và
con thuyền đã chìm của hắn.
Có phải đây là những con ma thuỷ thủ đang đuổi theo
anh? Không cón lời giải thích nào khác có thể thuyết
phục được anh.
Bất giác chàng thanh tra cảm nhận một ngọn đòn rất
mạnh đập lên lưng mìn. John thét lên. Nước xộc vào miệng
khiến anh ho sặc sụa. Một cái móc câu vô hình đã móc
chắc vào quần áo John.
- Kéo nó lên!
Một bức tranh kỳ quái. John Singlair bị những bàn
tay vô hình kéo lên, lôi qua mạnh thuyền. Anh cảm nhận
rõ những bàn tay sần sùi, và trong tích tắc sau đó, thân
hinh anh quật trực diện xuống ván gỗ.
Chàng thanh tra không hề tưởng tượng được cú ra quân
của anh lại dẫn đến bước ngoặt này.
Anh trở thành tù nhân của bọn ma cướp biển.
Một tay Ali cầm chặt ngọn đèn pha, bàn tay kia sử
dụng chiếc cán quay bên dưới và điều khiển quầng sáng
trượt trên mặt nước biển.
Không thấy gì.
Thằng con trai lái trực thăng đã biến mất. Mặt Ali
nhăn nhúm. Người ngoài không nghe tháy tiếng chửi của
gã, bởi gã bị câm.
Khẩu súng máy đứng bên cạnh ngọn đèn pha. Nó được
buộc trên một cái giá quay, nhằm cho khẩu súng có một
tầm nhả đạn tối ưu. Mặc dù vậy, Ali vẫn chưa bắn trúng
người đàn ông kia và điều đó khiến hắn vô cùng bực tức.
Chính Basil Proctor ra lệnh cho gã bắn rơi trực
thăng. Người lái máy bay đã không trả lời theo đúng mật
mã qui định trước. Basil Proctor vốn đa nghi như một con
chó sói già nua. Trước khi bước chân vào mạo hiểm, hắn
thà nhả đạn một trăm lần. Trong những chuyện này, Ali
cho tới nay luôn là tay chân đáng tin cậy đến mức tuyệt
đối.
Nhưng lần này gã không gặp may.
Nhiều phút đồng hồ ròng rã, gã dùng ngọn đèn pha ra
soát mặt biển. Không kết quả. Tên con trai xa lạ kia đã
biến mất. Thay vào đó, Ali nhìn thấy chiếc áo phao cấp
cứu dập dềnh trên sóng. Ali cười. Gã cho rằng tên phi
công giả mạo kia đã chết đuối. Rất có thể một viên đạn
đã găm trúng nó mà Ali không hề nhận ra.
Gã tắt đèn. Từ lỗ cửa dẫn xuống dưới lô cốt vang lên
giọng nói của tay triệu phú.
- Ali! Xuống đây!
Tên Ả Rập tuân lời. Đưa những bước chân thoăn thoắt
theo những bậc cầu thang xuống dưới. Basil Proctor ngồi
đợi trong ghế lăn. Aùnh mắt gã không hứa hẹn điều gì hay
ho. Gã xòe những ngón tay gầy khẳng như tay nhện nắm
chặt lấy thành ghế. Luồng sáng Néon từ trên trần phòng
khiến cái đầu trọc của gã bóng lên như cái sàn nhảy.
Hình như Proctor đọc thấy chuyện không ổn qua nét
mặt của Ali.
- Mày không bắn trúng nó phải không? – Gã giận dữ
hỏi.
Ali lắc đầu. Rồi gã Ả Rập ngập ngừng, muốn ra hiệu
thanh minh. Nhưng không còn kịp nữa rồi.
Cái khuôn mặt vốn gớm ghiếc của Proctor bây giờ càng
trở nên kinh khủng hơn. Bàn tay phải của gã thọc tay
xuống lớp chăn phủ chân và rút ra một ngọn roi cán ngắn.
Nỗi sợ hãi chập chờn cháy trong mắt Ali.
Basil Proctor cười đểu giả. Cán roi ngắn thật, nhưng
làn roi bằng da của nó dài trên bốn mét. Phần đầu ngọn
roi được buộc bằng ngững quả cầu con con bằng thép.
Basil Proctor điều khiển chiếc roi quất điệu nghệ.
Xoay cổ tay, gã quật tới.
Tên người Ả Rập đứng nghiêm như một bức tượng. Nét
mặt gã không hề thay đổi, gã nuốt trọn mười roi. Đánh
xong chừng đó gã mới dừng tay.
- Lần sau thì bắn cho tốt hơn! – Tên triệu phú rít
lên. Công cụ tra tấn lại biến xuống dưới lớp chăn phủ.
Ali lảo đảo. Quần áo của gã rách tươm. Nửa người
trên và mặt chằng chịt vết roi. Máu tụ lại chảy dọc thân
thể hắn thành những vệt đỏ l2om.
- Cút đi! – Proctor ra lệnh.
Ali len lén bước khỏi phòng. Gã phải giơ tay vịn vào
tường cho khỏi ngã.
Basil Proctor xoay cái ghế lăn, bật động cơ, rời
phòng qua một cửa nâng bằng thép.
Tay triệu phú đang rất giận dữ và có phần hoảng sợ.
Gã cảm thấy cơ hội của gã đang giảm xuống. Việc Rick
Terry không trở về cùng chiếc máy bay là dấu hiệu đầu
tiên. Chắc Rick Terry đã bị tên phi công lạ mặt kia
khuất phục. Tên này bay về hướng đảo với mục đích gì?
Có phải nó là một cảnh sát viên? Tại sao bọn chúng
phát hiện ra dấu vết của gã nhanh khiếp thế? Đột ngột,
tên triệu phú hy vọng kẻ lạ mặt kia còn sống sót trong
trận tấn công bằng súng máy. Basil Proctor giờ rất muốn
nói chuyện với anh ta, trước khi đẩy anh ta vào bàn tay
tử thần.
Chiếc ghế lăn đi dọc dãy hành lang chật hẹp, dừng
lại trước môt cánh cửa cũng bằng thép. Proctor bấm bộ
phận điều khiển từ xa và chờ cho tới khi cánh cửa từ từ
xoay vào bên trong. Vẫn còn một vấn đề khiến Basil
Proctor lo lắng.
Đội thuỷ thủ!
Lẽ ra đêm nay nó phải đầy đủ quân số. Phải đúng số
mạng người của thủy thủ đoàn đã chìm xuống cách đây hai
trăm năm. Basil Proctor đã lo lắng thất chu đáo, đã rủ
rê thừ cả một người phòng trường hợp bất trắc như Adam
Preston. Chẳng lẽ mọi cố gắng của gã đếu uổng phí, bởi
chuyện đúng hẹn bây giờ đã lộ rõ là việc bất khả thi.
Tay lạ mặt kia ngồi một mình trong máy bay thăng. Thuyền
trưởng Barell sẽ phản ứng ra sao đây? Liệu hắn ta có
đồng ý hoãn đến một thời điểm muộn màng hơn, hay hắn sẽ
đơn giản cắt đứt quan hệ?
Thế thì thật khủng khiếp, bởi có nghĩa là Proctor sẽ
phải sống tiếp quãng đời còn lại trong tư thế một cái
giẻ rách tàn phế, ngay cả khi gặp may và được bọn ma
cướp biển tha mạng sống.
Với những bức tranh tương lai u ám trong đầu, tay
triệu phú cùng với chiếc ghế lăn tiến vào phong riêng.
Cánh cửa đóng lại đằng sau lưng hắn.
Căn phòng này là hỗn hợp của một xưởng điện tử và
một phòng khách. Chiếm một nửa phòng là một dãy bàn với
vô số màn hình. Một cái bàn với bao nhiêu nút bấm và
công tắc tạo thành trái tim của toàn khu lô cốt. Ngồi ở
đây, Basil Proctor có thể kiểm soát tất cả.
Hắn có thể mở và đóng các cánh cửa, hắn có thể canh
chừng tất cả cá căn phòng. Kể cả không phận quanh đảo.
Công cụ trợ giúp hắn là một giàn máy radar đã được
cài trên đảo. Đúng thế, mọi việc rất trôi chảy, tốt đẹp,
nếu không có cái gã phi công lạ mặt kia...
Chàng thanh tra cảm nhận rõ ràng những thanh gỗ
rất cứng dưới lưng mình, nhưng không nhìn thấy chúng.
Anh nghe thấy giọng của những người đàn ông mà vẫn không
thấy một bóng người nào.
Anh nằm giữa nước, nhưng những đợt sóng biển không
chạm vào người anh.
Một nghịch lý, phi logic và đầy bí ẩn.
Nhưng là hiện thực. John Singlair đang nằm trong tay
những kẻ vô hình. Chúng thoải mái bàn luận về anh.
- Nó sẽ hợp với đội thủy thủ của chúng ta đấy. – Một
kẻ nói.
- Đúng thế, nó to và khỏe.
- Chờ xem thuyền trưởng Barell quyết định thế nào?
Thuyền trưởng Barell! Giờ thì John Singlair tin chắc
rằng anh đang nằm trong tay bọn ma cướp biển. Tuyệt
vọng, anh tìm cách nhớ lại câu chuyện đó. Barell đã đến
đây từ xứ Aán Độ, mang trên tàu một loạt hàng quý giá
giành riêng cho Hoàng Gia Anh. Đến bãi biển này, Barell
lạc vào một trận bão chết chóc. Con tàu Cornwall Love,
một con tàu đã ngạo nghễ chống lại sóng gió của cả Đại
Tây Dương lẫn Thái Bình Dương, lại chìm xuống trong phần
đuôi kéo dài của con kênh ngăn cách nước Anh và đại lục.
Thật không thể nào hiểu nổi. Ngày đó người ta đã bàn tán
về những thế lực siêu nhiên, bởi không ai tìm thấy dấu
vết nào của con tàu lẫn thủy thủ đoàn. Cứ như thể địa
ngục đã há mõm nuốt chửng lấy nó.
Toàn bộ thủy thủ đoàn chết đuối, nhưng những linh
hồn đó không siêu thoát. Những gã đàn ông đó vẫn tồn tại
trong một vương quốc màu xám, nằm ở khoảng giữa thế giới
này và địa ngục. Chúng bị nguyền rủa, và nếu không có ai
bẻ gãy lời nguyền đó thì những hồn ma cứ thế lang thang
trên mặt biển, xuyên suốt mọt thời gian.
John Singlair thầm nghĩ như thế. Anh chỉ không biết
chuỗi suy luận của anh gần đúng với sự thật tới mức nào.
Con thuyền bắt đầu chòng chành. John nghe thấy tiếng
bước chân nặng trịch và một giọng ra lệnh rất hách.
- Vào vị trí, bọn lừa ngu! Nếu không thì ngọn roi
của ta sẽ thúc các ngươi vào việc đấy! Không được phép
để thuyền trưởng chờ!
- Con thuyền tăng tốc. Một bàn tay vô hình cứng như
thép tóm lấy John Singlair, nâng anh lên. Cơ thể John
bây giờ nằm lưng chừng không khí. Anh muốn gạt cách tay
đó sang một bên, nhưng ngọn đòn của anh chỉ chém vào
khoảng không.
Gã đàn ông cười lớn. Giọng cười rùng rợn, hể hả và
đểu giả. John Singlair trong bộ quần áo ướt sũng dán
chặt vào da đột nhiên rơi vào hoảng loạn. Bọn ma cướp
biển này có thể giết chết anh mà anh hoàn toàn không
nhìn thấy điều gì. Có kẻ nào đó đang nhìn thấy anh, kẻ
đó có thể đâm một con dao găm vào ngực anh, hoặc xả một
lưỡi kiếm suốt thân thể anh.
Một tình huống khủng khiếp.
Những đợt sóng đập vào một mạn thuyền vô hình. Những
tia nước bắn tóe lên người chàng thanh tra. Nước mặn
khiến cho mắt anh cay xè. Anh giơ tay gạt nước.
