Chương 1
ĐỨA BÉ MẤT TÍCH
Năm ấy tôi mười hai tuổi. Tôi ở thị trấn Rêu với mẹ tôi. Thị trấn
này gồm vài ba dãy phố cũ, toàn những ngôi nhà lợp ngói, hiên rộng,
cột gỗ đen bóng, cây ăn quả và những bức tường phân cách thấp lè tè,
rêu loang từng đám. Bên kia đường xe lửa, có thêm một dãy phố mới,
gồm những ngôi nhà cất trên rẻo đất hoang và nền gạch vỡ tiêu thổ
kháng chiến chống Pháp. Nhà ở đây thường hai tầng, lớn nhỏ lô nhô,
bao lơn có song sắt hoa đủ kiểu. Dân phố mới phần lớn là thương
nhân. Cửa hàng của họ bán đủ thứ vải sồi, mắm muối, gạo bột, tạp hóa
khác… Sát đường ray, ở giữa khu phố cũ và dãy phố mới, có một khoảng
đất trống. Chợ họp ở đó. Trước cửa chợ trồng cây cột gỗ treo một dải
lụa hồng. Hàng năm, trước ngày Tết ông Táo, người coi chợ gỡ mảnh
lụa đã bợt màu vì mưa qua gió lại, thay vào đó mộtdải lụa mới tinh
khôi, màu hồng thắm. Dân cư trong thị trấn nhìn về phía chợ, lòng
hoan hỉ vì thấy dấu hiệu phồn vinh của năm tới.
Ga xe lửa ở ngay gần chợ. Ngày ngày, những chuyến tàu xuôi ngược
lướt qua đám dân ồn ào mua bán. Người trên tàu thò cổ ra cửa nhìn
xuống chợ. Và dân trong chợ nghếch mắt nhìn con rắn kỳ dị bằng sắt
trường đi trên đường ray, vừa đi vừa thở phì phò tuôn về phía sau
những luồng hơi trắng như muối.
Phía trên thị trấn chừng nửa cây số có một dòng sông nhỏ. Chúng tôi
goi nó là dòng sông Xanh, vì nước sông xanh như thể pha màu lá non.
Thuyền qua lại luôn luôn, buồm giương lên như cánh bướm. Đôi khi,
gió lặng, người chủ thuyền phải nhảy xuống lội bộ, kéo bằng dây chão
tròng qua vai. Những đứa con nhỏ ở khoang giương mắt thao láo nhìn.
Và bất chợt, người kéo thuyền cất lên giọng hát trầm trầm, có nhiều
chỗ láy. Dòng sông Xanh ấy có hai gò đất lớn, chúng tôi gọi là đảo
Hoa Vàng vì chúng mọc đầy cây duối. Quả duối chín vàng như kén tằm
rắc kín các lùm cây, trông như ai rắc những lớp bụi kim nhũ lên đó.
Đảo Hoa Vàng là nơi cất giấu kho tàng bí mật của chúng tôi. Trên đảo
có miếu thờ Ngũ hổ, tuy đã sụt lở nhưng vẫn đủ che cho một người ngủ
qua đêm. Những ngày dân trong thị xã ra đảo cúng Ngũ hổ, mùi hương
thơm lan khắp mặt sông. Tưởng như những cây duối vàng rực rỡ kia tỏ
hương chứ không phải những bát nhang trong ngôi miếu thờ nhỏ cũ kỹ.
Dạo đó là mùa xuân. Bánh chưng Tết đã hết, nhưng bánh gói rằm tháng
riêng còn xếp đầy trong những chiếc thúng con ở bếp mọi nhà. Chợ phố
họp thật đông. Vào dịp này, những người bán kẹo rong chuyên thổi con
tò te bằng đường cô đặc hoặc nặn con giống bằng bột nếp nhuộm phẩm
đểu tới chợ để kiếm cách moi tiền trong túi đám khách đi hội, lễ
chùa ghé qua thị trấn lại đến cửa chợ. Một cỗ xe ngựa mui khum đứng
ngay trên bãi đất trống. Con ngựa già lông hung vục mõm vào giỏ vừa
nhai cỏ vừa rùng mình đuổi nhặng. đám lông nơi khuỷu chân trắng
phếch bụi đường. Gần đó, khoảng đất lầm bụi cát đã được khoanh lại
bới những sợi thừng chăng qua bốn cây cọc. Chủ gánh xiếc, một người
đàn ông thấp lùn, nhỏ bé, cái đầu phình ra một cách dị thường, da
đen sạm, mắt long lanh, đang biểu diễn trò nuốt lửa, xiên linh, nhào
lộn trên dây. Sau đó, ông ta tự bịt mắt bằng một tấm vải đen rồ
iphóng dao lên tấm bảng bằng gỗ. những con dao nhọn cắm phầm phập
trên tấm gỗ mềm. đứng áp lưng vào tấm bảng, vợ người chủ gánh xiếc
dang hai tay, ngẩng cao đầu với vẻ gan góc và hùng dũng hiếm có. Đen
trũi, dữ tợn, to béo như hộ pháp, người đàn bà đó khiến chúng tôi
vừa kính nể vừa khiếp sợ. Bà ta dương mắt nhìn những ánh thép đang
loang loáng lao tới một cách bình thản, trong khi chúng tôi thét lên
vì hoảng sợ, tim nhảy trong lồng ngực thình thình. Hết trò ném dao,
người đàn ông gỡ mảnh vải chào đám đông với vẻ khiêm nhường. Đoạn
ông ta quay lại phía sau, giơ tay vẫy vẫy. Khi bàn tay ông hạ xuống,
hai con khỉ đèo nhau bằng xe đạp tiến ra. Cả hai con đều mặc quần
đùi đỏ viền đen, áo may ô vàng và đội mũ cát-két đen. Con trước lái,
con sau đứng vịn vào vai bạn. Hết một đợt chừng mười vòng, con khỉ
đứng sau nhẩy xuống xe, giật mũ chào người xem và xin tiền. Con kia
ngồi trên xe, gác chân lên ghi-đông vênh váo. Khi mũ đã đầy tiền
giấy và xu, con khỉ chạy lại đưa cho chủ gánh xiếc. Ông cất tiền vào
túi bên trái, móc túi bên phải ra một nắm hạt dẻ hoặc vài trái chuối
chín thưởng cho hai con vật. rồi ông ta cúi thấp đầu cảm tạ người
xem và lui lại phía sau, chuẩn bị đợt diễn tiếp.
Ngày thứ hai tới thị trấn, gánh xiếc đã diễn năm lần mà người xem
vẫn còn đông. Trong đám khán giả xúm xít bên ngoài vòng vây bỗn xuất
hiện một người đàn ông lạ mặt. dân thị trấn, dân các làng phụ cận,
khách vãng lai xem hội và lễ chùa không ai lạ lùng như vậy. Người
mới tới bận quần áo đen giống y phục của người Nùng. Áo vạt dài,
khuy tết, quần ống rộng. Bên hông đeo chiếc túi vải như mấy ông già
Tàu bán thuốc bắc và cao hổ ngày phiên chợ. Mũ đội đầu bằng da bò
cáu bẩn. bộ mặt dài, nhiều vết rỗ ở chân lông. Đôi tay to lớn, ửng
đỏ, chắc hẳn là rất cứng rắn đặt lên vành mũ che nắng một cách vụng
về. Cặp mắt sáng quắc ẩn dưới hai hàng mày rậm đen như than. Người
đàn ông lạ đứng ở vòng ngoài cùng, sau lưng những người khác. Ít ai
chú ý tới ông ta vì mải xem đôi khỉ đang trêu cợt, cắn nhau chí
chóe. Người lạ không xem xiếc. Đôi mắt sáng quắc của ông ta sục sạo
khắp đám trẻ thị trấn đang chen chúc nhau đứng sát vòng dây thừng.
Khoảng cổ hở ngoài áo đỏ rực, cục yết hầu nhảy lên tụt xuống như
trái nhót. Người khách lạ chăm chú nhìn hồi lâu, rồi tự dưng biến
mất.
Chiều tối, vợ chồng người làm xiếc nhổ cọc, cuốn thừng gấp vải phông
và thu dọn đồ vật cho lên xe. Họ nhốt hai con khỉ vào chuồng. Rồi
con ngựa được tròng vào ách. Giỏ cỏ gác phía sau giàn khung. Chiếc
xe lên đường. Lũ chúng tôi chạy theo xe, sục vào đám bụi nồng mùi mồ
hôi ngựa. Tới khi chiếc xe đã khuất hẳn sau khúc đường vòng, tôi mới
quay về. Phố đã lên đèn. Trước cửa đồn công an thị trấn, một đám
đông đứng lô nhô. Tôi nghe tiếng xì xào, ồn ã:
- Đứa bé mất tích rồi!... Khốn khổ…
- Sao? Đứa nào mất tích?
- Con lão cai Cân.
- Đứa nào?
- Cái thằng bé nhất, tôi cũng chẳng biết tên.
- À, thằng Dũng còm. Thằng bé lẻo khoẻo, đen thủi, đen thui chứ gì?
- Có lẽ đúng đấy.
- Thằng ấy là đứa ngoan nhất trong đám con nhà cai Cân. Mất thằng bé
thì bố nó điên lên mất.
- Ờ… Nhưng cũng chưa chắc. Cai Cân chỉ điên lên khi mất tiền thôi.
- Trời ơi, bà này độc miệng quá.
- À, để rồi mà xem…
Trên thềm, một trung úy cảnh sát bước ra:
- Mời bà con về. Tình hình ra sao, chúng tôi sẽ thông báo sau.
Nhưng đám người xem vấn đứng túm tụm, thì thầm bàn tán. Họ muốn xem
mặt cai Cân. Họ vốn không mấy cảm tình với ông ta nhưng tò mò muốn
biết thái độ của ông ta trong hoàn cảnh đau khổ này. Người nào cũng
chuẩn bị sẵn một lời an ủi. Nhưng kìa, cai Cân đã từ căn phòng lớn
của đồn công an bước ra. Mặt ông ta lạnh như tiền. Hai gò má nhẵn,
râu cạo trơn tru, vầng trán bóng như xoa mỡ, cặp mắt nhìn bình thản,
ông bố đứa bé mất tích bước xuống thềm. giơ một cánh tay lên:
- Các ông các bà tốt phúc sinh con ngoan. Tôi vô phúc đẻ ra đứa
chẳng ra gì. Nó bỏ nhà trốn đi lêu lổng mất rồi. Thật không ngờ nó
hư đốn thế…
Dân thị trấn chưa kịp nói một lời chia buồn, cai Cân đã vùn vụt đi
về. Bóng ông ta khuất dưới bóng dẫy bàng cổ thụ. Không ai nhìn thấy
ông ta đang nhếch mép cười. một nụ cười bí hiểm, khinh mạn và tàn
ác.
Chương 2
CHUYẾN ĐI BẮT BUỘC
Dũng còm bị mất tích không hiểu vì lý do gì. Dân thị trấn đoán rằng
nó không muốn ở với ông bố keo kiệt và độc ác nên bỏ đi theo gánh
xiếc. Bằng cớ là đứa bé mất cùng với chiếc xe mui khum cũ kỹ kia.
Hẳn là người chủ gánh xiếc đã giấu nó trong cái thùng xe ọp ẹp được
che bằng tấm vải sơn loang lổ những hình vẽ. Bà vợ to béo của ông ta
đủ sức giấu hai đứa trẻ sau lưng… Cũng có người đoán Dũng còn bị mẹ
mìn bắt đem bán. Điều này được các bà mẹ chúng tôi tin ngay. Và ngày
nào cũng vậy, các bà mẹ răn đe chúng tôi rằng: mẹ mìn không chỉ bắt
trẻ con, lớn hơn chúng mày nó cũng bắt được. nó cho ngửi thuốc mê
rồi dẫn lên núi. Con gái mười ba tuổi bán cho người Mèo làm vợ. Con
trai mười ba tuổi bắt mang thuốc phiện lậu sang bên Tàu… Kèm theo
lời dọa dẫm đó là một chế độ kiểm soát gắt gao. Thậm chí, có bà còn
mua cả xích chó về xích con vào cột nhà. Ba tuần lễ liền tôi không
được đi chơi đâu ngoài buổi học. Kể ra điều đó cũng có thể chịu
được, nếu những cơn mưa đầu xuân không rơi xuống. Ồ, các bạn có nhớ
những cơn mưa này không nhỉ? Chúng đẹp như không phải mưa mà như bạc
ròng tuôn chảy. phố xá lấp lánh những sợi tơ dài, reo lanh tanh và
nhảy nhót trong ánh mặt trời chiếu rọi. Mưa thật đẹp nhưng lòng
chúng tôi đầy lo phiền. Bạn biết đấy, gia tài riêng của tôi và Loan
hạt mít chôn ở đảo Hoa Vàng giữa dòng sông Xanh. Dưới gò đất giữa
đảo cách cây duối còng một thước có một chiếc thùng nhôm. Trong
thùng, tôi và Loan cất chiếc hộp đựng bánh quy. Trong hộp có một tập
tiền mừng tuổi. Toàn những tờ giấy bạc mới cứng, cọ lên mặt còn kêu
sột soạt. Tờ nào tờ nấy mát rượi và bốc mùi thơm phức. Ngoài xấp
tiền giấy còn một đống tiền hào. Hào nào cũng sáng trắng như bạc,
chưa hề bị xây sát hoặc hoen ố một li. Chiếc hộp đựng bánh quy đó là
nửa phần kho tàng của hai đứa tôi. Nửa phần kia gồm có một pho tượng
vũ nữ bằng bạc đúc của bà ngoại Loan hạt mít cho, một xấp vải vụn
các màu có thể may hàng chục bộ váy áo cho búp bê, một gói lớn hạt
dưa hấu phơi khô. Những thứ này chúng tôi mới gói tạm bằng lượt giấy
dầu, định sẽ kiếm tấm vải đi mưa bọc thêm bên ngoài cho khỏi thấm
hơi đất. Chưa kịp làm thì xảy ra vụ Dũng còm mất tích và do đó chúng
tôi bị trói chân ở nhà như những con chuột bạch bị nhốt trong lồng.
Trời mưa thế này, vải có thể bị ẩm mục, hạt dưa sẽ thối. chưa kể tới
hơn ba trăm củ khoai nghệ vùi bên cạnh gò sẽ lần lượt nảy mầm và thế
là đi đứt...
Buổi chiều, tôi đã học hết những bài học cho cả tuần, làm hết lô bài
tập toán, lý. Tôi ngồi nhìn hai cánh cửa đóng im ỉm. bên ngoài, mẹ
tôi đã khóa một ổ khóa đồng đóng im ỉm. Qua khung cửa sổ, khoảng
trời xanh chan hòa ánh nắng hiện lên. Cành ổi đu đưa, mấy quả ổi
trái mùa chín trắng ngà. Lũ chim liêu điêu vừa nhảy vừa hót như trêu
chọc đứa bé bị giam lỏng trong nhà. Tôi định ném cho chúng một hòn
sỏi nhưng nghĩ thương tình nên lại thôi. Đúng lúc đó, gương mặt bầu
bĩnh của Loan hiện lên ngoài cửa sổ:
- Bê.
Loan gọi tôi, miệng cười tươi tắn.
- Loan, sao đằng ấy đến đây được?
Tôi mừng rỡ lao tới khung cửa sổ. Hai gương mặt chúng tôi áp vào
nhau. Loan trả lời:
- Tớ nhận đi xếp hàng mua thịt phiếu là được bay khỏi nhà ngay.
Nói xong, Loan chìa cho tôi xem chiếc rổ con đựng thịt lợn với dừa
cùi và rau cải. Tôi thở dài:
- Mưa to qua, kho tàng ngoài đảo nguy mất.
Loan gật đầu:
- Tớ cũng lo ngay ngáy. Vải nhựa xin được rồi mà không có cách nào
chuồn được… Nhưng tối nay tụi mình sẽ bay.
Tôi hỏi:
- Sao cơ?
Loan thì thầm:
- Tối nay câu lạc bộ thanh niên có biểu diễn văn nghệ. Hai đứa mình
xin phép đi xem rồi trốn ra sông lấy thuyền bà An Lạc bơi ra đảo.