Gã đàn ông đang tóm lấy anh cười lớn.
- Tao là hoa tiêu Howard! – Gã kêu bằng cái giọng
rất cao. – Mày nhớ cái tên đó cho kỹ đấy, chắc chắn tới
đây mày sẽ làm việc theo lệnh tao. Tao nhắc trước, liệu
hồn thì đừng có bướng!
Gã lắc lắc cơ thể chàng thanh tra như người ta lắc
một con búp bê. Thế rồi gã buông cho anh rơi xuống. Thân
hình John đập thẳng xuống những tấm ván vô hình. Cuộc
đời nghề nghiệp đã dẫn anh chứng kiến biết bao sự kiện.
Anh đã chiến đấu chống lại những con ma cà rồng, người
sói, những quái vật và ma quỷ. Nhưng những vụ án đó
không thể so sánh với nhựng gì mà an đang phải trải qua.
John hoàn toàn không có khả năng kháng cự. Anh nằm
gọn trong bàn tay của những con người rùng rợn hư vô.
Những kẻ không thể bị tấn công.
Bỗng một giọng thét lên:
- Chào Cornwall Love!
- Mạn trái mạnh lên! – Howard gào lớn. – Bọn sâu bọ
nhà các ngươi, chèo mạnh nữa, quỷ tha ma bắt.
Con thuyền nhỏ xoay lại.
John Singlair nhìn trân trối lên bầu trời đêm. Mặt
trăng treo lơ lửng trên cao như một quả cầu vàng. Mặc dù
con tàu Cornwall Love chắc ở ngay trước mặt họ, nhưng
chàng thanh tra chỉ nhìn thấy nước. Lũ ma thuỷ thủ giờ
chỉ chăm chú vào chuyện chèo thuyền. John Singlair liều
mạng ngồi thẳng người lên. Không kẻ nào quan tâm tới
anh.
Thế rồi trong cõi vô hình hiện lên một bức tường
sương mù chắn trước con thuyền nhỏ, trông nó như vừa mọc
thẳng lên từ làn nước. Vô vàn những xoáy nước cuộn tròn,
vô vàn những làn hơi nước bốc lên tạo thành những hình
ảnh kéo dài, tơi tả, lơ lửng trên mặt nước trong một màu
xám trắng.
John Singlair nhìn ra những đường viền của con tàu.
Đó là một con tàu chiến với nhữg cột buồm rất to.
Làn vải bố của những cánh buồm đang giật phần phật trong
gió, vậy mà kỳ quái làm sao, con tàu không dịch chuyển.
Nó lơ lửng sát trên mặt nước. Có một đám người tụ tập ở
mũi tàu, những gã đàn ông dữ tợn trong những bộ quần áo
sặc sỡ và được vũ trang tới tận răng. Có một gã đàn ông
khiến John đặc biệt chú ý. Gã mặc một bộ quân phục màu
xanh, đi ủng cao, quần đút vào trong ủng. Hai vạt áo
khoác phanh ra. John thậm chí nhìn thấy cả làn vải lót
bên trong. Gã mặc quân phục đội một cái mũ ba chòm trên
đầu. Ngang hông là một chiếc dây lưng rất đẹp, phía bên
phải là một cây kiếm ngắn trong một bao đựng bằng da. Gã
đang đặt hai bàn tay lên mạn tàu, nhìn con thuyền nhỏ
tiến lại bằng ánh mắt chờ đợi.
Cả chiếc thuyền bây giờ cũng hiện hình. John nhìn
thấy quanh mình là những hình người đánh kinh sợ. Gã
Howard là một tên đàn ông to cao như một khúc tủ đựng
quần áo. Với bộ mặt xồm xoàm râu ria và chỉ có một tai.
Đôi mắt đen nằm rất sâu trong hai cái hang hốc. Khi
cười, gã nhe ra những cái răng trắng nhởn.
John nhìn thấy cả một tên chột mắt. Hắn đeo một cây
kiếm cong ở hông bên phải và nhìn anh không chớp mắt.
Chắc tên đao phủ này lại đang mừng về kẻ tử tù mới của
hắn.
Bọn người chèo thuyền gồm đủ mọi sắc tộc. John nhìn
thấy những đứa con lai, những tay người da đen, người
Trung Quốc, kể cả những tay người Bắc Âu tóc trắng.
Nhưng tất cả lũ chúng đều có một điểm chung. Dù là
bọn cướp biển đứng trên Cornwall Love lẫn nhóm bên dưới
con thuyền nhỏ đều có những bộ mặt nhợt nhạt đến kỳ
quái. Thanh tra John tin rằng anh đang nhìn thấy cả
những khúc xương ánh lên dưới phần da.
Con thuyền nhỏ bây giờ đã chìm hẳn vào phía bên
trong bức tường sương mù và trôi song song với tàu
Cornwall Love. Những mái chèo được thu lên, dây cáp trên
tàu được ném xuống.
Một cú đá thúc John Singlair đứng dậy. Khi gã đàn
ông đó muốn đá lần thứ hai, John Singlair tóm lấy cổ
chân gã, vặn lại.
Anh cảm nhận một làn da lạnh toát. Da của người
chết. Rõ ràng không thể nhầm lẫn.
Tên cướp biển thét lớn, xoay người lại và rơi qua
mạn thuyền, rớt xuống nước.
Thế rồi, một cảnh tượng khủng khiếp diễn ra. Nước
bên dưới sôi lê sùng sục làm nổi vô vàn bong bóng và sủi
bọt như một nồi cháo phù thủy. Tên cướp biển vừa lăn qua
mạn thuyền hoảng hốt vùng vẫy tay chân. Gã muốn co người
cố bám lấy mạn thuyền nhưng không được. Hai bàn tay chết
chóc chạm được vào vách thuyền, nhưng rồi một tiếng thét
vang lên, cả hai bàn tay ấy trượt xuống.
Và hiện nguyên hình một bộ xương!
Bộ xương trôi lập lờ trên mặt nước như một miếng
giấy.
Như đã hóa đá, tất cả những tên cướp biển còn lại
đứng đờ đẫn nhìn cái chết của đồng bọn. John Singlair
nhanh như chớp hiểu ra rằng một khi lũ ma này ở trạng
tháu vật chất hóa, nước biển mặn sẽ trở thành một dung
dịch giết chúng. Nếu anh lao qua ván thuyền xuống dưới
kia, sẽ chẳng kẻ nào nhảy theo, truy đuổi anh.
Hành động!
Chàng thanh tra nhảy lên, nhưng có vẻ như quỷ Satan
đã tiên đoán trước chuyện này. John không nhìn thấy một
chiếc ghế dài nhỏ nên bị vấp. Anh ngã xuống, kịp lăn
người đi vài vòng, nhưng không ngăn trở được cả đám
người kia đổ dồn về phía mình. Bọn cướp biển giờ đã tỉnh
khỏi cơn ác mộng.
Thằng một mắt là đứa đầu tiên bay về phía John. Nó
hung dữ giơ con dao cắm. Chỉ cần một nhát duy nhất, nó
có thể xẻ John ra làmhai. Nhưng chàng thanh tra co chân
lên, đạp trúng vào ngực tên cướp biển, đẩy hắn bay qua
đầu anh.
Tiếng thét xé tan bầu trời, thằng một mắt rơi xuống
nước. Không còn lấy một cơ hội duy nhất, gã rơi thẳng
vào sự hủy diệt.
Chẳng bao lâu thêm một bộ xương thứ hai trôi lập lờ
trên mặt nước. Chỉ đáng tiếc John không được nhìn cảnh
tượng đó.
Đối phương quá đông. Thình lình một sợi dây thònh
lọng bằng da siết quanh cổ anh, siết một cách tàn khốc.
Chàng thanh niên cong người lên. Sợi dây da khiến anh
nghẹt thở. Bọn đàn ông đó chắc chắn sẽ siết cho anh chết
luôn nếu tên thuyền trưởng không can thiệp.
- Dừng tay! – Gã gào lên oang oang. – Tao muốn bắt
sống nó.
Bọn cướp biển tuân lời. Từ từ chúng nới lỏng dây
thònglọng. John Singlair bắt đầu thở được. Thế là bọn
cướp biển quàng hai vòng dây nữa quanh vai anh. Bằng cái
lối quấn buộc đơn giản đó, chúng đưa anh lên tàu
Cornwall Love.
John được đưa đến trước thuyền trưởng Barell, nhân
vật bí hiểm của không biết bao nhiêu huyền thoại. Nhân
vật đã chết trước đây cả hai trăm năm trời hay ít ra thì
John cũng đã tưởng như vậy cho tới hôm nay.
Làn da tên thuyền trưởng cũng trong suốt. John nhìn
thấy những khúc xương anh lên bên dưới, mùi xác chết bay
quanh tanh tưởi lợm giọng.
Hai tên cướp biển tóm chặt lấy cánh tay John . Thêm
một lần nữa, anh cảm nhận rõ cái lạnh rùng rợn tỏa ra từ
những thực thể đó . Không , chúng không còn là người nữa
, mà là những sản phẩm của bóng đêm , những linh hồn bị
nguyền rủa, đẩy vào cảnh sống đời ma quỷ .
- Ta là thuyền trưởng Barell! – Gã đàn ông mặc bộ
quân phục màu xanh tự giới thiệu .
- Tôi biết .- John đáp .
Anh và tên thuyền trưởng đứng đối mặt nhau bên dưới
cánh buồm lớn nhất. Gần chỗ họ có một cầu thang dốc
xuống, dẫn vào lòng con tàu. Trên một bục nhỏ là bánh
lái tàu khổng lồ làm bằng gỗ, đang được hai gã đàn ông
giữ chắc.
- Ra mi biết ta? – Thuyền trưởng hỏi.
Gã có một giọng quen ra lệnh, rất vang và rất hách.
Hai môi gã hầu như không còn hiện lên nữa. Chúng nhợt
nhạt hơn cả da mặt, cho John biết rằng cả tên thuyền
trưởng lẫn bọn đàn ông kia đều không còn một giọt máu
trong cái cơ thể còn nguyên vẹn.
- Mi đã giết mất hai thủy thủ của ta. – Thuyền
trưởng nói. – Vì thế mi phải chết!
- Tôi không còn cách nào khác! – Thân hình John căng
lên. – Tôi phải tự vệ! Tay thuyền trưởng đấm nắm đấm tay
phải vào bàn tay thứ hai đang mở rộng ra. - Không một ai
được phép kháng cự trước ta và trước đội thuỷ thủ của
ta! Và không một ai giám trái lời ta. Kẻ nào làm điều đó
hoặc sẽ bị chặt đầu hoặc sẽ bị treo cổ! Đêm hôm nay đã
được số phận để trả lại cho chúng ta hình dạng bình
thường của con người. Chỉ còn một chuyến hàng nữa thôi
là đội thủy thủ của chúng ta sẽ đông đủ. Nhựa sống của
lũ người kia sẽ được chuyển sang cho bọn ta. Lời nguyền
của Maharadscha sẽ được giải toả và bọn ta sẽ được tự
do. Nhưng chính mi đã làm hỏng tất cả! Nên bây giờ mi sẽ
phải chết. Vì mi phá kế hoạch mà chúng ta phải chờ thêm
bảy năm nữa. Bảy năm, cho tới đêm kế hoạch kế tiếp. Mà
tới thời gian đó, liệu chúng ta có tìm được người giúp
đỡ hay không, trong khi không một ai biết được hoàn cảnh
này. Kẻ giúp đỡ ta hiện thời là Basil Proctor. Nó đã mua
hòn đảo này, và đã xây một lô cốt ở đây. Bọn ta đã ký
một hợp đồng với nó. Lẽ ra nó sẽ nhận được ko báu của
quỷ, và trở về với hình dáng ngày trước, còn bọn ta thì
nhận được linh hồn của nhiều người. Nó sẽ rất muốn được
trả thù mi đấy, nhưng ta không để cho nó lấy mấy niềm
vui đó. Chính bản thân ta sẽ giết mi! Treo nó lên cột
buồm!
Tên thuyền trưởng chưa nói hết câu, những dáng người
rùng rợn kia đã nhảy xổ vào chàng thanh tra.
John Singlair dồn sức kháng cự. Những ngọn đòn
karaté của anh đập hai tên đầu tiên xuống đất. Thế nhưng
bọ ma cướp biển đâu biết đến nỗi đau thể xác. Ngay lập
tức, chúng lại nhảy vọt lên.
Một tên tóc vàng cao lòng khòng đập một cây đinh ba
xuống đầu John. Bàn tay phải của anh gạt tránh, đồng
thời, chân trái của chàng thanh tra đạp trúng vào người
con ma cướp biển.
Tên tóc vàng bị giật lùi trở lại. Rồi có kẻ bào đó
đứng sau lưng đạp thẳng vào hõm đầu gối John làm cuộc
giằng co của chàng thanh tra chấm dứt.
Trong tiếng kêu hả, John bị lũ đàn ông ma quái kéo
đến cột buồm. Chúng bẻ quặt hai tay anh sau lưng, vòng
quanh cột buồm rồi buộc hai cổ tay anh lại với nhau.
Thuyền trưởng Barell đứng cách đó không xa. Gã chống cả
hai nắm đấm lên ngang hông, vừa nhìn quân làm việc vừa
ném về phía John Singlair những ánh mắt căm hờn.
Chàng thanh tra bây giờ đứng hơi cao hơn lũ người
còn lại. Anh có thể nhìn qua đầu lũ cướp biển. Cả con
tàu vẫn chìm trong bức tường sương mù. Cái khối khổng lồ
màu xám trắng đó đang cuộn sóng lên, chuyển động. Thỉnh
thoảng lại có những dải sương rất dài bò lên trên mạn
tàu.
Khi còn ở dưới con thuyền nhỏ, John đã nhìn được vào
phần bên trong bức tường sương mù này, nhưng bây giờ anh
không thể nhìn ra phía ngoài kia. Anh không biết những
gì đang xảy ra đằng sau bức tường bí hiểm đó.
Bọn cướp biển đã tạo thành một hình bán nguyệt bao
quanh tù nhân. Mỗi đứa cầm trong tay một ngọn cờ. Trên
nền vải trắng có vẽ một cái đầu lâu màu đen. Tên cướp
biển râu ria xồm xoàm Vừa vẫy vẫy cái cờ trong tay vừa
hét lên :
- Trả thù! Trả thù!
Thuyền trưởng Barell tỏ vẻ hài lòng. Gã lớn giọng,
gào lên một mệnh lệnh vang dọc boong tàu .
- Gọi đao phủ lại đây!
Và đao phủ tiến lại!
Khi John nhìn gã đàn ông đó, anh thấy rõ một luồng
khí lạnh chạy dọc sống lưng mình. Tên đao phủ trông thật
đáng sợ.
Đầu gã trọc lóc, nữa thân trên để trần. Gã mặc một
cái quần rất chật như thể không còn gì chật hơn, cả hai
bàn tay nắm chặt cán của một con dao quắm. Tảng ngực dày
đặc những sợi lông quăn tít. Hai hàm răng nhe ra phô một
nụ cười tởm lợm. Aùnh mắt lóe sáng nỗi ham mê giết chóc
.
- Đây là Ramon! – Thuyền trưởng giới thiệu tên đao
phủ. – Nó sẽ chẻ mày ra làm hai phần! – Nói xong, Barell
cười lên rùng rợn và Ramon hòa vào tiếng cười đó.
- Nhưng chưa tới lúc đâu! – Thuyền trưởng Barell gào
lên chát chúa. – Phải mang những đứa khác lại đây đã.
Không thành người được trong đêm nay thì ta cũng không
để đứa nào sống sót. Chúng ta sẽ mở một bữa tiệc máu. –
Bàn tay phải của hắn giật về phía trước. – Đây là đòn
trả thù cho sự xuất hiện của mi ở đây. Ta sẽ nói với bọn
kia rằng một mình mi phải gánh chịu mọi tội lỗi, phải
chịu trách nhiệm cho cái chết của chúng. Bọn tù nhân
cũng sẽ được chứng kiến cái chết của mi trước hết, và
bảy năm nữa chắc chắn bọn ta sẽ hóa giải được lời
nguyền!
Thuyền trưởng Barell quay người đi. Gã nhìn bọn đàn
ông ma thuộc quyền gã và đọc trong bộ mặt chúng lòng
trung thành, sẵn sàng theo gã đi khắp mọi nơi.
- Nhanh lên, đưa mấy cái giẻ rách kia lại đây! Nhanh
lên đấy. Cho tới khi trời sáng là mọi việc phải xong
xuôi.
Reo hò ầm ĩ, một nửa tá tên cướp biển nhảy ra mạn
tàu. Bám vào những sợi xích sắt, chúng trèo xuống con
thuyền nhỏ đang chờ bên dưới.
Thanh tra John Singlair bị trói vào cột buồm của con
tàu ma. Hiếm khi nào mà tình huống của anh lại vô vọng
như hiện thời.
Lần này, có lẽ cái chết sẽ là chung cuộc .....
Khi Basil Proctor nhì thấy bức tường sương mù, gã
đàn ông tham lam biết rằng mọi việc vậy là kết thúc. Con
tàu lẽ ra không được vật chất hóa sớm như thế này. Quá
trình đúng quy định chi bắt đầu lúc trời gần sáng, với
đầy đủ mạng người cho cả nhóm linh hồn đã bị Maharadscha
giam cầm suốt hai trăm năm qua. Con tàu đã hiện lên sớm
bởi có chuyện bất thường.
Tay triệu phú nhìn trân trối qua một khung cửa sổ
của lô cốt. Gãcó thể nhận ra dải sương mù, thậm chí có
những lúc còn nhìn xuyên qua được nó. Những dáng người
đang hiện lên lờ mờ trên boong tàu. Gã nhìn thấy cảnh
John Singlair bị đưa lên đó, gã quan sát cuộc chống chọi
của John với những tay cướp biển. Thế rồi người lạ mặt
tóc vàng bị trói vào cột buồm.
Sau đó, một con thuyền nhỏ tách rời tàu lớn. Bọn
chèo thuyền đang gắng sức làm việc. Chúng hợp lực chống
chọi với những con sóng rút khỏi bờ muốn đẩy lui chúng
ra xa.
Basil Proctor muốn đón chúng. Cùng với chiếc ghế
lăn, tên triệc phú đi dọc những dãy hành lang. Vừa đi
hắn vừa cất tiếng gọi Ali, nhưng sao tên người Ả Rập
không thấy xuất hiện khiến nỗi giận dữ của tên triệu phú
càng bốc cao hơn.
Không một tiếng động, cái ghế lăn từ từ chui qua
những khúc hành lang. Như một con quỷ con, Basil Proctor
ngồi trên ghế. Khuôn mặt gã nhăn nhúm lại trong căm hận.
Thỉnh thoảng gã lại lẩm bẩm phun ra những câu không ai
hiểu nổi.
Đến trước cửa ra, gã dừng lại.
Giống như ben đường dẫn vào một nhà để xe loại lớn,
cánh cửa thép từ từ kéo lên cao. Basil Proctor cùng
chiếc ghế lăn dừng ở cửa ra vào, chờ phía lia tiến tới.
Chiếc thuyền nhỏ đã được lái vào vịnh đáy nó đã chạm
cát. Bọn đàn ông nhảy xuống. Bốn tên cướp biển kéo con
tàu lên hẳn trên bờ. Chúng vừa làm việc vừa chú ý để
nước biển không chạm vào da thịt.
Một tên thoáng có một phút thiếu tập trung. Đột
ngột, gã giật nảy người và bắt đầu thét lên chói gắt.
Một làn sóng đã chồm lên chân hắn. Chỉ trong chớp mắt,
nước mặn đã bóc phăng đi lớp thịt chân, những khúc xương
trắng hếu lòi ra. Tên cướp biển nhìn trân trối xuống vết
thương bên dưới bằng nỗi kinh hoàng khủng khiếp nhất.
Vệt phân hủy lan ra. Ngay trong những phút sau đó,
nó đã bám tới cổ chân. Tên cướp biển tru lên trong nỗi
sợ mù lòa.
Lúc đó, bọn đàn ông đứng xung quanh ra tay can
thiệp. Trước khi tên cướp biển kịp đề phòng, tòng phạm
củ nó đã tóm lấy nó, giơ lên cao và ném xuống biển.
Những tiếng thét cùng hắn chìm xuống sóng. Chỉ vài
phút sau, bộ xương người đã được sóng biển tấp lên bờ
rồi dừng lại giữa hai vách đá nhỏ. Một lời cảnh báo kỳ
quái cho thế giới đi sau. Basil Proctor lạnh lùng quan
sát cảnh tượng đó. Gã cũng không chớp mi lấy một lần khi
năm tên đàn ông còn lại đi về phía gã.
Cầm đầu nhóm là tên lái tàu Howard.
Gã dừng lại trước mặt tay triệu phú.
- Hỏng cả rồi! – Gã thét vào mặt Basil Proctor. –
Chúng ta không đầy đủ quân số cho thủy thủ đoàn. Mi đã
làm hỏng việc!
Proctor giơ những ngón tay méo mó lên chống đỡ.
- Không phải! – Gã tru lên. – Tôi đã.....
- Câm mồm!
Howard giơ tay táng thẳng vào khuôn mặt xấu xí của
tên triệu phú. Ngọn đòn quá nặng, suýt chút nữa thì
Proctor đã cùng chiếc ghế lăn ngả nghiêng sang một bên.
May mà gã còn kịp giữ được thăng bằng trong giây cuối.
Howard phá ra cười.
- Đó chỉ lá một phần nhỏ của những gì đáng ban
thưởng cho mày. Gìơ thì dẫn chúng tao đến chỗ bọn tù.
Nhanh lên!
Proctor xoay ghế lăn. Gã trôi từ từ vào phần bên
trong lô cốt.
Bọn đàn ông đi theo. Howard đi đầu. Lũ cướp biển đã
rút vũ khí ra. Những lưỡi gươm và những lưỡi dao găm lóe
ánh thép trong bầu không khí lạnh lùng của những cây đèn
néon. Tiếng gót ủng nện xuống nền bêtông nghe như tiếng
súng.
Cả năm gã đàn ông trông đều hung dữ, thô dại. Hai
trong số chúng buộc trên đầu những cái khăn màu đỏ chói.
Một tên khác đeo một chiếc khuyên bằng vàng rất lớn bên
tai trái, trên dây lưng giắt bốn con dao. Cả nhóm đứng
lại trước chiếc thang máy nằm lọt trong một hốc tường
nhỏ. Bàn điều khiển lóe sáng khi ca bin đi lên trên.
Không một tên đàn ông nào nhìn thấy Ali, gã người Ả
Rập đang nấp trong một góc hành lang. Gã lé mắt nhìn ra
và một nụ cười ma quỷ thoáng đọng lại trên làn môi mỏng
dính. Thang máy mở ra. Ca bin đủ rộng để chứa tất cả.
Hai cánh cửa dịu dàng khép lại. Thế rồi thang máy
rít lên, lao xuống dưới.
Xuống tới nơi, bọn người đó lại đi dọc hành lang
khác. Hành lang kết thúc trước một cánh cửa, đằng sau đó
làkhoảng hầm chứa tù nhân.
Dưới lệnh phát ra từ bộ phận điều khiển từ xa, cánh
cửa được kéo sang bên.
Những dáng hình hung tợn bước vào nhà giam, nơi chứa
những con người tội nghiệp đang sợ hãi ngồi co quắp lại
như một bầy thú nhỏ, đờ đẫn nhìn về phía trước. Sau cái
chết của Adam Preston, họ đã từ bỏ mọi niềm hy vọng.