Tuyệt chưa?
Tôi ậm ừ
- Nhưng ai lại đi nói dối mẹ…
Xưa nay, tôi chưa hề nói dối mẹ lần nào. Bố tôi ở một đồn biên phòng
xa tít tắp nơi phương bắc. Vài ba năm bố mới về phép một lần. Nhà
chỉ có hai mẹ con. Vì thế, mẹ tôi là tất cả quyền uy, tình thương
mến, niềm an ủi và hy vọng. Mẹ tôi vẫn dạy tôi dối trá là tật xấu
nhất trên đời… Không lẽ bây giờ tôi lại nói dối mẹ? Nhưng nếu tôi
nói thật, mẹ chẳng bao giờ cho tôi đi và kho tàng trên đảo sẽ tiêu
ma… Lạy trời, một lần thôi, chỉ một lần này thôi…
Tôi nghĩ bụng và gật đầu bảo Loan:
- Thôi được, cũng đành vậy.
Loan thở phào sau một lát im lặng chờ đợi. Rồi nó nhanh nhẹn hỏi
tôi:
- Sáu giờ rưỡi nhé?
Tôi đáp:
- Sáu giờ. Đi sớm một chút.
Loan nói:
- Đúng hẹn nhé. Tớ về đây.
Cô hạt mít biến mất.
Chiều, ăn cơm xong, tôi xin phép mẹ ra câu lạc bộ nghe ca nhạc. Mẹ
tôi không nghi ngờ chút nào, bằng lòng ngay. Tôi cảm thấy mặt tôi
nóng ran lên như hơ lửa khi mẹ tôi cúi đầu bình thản trên chồng vở
của học sinh, nhúng cây bút sắt vào lọ mực đỏ chấm bài.
“Con xin lỗi mẹ, chỉ lần này thôi…”
Tôi thầm nói tỏng lòng rồi vội vã bước ra phố. Đi giữa dòng người
tấp nập, ồn ào, tôi thấy nhẹ nhõm hơn. Loan hạt mít đã đứng chờ tôi
dưới gốc cây phượng ở ngã ba đầu thị trấn:
- Mau lên, hết trăng bây giờ.
Lúc ấy, trăng thượng tuần lơ lửng như mảnh ngọc lam treo trên trời.
chúng tôi đi hối hả. Hết rặng đèn đầu thị trấn, chỉ còn ánh trăng mờ
nhạt trải trên dải đường xám, trên những mảnh ruộng và những đám đất
trộng xung quanh. Tới bờ sông, mồ hôi đã ướt dính trong lưng áo.
Loan thì thào:
- Trống ngực tớ đánh khiếp quá, đằng ấy có thế không?
Tôi đáp rắn rỏi:
- Không.
Kỳ thực, tim tôi cũng đang nhảy thon thót vì hồi hộp. Chưa bao giờ
chúng tôi ra đảo lúc đêm tối như hôm nay. Trước khi xảy ra vụ mất
tích Dũng còm, chẳng ai giam cầm chúng tôi và vì thế vài ba ngày một
lần, chúng tôi thong thả ra sông, gỡ thuyền bơi ra đảo. vừa bơi, vừa
ngắm cảnh mặt trời rực rỡ chiếu trên làn nước biếc và những cánh
buồm thấp thoáng gần xa.
Bây giờ, dòng nước trôi dưới ánh trăng mờ trông bàng bạc, xam xám
như một con trăn kỳ quái. Những bụi cây nhỏ ven bờ nước, ban ngày
nhìn rất xinh tươi lại giống những con thú đang vờ vịt ngủ, chờ cơ
hội nhảy chồm lên vồ mồi. thỉnh thoảng một con chim đêm bay qua
buông tiếng kêu:
- Két ét ét ét….
Loan níu chặt tay tôi, gọi giật giọng:
- Bê.
- Gì thế?
- Có đi nữa không?
- Sao lại không?
Tôi gằn giọng đáp, hất tay cô bạn ra. Loan hạt mít cắm cúi bước,
không dám hỏi thêm câu nào.
Mép nước đã sát dưới chân. Tôi định hướng tìm cây cọc buộc thuyền.
Đây rồi. Chiếc thuyền tôn của bà An Lạc cột vào cọc bằng một dây
xích lớn. gió đánh khiến sợi dây xích đập xoang xoảng. Những gợn
nước vỡ dưới mạn thuyền giống đàn rắn con đang bò. Có tiếng huýt gió
vang lên phía bờ kia nghe rờn rợn. Tôi lạnh cả gáy. Lúc đi chỉ hăm
hở nghĩ tới lúc mở hộp tiền thơm phức ra ngắm, không nghĩ tới cảnh
dòng sông đêm tối tăm ghê rợn thế này. Nhưng không lẽ quay lại?...
Thứ nhất, mất toi buổi tối. Thứ hai, Loan hạt mít cũng sẽ cho tôi là
thứ thỏ nhút nhát như nó. Nghĩ vậy, tôi mím môi nhảy ào xuống
thuyền. Bàn chân bị động mạnh, đau nhói. Tôi vớ vội cọc chèo. Lần
này, cọc chèo lại đập vào chân tôi một cú đau hơn. Loan hạt mít vừa
nhảy theo tôi, bật lên rên rỉ:
- Đằng ấy ơi, về đi, tớ sợ lắm.
Tôi đang tức giận vì đau, quay lại quát to:
- Sao hèn thế? Vì mình mà người ta phải nói dối mẹ, đi ra đây… Giờ
lại đòi về… Không biết xấu hổ hay sao?
Hạt mít lặng im. Có lẽ hai cái mép nhỏ hênh hếch của nó đang mếu
xệch trong bóng tối. tôi thương hại cô bạn, nhưng vẫn lầm lỳ làm mặt
giận đập mái chèo bồm bộp xuống nước. Tiếng chèo đập nước khiến tôi
trở lại bình tĩnh. Con thuyền đã lìa bờ mỗi lúc một ra xa. Tới giữa
dòng, nhìn những gợn nước loang loáng trôi dưới mạn thuyền, tôi bỗng
nảy ra ý nghĩ: Nhỡ Loan ngã xuống sông thì sao? Và nỗi lo ập đến
khiến tôi lạnh toát cả người. Quãng sông này nhiều vực, người ta đồn
là lắm ma nam. Tháng sáu năm trước có hai chị em cô bé làng bên chết
đuối. Năm kia, một ông lão gù ngớ ngẩn xuống sông tắm buổi trưa, đột
nhiên kêu ú ớ từng tràng rồi cũng chìm nghỉm luôn. Lâu hơn nữa, thời
mẹ tôi còn nhỏ, cũng đã có một cô gái xinh đẹp nhảy xuống sông tự
vẫn vì bị ép duyên. Nhớ tới những chuyện đó, tôi sởn gai ốc. Tuy
nhiên, tôi không thể lộ cho Loan biết những ý nghĩ của mình. Tôi cố
gắng chèo đều đặn. Loan hạt mít ngồi thụp sâu trong lòng thuyền ,
tay níu mạn thuyền, tay bám chặt chân tôi. Con thuyền trôi và dần
dần dải bờ bên kia đã hiện ra dưới ánh trăng non.
- Kíu íu íu íu… ít ít ít…
Một tiếng kêu rất lớn, thảng thốt, đột nhiên ré lên xé màng nhĩ
chúng tôi. Một hơi gió lạnh đột ngột phả mùi hôi lạ vào mặt. Kèm
theo hơi gió là một khối đen vụt qua. Loan rú một tiếng, giật mạnh
quần tôi. Tôi loạng choạng suýt ngã khiến con thuyền tròng trành
muốn lật. phải gắng hết sức, tôi mới giữ cho thuyền thăng bằng trở
lại. Định thần rồi, tôi mới thấy cái khối đen vừa vụt qua mặt chính
là một con chim lớn. Chính nó cất tiếng kêu ghê rợn và phả ra mùi
hôi hăng hắc. Đó là một con lênh đênh. Loài chim này tôi vẫn nghe
những người bắn chim nói tới. Nó là loài chim lớn nhất vùng đồng
bằng. Mỗi con nặng tới hàng chục cân. Thịt nó dai, không ngon nhưng
nhiều và nạc. Nó thường nổi lềnh bềnh trên mặt nước như con thuyền
không chèo lá. Người săn chim thường ngậm hơi lặn dưới nước, đầu đội
cụm bèo Nhật Bản hay chiếc lá môn, lặng lẽ đi tới gần rồi lừa miếng
túm đôi chân con vật. Còn bây giờ nó làm chúng tôi tắc thở vì sợ.
Con chim vẫn đập đôi cánh nặng nề, vừa bay vừa tiếp tục buông tiếng
kêu khàn khàn hoảng hốt. Tiếng chim kêu vang trên mặt nước, khuấy
động trời đêm. Tôi bảo Loan:
- Con lênh đênh đấy, sợ gì…
Loan không đáp, thở dốc từng hồi. Con lênh đênh đã bay xa. Tôi đập
mái chèo thật mạnh để xua nỗi sợ hãi…
Chừng hai chục mái chèo nữa, chúng tôi tới đảo Hoa Vàng. Tôi neo
thuyền rồi đi tới gò đất chôn kho tàng. Nỗi sợ hãi tan biến. chúng
tôi vui vẻ hẳn lên. Loan tong tả bước, miệng hát ư ử. Tôi bảo:
- Giá ban ngày, thế nào mình cũng hái được nửa đấu quả duối chín.
Gò đất chôn của cải của chúng tôi đã sụt một góc sau mấy trận mưa.
Hòn đá chôn làm dấu lăn xuống chân gò. Tôi nhìn quanh, đêm vắng
lặng, không một bóng người. Trăng thượng tuần xanh như lá non đã ngả
lên những ngọn tre đen thẫm làng bên. Tôi bảo Loan:
- Canh gác nhé.
Rồi tôi quỳ xuống, rút cây xà beng cụt giấu trong bụi duối cạnh gò
bẳt đầu đào. Non nửa thước đất là tới cái thùng nhôm. Tôi mở nắp
thùng thật khó nhọc vì rỉ sắt đã cắn chặt lại. May sao, hộp đựng
tiền bên trong vẫn còn nguyên. Chúng tôi ghé mắt nhìn những đồng hào
sáng trắng và ngửi mùi xấp tiền mừng tuổi còn thơm phức một cách thú
vị. Sau đó tôi đậy hộp, quấn hai lớp vải sơn rồi mở gói đựng vải vụn
với pho tượng bạc ra xem. Chợt Loan kêu lên:
- Có người kìa.
Tôi quay lại. quả tình sau lưng chúng tôi hiện lên một bóng đen. Cái
bóng nhỏ bé đó đi dọc theo mép nước lúc mờ lúc tỏ. Nghe tiếng hét
của Loan, nó sựng lại như cái cọc, rồi cứ như vậy, đứng trơ trơ.
Loan đã run rẩy. Hơi thở nóng hổi của nó phả vào vai tôi. Tôi bảo
Loan:
- Không phải là trộm. Nếu là trộm, nghe kêu nó đã chạy.
Loan thì thào:
- Hay là ma?
Tôi bảo bạn:
- Đừng sợ. Để tớ ra xem. Đằng ấy cứ bọc lại gói vải cho cẩn thận rồi
bỏ vào thùng.
Nói xong, tôi tiến về phía bóng đen kia. Vừa đi tôi vừa bẻ một cành
duối vung vẩy. Bà ngoại tôi vẫn bảo: ma quỷ sợ nước tiểu và roi dâu.
Không có roi dâu, tôi dùng roi duối vậy. Tôi quật cây roi vun vút
trong không khí. Khi đã thấy rõ bóng đen, tôi dừng lại hỏi?
- Ai kia? Người hay ma?
Bóng đen lắp bắp trả lời:
- Em…
Tôi quát to hơn nữa và thấy tay mình bỗng run như gặp rét:
- Em là ai?
Bóng đen nói nhỏ như mất hơi:
- Em là…
Tôi hỏi dồn dập, nửa thị uy nửa tự trấn tĩnh mình:
- Nói mau, em là ai? Làm gì ở đây?
Bóng đen đáp lại vội vã:
- Em là… đi chụp cá… Em đi chụp cá…
Tôi tiến lên vài bước nữa và nhận ra một thằng bé còi cọc đen thủi
đen thui. Khi nó nói, chỉ có hàm răng trắng ánh lên. Lưng nó đeo
chiếc giỏ và tay cầm chụp. tôi bỗng thấy mủi lòng, chả lẽ một đứa bé
gầy guộc như vậy mà đêm đêm lặn lội đi kiếm ăn? Nó còn thua mình vài
ba tuổi…
Tôi định bước tới, nhưng một câu chuyện cũ lại hiện lên trong trí
nhớ khiến tôi dừng bước. Chuyện thế này:
Năm năm mươi tư giải phóng thủ đô, bộ đội ta về tiếp quản các thành
phố và thị trấn. Đêm đêm các anh thường thay nhau đi tuần tra. Một
lần đã khuya, hai anh bộ đội gặp một đứa bé lên năm giữa ngã ba
đường. Thằng bé khóc nức nở, kể rằng bị lạc mẹ từ chặp tối. hai anh
bộ đội cũng thương xót cõng nó tới đồn công an. Từ ngã ba tới đồn
công an, chừng non nửa cây số. thằng bé trên lưng lúc nhẹ như bấc,
lúc nặng như chì. Anh bộ đội kinh ngạc hỏi:
- Cháu lạ thật, lúc nặng lúc nhẹ như ma ấy…
Thằng bé cất tiếng cười sằng sặc:
- Hay là ma thật đấy…
Và nó thè cái lưỡi dài hơn cái đòn gánh liếm vào mặt anh bộ đội…
Chuyện đó bà Tô béo bán bún riêu kể khiến tôi chùn bước. tôi suy
nghĩ vài giây rồi ngồi ngay xuống tiểu tiện. Nếu cái bóng kia là ma,
hẳn nó phải biến ngay. Nhưng không, nó vẫn đứng im và lặng lẽ quay
đầu đi. Vậy nó là một thằng bé bằng xương bằng thịt. Tôi đến gần
nói:
- Xin lỗi nhé, tao phải làm thế vì sợ mày là ma.
Thằng bé sửng sốt nói:
- Ma gì cơ?
Tôi giải thích:
- Ma là linh hồn người chế đêm đêm hiện về.
Thằng bé nói:
- Đêm nào em cũng đi chụp cá. Khắp bãi sông này và đầm bên kia – Nó
giơ tay chỉ - cả hồ sen nữa. Chẳng thấy ma bao giờ.
Tôi lặng thinh, hơi ngượng. Thằng bé chụp cá thấp hơn tôi một cái
đầu. Tay chân nó nhỏ quắt như những ống xì đồng bắn chim. Trong
chiếc giỏ tre đeo bên lưng có những vệt trắng óng ánh. Tôi hỏi:
- Mày được nhiều cá chưa?
Đứa bé đáp:
- Chỉ đủ niêu kho thôi. Chưa có cá bán. Hôm nay đen quá, toàn cá
nhỏ.
Tiếng nói của nó thật dịu dàng, ngoan ngoãn. Tôi bỗng muốn gần gũi
và thân ái.
- Nhà em ở đâu? – T ôi hỏi.
- Trong làng, ven đám hồ kia. – nó đáp.
Tôi nhìn theo hướng tay chỉ của chú bé, thấy mặt đầm loang mờ ánh
nước và những khoảng tối đen của các đám cây. Tiêng lịch kịch từ gò
đất vẳng tới đã tắt. Tôi đoán Loan đã chôn xong thùng nên gọi to:
- Loan ơi, lại đây.
Khi Loan tới, tôi giới thiệu:
- Đây là chị Loan, bạn chị. Còn đây là chú bé đi chụp cá. Tên em là
gì nhỉ?
- Em là Cọt.
- Cọt? Sao tên buồn cười thế.
- Mẹ em đặt tên em là Cau. Nhưng em nhỏ quá nên người làng gọi em là
Cọt. Hai chị về nhà em chơi nhé.