Chỉ trừ một người còn đủ lòng dũng cảm để cất cái
đầu người chết sang bên, những người khác không ai dám
nhìn vào ánh mắt đã tắt ngang đó.
Năm con ma cướp biển nhanh chóng tản ra trong phòng.
Chúng chia nhau đứng để quan sát toàn bộ đám tù nhân.
Basil Proctor cùng ghế lăn dừng lại bên cánh cửa. Gã
đàn ông đang rất khó chịu trong người. Cặp má gã vẫn còn
cháy bừng lên vì ngọn đòn ban nãy, mồ hôi túa ra từ tất
cả những lỗ chân lông.
Howard nắm lấy quyền chỉ huy.
- Đứng lên! – Gã ra lệnh cho các tù nhân.
Không ai phản ứng. Những ánh mắt sợ hãi của nhóm
người khốn khổ hương về phía những gương mặt nhợt nhạt
của bọn ma cướp biển.
Nỗi giận dữ bốc bừng lên trong Howard. Gã đã quen
thấy người ta tuân lệnh ngay lập tức. Chuyện chậm chạp
này chưa bao giờ xảy ra. Mặt đằng đằng sát khí, gã hoa
tiêu rút kiếm ra khỏi bao. Lưỡi kiếm rít lên trong không
khí, lao về phía Cliff Kelland.
Mary Kelland hét lớn.
Tiếng hét của cô hòa lẫn tiếng tát khi lưỡi kiếm đập
ngang má Cliff.
Người đàn ông giật nảy người lên. Da gò má anh bị
rách. Một vài giọt máu bật ra từ vết thương. Trông chúng
như những hòn ngọc nhỏ thẫm màu trên làn da sáng.
Howard xoay người, lưỡi kiếm xoay theo.
- Còn đứa nào dám chần chừ nữa không? – Gã hỏi.
Không câu trả lời. Tên cướp biển cười lớn.
- Đứng dậy, mày đi đầu! – Gã hét và tóm lấy tóc
Linda Grey. Người đàn bà rên rỉ, thân thể mềm như cọng
bún.
Nathan Grey đứng dậy, muốn giúp vợ mình, nhưng một
tên cướp biển đã chặn ngang đường. Mũi dao của hắn chỉ
vào giữa ngực người chồng.
Điếng hồn, người đàn ông lảo đảo lùi về.
Howard đã thả Linda ra. Người đàn bà cùng ông già
tóc bạc cất bước, lảo đảo đi về hướng cửa. Khi đi ngang
qua chỗ Basil Proctor, ông già tóc bạc rít lên trong nỗi
căm hờn.
- Người ta phải xẻ mi ra làm bốn miếng, đồ con lợn!
Chính mi đã lừa bọn ta vào đây!
Gã đàn ông trong ghế lăn không trả lời.
Điều duy nhất gã quan tâm tới lúc này là tình huống
tồi tệ của bản thân gã.
Một hàng người buồn bã chuyển động dọc hành lang
hướng về thang máy. Những bàn chân lê lết thảm hại,
những bờ vai trĩu xuống, họ đi về hướng số phận u ám
đang chờ đợi.
Họ phải chia làm hai nhóm theo thang máy đi lên vì
ca bin không đủ rộng để chứa tất cả. Có hai tên cướp
biển ở lại canh chừng. Cuối cùng đến lượt Basil Proctor.
Hắn đi cùng Howard. Khi hai tên đàn ông rời thang máy,
da mặt tên triệu phú tứa máu, còn tay lái tàu thì phì ra
nét hả hê trong một nụ cười tàn nhẫn.
Mọi người ra tới phía ngoài. Đã rất lâu rồi những tù
nhâ mới được đứng giữa bầu trời trong lành, họ hít không
khí thật sâu vào phổi. Mắt họ nhìn con tàu ma đang thấp
thoáng hiện ra phía sau bức tường sương treo lơ lửng
trên mặt nước mà lấy làm kinh sợ.
- Ta đi tới đó. – Howard giải thích và bật cười chát
chúa.
Những con ma cướp biển xua đám tù nhân đi về hướng
khuôn vịnh nhỏ. Con thuyền đủ lớn để chở tất cả một lần.
Nhóm tù nhân ngồi sát nhau trên ghế dài. Bọn đàn ông
phải chèo thuyền.
Giọng ra lệnh chát chúa của tên lái tàu làm nhiệm vụ
giữ nhịp. Và cứ như thế, những con người đó được đưa về
với Tử Thần đang chờ họ.......
Có một người đã quan sát sự ra đi của con thuyền nhỏ
từ một chỗ nấp an toàn. Đó là Ali, tay người Ả Rập.
Nỗi đau từ những làn roi quất đã dịu xuống phần nào,
nhưng sự hờn căm đang bốc lửa ngùn ngụt trong tim gã.
Bàn tay Ali cầm chắc khẩu súng máy. Những ngón tay thỉnh
thoảng lại vuốt ve nòng súng.
Basil Proctor sẽ phải trả giá cho thói quen dễ dàng
nhục người khác. Những ngọn roi da đã quất xuống da thit
Ali không phải không để lại hậu quả. Ali đã quyết định
sẽ giết chết tên triệu phú. Đã có một vài lần, gã có
Basil Proctor trong tầm ngắm. Nhưng rồi lại xuất hiện
một tên cướp biển nào đó chắn ngang. Ali biết chắc rằng
gã không thể giết chết bọn này bằng những viên đạn bình
thường. Nếu bắn trúng một tên, gã chỉ khiến bọn kia để
ý. Không cần thiết. Không đâu, Ali có một kế hoạch khác.
Gã cũng muốn lên con tàu kia. Gã sẽ tóm vào một sợi
xích sắt và trèo len cao, rồi xử lý tên sếp cũ của gã
bằng cả một chùm đạn Mpi. Sau đó, gã sẽ biến mất trong
chớp mắt. Và cuộc chạy trốn có địa điểm thuận lợi nhất
là từ hướng con tàu, bởi gã thừa biết bọn ma cướp biển
không được phép nhúng người xuống nước mặn.
Gã đã nhìn thấy một con ma cướp biển chạm vào nước
mặn và bị nước lóc thịt ra khỏi xương. Đó chính là bằng
chứng cho Ali tin chắc rằng bọn chúng sẽ không dám nhảy
xuống biển để đuổi theo gã. Gã chắc chắn sẽ bơi được đến
chiếc thuyền máy mà người lạ mặt đã để lại đây.
Dồn sức xuống đôi chân, Ali chạy về hướng bãi cát
nhỏ.
Gã không thèm nhìn bộ xương đang mắc kẹt giữa hai
vách đá, mà ngay lập tức nhảy lên con thuyền máy. Ali
biết rằng loại thuyền máy này thường có những xuồng cứu
hộ nho nhỏ. Quả thật, gã tìm thấy một chiếc xuồng cao su
màu vàng, nó tự động phình lên khi chạm vào nước. Có cả
mái chèo để sẵn bên thật thuận lợi.
Gã đàn ông người Ả Rập treo dây súng máy ngang cổ,
tuồn người xuống chiếc xuồng cao su.
Chỉ sau đó một giây đồng hồ, mái chèo của gã đã
nhúng xuống nước.......
Một ngọn sóng cao đẩy con thuyền nhỏ chở món hàng
người đến sát bên mạn tàu Cornwall Love . Howard khéo
léo tóm lấy một sợi xích sắt, xỏ nó qua một cái lỗ trên
mũi thuyền nhỏ, buộc thuyền chặt lại.
Những chiếc thang dây thòng từ trên tàu xuống, dập
dờn đập vào mạn thuyền.
Bọn cướp biển ma quỷ xua đám người trèo lên. Giữ
thăng bằng trên thang dây đối với họ không phải chuyện
dễ dàng. Đặc biệt là đối với hai người phụ nữ. Vậy mà họ
lại là những người đầu tiên bị bọn chúng thúc trèo qua
thang dây lên tàu lớn.
Linda Grey suýt nữa bị ngã. May mà trong tích tắc
cuối cùng chị đã kịp đưa tay tóm chặt lấy thang dây.
Người đàn bàbật khóc. Thế rồi chị cảm nhận được những
bàn tay lạnh như băng tóm lấy ngang hông chị, và tai chỉ
nghe thấy một tiếng cười khàn.
- Rồi cô em sẽ phải quen thôi, con chim bồ câu bé
bỏng. Có lẽ bọn ta giữ cô em lại cũng nên Linda nuốt
khan, tiếp tục trèo lên.
Mary Kelland trèo theo. Người đàn bà run rẩy toàn
thân và đang đứng trên bờ vực của một cuộc suy sụp thần
kinh. Bọn cướp biển phải giúp đỡ, cô mới vượt qua được
những bậc đầu tiên trên chiếc thang dây mong manh.
Tiếp đến nhóm đàn ông.
Ông già tóc bạc đi đầu. Im lặng, ông trèo qua thang
dây lên mạn tàu. Những người khác trèo theo. Bởi vì mất
quá nhiều sức lực, công việc này đối với họ là cả một cố
gắng rất lớn. Một người đàn ông không làm nổi việc leo
trèo nên bị trượt và rơi xuống. Thân hình anh đập xuống
con tàu nhỏ, bị trẹo mất vai phải. Anh nằm đó rên rỉ,
mặt nhăn lại vì đau, nhưng bọn người kia không biết đến
thương xót. Chúng đập vào người anh thúc anh trèo lên
cao. Người đàn ông lại bám lấy thang dây, vất vả cố gắng
từng bậc thang. Lên đến mạn tàu, anh kiệt sức buông
người xuống nền gỗ thở hào hển.
Trên tàu, gã thuyền trưởng Barell đứng đón nhóm tù
nhân. Gã đứng sừng sững ra vẻ một chỉ huy có quyền lực
vô hạn. Bàn tay phải của hắn đặt trên cán gươm, bàn tay
trái chống ngang hông. Như một nguyên soái khi đi thăm
đoàn quân, gã bắt đầu đi đi lại lại.
Bỗng gã nhìn qua mạn tàu, xuống phía dưới con thuyền
nhỏ.
Chỉ còn lại Basil Proctor. Gã đàn ông vẫn ngồi trên
ghế lăn, sợ hãi nhìn từ đó lên phía cao, lên phía mạn
tàu Cornwall Love.
Bọn thuỷ thủ cột dây lại thành một chiếc võng lớn,
hạ võng xuống dưới thuyền, rồi bốn tên thuỷ thủ nhấc
bổng chiếc ghế lăn vào trong võng. Tay triệu phú được
kéo lên tàu.
Basil Proctor chính là vị khách mà tên thuyền trưởng
đang nóng lòng muốn gặp. Sự yếu kém của tên này là
nguyên nhân chính khiến cho lời nguyền không được hoá
giải.
Thuyền trưởng Barell quyết định sẽ cho gã cảm nhận
thật rõ hậu quả.
Cả hai bàn tay Barell tóm lấy cổ tên triệu phú, rung
lắc thân hình gã kia. Mặt Proctor đỏ bừng lên. Những
ngón tay lạnh lùng của xác chết xiết chặt đường thở, hai
con mắt hắn như đã lồi ra khỏi hốc .
Thuyền trưởng Barell cười lớn.
- Đừng sợ. – Gã nói như sóng gào. – Tao chưa giết
mày ngay đâu! Chưa đâu! Nhưng tao thề là mày không sống
được đến sáng ngày mai. – Gã rút tay về, xoay chiếc ghế
lăn để Basil Proctor nhìn thấy John Singlair đang bị
trói vào cột buồm.
- Nhìn nó cho kỹ đi! – Barell nói. – Nó chính là
thằng đàn ông đã lừa được mày. Nó đã đến đây bằng con
chim sắt, và muốn huỷ diệt mày. Nhưng rồi nó cũng bỏ
mạng như mày thôi. Nó sẽ chết trước mày là đằng khác.