Loan ngần ngừ. Tôi nhìn về phía thị trấn còn sáng đèn, bảo bạn:
- Mới hơn bảy giờ thôi. Tụi mình đi chơi một lát rồi về cũng kịp.
Chú bé chụp cá mau miệng nói:
- Về nhà em đi. Chỉ có mình mẹ em thôi. Mà mẹ em thích có khách tới
chơi lắm… Về bây giờ khoai vừa chín nục. Trước khi đi cá, em đã vùi
nồi vào đống trấu.
Ồ, đêm lạnh thế này mà ngồi ở một căn bếp chốn làng quê, ăn khoai
mật hầm thì thú vị tuyệt. Tôi sốt sắng nói:
- - Đi.
Cậu bé Cọt thoăn thoắt đi trước. Tôi và Loan bước theo sau. Từ phút
ấy, đêm tối lẫn sông nước không còn chút nào vẻ bí hiểm đe dọa chúng
tôi nữa. Vừa đi chúng tôi vừa chuyện gẫu. Toàn những chuyện vu vơ mà
cười giòn như bắp rang.
Nhà Cau nhỏ xíu, giống như chòi canh dưa hấu. Cổng làm bằng hai cành
tre vít cong lại. Chú bé nhấc cánh cửa rào rào cho chúng tôi vào.
Sân vắng lặng. Tôi hỏi:
- Nhà em không nuôi chó hay sao?
Chú bé đáp:
- Có gì mà phải nuôi chó!
Nói xong, nó cười hì hì như ông cụ. Tôi hiểu, nhà chú nghèo nên
chẳng có gì cần canh giữ. Cau tiến sát tấm cửa liếp, cởi giỏ cá đeo
bên hông. Trong nhà, tiếng gọi vọng ra:
- Cau về đấy hả con?
Giọng trong như nước mưa vậy.
Chú bé đáp:
- Con về đây. Mẹ thắp đèn lên đi. Nhà ta có khách.
Người mẹ đáp lời ngay, thánh thót như tiếng nói của một đứa bé đứng
trong dàn nhạc lễ ngày xưa:
- Chờ mẹ một tí. Có đèn ngay đấy.
Tiếng lịch kịch khe khẽ, rồi sau đó ánh đèn dầu le lói rọi chiếu ra.
Một bàn tay nhẹ nhàng nâng liếp cửa:
- Ai đấy? Xin mời vào nhà chơi.
Một người đàn bà nhỏ xíu, y hệt thằng bé Cau hiện ra. Nhưng sau đó
cô thụt vào trong nhà, nhanh đến nỗi chúng tôi không kịp trả lời.
- Các chị vào nhà đi.
Chú bé giục chúng tôi. Rồi lau tay lên vạt áo, nó rót nước ra chén
mời mọc. Những chiếc chén Bát Tràng xoàng xĩnh vẽ hoa xanh được rửa
sạch bóng. Cả bóng đèn hoa kỳ cũng được lau đến trong suốt, nhìn rõ
từng hạt bọt thủy tinh. Nhà Cau nghèo nhưng sạch sẽ và ngăn nắp.
- Nước vối ủ, mẹ em cho thêm gừng thơm lắm.
Chú bé nói. Chúng tôi uống nước, không những thấy thơm mà còn thấy
vị ngọt đọng mãi ở đầu lưỡi.
- Thằng Cau thích nước vối ủ pha gừng lắm. Đi cá về làm một chén là
ấm người lên ngay.
Người đàn bà nói, đoạn nheo mắt cười. Mắt cô rất to, xanh biếc, mi
dài và cong. Sống mũi cô thẳng và cao, chi chít những vết tàn nhang.
Gương mặt cô khác hẳn những gương mặt đàn bà ở làng quê mà tôi
thường gặp.
Chú bé Cau đã bưng nồi khoai lên. Nó kêu:
- Mẹ đỡ hộ con tí. Nóng quá.
Người đàn bà lật đật đứng dậy, đỡ nồi khoai cho con. Lúc đó, tôi mới
thấy rõ là lưng cô bị gù gập lại. một cái bướu lớn nằm ngay dưới vai
trái. Trông cô xiêu lệch và nhỏ tẹo như con cua bị bẻ một bên càng.
- Các cháu ăn khoai đi.
Cô mời. Lần này nhờ ánh đèn tôi thấy rõ những gợn tóc hung đỏ bao
quanh gương mặt cô, đẹp như tóc của một tài tử phương tây, và làn da
trắng nõn. Cô là một người lai. Một người lai tàn tật.
Tôi không dám nhìn người đàn bà lâu hơn nữa, cúi xuống bát khoai
đang bốc hơi nóng hổi. Còn cô, cô ngồi trên giường, lấp sau lá màn
nhuộm nâu và nhẹ nhàng nói chuyện:
- Chủ nhân nhà này là em Cau đó. Nó đi học một buổi, đi cá, đi tôm
một buổi. Tiền bán cá bán tôm, mua muối, hương hoa ngày lễ Tết, áo
quần chăn màn mùa đông. Còn thóc thì hợp tác xã bán cho rẻ. Ngày
mùa, Cau đi mót thêm lúa, thêm khoai. Chỉ có cô là chẳng được tích
sự gì…
Cau nhăn mặt, gắt:
- Mẹ lại nói chuyện cà kê gì thế? Chán lắm…
Nói xong, chú bé quay đi. Dường như nó muốn che giấu nỗi xúc động
trước chúng tôi. Còn người mẹ, thì khẽ thở dài, ngước nhìn con bằng
cặp mắt long lanh và dịu dàng nói:
- Thì mẹ kể cho các chị ấy nghe. Có gì sai đâu?...
Chú bé im lặng.
Mẹ chú vuốt ve chú bằng những ánh mắt chan chứa yêu thương lẫn tự
hào.
Chờ chúng tôi ăn khoai xong, Cau giục:
- Đi đi, khéo không trộm nẫng hết giàn câu của các chị.
Tôi ngẩn người, hỏi:
- Giàn câu nào?
Lại tới lượt Cau ngẩn ngơ:
- Giàn câu của các chị… Thế không phải là các chị đi canh giàn câu
cho bố mẹ hay sao?
Hóa ra Cau tưởng chúng tôi ra sông canh giàn câu. Ở thị trấn có vài
gia đình sống bằng nghề câu giàn. Họ cắm từng dây cần câu mắc sẵn
mồi và ngồi canh. Lâu lâu lại đi tuần một lượt gỡ cá mắc mồi và thay
mồi mới khi mồi cũ đã bị rỉa hoặc nhạt vì ngấm nước. Câu giàn là lối
câu nhàn nhã nhất trong nghề câu kiếm sống. Nhưng muốn câu giàn phải
có một số vốn to
Cau vẫn băn khoăn nhìn chúng tôi:
- Em tưởng là…
Tôi bấm Loan gật đầu:
- Ờ, ờ…
Chúng tôi chào cô chủ nhà, ra đi. Quen đường, tôi đã có thể phân
biệt được cành tre ngả phía trước lẫn bãi phân trâu bên vệ cỏ. Tới
ngã rẽ, chúng tôi chia tay nhau. Cau đi về phía đầm nước. Chúng tôi
trở lại dòng sông. Trí nhớ khá tốt khiến tôi tìm được lối tắt đi ra
đảo mà chú bé Cau đưa chúng tôi lúc trước. Đang đi, chợt tiếng gà
gáy te te trong làng vẳng ra. Thú phiêu lưu chợt tan biến. Nỗi lo âu
khiến cả hai chúng tôi lạnh cả người. Loan khẽ nói:
- Chết rồi Bê ơi! nửa đêm gà mới gáy thế chứ.
Nhìn sang bên kia sông, thị trấn đã tắt đèn. Tôi cũng hoảng sợ.
Loan tỉ tê nói tiếp:
- Mẹ tớ đánh chết thôi.
Tôi gắt:
- Có gan đi chơi thì phải có gan chịu đòn chứ! Đằng ấy có im đi
không, tụt xuống sông bây giờ…
Chưa dứt lời, Loan kêu hự. Nó tụt xuống nước thật, kéo cả tôi theo.
May sao tôi bình tĩnh lôi được cô bạn lên, nhưng áo quần hai đứa ướt
lướt khướt. tôi không dám gắt nữa, ngọt ngào dỗ bạn:
- Cứ bình tĩnh, sắp tới đảo rồi.
Quả nhiên, Loan không kèo nhèo kêu than nữa, túm áo tôi lặng lẽ
bước. Lát sau chúng tôi tới đảo. Vừa lúc đó, bên kia sông hiện lên
hàng chục đốm lửa li ti. Những đốm lửa thoạt đầu còn nhoà trong
sương đêm, sau hiện rõ dần lên, giống như những ngôi sao màu vàng
ngâm trong đáy nước. Tôi che mắt nhìn kỹ hồi lâu và nhận ra những
cây đèn bão đang lắc lư tiến đến bờ sông. Bóng người bị vuốt dài ra,
như những cây cột đèn di động. tất cả hơn hai mươi cây đèn. Vậy là
đoàn người đi tìm chúng tôi ít nhất cũng hơn số hai mươi. Tôi chắc
mẹ tôi và cô Lưu - mẹ Loan hạt mít – đã khóc chạy ngược chạy xuôi
khắp thị trấn tìm kiếm, báo công an và nhờ cậy bất cứ ai. Nỗi ân hận
khiến tôi nao nao trong dạ. Lúc mải vui, tôi đã không nghĩ tới cơ sự
này.
Loan níu tay tôi, lo lắng hỏi:
- Làm sao bây giờ?
Tôi đáp
- Lặng im đừng nói năng gì cả. Giống như người bị ma rủ ấy. Không
thì chết đòn.
Lúc đó, tôi chưa kịp nghĩ ra cách nào hơn. Sau này, tôi mới thấy lối
thoát đó đem lại một kết quả tuyệt diệu. Đám người trong thị trấn
tới bờ sông cất tiếng gọi. Trong những tiếng gọi đó, nghe thấy tiếng
mẹ tôi và tiếng cô Lưu yếu ớt như hụt hơi, run run như vừa gọi vừa
khóc. Tôi cay sè cả mũi. Loan thút thít chùi nước mắt vào tay áo.
Tôi khẽ bấm cô bạn:
- Im ngay.
Tiếng gọi bên kia sông lắng dần. Rồi tiếng bàn tán vẳng sang rõ mồn
một:
- Chúng nó không có ở đây. Thôi về đi.
- Không còn ngõ nào không sục tới. Chẳng lẽ con mẹ mìn nào đó lại
tóm được một lúc hai đứa lớn ngồng như vậy sao?
- Bây giờ chúng nó có thuốc mê. Người lớn như mình cũng lú lẫn nữa
là trẻ…
- Năm nay lắm chuyện buồn quá.
- Tôi đã bảo mà, chưa hết hạn sao Chổi. Các cụ đã nói: “Sao Chổi
quệt đuôi vào trái đất là phải chịu đủ ba mươi sáu tai nạ mới tới
lúc yên hàn. Thôi về đi…
Những cây đèn lắc lư, lắc lư. Chợt bà An Lạc tru tréo lên:
- Thôi chết rồi, chiếc thuyền của tôi đâu? Tôi vẫn buộc nó vào cây
cọc này mà… Cả một sợi dây xích sắt to tướng…
Đám người xôn xao:
- Đúng rồi, hai đứa bé lấy thuyền bơi đi rồi.
tiếng bà An Lạc vẫn san sát:
- Còn chệch đi đâu nữa? Cái thuyền tôn tôi vẫn bơi sang sông lấy bèo
cho lợn ấy. Chẳng mấy con ranh này thi ma khênh đi hay sao?
- Chết thật, đêm hôm thế này mà rủ nhau bơi thuyền. Chúng nó điên
hay sao?
- Điên gì! Ma đã quyến rũ thì trèo lên mái nhà cũng cứ trèo như
không. Tôi đây này, to như hộ pháp mà năm hai mươi tuổi còn bị ma rủ
đi vòng quanh đầm nước suốt đêm. Sáng bảnh mắt, người đi làm đồng
mới dắt về nhà…
Một giọng thanh niên rắn rỏi vút lên:
- Thôi bà con trật tự. Có thể các cháu rủ nhau sang bên hồ nhổ củ ấu
thì sao?… Hai thanh niên bơi sang tìm đi…
Tiếng nói vừa ngừng, hai bóng người đã nhảy tòm xuống nước. Họ bơi
rất nhanh về phía chúng tôi.
- Thuyền bà An Lạc đây rồi.
Một tiếng reo cất lên, nghe quen quá mà tôi không nhận ra người nói.
Bên bờ kia, có tiếng hỏi:
- Tìm thấy hai đứa bé không?
Người thanh niên vừa cất tiếng reo đáp thật to:
- Đang tìm…
Rồi anh nhảy lên thuyền, bơi ngược dòng sông. Anh đã nhận được hai
cái bóng mờ mờ của chúng tôi dưới bụi duối:
- Các em đấy phải không?
Anh mừng rỡ cất tiếng hỏi, trong khi chiếc thuyền lừng lững trôi
trước mặt chúng tôi. Tôi bấm chặt tay Loan, nhất quyết không đáp.
Anh chàng không thấy trả lời liền nhảy xuống nước lội bì bõm tới nơi
chúng tôi ngồi:
- Sao không nói năng gì cả, hai cô bé? Trời ơi, ướt sũng rồi…
Anh kêu thật to rồi bế xốc từng đứa một đặt vào lòng thuyền. Lúc đó
tôi nhận ra anh. Anh tên là Chiến, đấu thủ bóng bàn của thị trấn.
Chúng tôi thường chiêm ngưỡng anh trong những trận đấu giao hữu tại
câu lạc bộ thị trấn, một ngôi nhà to lớn có những dây cờ lụa nhiều
màu bay phất phới quanh năm. Khi chúng tôi đã ngồi yên trên thuyền,
anh bắt đầu chèo về phía bờ bên kia. Lúc đó, bạn anh mới tới nơi
liền bám vào mạn thuyền bơi trở về. Tới bờ, anh lại bế từng đứa lên.
Mẹ tôi ôm chặt tôi vào lòng. Cô Lưu cũng vồ lấy Loan, vừa khóc vừa
cười như điên dại:
- Con ơi là con. Ma quỷ rủ rê thế nào mà đêm hôm mò ra sông nước.
Lạy đức thánh Trần, lạy bà cô miếu Cội… Từ rày lễ lạt hương khói
tháng hai lần, con không dám đơn sai…
Người đàn ông kể chuyện ma rủ đi quanh đầm nước lúc này đắc ý nói
oang oang:
- Đã bảo mà, đã sáng mắt ra chưa?…
Không ai đáp lời. Hẳn mọi người đều tin rằngchúng tôi bị ma rủ thật.
Nếu không, họ đã thi nhau mắng mỏ. Và chúng tôi ít nhất cũng lĩnh đủ
một chục con lươn trên mông.
Chương 3
NGƯỜI THẦY VÀ ÔNG GIÁO
Sau cuộc phiêu lưu kỳ dị dó hai tuần, một chuyện làm biến động cuộc
đời học sinh tươi đẹp của chúng tôi.
Tôi chưa nói cho các bạn rõ, tôi có hai thầy giáo rất tuyệt. Thứ
nhất là thầy chủ nhiệm. Cả lớp không ai gọi thầy bằng thầy mà chỉ
gọi là bố Thế. Thầy đúng là ông bố của lớp. Thầy ngoài bốn mươi
nhưng chưa có mụn con nào. Thầy và người vợ cùng tuổi đều hoạt động
vùng địch hậu, bị địch bắt giam, tra tấn đến thành bệnh, khó có khả
năng sinh nở. Trong những trường hợp đó, người ta thường trở nên khó
tính và ác độc. Nhưng thầy giáo của chúng tôi lại hiền hậu, dịu dàng
như có cả một người cha lẫn một người mẹ kết hợp lại trong tâm hồn
mộc mạc của thầy. Từ trò đứng đầu lớp đến trò đội sổ lưu ban, không
ai có thể oán thán điều gì, không ai nhận thấy một dấu hiệu cỏn con
của sự thành kiến hay bất công ở thầy. Công bằng và nhân hậu, nâng
đỡ và dìu dắt con người cho tới khả năng cuối cùng, thành thực và
chất phác, đó là những đức tính chúng tôi nhận được ở thầy. Điều đó
giúp tôi một khả năng lâu dài bền bỉ trong cuộc sống sau này, khiến
tôi có thể vững vàng chịu đựng gian truân, khoan dung với những sai
lầm của kẻ khác và tự kiềm chế mình mỗi khi trong tôi dấy lên những
ý muốn trả thù.
Sau bố Thế, chúng tôi yêu quý thầy dạy thể dục. Hồi đó, thể dục là
môn học phụ nhưng vì thầy dạy thể dục tốt và vui tính, nên đối với
chúng tôi nó bỗng trở thành một môn học lý thú được chờ đón trong
tuần. Thầy dạy thể dục ít tuổi hơn bố Thế, người tầm thước, rắn rỏi,
da ngăm đen. Tóc thầy đen, dày. Cặp mắt nghiêm nghị nhưng cởi mở.
Thầy luôn luôn đem lại cho chúng tôi tiếng cười thoải mái trên sân
tập. Thầy nói rất ít, dường như không thuyết giáo bao giờ. Nhưng
chúng tôi hiểu những cử chỉ và ý muốn của thầy. Ánh mắt tươi vui,
trìu mến của thầy khiến chúng tôi vượt qua nỗi sợ hãi hay sự nhọc
mệt. Khoảng sân cỏ mền tràn đầy ánh nắng. Những lá cỏ tươi xanh.
Những con chuồn chuồn bay lượn. Bầu trời xanh lơ có những đám mây
nhỏ. Và tiếng cười sảng khoái khi trán còn long lanh mồ hôi sau buổi
tập hoặc sau các trò chơi thể dục… Những giờ học đó là hạnh phúc
thực sự của tuổi thơ. Tôi nhớ chúng rõ ràng như nhớ những bông hoa
phượng đỏ có những chiếc vòi mà mỗi mùa hè, chúng ta thường rứt
xuống để chơi trò chọi gà vậy.
Thế mà bỗng dưng thầy rời xa chúng tôi. Thầy có ba con nhỏ với người
vợ ở làng. Vợ thầy đau yếu luôn, không làm ruộng được nên nhà túng
bấn. Gần đây, cô bị viêm gan. Vì thế thầy phải chuyển về một trường
ở huyện để tiện chăm sóc vợ và lũ con dại. Thầy đi vội vã đến nỗi
không kịp gặp gỡ, liên hoan chia tay với học trò theo thường lệ.
Chúng tôi chỉ còn biết bùi ngùi thương nhớ thầy, tự trách mình quá
thờ ơ vói con người chịu nhiều khổ sở nhưng lúc nào cũng bình tĩnh
và làm việc hết lòng ấy. Lớp trích quỹ mua tặng thầy một cặp sơ mi
và một đôi giày da mùa đông. Giờ thể dục bỏ trống. Và hai tuần sau
giáo viên thể dục mới về trường.
Sáng đó chúng tôi xếp hàng đứng đón. Trước mặt chúng tôi xuất hiện
một người đàn ông to cao, béo nục, tóc chải bồng, bận bộ đồ trắng
lốp. Chúng tôi xiết bao ngạc nhiên khi thấy bố Thế giới thiệu thầy
thể dục mới hai mươi bốn tuổi tên Gia. Chúng tôi tưởng ông giáo này
ít nhất cũng ba mươi tư hoặc ba mươi lăm rồi. Trong lúc bố Thế nói,
thầy giáo mới đứng im, mắt nhìn lướt qua đầu chúng tôi về phía xa
xăm như một triết gia. Bố Thế đi rồi, ông giáo cúi đầu nhìn lũ trò.
Chúng tôi chờ đón xem thầy thể dục mới nói gì. Bất chợt ông giáo hô
to:
- Tất cả nghiêm!
Chúng tôi nhảy dựng lên như bị kiến đốt, vội vàng ưỡn lưng, nghển cổ
nhìn về phía trước. Thầy giáo Gia liếc nhìn bộ hài lòng, rồi bắt đầu
bài giảng:
- Tôi bước vào tiết học đầu tiên ở đây. Trước khi dạy các anh chị,
tôi là giáo viên trợ giảng của trường Đại học thể dục thể thao. Học
viên của tôi là những thanh niên trẻ khỏe, đã tôt nghiệp cấp ba phổ
thông, có nhận thức rất khá. Vì thế, e hèm… việc tôi về đây dạy các
cô, các cậu (thầy giáo Gia hạ chúng tôi từ anh chị xuống cô cậu đột
ngột như hô nghiêm vậy)… rất là đặc biệt. E hèm, tôi lưu ý các cô
các cậu điều đó…
Chúng tôi đứng im phăng phắc. Lúc đó một con ruồi trâu to tướng bay
tới. Tiếng bay vo vo của nó vang rất rõ trong không gian. Thầy Gia
tỏ ý không hài lòng. Thầy giơ tay đập. Con ruồi vọt lên cao, nhưng
không bay đi mà cứ rung cánh ro ro như ấm nước đun bằng dây điện
vậy. Thầy Gia hậm hực lườm lườm con ruồi rồi nói tiếp:
- Bây giờ bắt đầu vào tiết học. Đối với chúng ta, thời gian là vàng
ngọc, sức khỏe là châu báu. Không được lãng phí một giây. Trước tiên
hãy khởi động cho cơ thể được hâm nóng. Nó cũng giống như dịch vị
tiết ra trước bữa ăn… Theo tôi… Một, hai… Tất cả hãy chạy vòng tròn…
Chúng tôi hồi hộp nhìn nhau, bắt đầu chạy. Loan thở hổn hển, ghé vào
tai tôi thì thầm:
- Ông này điêu quá, mày ạ. Chỉ có việc khởi động mà thuyết lý hàng
tràng. Nghe cứ rối mù lên.
- Lặng im xem còn gì nữa không.
Tôi đáp. Trước đây thầy dạy thể dục chỉ cần giơ hai cánh tay, chụm
hình chữ U trên đầu là chúng tôi đã ngoan ngoãn chạy vòng tròn khởi
động.
“Thật sung sướng khi sống với những người giản dị và tươi vui” – tôi
thầm nghĩ.
- Tất cả chú ý!
Thầy Gia lại đột ngột thét như lên như còi tàu. Lần này tim chúng
tôi cũng nhảy thon thót. Chúng tôi lén đưa mắt nhìn nhay. Thầy Gia
nói:
- Giữ khoảng cách thật đều. Sao cho mỗi cá nhân là một đơn nguyên
trong cấu tạo vòng tròn. Tôi cho mỗi người hai phút tự kiểm tra,
điều chỉnh để định vị mình cho chính xác. Phải nêu cao ý thức thể
dục thể thao mới. Phải nghiêm túc và giữ gìn kỷ luật… Nào, bắt đầu…
Tôi bấm giờ đây. Mỗi người được quyền tự tu chỉnh trong hai phút…
Đám học trò nhìn nhau:
- Gì thế? Thầy giáo mới bảo gì thế?
- Chịu. Khéo, giẫm lên chân tao rồi.
- Chạy đi, sao đứng ì ra đấy? Thầy ấy quay lại thì chết cả nút bây
giờ…
- Nhưng tao chẳng hiểu gì hết…
Thầy Gia trịnh trọng nhìn chiếc đồng hồ quả quýt đeo trước ngực đếm:
- Ba mươi lăm, ba mươi sáu,… bốn mươi giây. Còn sáu mươi giây nữa…
Mọi người cuống quýt:
- Bỏ sừ. Bê ơi… bảo chúng tao với! Ông ấy nói gì thế nhỉ?
Lúc ấy tôi ghé vào tai Yến sếu nói:
- Chia khoảng cách cho đều. Chỉnh lại vòng tròn. Cả mớ lý thuyết đó
tóm gọn chỉ có thế thôi.
Yến sếu thở phào. Tín hiệu được truyền đi ngay tức khắc và được thực
hiện hối hả.
Một hồi còi dài báo hiệu hết giờ tự tu chỉnh. Chúng tôi dừng lại,
hướng về phía giáo viên như những hành tinh hướng về mặt trời.
- Các cô các cậu chú ý này… - mặt trời của chúng tôi nói - Bài tập
của chúng ta hôm nay là…
Đang trịnh trọng, thầy Gia đột nhiên dừng lại, mặt phồng lên, căng
thẳng một cách khổ sở. Hai cánh mũi lớn có những mạch máu li ti đỏ
rần rật. Mắt thầy nhìn xuống đất, giống như cắm một cây cọc nhọn
xuống đó và nhất quyết không nhổ lên nữa. Cả bộ mặt thầy y hệt một
mảnh buồm đã mục, căng hết cỡ trước làm gió dữ, chỉ cần một hơi thở
dồn tới là bục ngay. Tình trạng nguy hiểm đó kéo dài chỉ chừng năm
sáu giây. Rồi bỗng:
- Hắt ắt ắt xì ì ì hơi ơi ơi !!!...
Thầy Gia không thể kìm được cơn hắt xì hơi vốn mạnh hơn ý muốn giữ
vẻ trang nghiêm đạo mạo trước đám học trò. Thầy đành ngửa mặt lên
trời, há miệng không kịp giơ tay che, cũng không kịp quay đầu đi để
hắt hơi một cái thật mạnh như hơi nồi súp de bị xì, làm bắn nước bọt
lên đầu Yến sếu.
Vì bộ mặt thầy lúc đầu quá trịnh trọng nên khi nhăn nhúm lại do phản
ứng của cơ thể nom hài hước quá. Nó khiến chúng tôi không nhịn được,
nổ tung lên một cơn cười. Từ trưởng lớp đến học viên. Tất cả mọi
người trong lớp đều không kìm được cơn tức cười cồn cài gan ruột.
Nhất là mấy chị lớn tuổi, cứ gục đầu vào vai nhau, nước mắt giàn
giụa, cười rũ rượi hồi lâu.
Sau khi bình tĩnh lại, thầy Gia giậm chân, trợn mắt quát:
- Tất cả trật tự!
Chúng tôi giật mình đứng nghiêm, nhưng tiếng cười vẫn còn bắn ra
khỏi cổ họng, nổ giữa hai hàm răng. Thầy giáo liếc nhìn chúng tôi,
giận dữ nói:
- Các cô các cậu cười gì? Cười cái gì?… Đây là giờ học hay giờ chơi.
Ý thức tổ chức kỷ luật để đâu? Các cô các cậu coi thường bộ môn, coi
thường thầy dạy phải không?…
Chúng tôi không còn cười được nữa. Chúng tôi im re, cúi mặt nhìn
xuống đầu móng chân. Không khí trở nên nghiêm trọng vì mặt ông giáo
mới tím lại, giận dữ và uất ức. Ông nhìn xoi mói vào chúng tôi. Rồi
như nhận ra tôi là đứa bé con đứng đầu hàng cười to nhất và nhiều
nhất, ông chỉ:
- Cô kia, tên gì?
Tôi lạnh toát sống lưng, khẽ trả lời:
- Thưa thầy em tên là Vũ Thị Bê.
- Cô cười gì?
- …
- Tôi hỏi, cô cười gì?
- … Đây là giò học hay gìơ chơi?
- Thưa thầy, giờ học.
- Giờ học có được phép cười không?
- Thưa thầy … không ạ.
- Vì lý do gì cô cười?
- …
- Cô là kẻ vô kỷ luật, vô tổ chức, không xứng đáng đi học…
Ngón chân cái của tôi nhảy lên nhảy xuống trước mặt. Những dòng nước
lạnh toát bò dọc sống lưng. Rồi sau đó, lại là những dòng nước khác
nóng bỏng luồn vào từng thớ thịt. Tôi thấy mình tròng trành như đi
đò ngang qua sông. Cả lớp đứng im, mặt cúi gằm. Chợt một giọng rụt
rè cất lên:
- Thưa thầy, em xin có ý kiến…
Tôi ngẩng lên, Ly run run giơ tay xin nói. Đó là đứa bé còi cọc nhất
lớp. Mẹ chết vì hậu sản, Ly ở với ông bố nát rượu làm nghề đánh xe
ngựa chở thuê và một bà mẹ ghẻ bán nước mắm ở chợ. Hai người thi
nhau hành hạ đứa bé, không ai rỏ cho nó một giọt tình thương. Ly
phải làm quần quật suốt ngày.Nó học kém nhất lớp, mặt mũi tay chân
quắt queo như quả trám khô.
- Thưa thầy, - thằng bé run run cất giọng nói - chị Bê không dám
cười thầy đâu ạ.
Ông giáo mới gườm gườm:
- Thế thì cười ai?
Ly thở gấp, hối hả nói:
- Thưa thầy, giờ thể dục trước đây được phép cười thoải mái. Thế nên
chúng em quen đi…
Ông giáo im lặng. Rồi ông hắng giọng nói:
- Thôi được, tôi cho qua. Nhưng các cô các cậu phải biết rằng tôi
rất nghiêm khắc với những hiện tượng vô tổ chức, vô kỷ luật.
Giờ học kéo dài trong không khí nặng nề, lo sợ. Trưa hôm đó, khi tan
học, tôi bước qua sân trường. Chân giẫm lên những ngọn cỏ mềm, trí
não tôi tưởng nhớ tới gương mặt tươi vui, đôn hậu của thầy giáo cũ.
- Thầy ơi, thầy ơi, thầy ơi…
Tôi thầm gọi, lòng vang lên tiếng cười ánh ỏi của những giờ học xưa
kia. Giờ chúng vĩnh viễn trôi mất. Tôi rẽ qua hành lang tìm bố Thế
nhưng bố đã đạp xe lên Ty giáo dục mất rồi. Buồn rầu, tôi trở về
nhà. Không ngờ, một sự kiện khác đang chờ đợi. Nó đem lại tai ương
cho Loan hạt mít, cô bạn ruột thịt của tôi. Và lần lượt cả hai đứa
tôi phải gánh chịu những tai ương xảy đến
Chương 4
NHỮNG ĐIỀU KHÔNG TỐT LÀNH ĐÃ TỚI
Trưa đó mẹ tôi bảo:
- Con đi mua ít đá về pha nước chanh. Trời oi quá.
Tôi cầm chiếc ca ra phố. Thị trấn chỉ có hai nơi bán đá lẻ. Một hãng
nước đá nhỏ của Pháp để lại, có cái tên rất kêu: Hoa Lư. Bây giờ,
mậu dịch ăn uống tiếp quản làm kem que và bán đá lẻ. Hai là nhà cai
Cân. Ông ta mua một cái máy làm kem nhỏ, xin được giấy phép chạy
nước đá bán. Tuy nước đá nhà cai Cân bán thường là đá non, rất mau
chảy và bán đắt gấp đôi mậu dịch nhưng gần nhà nên tôi tới đó mua.
Trước sân, năm sáu người khách tới trước đang đứng chờ. Tôi vừa tới
nơi thì gặp Ly trong nhà bước ra:
- Đằng ấy tới mua đá hả? Phải nửa giờ nữa mới có. Tớ vừa xem máy
xong. Đằng ấy có chờ không?
Tôi nhìn ra phố: trời nắng, oi giữa hè. Giá có đi tới hãng Hoa Lư cũ
thì cũng rã chân. Nghĩ vậy tôi gật đầu.
- Chờ.
Ly kéo tay tôi.
- Thế thì vào đây nghe chuyện.
Ly dắt tôi vào sân trong. NÓ chơi thân với đứa con thứ ba của cai
Cân nên đi lại tự do như người nhà. Ly đưa tôi vòng ra ngách sau
dưới chiếc cửa sổ, dây mảnh bát leo tựa tấm mành. Có tiếng người
vọng ra. Tôi nhận được tiếng cô Lưu, mẹ Loan hạt mít.
- Để cho em nghĩ thêm đã – Cô Lưu nói.
- Lưu không tin tôi sao?… giọng cai Cân nghe ngọt ngào. - Cả tôi và
Lưu không thiếu gì tiền. Chúng ta chỉ thiếu tình cảm thôi. Tôi muốn
Lưu về đây vui vầy, đoàn tụ. Khi trái nắng, lúc trở trời có nhau.