Basil Proctor hối hả lắc đầu với thái độ tuyệt vọng.
Gã vặn vẹo đôi bàn tay.
- Tôi sẽ kiếm cho đủ một thuỷ thủ đoàn mới! – Gã kêu
lên. – Tôi sẽ làm tất cả những gì ông muốn. Mọi huyện
vẫn chưa đổ vỡ hết. Vẫn chưa....
Tay thuyền trưởng ngắt lời tên triệu phú bằng một
tiếng cười nghiệt ngã.
- Chẳng lẽ bọn tao phải chờ bảy năm nữa, để rồi tin
cậy vào một tên vô dụng như ngươi? Chẳng lẽ bọn tao lại
tiếp tục cái chết của những kẻ bị nguyền rủa giữa biển?
Rồi mày lại sẽ làm hỏng việc cho mà xem! Không đâu! Đòn
trả thù của bọn tao lần này sẽ trút đúng xuống đầu những
kẻ đã khiến bọn tao phải tiếp tục sống kiếp bị nguyền
rủa. Trong số đó có cả mày, Basil Proctor. Cũng giống
như thằng kia!
- Tên thuyền trưởng chỉ vào John Singlair.
Chàng thanh tra đã không biết bao nhiêu lần tìm cách
gỡ dây trói, nhưng không thành. Những con ma thuỷ thủ
rất thành thạo việc thắt nút. Bất chấp những vụ án bất
bình thường mà anh đã trải qua, John Singlair vẫn thường
là một con người của thực tại. Anh phán đoán rất chính
xác cơ hội của mình.
Cơ hội của anh đã chìm xuống con số không tròn
trĩnh!
Không còn đường thoát cho cả anh lẫn những con người
tội nghiệp kia nữa. Bọn cướp biển muốn giết họ, mà anh
lại hoàn toàn không có khả năng kháng cự để cứu bản thân
và cứu họ.
John nghĩ tới khẩu Beretta vẫn còn giấu trong người
mình. Dĩ nhiên rồi, chúng chứa những viên đạn bạc được
phù phép, nhưng thật khó làm nên chuyện với một khẩu
súng đã từng ngâm trong nước cả một khoảng thời gian dài
trong nước biển. Aùnh mắt anh liếc dọc boong tàu. Bọn ma
thuỷ thủ đã xua tù nhân tụm lại. Những con người tuyệt
vọng đó đứng ở phía đuôi tàu, bị canh giữ bởi hai gã dữ
tợn.
Lẽ ra tên thuyền trưởng hoàn toàn có thể tha cho
những con người này sống! Nhưng không, con ma đó muốn
trả thù! Bởi vì gã sẽ lại phải mất bảy năm trời nữa. Sẽ
lại phải sống trong một vương quốc của bóng râm nằm chơi
vơi giữa mặt đất và địa ngục, và hiện thời gã vẫn chưa
tin là có thể tìm được một kẻ tạo điều kiện cho gã quay
trở lại cõi mong muốn.
Không phải chỉ riêng thuyền trưởng Barell, cả Basil
Proctor cũng là kẻ chiến bại trong vụ này. Tên triệu phú
đã đi một nước cờ quá liều lĩnh. Gã muốn thâu tóm toàn
bộ kho báu huyền thoại kia để rồi được ban thưởng cái
chết.
John hoàn toàn chẳng thương xót gì cho người đàn ông
đó. Những ai chơi cờ bằng tính mạng người khác chính là
kẻ đáng bị nguyền rủa nhất.
Tên đao phủ đứng cách John Singlair chỉ hai bước
chân. Khuôn mặt gã đang nhăn lại trong một nụ cười tởm
lợm. Vẻ thèm thuồng, gã đưa tay kiểm tra lại độ sắc bén
của cây kiếm hành quyết.
Gió biển nhè nhẹ nổi lên. Nó thổi vào cánh buồm của
tàu ma, nhưng không đẩy con tàu về phía trước. Cornwall
Love vẫn neo tại chỗ như thể được gắn bằng loại keo quỳ
quái dính liền với duy nhất một toạ độ trên biển. Và
được bao bọc bởi bức tường thành sương mù của Pháp Thuật
Đen.
Giờ quyết định gần tới. John Singlair cảm nhận điều
đó bằng từng tế bào trong cơ thể mình.
Thuyền trưởng Barell khuỵu gối xuống. Thế rồi gã bắt
đầu những câu gọi hồn, giữa không trung đột ngột xuất
hiện một quầng sáng màu đỏ. Nó trôi bồng bềnh trên boong
tàu như một quả cầu, rồi chỉ vài giây đồng hồ sau, nó
phình to lên, chẳng bao lâu đã hiện rõ dáng hình của một
chiếc đầu lâu, ôm phủ lấy con thuyền ma như một làn áo
bành tô. Sợ hãi, các tù nhân đưa mắt nhìn vào cái mõm
khổng lồ đang mở ngoác ra mà run bắn lên. Pháp thuật của
tên thuyền trưởng Barell đã lôi nó ra khỏi những chiều
không gian kinh hoàng.
Đó chính là dấu hiệu cho cuộc tàn sát!
- Đao phủ! – Thuyền trưởng Barell gào lên. – Ra tay
đi! Chặt đầu nó!
Một tiếng thét lảnh lót vang lên trên boong tàu.
Đó là tiếng thét của Mary Kelland. Người đàn bà
không đủ sức chứng kiến cuộc hành quyết. Chị gục xuống,
đưa hai tay ôm mặt, nức nở khóc.
- Chúa Trời sẽ trừng phạt ngươi, con ma bị nguyền
rủa kia!
Người đàn ông tóc bạc đã tiến hai bước về phía trước
chỉ thẳng vào mặt Barell mà tuyên bố. Con ma giật nảy
người dưới những lời lẽ quất xuống như một chùm roi vô
hình.
- Câm mồm. – Barell gào lớn. – Hay là mày sẽ là đứa
cụt đầu đầu tiên!
- Thế thì làm đi! – Người đàn ông bình tĩnh đáp.
Barell cười rùng rợn.
- Rồi cũng sẽ tới lượt mày thôi. – Gã nói. – Nhưng
tao sẽ treo mày thật chậm, kéo mày lên trên đỉnh cột
buồm. Làm một lời cảnh báo cho những đứa khác. – Rồi gã
lại cười sằng sặc.
Tên đao phủ không cười. Gã đứng chênh chếch trước
mặt John Singlair để có thể vung tay phải lên, chặt
ngang đầu chàng thanh tra. Những ngón tay trên bàn tay
trái đang giật áo ngực John ra.
- Để tao nhìn cho kỹ cái cổ mày! – Gã hả hê nói.
- Chém đi! – Thuyền trưởng Barell ra lệnh.
Những tù nhân nín thở. Nỗi kinh hoàng trần trụi hiện
lên trên gương mặt họ.
Cả John cũng trắng nhợt như vôi. Bây giờ, trong tích
tắc của cái chết, anh thảm thiết thấy mình bất lực đến
mức độ nào.
Đột ngột, mọi vật nhoà đi trước mắt anh. Có phải đó
là những giọt nước mắt đang che ánh nhìn? Nỗi sợ hãi tận
cùng bốc cao trong xương tuỷ.
Tên đao phủ giơ cánh tay phải lên, lưỡi dao ngắm về
phía cổ John một lần nữa, gã đẩy ra một tràng cười khàn
hả hê và lấy đà.
Chiếc thuyền cứu hộ bằng cao su nhảy chồm chồm
như một quả bóng màu vàng trên nhữngđợt sóng, Ali cố
gắng lắm mới giữ được thăng bằng. Gã đàn ông khuấymái
chèo sang phải, rồi lại sang bên trái, nhúng thật sâu
mái chèo xuống làn nước xám xanh.
Bức tường sương mù đã tới gần hơn. Gã người Ả Rập
vất vả vật lộn với những con sóng gần bờ. Nước bắn toé
lên qua vành thuyền tròn trĩnh làm ướt quần áo hắn.
Ali không để ý đến tất cả những điều đó.
Toàn bộ cảm xúc của gã đàn ông bây giờ chìm xuống
trong nỗi căm hờn Basil Proctor. Ali muốn giết chết tên
đàn ông đó, giết chết bằng mọi giá, trả thù cho tất cả
những nhục mạ chồng chất trong thời gian qua. Ali thậm
chí không thèm nghĩ xem bản thân mình đang a vào hiểm
hoạ nào. Miễn là tay triệu phú kia bỏ mạng! Bỏ mạng!
Mỗi lúc gã đàn ông người Ả Rập mỗi thọc chèo nhanh
hơn xuống nước, miệng hé mở, hơi thở dồn dập. Ali biết
rằng chẳng bao lâu nữa giây phút quyết định sẽ đổ ập
xuống con tàu kia, và hắn ta không muốn đến quá trễ.
Sau khi đã bỏ lại đằng sau những con sóng gấn bờ,
con thuyền bắt đầu tiến nhanh hơn. Một luồng nước thuận
tiện đẩy nó về hướng con tàu ma. Ali đã nhìn thấy con
thuyền nhỏ trống rỗng đang được buộc vào bên thân tàu
Cornwall Love cao sừng sững.
Những con sóng dâng lên rồi hạ xuống nối tiếp nhau.
Ali lúc ở trên, lúc ở dưới. Đúng y như cái dạ dày của
gã. Rồi chiếc thuyền cao su được chèo đến sát con thuyền
nhỏ của bọn cướp biển. Trước khi một đợt sóng khác kịp
ập tới và đẩy chiếc xuồng cao su lùi trở ra, hai bàn tay
Ali đã tóm được vào vách con thuyền nhỏ.
Gã đàn ông nghiến răng giữ chặt, gồng mình trì lại.
Động tác đó là một trò may rủi, nhưng gã đã thành công.
Gã Ả Rập bước sang con thuyền nhỏ của bọn cướp biển. Thế
rồi gã kéo chiếc xuồng cao su lên trên mạn thuyền này và
nằm im một lúc, lấy hơi, quan sát tình huống.
Có tiếng người trên boong con tàu ma. Giọng của
thuyền trưởng Barell vang rất rõ.
Và bất ngờ, Ali nhìn thấy vạch lửa màu đỏ cháy bùng
lên, bung to ra. Chỉ trong vòng một khoảng thời gian rất
ngắn, cái đầu lâu màu đỏ máu đã ôm lấy toàn bộ con tàu
Cornwall Love.
Ali biết, gã cần phải vội vàng hết sức nếu không
muốn bỏ lỡ hồi kịch chung cuộc.
Gã đàn ông kẹp khẩu súng máy xuống dưới vai trái.
Thang dây chưa được kéo lên và Ali bất giác mỉm cười hài
lòng.
Lanh lẹ như một con khỉ, gã đàn ông người Ả Rập trèo
lên thang dây. Tới sát buồng lái, gã dừng lại rồi thận
trọg ngó đầu ra, nhìn ra phía cầu tàu. Không một ai nhìn
thấy Ali, không một ai bước về hướng gã. Tất cả bận quan
sát cuộc hành quyết.
Ali lấy hơi thât sâu, kéo mình lên cao. Một bước
nhảy điệu nghệ đưa gã đàn ông lên boong tàu. Nhanh như
chớp, gã người Ả Rập chĩa súng ra phía trước, sẵn sàng
nhả đạn. Gã phát hiện Basil Proctor trong chiếc ghế lăn.
Ali còn thấy cả John Singlair bị trói trên cột buồm.
Đứng trước mặt chàng thanh tra bị trói là gã đàn ông
hung tợn, nửa thân trên để trần. Lưỡi kiếm trong tay gã
bay về hướng cổ người con tra tóc vàng. Ali không động
đậy lấy một ngón tay. Gã bình tĩnh quan sát vở kịch tàn
nhẫn.
Cơ hội của gã rồi sẽ tới...