Lưu cứ giữ căn nhà đằng ấy, làm sao chúng ta gần gũi được?… Đành
rằng chẳng xa xôi vạn dặm gì… Nhưng dẫu sao cũng là cách trở.
Cô Lưu lặng im. Hẳn là cô theo thói quen đang đưa ngón tay lên cuốn
sợi tóc mai vốn đã quăn tít bên tai. Sau đó, tôi nghe cô thở dài.
- Nhưng còn con Loan… Em khó nghĩ quá.
- Chúng ta đã tính chuyện trăm năm thì phải lo hết nhẽ. Con nào cũng
là con chung. Hai ta cùng gánh nặng, cùng vác đầy. Lẽ nào tôi lại
cam lòng cho cháu Loan khổ? Nó khổ là Lưu khổ. Mà Lưu khổ thì tôi
sung sướng nỗi gì?
Cô Lưu lại thở dài. Hai người cùng im lặng
Ly nhăn mũi, bĩu môi bảo tôi:
- Chắc lão đang thơm cô Lưu đấy.
Tôi cốc vào đầu nó:
- Im mà nghe, quỷ sứ.
Lúc đó lão cai Cân lại cất tiếng:
- Mình bán nhà xong rồi làm lễ cưới. Bảo họ đóng cọc nửa tiền. Làm
giấy sang tên xong thu nốt… À à… dạo này nhà đang lên giá. Lão trung
tá về hưu bên phố mới đang cay cái nhà của mình lắm, Lưu cứ mặc tôi
ra tay…
Đứa con trai thứ ba của cai Cân bỗng từ trong bếp đi ra, ho nhổ
khoàng khoạc. Tôi và Ly vội vàng bươn ra sân trước. Mua đá xong, tôi
về nhà ngay. Không kịp ăn cơm, tôi bảo mẹ:
- Mẹ ơi, cô Lưu sắp lấy lão cai Cân đấy. Con nghe hai người bàn
chuyện cưới xin và bán nhà về ở chung.
- Thế nào? Cưới? … Bán nhà cô Lưu về ở chung?
Mẹ tôi hỏi sửng sốt như nghe tin núi lửa sắp phun xuống thị trấn.
Tôi gật đầu quả quyết:
- Chính tai con nghe thấy mà.
Mẹ tôi ngồi lặng trước bàn, đăm đăm nhìn khoảng trời loá nắng. Tôi
ăn cơm xong, nhọc mệt ngủ thiếp đi. Trong giấc ngủ trưa nặng nề đó,
tôi mơ thấy Dũng còm. Không hiểu sao nó ăn mặc y hêt như con khỉ
trong gánh xiếc rong ngày Tết. Đầu đội mũ cát két đen, mặc may ô đỏ
viền đen, nó nhảy nhót như thằng hề trước một đám đông xin tiền. Rồi
khi đám đông biến mất nó quay lại nhìn tôi buồn ủ ê:
- Bê ơi, đằng ấy có biết vì sao tớ phải lang thang như thế này
không?
Tôi lắc đầu:
- Không. Không một ai biết cả.
Dũng còm trầm ngâm nói:
- Ừ, Chắc không ai biết.
Tôi bảo:
- Vậy thì đằng ấy nói đi. Vì sao?…
Dũng còm ngước nhìn tôi:
- Tớ không dám nói… Tớ không bao giờ dám nói…
Những đồng hào trong túi nó rơi xuống, lăn rổn rảng trên đường. Lăn
mãi cho tới khi đám bụi mù sau chiếc xe ngựa bốc lên. Và Dũng còm
biến mất…
Tôi còn ngơ ngẩn vì giấc mơ, mẹ tôi đã gọi dậy học bài. Hơn ba giờ
rồi. Sau bữa cơm chiều mẹ con tôi tới nhà cô Lưu. Mẹ không nói nhưng
tôi biết hẳn tin tôi vừa thông báo khiến mẹ phải suy nghĩ nhiều. Hai
nhà cách nhau một phố, đi chừng mười lăm phút là tới nơi. Cô Lưu
đang ngồi trong bếp rán bánh. Ánh lửa hắt lên hai gò má tròn, đỏ hây
hây. Dạo này, cô béo tốt, xinh tươi hẳn ra. Cô mời mẹ tôi ngồi vào
bàn, rồi nhanh nhẹn bưng lên một đĩa bánh vừa vớt:
- Chị xơi bánh nóng. Thứ có vừng lăn ngoài là bánh ngọt, nhân đậu
xanh đường, dừa nạo. Thứ bánh dài không vừng là bánh mặn, nhân thịt
nạc, tiêu hành…
Mẹ tôi hỏi:
- Lâu lắm có thấy cô làm bánh đâu?
Cô Lưu đáp:
- Vâng, hôm nay em nghỉ chợ, làm một ít. Vừa cho cháu ăn, vừa đem
biếu…
Nói tới đó, cô cười thẹn thùng. Hai mẹ con tôi đều hiểu rằng người
được biếu bánh ở đây chính là ông cai Cân, chồng sắp cưới của cô. Mẹ
tôi không cười, buồn buồn nhìn xuống đất. Xưa nay mẹ tôi vốn có
thiện cảm với cô. Ngoài lẽ tôi và Loan thân nhau, cô là một trong số
rất ít người lao vào nghề buôn bán mà còn giữ được tính hiền hậu,
thực thà. Trước đây cô làm bánh rán. Cả thị trấn mê những chiếc bánh
rán giòn, bột nhuyễn mịn, thơm phức của cô làm. Bánh ngon, người bán
lại tươi cười, ăn nói dễ nghe.
Chồng cô là thợ cơ khí đẹp trai, hiền như đất. Một chiều tháng bảy,
chú đi ăn cỗ về, ra giếng tắm bị cảm hàn chết. Người chị chồng ở tận
Lào Cai về đưa ma, chu cấp vốn rồi dắt díu em dâu đi theo. Cô Lưu
thạo buôn bán, giàu có vượt lên. Một mình, vừa nuôi con ăn học đàng
hoàng, vừa xây lên ngôi nhà năm gian, nền cao thước hai, tràn láng
như giấy, hiên trước đổ bê tông, sân sau đủ bếp núc, buồng tắm,
chuồng gà chuồng chim. Dân thị trấn nể cô. Và cô trở thành đối tượng
số một cho những người đàn ông độc thân ở khắp hai khu phố cũ, mới…
Vậy mà bỗng dưng cô lại gật đầu thuận lấy lão cai Cân - một người
nổi tiếng tham lam, bần tiện trong thị trấn. Đầu lão dài, hói, giống
như quả dưa hấu. Cặp mắt quằm quặp sau đôi kính. Đi đau, lão cũng
thích bòn mót, từ cái ốc rỉ tới chiếc nắp chuông xe đạp. Xin được,
nhặt được vật gì, cai Cân cũng cho vào túi áo. Lũ trẻ trong thị trấn
vẫn nhìn những chiếc túi áo của lão như nhìn vào túi của lão ba bị.
Ba bị chín quai, mười hai con mắt, đi bắt trẻ con…
Hẳn vì thế nên mẹ tôi mới rầu rĩ thế, mặc dù cô Lưu hơn hớn cười,
đặt đĩa bánh vào tay mời mọc:
- Kìa, chị Hanh, mời chị xơi bánh kẻo nguội bây giờ…
Mẹ tôi đưa mắt nhìn tôi. Biết hiệu lệnh, tôi kéo Loan ra phố. Chắc
khi chúng tôi tới đường nhựa thì cuộc chuyện trò giữa hai người bắt
đầu…
Loan đoán biết được điều đó, nên im lặng đi theo tôi, không nói leo
lẻo như mọi bận. Đang rảo bước, vấp phải rễ cây, tôi suýt ngã. Trong
bóng tối của vòm lá, tôi chợt nhìn thấy một tấm áo hoa om dáng lưng
quen thuộc.
- Chị Bội.
Chút nữa tôi kêu lên. Đúng là chị Bội thật. Chị đang đứng dưới gốc
bàng đầu cúi gục. Sau chị, một người đàn ông cao lớn, tóc chải bồng.
Anh ta diện quần áo trắng lốp, tựa như thỏi bột vĩ đại. Loan kéo tôi
núp sau tấm bảng dán áp phích của phòng thông tin thị trấn. Hú vía,
chỉ hai bước nữa là chúng tôi chạm trán họ.
- Thưa thầy, thầy về ạ…
Tiếng chị Bội run run.
Không có tiếng đáp. Rồi sau đó, người đàn ông nói:
- Hôm nay trời lắm sao quá nhỉ?
Tôi nhận ra giọng nói của ông giáo thể dục mới: thầy giáo Gia. Té ra
ông thầy này đã nhanh chóng tìm được người để tán tỉnh. Chị Bội là
nữ sinh lớn nhất lớp. Xinh đẹp và hiền hậu nổi tiếng khắp trường,
chị khiến tất cả các chàng trai khôn lớn quay cuồng như chong chóng.
Bao nhiêu thư tình của họ gửi cho chị, lũ nhóc chúng tôi đều bóc ra
xem trước rồi ngặt nghẽo cười. Lần nào chị cũng đỏ mặt lên, kêu:
- Lũ quỷ con!
Sức học của chị làng nhàng. Kém nhất lại là môn thể dục. Chẳng hiểu
sao chị không thể vượt qua được mức quy định thấp nhất cho các môn
điền kinh. Có lẽ vì vậy mà lúc này, đứng trước ông giáo Gia, chị run
rẩy như con cò gặp bão:
- Thưa thầy…
- Trai gái trong phố đi xem phim đông thật.Phim gì thế nhỉ?
- Thưa thầy phim Pha-ti-ma.
- Ờ ờ.. Pha-ti-ma. Em đã xem chưa?
- Thưa thầy, em xem từ tuần trước.
Ông Gia cười hinh hích rồi hạ giọng:
- Bội giông Pha-ti-ma lắm cơ, nhất là mái tóc dài và đôi mắt đen đẹp
mê hồn…
- Thưa thầy, thầy về kẻo đường xa…
- Hơ hơ hơ… Bội đuổi tôi đấy à? Tôi về đây.
- Dạ, thầy về ạ…
Ông Gia dắt chiếc xe đạp dựa sát tường xuống đường nhựa. Lốp xe nảy
tanh tách, giòn giã. Sau đó ông nhảy lên xe, hùng dũng như con gấu,
chân đặt lên bàn đạp, tay tì vào ghi đông. Tôi tưởng ông ta đi.
Nhưng ông ta chưa đạp đi ngay mà còn nói:
- Bội phải chịu khó tập lại mấy môn điền kinh nhé. Cả cầu thăng bằng
và nhảy ngựa nữa. Điểm hai là không được lên lớp đâu
- Dạ, thưa thầy vâng ạ.
Người nữ sinh lớn tuổi đáp lí nhí. Ông giáo thể dục đi khỏi, chị vội
vã bước vào nhà ngay. Tôi bảo Loan vòng vài phố rồi quay về. Câu
chuyện đã xong, cô Lưu đăm chiêu nhìn những viên gạch lát dưới chân.
Khi cô tư lự, những nếp nhăn hiện rõ nơi đuôi mắt. Loan hạt mít bảo
rằng mẹ nó ba mươi tám tuổi rồi. Gần bốn mươi tuổi với người đàn bà
goá là đáng sợ lắm – bà ngoại tôi thường nói thế…
Hai hôm sau, một buổi tối, mẹ con tôi đang thu dọn cửa nhà thì cai
Cân xộc tới. Lão không chờ mời, ngồi phịch xuống ghế.
- Bác tới chơi hay có việc gì? – mẹ tôi hỏi.
- Tôi tưởng cô phải biết chứ? Cô vẫn đi dạy con nhà người ta mà –
cai Cân cười khẩy đáp lại.
- Đúng đấy… - mẹ tôi thản nhiên đáp – Tôi vẫn dạy trẻ học. Nhưng nhà
nước chỉ phân công tôi giáo dục trẻ em. Còn những người lớn tuổi,
tôi không có trách nhiệm. Nhất là những người đã từng ăn cơm Tây, ở
nhà Tây…
Cai Cân sầm mặt. Hẳn lão tức lắm. Trước ngày giải phóng, đi đâu cai
Cân cũng khoe rằng lão là người của nhà nước Pháp, ăn cơm bằng cùi
dìa, phóng sết, và nhảy đầm thạo hơn cả dân chính xứ Gô-loa… Chiều
chiều, cơm xong, lão mặc độ lính bằng ka ki vàng rồi đi la mát. Hòa
bình về, bộ đồ ka ki đó biến ngay, và thay vào đó là bộ đồ gụ với
đôi dép cao su. Giờ nghe mẹ tôi nói, cai Cân im như thóc. Lão tự rót
nước trà, uống xùm xụp rồi dịu giọng:
- Xưa nay, tôi vẫn trọng cô giáo là người ít tuổi nhưng biết đường
ăn lẽ ở. Sao bỗng dưng cô nhảy vào chuyện của người khác làm gì? Tôi
mát tính chứ kẻ khác hung đồ, cục súc thì…
- Thời này, không ai sống theo cái lối cháy nhà hàng xóm bình chân
như vại - mẹ tôi cắt lời lão.
- Cô nhầm – cai Cân cười nhạt – Nhà chúng tôi có cháy đâu?
- Bác đừng nói nhiều. Tự nhìn mình, nhìn người thì sẽ thấy – mẹ tôi
đáp - thấy người bên cạnh sắp nhảy vào lửa, phải có lời khuyên can.
Đó là lẽ làm người.
Cai Cân cười khẩy, những chiếc răng nanh bọc vàng của lão sáng loé
lên:
- Đàn bà goá cần chồng chứ không cần lời khuyên của hàng xóm, cô
đừng phí công.
Nói xong, lão bỏ về.
Mẹ tôi ngao ngán thở dài. Rồi mẹ cứ ngồi lặng im trước chén nước
nguội cho tới lúc tôi mắc màn đi ngủ.
Chương 5
SỰ KIỆN THÁNG TƯ
Sang tháng tư rồi. Hàng phượng vĩ trên sân trường loé lên vài ngôi
sao đỏ. Đầu tuần tôi bỗng trượt chân ngã. Trán sưng một cục to bằng
quả ổi và đầu gối bị trầy rớm máu. Điều đó cũng chưa tệ hại bằng
chiếc quần âu ka ki xanh mẹ tôi vừa may cho bị rách ngay trước gối.
Lỗ thủng to bằng đồng xu, thịt hở ra trắng phếu. Đi tới trường ngay
thì không được, mà quay về nhà thì sẽ trễ giờ. Nghĩ một lát, tôi mở
cặp xé mẩu giấy nháp, lấy bút tô cho màu giấy xanh đen lại, tôi xin
bà Tô béo sợi bún dán vào quần.
- Con bé kia, dạo này còn ra sông chơi không hả?
Bà bún riêu gẩy vào tay tôi mấy sợi bún, miệng quát to.
- Thưa bà, dạo này cháu không dám đi nữa ạ.
- Liệu hồn, con nam nhận xuống nước thì không ai cứu nổi đâu con ạ.
Bố mày ở tít tắp mù khơi, mà mẹ mày chỉ có một mụn con gái hiếm hoi…
Nghịch vừa chứ…
Bà quát oang oang rồi dứt thêm cho tôi mấy sợi bún nữa. Tôi cảm ơn
bà, chạy ra một góc dán mẩu giấy vào lỗ thủng nơi đầu gối. Xong
xuôi, tôi yên tâm rảo bước tới trường.
Giờ đầu là giờ hoá. Tôi đọc kỹ lý thuyết, làm bài tập trên bảng,
lĩnh gọn một điểm năm của bố Thế rồi trở về chỗ. Bất đồ, mẩu giấy
dán rơi xuống. Lạy trời, khi nằm trơ trên nền đá hoa, trông nó mới
buồn cười làm sao. Tôi ngượng ngùng cúi lom khom che lỗ thủng nơi
đầu gối. Cả lớp cười ồ lên. Bố Thế ngơ ngác nhìn lũ học sinh. Khi vỡ
lẽ, bố cũng bật cười. Tiếng cười hiền lành như tiếng cười của một
ông lão nông dân, vẫn đem chổi lúa hoặc rổ rá vào thị trấn bán. Hết
giờ học, bố Thế gọi tôi:
- Bê!
- Dạ.
- Đi đâu thế?
- Con ra chơi ạ.
- Hừm… Ăn mặcthế mà ra sân chơi hả?... Học bao nhiêu giờ nữ công rồi
mà còn lấy giấy dán vào quần rách?... Con gái đoảng. Phải phạt cho
mày một trận thôi.
Bao giờ bố Thế cũng xưng bố và gọi chúng tôi bằng mày hoặc cô, cậu.
Khi nào bố xưng tôi và gọi các em theo đúng phép thường là lúc đó bố
đang cực kỳ giận dữ trước những khuyết điểm của lũ chúng tôi.
Thấy tôi nghếch mắt nhìn. Bố Thế vẫy tay:
- Xuống đây với bố.
Chúng tôi đi tới khu nhà tập thể của giáo viên trong trường. Bố Thế
xin một mảnh vải vá bằng vải xanh, một cây kim và sợi chỉ dài. Đoạn
bố dẫn tôi trở lại căn buồng nhỏ sát phòng thí nghiệm, nơi bố cùng ở
với thầy Bách dạy toán.
- Đóng cửa vào, vá quần cho nghiêm chỉnh – bố nói.
- Nhưng… sắp đến giờ sinh rồi ạ… - tôi rụt rè đáp.
- Giờ nào cũng bỏ. Chép bài, tự học sau. Lớn rồi, không được phép
cẩu thả trong sinh hoạt. Một lần này phải nhớ đến già nghe chưa?
Nói xong, thầy vớ hộp thuốc lào trên bàn, bỏ vào túi, đi ra. Tôi
đóng chặt của, cởi quần dài, trùm chăn ngồi vá. Đó là lần đầu tiên
tôi thấy bố Thế tỏ ra nghiêm khắc với mình.
Chiều hôm đó, lớp tôi cùng cả khối đào mương giúp một hợp tác xã kết
nghĩa với trường. Trời oi ả khó chịu. Chừng nửa buổi, mưa ập xuống
tưới xối xả lên đầu tóc, mặt mũi mọi người. Lũ con trai reo hò, nhảy
cẫng lên dưới dòng nước trắng xóa. Lũ nhóc như tôi cũng vậy. Đứa nào
đứa nấy thi nhau há miệng, thè lưỡi nếm nước mưa, chạy đuổi, té nước
vào nhau và la hét ầm ĩ. Chỉ có các chị lớn tuổi là khổ sở. Các chị
đứng túm tụm vào nhau, cố sức lấy nón che lớp áo quần lướt thướt
dính chặt vào người. Chị Bội lớn nhất đám. Người chị nở nang, khỏe
mạnh. Lớp áo phin ướt dính vào da khiến chị giống như một bức tranh
khỏa thân thời Phục hưng mà thầy dạy vẽ cho chúng tôi xem trong giờ
ngoại khóa. Chị ngượng ngùng vì đám học sinh khối trên đứng đen đặc
xung quanh. Trong số đó hẳn có nhiều anh chàng đang theo đuổi, tán
tỉnh chị. Lẽ thứ hai là ông giáo thể dục mới cũng ở đây. Đứng trong
đám giáo viên bộ môn nhưng cặp mắt hẹp và dài của ông ta dán vào tấm
thân ướt đầm của cô nữ sinh một cách miệt mài. Tụi con trai trong
lớp nhận ra điều đó trước tiên. Chúng nhấp nháy nhau, thì thào:
- Kìa, xem ông Gia “tia” chị Bội… Khiếp quá, đứt mất đuôi mắt rồi.
- Tụi mày chú ý nhé… Sắp rồi, sắp rồi… Đấy, tao nói có sai đâu. Ông
ấy giả vờ hỏi chuyện bố Thế nhưng mắt cứ nhìn chòng chọc vào bà Bội
nhà ta…
Tôi nhìn bố Thế. Đúng là bố đang nói gì đó với ông Gia thật, nhưng
quay mặt đi nơi khác. Bố già biết hết mọi chuyện… Bố già biết hết –
tôi thầm nghĩ
Mưa vừa tạnh, trời lại nắng ngay. Chúng tôi lao vào xắn đất. Đang
làm, Ly bỗng lảo đảo, ngã quỵ xuống. Chúng tôi xúm lại đỡ lấy nó.
Tất cả đều luống cuống chưa biết xử trí ra sao thì bố Thế tới. Bố áp
má vào trán Ly nghe ngóng rồi lẩm bẩm:
- Thằng bé sốt cao quá. Có lẽ nó bị ốm trước khi đi làm.
Ngước nhìn chúng tôi, bố hỏi”
- Không đứa nào biết nó ốm hay sao?
Chúng tôi nhìn nhau, đáp lí nhí:
- Thưa bố không ạ.
- Gọi ngay y tá công trường tới đây.
Bố ra lệnh. Trưởng lớp ba chân bốn cẳng chạy ngay. Nhưng y tá công
trường nào thấy… Chị ta đã tót lên huyện từ lúc hai giờ. Đám người
chạy về lã chã mồ hôi, lắc đầu ngao ngán. Trong lúc đó, bố Thế đã
xoa dầu cao lên hai thái dương, sống mũi, cổ họng và ngực cho người
bệnh. Ly nằm trên tay bố, mắt nhắm nghiền, mặt đỏ như trái cà chua
chín. Bố Thế nhìn không dứt hai mí mắt tím xanh, run giật từng hồi
của cậu ta. Nghe nói y tá lên huyện rồi, bố lẳn lặng xốc Ly lên lưng
cõng chạy về phía đường nhựa. ruộng lổn nhổn đất, bờ cao bờ thấp mấp
mô, bước chân bố Thế đôi lúc loạng choạng như muốn ngã. Dù sao bố
cũng đã bước tới tuổi già.
- Bố để tụi con khiêng cho… Bố không cõng được mãi đâu…
Lũ chúng tôi lếch thếch chạy theo, nài nỉ.
- Võng đâu mà khiêng?... – bố quay lại nói – Chúng mày quay lại làm
kẻo lớp vắng nhiều quá. Hai đứa đi theo bố.
Chẳng ai phân công nhưng tôi cùng lớp trưởng ra đi, còn mọi người
trở lại công trường. Lớp trưởng nhiều tuổi nhất, chững chạc nhất, lo
toan việc lớn. Tôi bé nhưng láu lỉnh, nhanh nhẹn, sẽ đóng vai đầu
sai. Vả lại xưa nay bố Thế vẫn có ý chiều tôi hơn mọi người tí chút,
nên tôi đi theo bố cũng là lẽ thường tình.
Tới đường, may sao chúng tôi gặp một chiếc com-măng-ca của bộ đội.
Thấy đứa bé ốm trên lưng một người đàn ông, các anh tự động dừng xe
lại, đón chúng tôi lên bệnh viện.
Ở phòng cấp cứu của viện, người ta tiêm cho Ly ba ống thuốc liền,
rồi cho nó thở bằng ống cao su dẫn tới một bình kim khí sáng choang,
đồ sộ. Sau đó, họ đưa nó sang buồng khác, có sáu chiếc giường sắt
nhỏ sơn trắng. Ly vẫn nóng như chiếc bánh mì trong lò, mắt nhắm
nghiền, những đường gân xanh phập phồng trên cổ. Bố Thế bảo chúng
tôi:
- Thằng bé bị thương hàn.Trong hai đứa mày, phải có một ở lại đêm
nay với nó.
Lớp trưởng đáp:
- Thưa bố, con ạ.
Nhưng sau đó anh im lặng ngay, gương mặt hiện rõ vẻ bối rối. Tôi
biết nhà anh nghèo, và đêm đêm anh thường đóng gạch xỉ để lấy thêm
tiền giúp mẹ. Tôi nói:
- Anh về đi, em sẽ ngủ lại đây. Qua phố, báo cho mẹ em một tiếng
nhé.
Lớp trưởng không trả lời, đứng tư lự. Bố Thế gật đầu, vuốt tóc tôi:
- Con Bê giỏi lắm.
Bố móc túi, rút ra chiếc ví da to phồng những giấy tờ, vét tất cả
ngăn lớn, ngăn nhỏ mới được bốn đồng:
- Chiều nay ăn bánh chưng với phở thay cơm nhé. Mai bố sẽ liệu sau…
Đưa tiền cho tôi xong, bố và lớp trưởng ra về. Tôi đứng giữa sân
bệnh viện, nhìn hút theo chiếc áo xi ta bạc màu và dáng lù khù quen
thuộc của người thầy cho tới khi khuất hẳn. Rồi tôi quay vào phòng,
ngồi cạnh Ly. Ly ngủ. Tôi nhìn quanh phòng. Năm giường khác đều có
người. Nhưng họ đều ở trạng thái hôn mê hoặc tê liệt mọi hoạt động
tinh thần khiến tôi rờn rợn. Mặt người nào người nấy nhợt nhạt như
nặn bằng sáp, mắt nhắm nghiền hoặc mở thao láo nhưng bất động như
mắt cá chết. Tôi tưởng những ánh mắt vô hồn của họ như dính vào mặt
tôi. Ánh mắt trắng đục của họ như những sợi dây vô hình trói chặt
tôi vào nỗi sợ hãi. Bên ngoài căn phòng là một rặng cây tối om. Rồi
xa hơn nữa là trái đồi đất đỏ. Trên trái đồi đó, những ngôi mộ nằm
rải rác với những nắm chân hương và tàn tro, những chiếc bát cắm
hương nghiêng ngả và những vòng hoa đen lại. Dưới chân đồicó một căn
nhà nhỏ, quét vôi trắng toát. Đó là nhà xác của bệnh viện. Trong ánh
chiều, tôi nhìn rõ hai người hộ lý mặc bờ lu trắng đang khiên một
chiếc băng ca phủ vải đi vào. Dưới làn vải, thò ra đôi chân vàng
khè…
Càng ngồi lâu, càng nhìn những cảnh vật xung quanh, nỗi sợ hãi trong
tôi càng tăng lên. Tim tôi đập thình thịch trong lồng ngực. Mắt tôi
căng ra nhìn. Lúc nào tôi cũng chờ đợi một cái xác gầy đét trên
giường bỗng vùng dậy, túm chặt lấy tôi. Giá không vì Ly đang nằm đó,
không vì nghĩ tới bố Thế và lời hứa danh dự của mình, tôi đã bỏ
chạy. May sao chừng hai mươi phút là cô y tá trực tới. Cô mũm mĩm,
hồng hào khiến tôi cảm thấy như được sưởi lửa và nỗi sợ hãi cùng
không khí lạnh lẽo trong phòng tan biến đi. Cô nhìn tôi:
- Sao cháu tái xanh đi thế, đói à?
Tôi khẽ gật đầu không nói.
Cô lại bảo:
- Cô trông cho. Đi ăn kẻo tối sập xuống bây giờ.
Tôi cám ơn cô, đi nhanh như chạy khỏi phòng. Bầu trời và không gian
bên ngoài như một thế giới thần tiên sau nửa giờ ngồi trong căn
phòng nồng nặc mùi thuốc sát trùng và mùi người ốm. tôi ra ngay cửa
bệnh viện. Ở đây có một dãy quán cơm bình dân, phở, bún, bánh cuốn
và các thứ bánh gói lá lẫn hoa quả. Cơm phở ở đây nổi tiếng bẩn và
đắt. tôi ăn hai chiếc bánh chưng. Hồi đó, năm hào một chiếc bánh
chưng to bằng miệng bát cơm, nhân đậu xanh thịt nạc thịt mỡ hẳn hoi.
Tôi ăn hai chiếc bánh xong đã no căng bụng. Mua thêm hai chiếc kẹo
bột lớn nữa mới hết đồng mốt. Còn hai đồng chín, tôi giữ lại, vào
bếp ăn bệnh viện uống nước nhờ. Nghĩ tới cảnh vào lại phòng bệnh
nặng tôi sởn gai ốc… Nhưng dẫu sao, cũng không thể để Ly nằm đó một
mình. Tôi thu hết can đảm, không nghĩ tới những cặp mắt trắng như
mắt cá chế nhìn mình nữa, bước vào. Trong phòng, cô y tá trực béo
tốt, hồng hào vẫn ngồi đan. Thấy cô, tôi sung sướng hơn cả khi thấy
mẹ tôi về chợ. Tôi buông màn, rúc vào nằm cạnh Ly ngủ đi lúc nào
không biết.
Sớm hôm sau, người đánh thức tôi không phải là cô y tá má đỏ mà là
một người đàn ông đeo kính gọng đồi mồi.
- Này, con búp bê nhà ai rơi vào phòng bệnh thế?
Ông hỏi. Bàn tay trắng nõn như tay thiếu nữ vuốt má tôi. Tôi ngồi
dậy, ngơ ngác nhìn gương mặt nửa hiền, nửa nghiêm của ông.
- Cháu lạc từ tủ kính nào đến đây vậy?
Người đàn ông đeo kính trắng nhắc lại? Tôi giụi mắt cho tỉnh ngủ rồi
trả lời ông rằng tôi là bạn cùng lớp với cậu bé đang nằm mê mệt trên
giường. Tôi đã nhận ở đây trông cậu ta trước thầy chủ nhiệm. Vì thế
tôi phải thực hiện đúng điều đó…
- Ô ô ô…
Người lạ - tôi đoán là ông bác sĩ kéo dài tiếng ô ngạc nhiên rồi vỗ
vai tôi:
- Cô bé kỳ diệu… Khá lắm… Bằng tuổi cháu, giá có thuê vàng, chú cũng
không dám ngủ qua đêm ở một phòng bệnh như thế này. Khá, khá thật…
Tôi nóng bừng mặt lên. Tôi không thích người ta khen ngợi tôi như
thế, nhất là trước đám đông. Những người bệnh trong phòng giương mắt
nhìn trừng trừng vào mặt tôi. Còn hai cô y tá đi theo ông bác sĩ thì
cứ tủm tỉm cười. Tuy nhiên, vẻ mặt ông ấy thật đôn hậu nên tôi không
nỡ ác cảm. Ngược lại, tôi thích đôi mắt đen long lanh của ông sau
cặp kính dày, những ngón tay hồng hồng sạch sẽ, và chiếc cổ áo sơ mi
kẻ ô nhô lên trên cổ áo bờ lu. Vì thế, sau khi khám bệnh và cho đơn
thuốc, ông gọi tôi tới phòng ông chơi, tôi liền đi ngay.
Phòng ông ở cũng sạch sẽ như ông vây. Tường quét vôi màu cẩm thạch
non, trưo những bức tranh phong cảnh và dây vạn niênthanh lá lốm đốm
trắng.
- Cháu ăn kẹo nhé. Khi nào trực đêm, chú phải có hộp kẹo trên bàn…
Nào, ăn đi cô bé, đừng làm khách như người lớn thế, chẳng đúng điệu
tí nào đâu…
Ông bác sĩ dốc những viên kẹo đủ màu sắc lên một chiếc đĩa sứ trắng
trên bàn. Kẹo thật ngon. Bên trong lớp vỏ đường, ruột kẹo trong
suốt, dai và thơm như múi quất vậy. Ông bác sĩ ngồi đối diện với
tôi, cũng nhón kẹo ăn ngon lành như tôi và uống nước chè từng ngụm
nhỏ. Mắt ông rất sáng và tràn ngập niềm trìu mến. Chúng tôi nói
chuyện thật dễ chịu. Câu chuyện đang vui, tôi chợt nhớ đến Ly và ân
hận đã để nó một mình. Biết đâu, khi tôi ngồi đây nó đã chẳng tỉnh
cơn mê, thức dậy. Tôi bỏ rơi viên kẹo trên tay xuống đĩa.
- Cháu về đây.
Ông bác sĩ ngước nhìn tôi ngạc nhiên:
- Sao vậy?
- Cháu xin phép chú… có thể bạn cháu thức dậy rồi.