John Singlair nhìn thấy lưỡi kiếm bay về hướng
anh và bất giác nhắm mắt lại.
Thế là kết thúc...kết thúc...
Một tiếng thét chói gắt vang lên!
Chàng thanh tra lại mở mắt ra. Cảnh tượng trước mặt
khiến máu anh như đông lại trong huyết quản và trái tm
anh nhảy lên vì vui sướng.
Ngay sát mặt anh là một lưỡi kiếm run bần bật. Nó đã
dừng lại cách đích chưa đầy một bàn tay. Đằng sau đó là
tên đao phủ đang nhăn nhúm khủng khiếp. Nét mặt hắn bây
giờ là hiện thân của nỗi kinh hoàng.
Lập tức John nhìn ra nguyên nhân.
Tên đao phủ đã giật tung áo ngực anh ra, khiến mặt
đá thần lộ ra ngoài và qua đó, hắn đã vô tình tự rước
lấy cái chết chung cuộc.
Đối với bọn ma cướp biển, nhìn trực diện vào mặt đá
thần của John cũng đồng nghĩa với cái chết. Biểu tượng
của Pháp Thuật Trắng đột ngột lóe sáng, thiêu cháy tia
nhìn của tên đao phủ trong ánh bạc. Một tia chớp thoát
ra từ báu vật Pháp Thuật Trắng, găm thẳng vào vầng trán
tên đa phủ. Chính vào điểm giữa hai con mắt.
Tên đao phủ gào to chưa từng thấy, lảo đảo lùi ra
sau nhưng quá muộn. Tia sáng pháp thuật xuyên qua đầu
gã. Vừa la hét, gã vừa nghiêng ngả trên boong con tàu
ma. Một vầng khói bốc ra từ xương sọ gã, phủ xuống thân
hình gớm ghiếc. Tiếp theo là một tiếng nổ nhẹ vang lên,
con ma đao phủ bị nổ tung. Gã văng ra làm muôn mảnh và
những gì còn lại chỉ là một đống tra nhỏ, bị gió thổi
tan ra, phủ một lớp bụi mỏng xám trắng trên boong tàu.
Toàn bộ sự việc xảy ra trong vài giây đồng hồ, nhưng
tới lúc đó thì tia chớp pháp thuật đã tìm thấy nạn nhân
thứ hai.
Con ma cướp biển đứng bên cạnh tên đao phủ gục
xuống. Số phận giống y tên trước.
Hỗn loạn bùng nổ.
Thuyền trưởng Barell là người đầu tiên tỉnh dậy sau
cơn sốc. Gào lên như một con thú dữ bị thương, gã rút
cây dao găm ra khỏi bao đeo trên người tên cướp biển
đứng gần nhất và phi luôn về hướng John Singlair.
Lẽ ra nó đã đâm thủng họng chàng thanh tra, nhưng
may mắn cho John, con dao trên đường bay gặp phải tia
sáng Pháp Thuật Trắng và cú lao vun vút của nó dừng phắt
lại, rơi xuống đất, kiệt quệ mội sức lực đã nhận được từ
một bàn tay ma.
Người tù tóc bạc là nhân vật đầu tiên trong đám
người khốn khổ tỉnh trí lại.
Ông nhận ra cơ hội liền cúi khom người xuống chạy về
phía trước. Ông tóm lấy con dao vừa rơi xuống đất, chạy
xoay quanh cột buồm và cắt dây trói cho John.
- Cảm ơn! – Chàng thợ săn ma thét về hướng ông. Anh
chỉ có thể nói như vậy trong tình huống hiện thời. Giờ
thì anh đã tự do và có thể chiến đấu. Bằng một cử chỉ
duy nhát đúng, John xé toang cái áo sơ mi trên người anh
ra làm đôi. Thế rồi anh tóm lấy cây kiếm của tên đao
phủ. Tia sáng pháp thuật vẫn lóe lên từ mặt đá thần trên
ngực anh. Nó bảo vệ cho John như một chiếc xe thiết giáp
bảo vệ những người ngồi bên trong.
Thuyền trưởng Barell đã tụ tập đám thủy thủ của mình
về phía đầu tàu. Gã lồng lộn ra lện, xua đám đàn ông
chiến đấu với John.
Những tiếng súng vang lên.
John Singlair lúc bấy giờ đã chạy được một nửa đường
về hướng đầu tàu, xoay phắt người lại. Mãi bây giờ anh
mới nhìn thấy gã đàn ông đang đứng trên mạn tàu, giữ
tong tay một khẩu súng máy.
Gã trông như một người Ả Rập. John nghe tiếng thét
lảnh lót của tay triệu phú Basil Proctor.
- Ali, cứu ta!
Gã Ả Rập nhảy một vài bước về phía trước. Thế rồi gã
lạnh lùng bóp cò.
Những tia lửa đỏ vàng nhảy khỏi đầu nòng. Những viên
đạn rít veo véo trên boong tàu, rạch thành những vệt
xước rất dài trên ván gỗ và tìm thấy mục tiêu.
Basil Proctor hứng trọng chùm đạn thứ hai. Một tiếng
tru như thú trong rừng thoát ra từ miệng gã, và vội vàng
tắt ngấm khi cuộc sống tội lỗi của kẻ hám tiền.
Xong rồi, Ali xoay súng lại. John nhìn thấy nòng
súng chĩa về hướng anh. Cú nhảt là là mặt đất của anh có
thể so với tác phẩm của một nghệ sĩ xiếc.
Khẩu MPi lại bắt đầu gầm lên. Những viên đạn cắm
phập vào cột buồm, hầu như khoan thủng nó, nhưng John
lúc đó đã ra khỏi đường ngắm. Anh vừa nằm vừa phi cây
kiếm nặng nề về phía gã bắn dúng thâm hiểm.
Lưỡi kiếm xé không khí lao tới. Ali nhìn ra nỗi
nguy, cúi người xuống và chỉ trong tích tắc sau, gã đã
an toàn biến mất đằng sau mạn tàu.
John muốn nhảy theo nhưng đám cướp biển ngăn cản.
Chúng chặn đường anh đi. Cầm đầu là tay lái tàu Howard.
John không nhìn thấy thuyền trưởng Barell đâu. Chàng
thanh tra không còn nhiều thời gian nữa. Anh xoay người
lại.
- Xuống dưới đi! – Anh hét về phía những tù nhân
đang hoảng sợ một mệnhlệnh ngắn gọn.
- Người đàn ông tóc bạc hiểu ý anh. Ông xua nhóm
người đồng cảnh với mình về hướng mạn tàu. Từ đó, họ lần
lượt theo nhau nhảy xuống con thuyền nhỏ.
Thế nhưng bọn ma thủy thủ vẫn chưa chịu đầu hàng.
Howard quay quay mộ con dao quắm trên đầu, vừa văng ra
những câu nguyền rủa hung tợn vừa tiến lại gần John
Singlair.
Chàng thanh tra quay người nhanh như chớp. Vừa lúc
đó, tia chớp sáng Pháp Thuật Trắng trên ngực anh lại lóe
lên. Tia chớp đâm thẳng vào dãy cương thi đang lao tới.
Nhiều tiếng thét, tiếng nguyền rủa, tiếng rên, đúng
như một địa ngục.
John nghe thấy tiếng nghiến trèo trẹo khủng khiếp.
Đầu anh giật lên cao. Anh nhìn cây cột buồm chính đang
ngã xuống. Tia sáng của Pháp Thuật Trắng đã cắt nó ra
làm đôi.
Cột buồm đổ gãy như gặp cuồng phong. Sự phá hủy quá
nhanh làm John hoảng hốt thật sự. Phải ra khỏi đây, nếu
không cây cột khổng lồ sẽ nghiến nát anh.
Bọn ma cướp biển cũng đồng loạt kinh hoảng kêu lên.
Cứ như thể một quả bom đang sắp nổ banh chúng vậy. Bọn
đàn ông đạp vào nhau, nhưng vẫn không kịp trốn thoát cậy
cột đồ sộ.
Với một sức mạnh tàn bạo, nó đập xuống đầu chúng.
John lúc đó đã ném mình xuống, chờ đợi một lực ấn
chết chóc, nhưng việc đó không xảy tới.
Anh nhìn thấy cây cột buồm đổ xuống, nhìn thấy đám
thủy thủ gục ngã dưới sức mạnh của nó, nhưng cây cột
buồm lại đi xuyên qua người anh cứ như thể nó được làm
bằng bông.
Bất thần John Singlair có cảm tưởng như mình đang
bay bồng bềnh. Con tàu ma, những linh hồn thủy thủ,
những gương mặt kinh hoàng, tất cả trở nên nhạt nhòa,
tan ra trước mắt anh như một khối đá khổng lồ gặp dòng
nước nóng bỏng.
Rồi một đám mây sương mù khổng lồ tiến lại gần, hòa
lẫn vào cái đầu lâu vẫn còn đứng trên mặt nước.
Từ chiếc đầu lâu hiện ra một khuôn m85t.
Hai cái sừng mọc trên trán, hai hàm răng nhăn lại
trong một nụ cười thâm độc.
- Đúng là của quỷ Satan.
Quỷ Satan đã đích thân hiện lên đây để chào đón phần
còn lại của những tên thủy thủ!
John đờ người trước hình ảnh đó. Chỉ một giây đồng
hồ thôi là nó biến mất. Thêm một lần nữa, John Singlair
lại nhận diện được kẻ thù số một của anh., đó là nhìn
thấy Satan, hiện thân của cái Aùc...
Tất cả hình ảnh ma quái biến mất.
John đột ngột thấy mình rơi xuống. Rơi mãi, mỗi lúc
một sâu hơn, sâu hơn...
Như một mũi tên, thân hình chàng thanh tra cắm thẳng
xuống dòng nước lạnh của biển Đại Tây Dương. Như vâng
theo tiềm thức, chàng thanh tra bắt đầu bơi, nổi người
lên trên mặt nước và há mồm thở. Anh lắc cho tóc rơi ra
khỏi mặt. Phía trời Đông đã ló lên những tia sáng rụt rè
của buổi ban mai.
John Singlair nhìn thấy hòn đảo trước mặt mình. Nó
không chìm xuống bởi nó là một hòn đảo thực. Và anh còn
nhìn thấy một vật khác. Chính là con thuyền nhỏ với
những con người đang chạy trốn. Nhưng cả con thuyền cũng
đang từ từ tan ra. John ngh thấy nhóm tù nhân kêu cứu,
nhưng khoảng cách cho anh biết lúc đó họ đã chạm đến đất
liền.
Tuy vậy, chàng thanh tra vẫn chưa hết lo lắng. Đó là
hai kẻ trốn thoát.
Thuyền trưởng Barell, kẻ cầm đầu con thuyền ma. Và
gã đàn ông người Ả Rập, kẻ đã giết chết Basil Proctor.
John không nhìn thấy dấu vết nào của tay triệu phú.
Gã đã cùng với chiếc xe lăn chìm xuống lòng biển sâu.
Con người tham lam đã tím thấy ngôi mộ của mình bên cạnh
cái kho báu mà quỷ mà gã từng muốn chiếm đoạt.
- Chèo đi, mạnh lên, chèo đi!
Người đàn ông tóc bạc đã nắm lấy quyền chỉ huy và
thúc đẩy đám hành khách bất đắc dĩ làm việc. Những lời
thúc giục của ông thật ra không cần thiết, nhóm người bị
đọa đầy đang huy động tới giọt sức cuối cùng. Không một
ai ném mắt về phía con tàu ma đang dần bước vào sự hủy
diệt chung cuộc.
Những ngọn sóng cao dài đang giúp sức đẩy con thuyền
lại gần đảo. Vệt sáng đầu tiên đã tuyên bố sự có mặt của
bình minh. Không một ai trên thuyền biết hai mươi bốn
đồng hồ sắp tới họ sẽ đến những đâu. Mà họ cũng quá mệt
mỏi để suy nghĩ về chuyện đó. Họ chuyển động mái chèo
như những cái máy vô hồn.