Tôi giải thích và không kịp chờ ông đáp lại, chạy luôn. Ông bác sĩ
đứng dậy đi theo tôi. Tới chỗ ngoặt, tôi còn thấy bàn tay trắng nõn
của ông giơ lên:
- Chào cô bé…
Tiếng ông vang tới tận cuối hành lang, ấm và êm dịu. Sau này, tôi
không bao giờ còn gặp lại ông. Nhưng tôi vẫn nhớ ông với một ấn
tượng hoàn hảo. Và tôi cứ tin rằng, tất cả những bác sĩ thật sự trên
đời đều có gương mặt đẹp, tâm hồn dịu dàng, đôi mắt đen long lanh
sau kính và hai bàn tay thiếu nữ…
Tôi vừa bước vào phòng bệnh đã thấy Ly mở mắt thao láo nhìn mình. Nó
đã tỉnh. Chưa kịp hỏi han cậu bé thì một người đàn ông béo sồ sề như
người đàn bà chửa, đầu hói, tóc lưa thưa bước vào. Một tay ông ta
cầm cuốn vở kẻ ô, tay kia cầm bút chì gõ gõ vào tấm bảng treo đầu
giường Ly nằm:
- Giường số 6, bệnh nhân mới ăn gì?
Giọng ông ta cấm cửu. Tôi và Ly nhìn nhau:
- Ăn gì?
Ông ta nhắc lại, nghe khó chịu hơn. Ly thì thầm:
- Cháu… ăn cháo ạ…
- Ăn mấy ngày?
- Dạ…
Quả tình chúng tôi cũng không hiểu phải báo ăn mấy ngày ở đây. Ông
to béo nhăn mặt gõ cây bút chì cành cạch mạnh hơn nữa:
- Ăn mấy ngày thì phải báo mau để tôi ghi sổ.
Tôi đáp liều:
- Ba ngày ạ…
- Ba tám hai mươi tư. Mỗi ngày tám hào, ba ngày hai đồng tư, nộp
tiền mau.
Người đàn ông vừa nói vừa hí hoáy ghi những con số vào cuốn sổ. Mặt
Ly bỗng tái mét lại. Nó có đồng xu nào trong túi đâu… Tôi vội vã mở
kim băng, lấy tiền giao cho người quản lý. Ông ta đút ngay vào trong
may ô rồi đi ra. Lúc ấy tôi mới ngồi lo. Gia tài còn vẻn vẹn năm
hào. Cả tôi và Ly đều đói. Thằng bé nhịn ăn, nhịn uống cả ngày qua,
mà cháo viện thì tới mười một giờ trưa mới có. Suy đi tính lại, tôi
ra cửa bệnh viện mua cho Ly một túm chuối ba hào, mua cho mình một
hào sắn luộc. Còn lại một hào, tôi giao cho Ly giữ.
- Ăn chuối rồi ngủ đi nhé. Tớ ra đằng này một chốc. Muốn tè, cúi
xuống lấy bô. Đừng ra gió mà ngã chết…
Ly gật đầu ngoan ngoãn.
Tôi ăn sắn xong, hăm hở lên đường. Tôi đã nghĩ được kế rồi. Bệnh
viện này nằm trên ngọn đồi, xung quanh là đồng lúa. Từ đây về thị
trấn mười bảy cây số, về trường mười lăm cây số, nhưng tới chùa Đông
Na chỉ hơn ba cây. Chùa Đông Na là nơi chúng tôi thường rủ nhau ra
chơi ngày chủ nhật. Ở đó có một khu vườn um tùm, không biết cơ man
nào là ổi.Ngoài ra còn hai cây khế ngọt, hơn một chục gốc na và hai
chục cây đu đủ. Bà vãi chùa ngoài bốn mươi tuổi, mặt tròn trặn, phúc
hậu. Lần nào chúng tôi đến chơi, bà cũng thổi cơm cho chúng tôi ăn,
hái quả chín cho chúng tôi đem về làm quà. Cơm của bà dẻo như bún,
thơm phức. Chỉ ăn với tương, với dưa cũng thật là ngon. Mà miệng bà
cười thì tươi ơi là tươi:
- Các cháu lên chơi vui quá. Mọi ngày quanh đi quanh lại chỉ có một
mình. Ra quét sân chùa, vào nhặt hoa lan rụng, buồn như chấu cắn…
Bà nói với chúng tôi như vậy, kèm theo một lời mời: “Hai tuần nữa
lại lên đây chơi với bà các cháu nhé…”
Về phần chúng tôi, mỗi lần lên chùa, chúng tôi đem theo những món
quà lặt vặt: những cây nến thắp, vài bao hương sạ, một cuộn chỉ với
bao kim khâu, những bộ khuy áo dài lẫn mấy chiếc cúc bấm, một lít
dầu thắp đèn, một gói bánh… Bà vãi nhận những món quà đó với môt nụ
cười chân thật, khiến lũ tôi vui sướng lâng lâng. Và chúng tôi ríu
rít quanh vạt áo nâu của bà, gần gũi với tất cả những gì có trên
trái đồi ấy: ngôi chùa nhỏ cũ kỹ, những bức tường loang lổ rêu, cái
cánh cổng gỗ kêu cọt kẹt, khu vườn loang loáng ánh nắng chen bóng lá
và những con chim nhảy nhót trên cành cao, thinh thoảng lại vắt đuôi
ỉa toẹt xuống, nhiều khi đúng vào đầu chúng tôi…
Hăm hở lên đường, tôi vui sướng khi nghĩ tới ngôi chùa thân yêu sắp
tới: “Mình sẽ ăn cơm chay với bà vãi. Rồi mình hái đem về cho Ly vài
trái đu đủ chín. Nếu trong chum gạo có na rấm nữa thì tuyệt…”
Tôi đến chùa, vừa lúc trời nắng gắt.Mồ hôi thấm vào lưng áo, nhớp
nháp. Hai cánh cổng chùa mở toang nhưng không thấy bóng người. Tôi
vào sân, cất tiếng gọi:
- Bà ơi, bà vãi ơi…
Tiếng gọi đập vào tường, ngân nga. Không có tiếng ai trả lời, ngoài
lũ chim kêu lích nhích trên cành. Tôi vào nhà, sục khắp vườn cũng
chẳng thẩy bà vãi đâu. Trước cửa dãy nhà ngang, có hai nong bột phơi
trắng xóa, một chum tương mới ngả đậy vải màn và một túm tỏi treo
trên dây song căng sát hàng hiên. Đã hơn ba tháng chúng tôi không
lên chùa, kể từ ngày xảy ra vụ mất tích Dũng còm, rồi chuyến phiêu
lưu kỳ dị trên đảo Hoa Vàng mà dân thị trấn xôn xao bàn tán mãi… Tôi
cất tiếng gọi thêm vài lần nữa. Sau cùng không còn hy vọng, tôi tìm
hòn gạch viết lên sân chùa:
Cháu đến chơi người bà đi vắng. Cháu hái mấy quả đu đủ chín cho đứa
bạn ốm. Khi nào rỗi cháu sẽ lên thăm bà.
Ký tên: Cháu Bê
Bà vãi chùa biết đọc quốc ngữ. Bà sẽ hoàn toàn yên tâm rằng không
phải trẻ chăn trâu hái trộm đu đủ trong vườn chùa. Tôi ngắm nghía,
chọn mấy quả đu đủ chín nhẩt rồi trèo lên hái. Đu đủ ở chùa đã già,
thân nhỏ quắt nhưng cao lêu đêu. Phải bạo gan lắm mới trèo nổi. Nếu
run tay,ngã xuống gạch thì ít cũng vỡ đầu hay què cẳng. Lâu không
trèo, thoạt tiên cũng run. Nhưng khi đã lên đến lưng chừng, tôi vững
dạ trở lại và hái được trái đu đủ tít ngọn cây một cách nhẹ nhàng.
Xong xuôi, tôi thong thả tụt xuống. Chân tôi vừa chạm đất, có tiếng
quát the thé bên tai:
- A, mày chết với ông…mày chết với ông…
Hai cổ tay tôi bị thít chặt trong gọng kìm. Trước mặt tôi là một ông
già mắt đục ngầu, đầu cạo nhẵn, trán thấp và quai hàm bạnh ra dữ
tợn. Tôi hoảng sợ lắp bắp:
- Ông ơi, cháu…
- Mày chạy đằng trời, ông bắt được quả tang nhé… Vào đây…
Không chờ tôi nói hết câu, ông ta lôi tuột tôi vào gian buồng đầu
dãy nhà ngang, ẩy tôi ngã chổng kềnh rồi đóng sập cửa, cài cái then
gỗ lim to tướng bên ngoài vào.
- Ông ơi cho cháu nói hết đã… Cháu quen thân với bà vãi chùa, thỉnh
thoảng lại lên đây chơi hái quả. Ông không tin ra sân gạch xem sao,
ông ơi…
Tôi cố gắng phân trần. Mặc, lão già đã đặt quả đu đủ sang một bên
ngồi đảo bột. Tôi kêu to, thảm thiết:
- Ông ơi, hãy xem dòng chữ cháu viết trên sân… ông ơi…
Nước mắt trào ra, lăn trên mặt tôi, ấm nóng. Tôi vừa liếm những giọt
nước mắt mằn mặn vừa cố sức van nài. Nhưng lão già kỳ quái vẫn bình
thản ngồi đảo bột, như câm điếc. Tiếng khóc của tôi vang lên giữa
các bức tường, rồi lắng dần trong không gian tĩnh mịch. Giờ này mẹ
tôi đang dạy học, bố Thế chắc cũng lên lớp, và lũ bạn thân thiết
ngồi trong căn phòng đầy ánh nắng nghe bài giảng… Không ai biết tôi
bị cầm tù ở đây. Không ai nghe tiếng tôi khóc.
Bỗng có ai đó cào chân tôi. Tôi vùng dậy. Một con chuột to xù chạy
xuôi chạy ngược bên người tôi lục lạo. Sau rốt, nó dừng lại gặm lớp
da dày dưới chân gót chân tôi một cách ngon lành. Tôi tung chân đá.
Con chuột bay bổng lên, kêu chít một tiếng rồi rơi bộp xuống đất,
biến ngay. Tôi định thần nhìn kỹ những viên gạch nhớp nháp, mốc meo
lát nhà. Khóc mệt quá, tôi đã gục xuống đó ngủ đi lúc nào không rõ.
Gian buồng bốc lên mùi chua của men rượu hỏng lẫn mùi ẩm ướt của
những đám rêu bám dọc chân tường. Đã từ lâu không ai ở đây. Bà vãi
chùa xếp một chồng thúng mủng và đổ đống khoai sọ nơi góc nhà. Mỗi
năm một lần, vào ngày lễ chính, người đi lễ từ các nơi xa tới đây
thì căn phòng này mới được quét dọn, kê bục, trải chiếu cho họ nằm.
Còn lại, nó chỉ là kho chứa đồ lặt vặt. Nhưng cái then gỗ lim bên
ngoài thì chắc chắn tới mức không thể nào nghĩ tới chuyện vượt ngục
được. Tôi ngồi khoanh tay đặt lên gối, nhìn ra ngoài. Qua ô cửa bé
bằng cái tráp đựng trầu, tôi thấy một cành ổi trắng ngà đung đưa
trong ánh nắng. Chiều rồi. Chắc đã hơn ba giờ. Bụng tôi đói cồn cào
réo lên ùng ục. Tưởng như có bàn tay vô hình nào đó vặn thắt từng
khúc ruột, khiến tôi đau quặn lên từng hồi. Nghĩ tới cái đói, lập
tức cái đói như bị nhân trăm lần, hành hạ tôi thậm tệ. Mồ hôi tôi vã
ra ướt lạnh sau lưng, rồi mắt tôi hoa lên như có muôn ngàn con đom
đóm đang nhảy múa. Cái đầu bống nhiên như hóa đá, đè nặng trĩu lên
cần cổ. Tôi trào nước mắt, bóp chặt bụng trong lúc đầu óc vẩn vơ mơ
tưởng tới những bữa cơm ngon lành ở nhà… Trời ơi, sao những bữa cơm
thường nhật đó lại hiện về trong trí nhớ của tôi rõ ràng đến thế?
Nào cá rô nướng, dầm nước mắm tiêu, nào canh cua khoai sọ rau rút,
nào thịt kho cùi dừa, nào cá quả om sốt cà chua… Lại còn đậu phụ
luộc chấm mắm tôm, bánh đa vừng đường ăn lẫn chè kê, đậu đãi…
Ước gì có chiếc đũa thần của một bà tiên phúc hậu ở đây! Chỉ cần gõ
nhẹ vào tường, những mòn ăn ngon lành đó sẽ hiện về… Nhưng mơ màng
mãi, cũng không có bà tiênnào xuất hiện. Đói quá, rôi đành ao ước
một bát bún riêu của bà Tô béo hoặc vài củ khoai luộc. Bụng tôi
không réo lên ùng ục nữa mà óc ách như nước suối chảy, rồi nó sôi âm
ỉ như nồi cơm sắp cạn. Và sau cùng, nó xẹp xuống một cách thảm hại,
không còn dám kêu gào, đấu tranh nữa.
Trời đã tắt nắng. Lão già đi lại lọc cọc ngoài sân. Lúc sau. Mùi cơm
chín thơm nức bay tới. A, ra lão thổi cơm. Mùi lúa mới làm tôi hình
dung lại những bữa cơm ngon lành với bà vãi chùa. Cứ nhắm mắt cũng
thấy được vị đậu dầm tương, nõn khoai xào dầu lạc. Cơn đói vừa dứt
lại dấy lên cồn cào. Nhưng giờ tôi đã chịu được. Tôi lắng nghe tiếng
lão già ăn cơm bên ngoài. Lão nhai thật to, chóp chép, choạp chạo
như lợn tợp cám. Tôi không còn thấy sợ mà chỉ coi thường lão. Mặc
dầu đang đói, nhưng giá lão có đem cơm vào, rôi cũng sẽ quay mặt đi…
Tôi nghĩ đinh ninh như vậy.
Đêm hôm đó, khi ánh đèn dầu bênngoài tắt phụt và bóng tối mênh mông
trùm lên trái đồi Đông Na cũng như căn phòng hôi hám giam tôi, những
ý nghĩ ghê rơn chợt ập tới:
- Lão già ác độc có bộ óc ngu độn kia sẽ bỏ quên mình trong gian
buồng này. Bà vãi chùa Đông Na không về đây nữa. Và mình sẽ chết một
cách thảm thương…
- Điều đó có thật không?
- Có chứ… Rất nhiều khả năng là nó sẽ xảy ra…
Tôi sẽ lả dần trong căn phòng này, áo quần, thịt da đen xám lại.
Từng đàn chuột to xù sẽ từ hốc tường bò lên. Thoạt đầu, chúng gặm
mười ngón chân tôi. Kế đó, đến mười ngón tay. Sau cùng là bộ lòng và
hai lá phổi… Vũ Thị Bê, con gái độc nhất của cô giáo Hạnh, trò yêu
nhất của bố Thế, diễn viên xuất sắc trong các buổi biểu diễn văn
nghệ và vận động viên số một về thể dục tự do lẫn cầu thăng bằng sẽ
biến thành bộ xương trắng giống hoàn toàn bộ xương trong phòng thí
nghiệm. Rồi tới kỳ nghỉ phép, bố tôi đeo ba lô bước vào nhà:
- Con Bê của bố đâu? Bố đem cho con chiếc túi thổ cẩm với cái vuốt
hổ đây này… Cả mật on và đào Sa Pa nữa…
Lúc đó, mẹ tôi từ trong buồng bước ra, khóc nức nở và nói:
- Còn đâu nữa anh! Con gái mình bị chuột gặm chết rồi. Bộ xương nó
treo trong phòng thí nghiệm ấy…
Nghĩ tới đó, tôi khóc òa lên. Nức nở hồi lâu, tôi ngủ thiếp đi. Tới
nửa đêm, chuột bò lên găm sột soạt. Tôi quờ tay, đập lia lịa, rồi
lại ngủ. Được ít phút, đám chuột già táo tợn lại kêu chít chít xông
tới… Cứ thế cho đến khi trời sáng bạch. Mắt díp lại, đầu óc nặng
trĩu, tôi ngồi dựa vào tường gà gật ngủ thêm. Chợt thấy tiếng then
gỗ lạch cạch ở buồng bên. Rồi nghe giọng bà vãi chùa ngọt ngào vang
tới:
- Mau tay lên hộ nào… Thúng đồ lễ nặng quá.