Những vách đá xuất hiện.
Nhóm đàn ông đó không phải những tay chèo lão luyện.
Cả một thời gain dài, con thuyền cứ thế băng băng lướt
thẳng tới, nhắm đúng vào cái gù đá màu nâu đang nhô lên,
đe dọa.
- Cẩn thận!
Quá muộn rồi. Bởi vì đầu con thuyền đã đâm trúng vào
vách đá. Hai mái chèo gãy vụn. Hai người ngồi đầu chỉ
còn cầm trong tay cái cán chèo. Chiếc thuyền bị giật
ngang. Một dòng nước xoáy hiểm độc tóm lấy nó, đẩy nó
xoay tít quanh trục đứng. Những người trên thuyền ngã
chồng lên nhau. Chỉ còn người đàn ông tóc bạc là còn giữ
được tỉnh táo và bao quát tình hình. Ông cũng là người
duy nhất nhìn thấy lỗ thủng mà vách đá đã chém vào lòng
thuyền.
Lần này, ông tự tay vào việc, và tóm lấy một trong
những mái chèo còn nguyên.
Nathan Grey tóm lấy mái chèo thứ hai.
Cliff Kelland cũng vậy.
Thế rồi bằng một cách nào đó rất kỳ diệu, người đàn
ông lại đưa được con thuyền quay ra, hướng vào con vịnh
nhỏ.
Đúng vào lúc con tàu ma từ từ tan ra.
Và cả con thuyền nhỏ cũng rời bỏ thế giới vật chất
thực.
- Nhìn thấy chưa? – Nathan Grey gào lên. – Con
thuyền kìa!
Tất cả nhìn vào phần mũi con thuyền nhỏ. Quả có thế.
Nó đang dần dần biến từng chút vào cõi vô hình. Sóng bể
theo nhau tràn lên phía con thuyền đang tan ra.
Những đợt sóng cũng đập cả vào nhóm người. Nhưng lần
này những tù nhân gặp may. Họ đã được đẩy đến rất gần
hòn đảo, họ đã cảm nhận được đất cứng dưới chân mình.
Cầm tay nhau, họ leo lên trên bờ, rồi kiệt sức lảo đảo
đi về hướng lô cốt.
Ông già tóc bạc biết khu nhà kho nằm ở đâu. Họ tìm
thấy lương thực. Rất nhiều lương thực. Khi những con
người đau khổ với tay về phía chúng, không khỏi có một
vài ánh mắt bỗng hóa thành ẩm ướt.
Không một ai trong số họ nhớ tới tên người Ả Rập và
tay thuyền trưởng Barell, hai nhân vật chắc chắn còn tồi
tại trên đảo.
Kẻ thù số một của John Singlair là Satan, tay
quân vương nơi địa ngực, cho tới nay đã không ít lần tìm
cách thổi tắt sự sống của chàng thợ săn ma. Nhưng gã
chưa thành công. John Singlair cùng những thế lực Pháp
Thuật Trắng phù trợ cho anh luôn tỏ ra là người mạnh mẽ
hơn.
Satan, theo đúng tính cách quỷ quyệt của hắn, chưa
bao giờ đích thân tấn công John. Từ thuở hồng hoang gã
đã bị nhốt chặt trong vương quốc của bóng tối. Và gã
đang cầm quyền ở đó bằng sự tàn nhẫn có một không hai.
Nhưng gã có tay chân.
Đám tay chân được gã gửi lên trên mặt đất để gieo
rắc nòi giống của sự sợ hãi và nỗi kinh hoàng cùng với
những tội lỗi vô biên.
Những kẻ tay chân của Satan giống như thuyền trưởng
Barell vậy. Tên thuyền trưởng này thuở trước đã bị một
con quỷ quyền lực nguyền rủa, thế nhưng Satan còn mạnh
hơn cả con quỷ Ấn Độ kia. Đúng vào lúc tàu Cornwall Love
chìm xuống, đích thân Satan đã hiện ra và hoá giải lời
nguyền của Maharadscha. Tay lãnh chúa bóng đêm đã hiện
lên trước mặt tên thuyền trưởng suốt vài giây đồng hồ và
ra lệnh - Hãy giết John Singlair! Nếu làm được ta sẽ hóa
giải lời nguyền cho ngươi!
Trong tích tắc sau đó, tàu Cornwall Love chìm xuống.
Thuyền trưởng Barell nhìn toàn bộ đội quân thủy thủ ma
của hắn tan ra, thế nhưng bản thân gã không hề hấn chi.
Gã đột ngột thấy mình đang ở dưới nước. Toàn thân nguyên
vẹn! Nước không tấn công nổi gã. Và gã nhìn thấy Ali,
lúc bấy giờ đang ngồi trong chiếc xuồng cao su, hối hả
chèo về hướng đảo.
Đúng là một bóng ma, gã thuyền trưởng thình lình
hiện lên sát bên xuồng. Ali suýt nữa đánh rơi cả mái
chèo. Hoảng hốt, gã giơ tay về hướng khẩu súng máy,
nhưng lúc đó thuyền trưởng Barell đã thoắt trèo lên,
ngồi vào giữa con thuyền nhỏ.
Thuyền lảo đảo, ngả nghiêng nhưng không bị lật. Bàn
tay của Barell gạt mũi súng sang bên. Ali thuận theo, và
không khỏi thầm ngạc nhiên vì bản thân mình.
Tên thuyền trưởng trong vẫn nhợt nhạt. Những khúc
xương hiện rõ dưới làn da trong suốt. Trong mắt gã sáng
tia lửa màu vàng thâm hiểm.
- Mi biết là vũ khí của mi không làm gì nổi ta. –
Barell nói. – Bản thân Satan bây giờ đang trợ giúp cho
ta. Ta đề nghị với mi: hãy cộng tác với ta!
Ali nhìn vào khuôn mặt rùng rợn.
- Quyết định đi! Quyết định nhanh lên! Mặt trời
chẳng bao lâu nữa sẽ xuất hiện, và ánh sáng của nó sẽ
giết hại ta.
Gã đàn ông người Ả Rập gật đầu.
- Mi không nói được sao?
Ali lắc đầu.
Thuyền trưởng Barell cười lớn.
- Nhưng mi hiểu lời ta?
Ali lại gật đầu.
- Tốt, thế thì nghe đây.
Chỉ sau vài câu nói, thuyền trưởng Barell đã giải
thích cho gã đàn ông người Ả Rập hiểu kế hoạch của hắn.
Trong khi Ali tiếp tục chèo thuyền, thuyền trưởng Barell
nhắc cho hắn nhớ từng chi tiết, và gã người Ả Rập đồng
ý, bởi gã thấy mình không còn con đường nào khác. Gã
suýt giết John, giờ gã càng nóng lòng muốn giết anh...
Bộ xương người nhợt nhạt mắc cạn giữa hai triền
đá. Một lời đe dọa cho thế giới đến sau. John Singlair
nhìn thấy nó khi anh bước ra khỏi nước.
Anh rất mệt. Những sự kiện hôm qua và đoạn bơi vừa
rồi ngốn đi quá nhiều sức lực của anh. Anh bò bằng cả tứ
chi lên bãi cát. Giờ thì anh cũng nhìn thấy con thuyền
máy mà Jerry Flint đã dùng để tới đảo này. Nó được buộc
rất chắc vào ghềnh đá. Những đợt sóng theo nhau đập vào
mạn thuyền.
Bầu trời phía Động đã sáng lên. Chẳng bao lâu nữa
mặt trời sẽ thức dậy và những tia nắng gay gắt của nó sẽ
biến mặt biển thành một mặt gương.
John biết hình ảnh đó, lần nào nhìn ngắm anh cũng
thấy mình bị hút hồn. Nhưng hôm nay, anh không còn sức
lực để ý đến vẻ đẹp thiên nhiên trên biển.
John e sợ rằng gã người Ả Rập kia lại tóm lấy những
tù nhân làm con tin. Nếu quả thật như thế thì tình huống
sẽ trở nên trầm trọng. Chàng thanh tra không hề biết
rằng, Ali lúc đó đang rình mò anh. Rình mò ở một vị trí
rất tiện lợi.
Con đường dẫn từ bãi cát về hướng lô cốt tương đối
hẹp. Mặt quay ra biển của nó tương đối bằng phẳng, nhưng
phía bên kia là những vách đá lởm chởm cao ngang đầu
người, chỉ sau độ dày một vài mét nó mới dần nghiêng
thoai thoải xuống.
Gã đàn ông Ả Rập đang núp giữa những vách đá đó. Với
khẩu súng máy sẵn sàng nhả đạn. Gã nhìn thấy John cập
bến. Lạnh lùng, gã chờ đợi. Khẩu súng của gã được nạp
đầy đạn.
John lúc này đã nghỉ ngơi được đôi chút. Quần áo
dánh vào người anh như làn da thứ hai. Gió rất mạnh, và
chàng thợ săn ma thấy lạnh. Anh muốn đến chỗ nhóm tù
nhân nhanh như có thể, và vì vậy mà anh vội vàng bước
trên con đường hẹp dẫn về lô cốt.
Chính là nơi Ali đang chờ đợi.
Cây thánh giá thần cùng mặt đá thần vẫn nằm trên làn
ngực trần của anh. Mặt đá nổi lên hình một con rắn đang
xoay lại cắn vào chính đuôi mình. Cả mặt đá lẫn cây
thánh giá lúc này đều yên lặng trong mát dịu, không hề
nóng lên, không lóe sáng, không một phản ứng dù nhẹ. Như
vậy là không có con ma nào đang rình mò xung quanh.
Thay vào đó là Ali. Thằng người Ali hoàn toàn không
phải ma. Gã không nhìn thấy John, nhưng nghe thấy tiếng
chân anh. Và gã định hướng qua những âm thanh đó. Chàng
thợ săn ma lại gần. Tiếng bước chân đã vang lên to hơn.
Rồi Ali nghe thấy tiếng thở của người đan ông tóc vàng.
Gã nhảy ra khỏi chỗ nấp như một con hổ. Gã giơ khẩu
súng máy lên cao và bấm cò ngay lập tức. Chẳng mấy khi
trong đời, John Singlair phản ứng nhanh như lúc này. Anh
nhìn thấy gã người Ả Rập nhảy ra khỏi chỗ nấp và thấy
ánh kim loại trên vũ khí.
John ném người sang bên. Động tác của anh xảy ra
nhanh như chớp, đến độ Ali cùng nòng súng máy rọi theo
không kịp. Thân hình chàng thanh tra đập vào nền đất lởm
chởm đá của hòn đảo. Anh xoay người ngay lập tức. Tiếng
khạc lửa của khẩu súng máy đập vào tai anh. Những viên
đạn tru lên trong không khí, hướng về phía những tảng
đá, xé rách những mảng đá to bằng bàn tay, hoặc trở
thành những mảnh đạn xuyên ngang, vi vu bài ca chết chóc
trong gió sớm. John cảm nhận một đòn rất mạnh đập vào
vai trái, theo bản năng anh lăn thân mình đi tiếp và nhe
thấy tiếng cười địa ngục của tên Ả Rập bay vào vách đá,
bung lên thành thứ âm thanh không thể diễn tả. Qua luồng
bụi bốc lên cao, anh chỉ nhìn thấy dáng Ali hiện lên lờ
mờ. Tên người Ả Rập đang xoay súng về hướng anh. John đã
tóm được hòn đá đầu tiên. Nó to bằng nắm đấm, những ngón
tay của anh cầm chắc lấy nó.
John vừa nằm vừa ném cục đá bằng tất cả sức mạnh của
mình. Viên đá đi trúng đích, nện trúng vào tên người Ả
Rập giữa vòng quay của gã. Trúng vào dưới cằm. Ali lảo
đảo lùi về. Đầu gã bị giật ra hướng cổ. Thế nhưng theo
bản năng, gã vẫn cầm rất chắc khẩu súng máy, rồi bất
giác bóp cò. Khẩu Mpi nhả ra những cục đạn chì chết
người. Cả chùm đạn đó găm vào những vách đá, và không ít
mảnh đạn văng bật trở về. Có hai mảnh rtrúng vào người
Ali. Một mảnh trực tiếp găm vào phần cổ, mảnh khác sượt
ngang bên thái dương.
Tên Ả Rập chết ngay trong tư thế đứng. Gã buông rơi
khẩu súng máy, cứ như thể nó đã trở thành một khúc sắt
nóng rực. Gã lết được hai bước về phía John Singlair,
cho tới khi hai đầu gối gập xuống. Hai cánh tay dang
rộng ra, Ali buông người xuống nền đất. Đầu ngón tay của
gã chạm tới gần giày John. Chàng thợ săn ma lấy hơi thật
sâu. Anh vừa thoát nạn trong gang tấc.
John cảm nhận thấy dòng hơi ấm chảy dọc vai
mình...Một viên đạn đã đi sượt qua đó, rứt ra một mẩu
thịt to bằng ngón tay cái. Vết thương bây giờ cháy lên
như lửa. Nước mặn từ quần áo của John đã lọt vào đau rát
vô cùng. Chàng thợ săn ma nghiến răng lại. Bất chấp
những luồng gió lạnh, mồ hôi vẫn túa ra trên trán anh.
John rút ra một chiếc khăn tay ướt đẫm từ túi quần, vo
viên nó lại và áp lên vết thương.
Đằng nào thì cũng bị thương rồi, việc cần thiết là
phải cầm máu.
Kiệt sức, anh tiếp tục đi trên con đường về hướng lô
cốt. Thế rồi anh trầm ngâm nhìn về phía cánh cửa ra vào
rất lớn đang mở rộng.
Phải chăng thuyền trưởng Barell đang ẩn mình vào
trong mê hồn trận của lô cốt kia?
John hiện mang trên mình khẩu súng máy của Ali.
Trong súng vẫn còn vài viên đạn.
Lúc bấy giờ, một người đàn ông xuất hiện bên cánh
cửa. Ngay lập tức John nâng nòng súng Mpi, nhưng rồi hạ
nó xuống khi anh nhận ra người đàn ông tóc bạc, người đã
khiến anh chú ý tới trên con tàu ma.
Người đàn ông ngạc nhiên một thoáng, đoạn chạy về
hướng chàng thanh tra.
- Trời đất! – Ông ta lắp bắp. – Vậy là anh đã thoát
được! Chúng tôi nghe thấy tiếng súng. Trời ơi, anh bị
thương nặng lắm nè!
Chàng thanh tra cố gắng mỉm cười.
- Chỉ là vết xước thôi. – Anh phẩy tay.
Người đàn ông tóc bạc ném cái nhìn về phía vết
thương và chiếc khăn tay buộc ngoài.
- Nói vết xước là hơi dối đấy. – Ông vào đây, trong
lô cốt này có một hộp thuốc. Chúng tôi sẽ băng lại cho
ông.
- Để sau đã! – John lắc đầu. – Thuyền trưởng Barell
đâu?
Người đàn ông tóc bạc nhún vai.
- Chúng tôi không biết. Tôi hoàn toàn không biết
liệu hắn có còn trên hòn đảo khốn kiếp này hay không.
Chỉ năm giây đồng hồ sau, họ nhận được câu trả lời.
Bởi họ nghe thấy tiếng cười tởm lợm của con quỷ đó. Nó
đứng trên nóc lô cốt. Dáng hình hiện rõ trên nền trời
đang dần sáng lên.
Chàng thanh tra giơ cây súng máy lên và nhắm về
hướng đó.
Thuyền trưởng cười ngạo nghễ.
- Tao là kẻ chiến thắng! – Gã reo lên, rồi tự ngắt
lời minh bằng giọng địa ngục. – Chính Satan đã trao sức
mạnh cho ta. Để ta giết chết kả thù của ông ấy là John
Singlair.
Chàng thanh tra muốn liều lĩnh lao vào cuộc thử
nghiệm. Anh đưa súng về phía tên thuyền trưởng và bóp
cò. Tiếng súng xé tan màn tĩnh lặng của sớm mai. John đã
ngắm rất tốt, những viên đạn trúng đích. Chúng làm tên
thuyền trưởng ma quái quay một vài vòng, thế nhưng những
viên đạn trúng đích đều được Barell đón tiếp bằng tràng
cười chế giễu.
- Không được đâu John Singlair! – Gã thét lên. – Trò
này không được. – Gã lại cười điên dại.
Chàng thanh tra hạ súng xuống. Lần này thì cả mặt
ngọc thần hình rắn trên ngực anh cũng không tỏ ra hiệu
ứng. Chắc là khoảng cách quá lớn. Khối ngọc trên ngực
anh có thay đổi đo, nhưng chỉ là âm ấm thôi.
Barell rút gươm ra.
- Chuẩn bị tinh thần, John Singlair! Không kẻ nào
bắt ta chịu thất bại mà lại không bị trừng phạt. Ta sẽ
hoàn thiện những gì đã bị ngăn trở giữa chừng trên con
tàu. Tao sẽ chặt đầu mi và đem trao cho Satan.
- Thằng này có lẽ làm đạo diễn Opera được đấy. –
John nghiến răng lẩm bẩm. – Vở kịch Salome cắt đầu dâng
bạo chúa của hắn chắc chắn sẽ thành công.
Bỗng chàng thanh tra nhăn mặt. Vết thương ở trên vai
đau nhói áp đảo tinh thần anh.
- Tại sao mày không lại đây? – John thét về hướng
con quỷ. – Có giỏi thì vào trận tay đôi!
Barell lại cười sằng sặc.
- Không, tao mới là người quyết định thời điểm. Tao
sẽ tìm mày dù mày ở bất cứ nơi nào. Cứ chờ đấy. Tới một
lúc nào đó, khi mày đã quên tao đi thì tao sẽ xuất hiện
và giết chết mày.
- Tại sao hắn lại làm ra vẻ hồi hộp thế? – Ông già
tóc bạc ngạc nhiên lẩm bẩm.
- Hắn biết là tôi đang đeo mắt ngọc hình con rắn
trên người. – John đáp lời. – Nếu hắn trực diện tới gần
tôi, mặt ngọc sẽ thành mối nguy hiểm chết chóc đối với
hắn. Rất có thể hắn sẽ biến mất nagy bây giờ hoặc là...
Căng từng thớ thịt trên người, John nhìn trân trối
về phía tên thuyền trưởng.
- Quá muộn rồi. – Chàng thanh tra nói và cười thỏa
mãn. – Kia, mặt trời đã mọc! Những tia nắng đầu tiên đã
bò qua đường chân trời. Mặt trời có nghĩa là ánh sáng,
mà ánh sáng là vũ khí hủy diệt những sản phẩm của bóng
đêm.
Nín thở, hai người đàn ông quan sát những tia nắng
sớm bò trên nóc lô cốt. Xa xa về phía Đông, bầu trời
đang nổ bùng ánh sáng trong câm nín. Chỉ trong một tích
tắc, mặt biển biến thành một tấm thảm phản chiếu chói
gắt như một tấm thảm trùm lên cả hòn đảo và cả cái thân
hình kỳ quái đứng trên nóc lô cốt.
- Aaaaa... – Thuyền trưởng Barell tru lên, âm thanh
rùng rợn đến xương tủy. Một hỗn hợp cũa căm hận, kinh
hãi và tuyệt vọng. Gã đã chờ đợi và dùng giằng quá lâu.
Anh ban mai bùng tỏa qua tấm gương biển khổng lồ đã lao
vọt đến thất bất ngờ. Những tia nắng ném sức mạnh khởi
thuỷ của ánh sáng vào sản phẩm của bón đêm, bao trùm lấy
nó, không cho nó một cơ hội duy nhất để thoát thân.
Thuyền trưởng Barell lảo đảo bước đến bên rìa mái lô
cốt. Gã muốn nhảy xuống chỗ bóng râm an toàn giữa những
vách đá. Nhưng không kịp nữa rồi.
Kiệt sức, gã gục xuống bên rìa mái lô cốt. Cả tên
quân vương của địa ngục cũng không biết làm gì hơn để
chống chọi lại sức mạnh của ánh sáng. Thân hình Barell
đập sấp xuống, gã còn cong lên một lần nữa, nhưng rồi
sụp hẳn. Mặt trời đã phá hủy toàn bộ sức lục của gã.
Hai người đàn ông trần thế bây giờ cũng thấy chói
mắt.
- Anh nghĩ thế nào, liệu gã có qua được không? – Ông
già tóc bạc hỏi.
- Không đâu. – John quả quyết lắc đầu.
Thêm một lần nữa, tiếng thét khủng khiếp vang lên.
Nó khiến hai người đàn ông nổi da gà toàn thân. Thế rồi
tĩnh lặng, tĩnh lặng đến chết chóc.
Chẳng còn lại một dấu vết nào của bóng ma Barell.
Thậm chí cả cây gươm của hắn cũng biến mất. John
Singlair gật đầu.
- Thế là xong đấy. – Anh rên lên. Rồi nở một nụ cười
nhẹ nhõm bừng sáng trên gương mặt.
Người đàn ông tóc bạc nhình John từ dưới lên.
- Thật ra ông là ai?
- Tôi? Tôi là... tôi là..., - John đột ngột đón nhận
cơn choáng váng ập tới. Khẩu súng máy trượt ra khỏi bàn
tay anh, rơi xuống đất. Chàng thanh tra gục xuống. Người
đàn ông tóc bạc chỉ còn kịp đỡ cho cú đập của anh dịu
đi, thế rồi John Singlair hoàn toàn bất động trên nền
đất đầy sỏi đá. Những tiếng đồng hồ đã qua quả thật vượt
quá sức chịu đựng của anh.
John Singlair ngất trên một tiếng đồng hồ. Khi
tỉnh dậy, anh thấy người ta đã rửa ráy và băng bó vết
thương cho mình. Những tù nhân được giải phóng đanh xúm
xít quanh chiếc ghế dài nơi anh đang nằm.
Mùi cà phê tràn vào mũi John.
Chàng thợ săn ma từ từ mở mắt.
- Chào ông thanh tra. – Ông già tóc bạc nói.
- Tại sao ông biết..?
- Chúng tôi đã lục trong ví ông. – Người đàn ông đỏ
mặt lên khi thú nhận đều ấy.
- Trò này phải phạt mới được. – John nói. – Trong
trường hợp này, tôi chọn một ngụm whisky.
- Chúng tôi sẵn lòng chịu phạt. – Người đàn ông tóc
bạc vui vẻ kêu lên.
Chỉ một lát sau, họ chạm cốc với nhau. John nhìn
những gương mặt mỏi mệt như đã có sắc hồng của sự sống.
Trông họ rất hài lòng và hạnh phúc bên cạnh anh. Những
nạn nhân đã vượt được qua chuyến phiêu lưu khủng khiếp.
Và đó mới là điều quan trọng nhất.
John vẫn còn một việc phải làm. Dùng máy điện đàm,
anh liên lạc với cơ quan tình báo.
Chỉ một tiếng đồng hồ sau, có tiếng trực thăng hạ
cánh xuống đảo.
Người ta đưa những con người không may quay trở về
nước Anh. Bất chấp vết thương, John phải nán lại trên
hòn đảo của Basil Proctor. Anh chờ đợi sĩ quan cao cấp
của ngành tình báo, người mà anh phải bình tĩnh báo cáo
lại toàn bộ vụ án.
Bởi suy cho cùng, Dịch Vụ Bảo An cần một lời giải
thích tương đối dễ chấp nhận. Chính thống mà nói, làm gì
có ma và làm gì có quỷ. Lại càng không thể có trong bản
báo cáo của cơ quan tình báo của Nữ Hoàng Anh.