Tôi tỉnh ngủ hoàn toàn, giỏng tai lên nghe ngóng. Bà vãi chùa vui vẻ
nói tiếp:
- Ông nhẹ tay cho tôi kẻo gãy hết chuối… Khiếp, đường xa ơi là xa…Ở
nhà ông có nhớ cho hai con sáo ăn không đấy?
Lão già đáp lại bằng một giọng cục cằn:
- Nhớ.
Bà vãi tiếp:
- Oản lộc đây, ông ăn buổi sớm cho tốt lành. Qua đêm, vỏ hơi khô
nhưng xôi còn dẻo lắm.
Sau đó, có tiếng quạt nón lạch phạch. Rồi lão già nhai oản chóp
chép. Hồi lâu, lão thủng thẳng nói:
- Ở nhà, tôi bắt được một con bé ăn cắp đu đủ.
Bà vãi chùa bình thản hỏi:
- Đu đủ đã chín rộ kia à?... Trẻ chăn trâu có thèm, chia cho chúng
ít lộc. Vườn tược nhà chùa mà chặt chẽ sao được.
Lão già thủng thẳng nói:
- Tôi giam vào rồi.
Bà vãi hốt hoảng:
- Ông bảo sao cơ?
Lão già nói:
- Tôi giam nó lại.
Bà vãi kêu:
- Chết thật. Có quả đu đủ, sao ông nỡ giam con người ta? Nó ở đâu
rồi?
Lão già ho một tiếng:
- Đấy…
Tiếng chân bà vãi bước hối hả trên hàng hiên. Cái then gỗ kêu lách
cách bên ngoài cánh cửa. Tôi rùng mình, người nóng rần rật và nước
mắt tự dưng trào ra đầm đìa hai má:
- Mô phật! … - bà vãi kêu to rồi chạy vào. Cháu Bê đấy à? Khổ thân
quá, ông ấy giam cháu từ bao giờ?...
Nỗi uất ức và căm giận dâng lên khiến tôi nghẹn họng. Tôi quay mặt
vào tường. Bà vãi chùa quay lại mắng lão già đứng sau lưng:
- Đứa bé thế này mà ông nỡ giam vào buồng tối. Ông là người hay quỷ
thế? Ông không sợ bị ném vạc dầu hay sao?
Lão già đứng thần ra.
Bà vãi chùa ôm vai tôi, khóc:
- Bà xin lỗi cháu nhé, bà xin cháu…
Vì bà khổ tâm thực sự nên tôi mủi lòng. Tôi quay ra.
- Khốn khổ cho bà, bà xin cháu…
Bà vãi nói, rút chiếc khăn nhuộm nâu trong túi lau nước mắt. Tôi
nhìn bà, lòng trào lên nỗi xót xa: Vì sao một người đàn bà đôn hậu
nhường này lại phải chung sống với một lão già ngu độn, độc ác
nhường ấy? Ở đời thật lắm chuyện trớ trêu. Tâm hồn thơ dại của tôi
xao động và sửng sốt mãi vì điều đó.
Và vãi chùa khẩn khoản, dỗ dành mãi, tôi mới ăn chút oản và chuối
cho bà yên tâm. Chờ tôi ăn xong, bà xếp nào oản, nào chuối, nào oản
ngọt bọc giấy kính xanh đỏ vào chiếc thúng con rồi cắp nách, đi theo
tôi tới tận của bệnh viện mới quay về.
Mẹ tôi và bố Thế đón tôi ở phòng thường trực. Hai người nhớn nhác vì
sự vắng mặt của tôi đêm qua. Tôi kể lại câu chuyện đáng buồn ở chùa
Đông Na rồi đem oản, đem chuối vào cho Ly. Nó ăn hết ngay hai cỗ
oản, mặt tươi tỉnh ra nhiều. Tôi hứa sẽ trở lại thăm nó rồi theo mẹ
về thị trấn. Nhưng tôi đã không thực hiện được lời hứa với Ly vì tai
ương đã bất chợt gieo xuống cuộc đời học sinh tươi sáng của tôi,
giống như một cành cây gãy bỗng dưng rơi xuống đầu kẻ qua đường xấu
số
Chương 6
TAI ƯƠNG KHÔNG BÁO TRƯỚC
Ngay tối hôm tôi từ bệnh viện trở về, Loan hạt mít sang bảo:
- Mẹ tớ bằng lòng cho lão cai Cân bán nhà rồi.
Mặt nó buồn thiu. Tôi không còn cách nào khác hơn là rủ bạn đi chơi
cho khuây khỏa. Chúng tôi mua hạt bí và ô mai cam thảo, vừa đi vừa
ăn ô mai, cắn hạt bí, chẳng đứa nào nói một câu. Ngang nhà chị Bội,
chúng tôi lại bắt gặp hai bóng người đứng nép dưới vòm lá tồi om của
cây bàng.
- Thưa thầy…
- Anh đã bảo rồi… Bội cứ gọi anh là anh Gia.
- Thưa thầy, em…
- Sao em nhát thế? Con gái thời nay phải mạnh dạn lên chứ!... Ôi,
mái tóc em đẹp thật. Hệt như mái tóc nàng Pha-ti-ma…
- Dạ, thưa thầy…
- Tay em cũng đẹp… nhưng sao đầu ngón trỏ lại nháp thế này?
- Em vẫn phải thêu hàng cho mẹ nên kim đâm vào tay.
- Ô, hỏng mất ngón trỏ, phí quá… Nhưng chẳng sao. Tay em điểm bốn,
tóc em điểm năm, con người em năm cộng, đôi mắt em năm trừ, còn môi…
Ông bố chị Bội ló đầu ra khỏi cửa, hắt toẹt chén nước thừa chút nữa
thì vào cô gái rượu. Ông Gia im bặt. Chúng tôi bấm nhau lui lại.
Nhưng rủi ro thay, chính vào lúc đó, ông giáo thể dục đã nhìn thấy
chúng tôi. Trong giây phút, mắt ông đờ ra vì kinh ngạc. Rồi nó tối
sầm lại tức giận. Hai đưa tôi đứng sững như trời trồng, sợ thót tim.
Lúc sau hoàn hồn, chúng tôi cất tiếng chào lí nhí rồi chuồn mất. Cặp
mắt lươn của ông Gia chọc thẳng vào mắt chúng tôi như gầm rít: “Hai
con mất dạy rình dập ta… Chúng mày sẽ biêt tay…”
Sự hăm dọa toát ra từ ánh mắt hằn học của ông ta quá rõ ràng. Từ
phút đó, nỗi kinh sợ bóp chặt lồng ngực tôi, khiến mỗi hơi thở cũng
mệt nhọc, khó khăn hơn trước.
Gần tới nhà, Loan run run kéo áo tôi:
- Chết rồi… Làm sao bây giờ?...
Tôi cố gắng làm bộ cứng cỏi:
- Mình có tội gì đâu mà sợ!
Loan lắc đầu:
- Chả có tội gì cũng chết. Lão ấy thù tụi mình…
- Cóc sợ! Đằng ấy im đi…
Loan không dám nói nữa. Nhưng mặt nó chảy thượt như cục bột ướt.
Đêm hôm đó, tôi mơ thấy mình bị trói chặt vào một mỏm đá dưới đáy
biển. Những sợi dây thít chặt chân tay tôi đau rát. Nước xung quanh
trong suốt, lạnh buốt xương. Một con cá ngão há mồm rộng ngoác lởm
chởm hai hàm răng nhọn bơi lừ lừ tới trước mặt tôi. Tôi nhìn rõ cái
cổ họng đen ngòm, ghê rợn như miệng hang núi của nó nằm sâu trong
hai hàm răng lấp lánh. Và con vật khủng khiếp đó cứ im lặng tiến về
phía tôi, mỗi lúc một gần…
Sáng hôm sau, tôi dậy muộn. Cơn mơ dữ khiến người tôi mỏi nhừ. Không
kịp ăn sáng, tôi hối hả chạy tới trường cho kịp giờ học. Tiết đầu
tiên đúng là giờ thể dục, môn học trước đây vài tháng là niềm vui
thú, còn hôm nay là nỗi kinh hoàng.
Yến sếu ghé vào tai tôi thì thầm:
- Chuẩn bị tinh thần đi. Hôm nay mặt ông Gia hằm hằm trông kinh lắm.
Lúc nãy ông hét lớp trưởng: “Kiểm tra chạy. Cự ly một trăm mét và
hai trăm mét.”
Tôi lặng im. Theo đúng chương trình, hôm nay là giờ tập nhảy ngựa.
Một hồi còi róng riết rít lên. Ông giáo thể dục đi tới. Chúng tôi
tập hợp thành hai hàng dọc trước mặt ông ta.
- Vòng tròn khởi động.
Ông Gia ra lệnh. Bây giờ, ông không lý thuyết dài dòng như buổi đầu
mà chỉ phát ra những mệnh lệnh cụt ngủn, thô bạo. Chúng tôi chạy
vòng tròn dưới sự chỉ dẫn của cán sự thể dục lớp. Ông giáo chắp tay
sau mông, đứng nhìn. Cặp mắt gườm gườm của ông không hứa hẹn điều gì
tốt lành hết. Chị Bội cúi gằm mặt xuống. Còn Loan hạt mít tái xanh
không còn hạt máu. Tôi vừa chạy vừa đếm từ một tới một trăm để tự
trấn an tinh thần.
- Ra đường lớn, chuẩn bị chạy!
Ông Gia đột ngột hét to. Rồi ông quay lưng đi trước chúng tôi, vừa
đi vừa rút trong túi quần chiếc đồng hồ quả quýt. Đôi vai và cặp
mông đầy ú thịt của ông rung rinh.
Trên con đường cát đỏ mịn màng, đã có những vạch vôi kẻ sẵn. Cán sự
thể dục xách những cặp bàn đạp ra đặt trước vạch xuất phát. Trực
nhật đem quyển danh bạ lớp cho ông giáo. Và ông mở sổ ra lệnh:
- Bắt đầu.
Ngón tay to và dài của ông đặt lên cột số thứ tự:
- Vũ Thị Bê.
Theo vần chữ cái, bao giờ tôi cũng là học sinh đầu tiên được gọi tên
trong các cuộc thi hoặc kiểm tra. Điều đó với tôi là việc bình
thường. Nhưng lúc này, tim tôi bống đập vang dội trong lồng ngực như
cái trống con. Tôi bước lên vạch vôi xuất phát, người nóng rần rật.
Nguyễn Xuân Bảo, Phạm Thứ Bình, Khang Quốc Bình, Trần Thế Bính…
Ông Gia đọc tiếp. Cả năm đưa tôi giẫm chân lên bàn đạp trước cặp mắt
ngơ ngác của mọi người. Trước đây không bao giờ nam nữ kiểm tra điền
kinh chung. Mức quy định cho nữ sinh bao giờ cũng nhẹ hơn. Nhưng
không ai dám hé răng hỏi.
- Chuẩn bị! Bắt đầu…
Ông Gia hô to. Lá cờ hiệu phất lên. Năm chúng tôi lật bật lao về
phía trước.
- Sai quy cách, chạy lại
Ông giáo nói một cách lạnh lùng.
Chúng tôi quỳ gối, đặt chân lên bàn đạp, ngẩng đầu hướng về phía
trước theo đúng bài giảng.
- Chạy… lại sai quy cách rồi. Lần thứ ba, làm lại đi…
Cả năm đứa thở hồng hộc quay lại vạch xuất phát lần nữa. Không ai
bảo ai, chúng tôi liếc nhìn nhau kiểm tra các tư thế và động tác.
Tất cả đều hoàn hảo. Ông Gia gãi ngón tay trỏ lên mặt kính đồng hồ:
- Tôi bám giây đấy. Chuẩn bị chạy… Chạy!
Lá cờ hiệu vẫy lần thứ ba. Lần này, chúng tôi cố gắng cho tới đích.
Bí thư chi đoàn có đồng hồ đeo tay. Anh bấm giây và kêu to:
- Hoan hô! Tất cả vượt tiêu chuẩn một giây rưỡi… Thoát nợ rồi…
Tôi lau mồ hôi, thở hào hển. Nhưng ngay lúc đó, tiếng ông giáo thể
dục vang lên ở đầu đường:
- Vũ Thị Bê, sai quy cách chạy lại.
Tôi sững người. Cả lớp ngơ ngác nhìn tôi, im phăng phắc. Người tôi
nhẹ bẫng. Lúc lâu, tôi mới thốt lên được:
- Thưa thầy, em sai?
- Bàn chân sau đặt chưa đủ độ dốc bàn đạp, chạy lại.
Ông Gia đáp, lạnh tanh. Mọi người đứng xung quanh cúi mặt xuống. Rõ
ràng đó là một nhận xét có tính moi móc, một lối trù lộ liễu. Tôi
không còn sợ hãi nữa. Máu trào lên hai mang tai khiến mặt tôi nóng
phừng phừng. Tôi cắn răng quỳ trước vạch xuất phát, cố sức thực hiện
mọi động tác một cách hoàn hảo.
- Bắt đầu, chạy…
Lá cờ hiệu vẫy phía trước. Tôi lao người khỏi vạch vôi.
- Dừng lại… Tư thế chuẩn bị vẫn chưa được… Lần nữa…
Ông Gia gằn từng tiếng.
Tôi không nhìn vào bộ mặt to nung núc của ông giáo nữa. Toàn thân
căng thẳng tựa sợi dây đàn. Trước mắt tôi, mọi vật như nhòa hết. Từ
lá cờ hiệu đỏ, cặp mắt rưng rưng của chị Bội tới những ngấn nước mắt
óng ánh trên má Loan. Tất cả trôi trong sương mù.
Hết giờ thể dục, tôi về lớp, gục xuống bàn và lên cơn sốt.
Không hiểu vì sao, bố Thế biết chuyện ngay. Bố đèo tôi về nhà:
- Chịu khó uống thuốc cho khỏi mà đi học con ạ. Sắp thi rồi.
Bố dặn tôi, vẻ buồn bã.
Tôi trùm chăn lên đầu vì bỗng dưng rét run như giữa mùa đông. Rồi
tôi chìm vào giấc ngủ mê mệt. Nhưng lúc đang chập chờn, tôi còn nghe
rất rõ tiếng cành cạch vang xa dần. Đó là tiếng mảnh nhôm gác-đờ-bu
ở xe bố Thế bị rách làm đôi, đập vào nhau. Tiếng động đó quá quen
thuộc. Có lần tôi nói:
- Bố ơi, xe của bố là bà lão gãy răng.
Bố Thế cười hiền lành, đáp:
- Thì bố cũng là ông lão gãy răng chứ trẻ trung gì?
Đúng là răng của bố sứt một chiếc thật.
Tôi nghỉ mất năm hôm. Thứ ba tuần sau tôi mới đi học được. Tụi bạn
reo hò mừng rỡ. Không đứa nào nhắc tới chuyện giờ kiểm tra chạy cho
tôi quên đi. Nhưng lúc ra chơi, Yến sếu bỗng kéo tôi ra hành lang
thì thào:
- Hôm qua, tớ thấy ông Gia đèo chị Bội lên công viên.
Tôi nhìn chị Bội. Chị hỏi han tôi với vẻ ngượng ngùng. Tôi bảo Yến:
- Im ngay, nếu lộ chuyện, đằng ấy sẽ khốn khổ như tớ thôi.
Yến sếu sợ, im tắp lự.
Ly cũng đã đi học lại. Nó đem cho tôi một gói bánh đậu Hải Dương to
tướng. Dì ruột của Ly vừa ghé thăm nó chiều qua. Những ngày học nối
tiếp trôi qua. Tôi mải miết chép và làm những bài tập trong các ngày
nghỉ ốm nên bận rộn quên đi mọi sự. Tối thứ bảy, buổi học cuối trong
tuần, chúng tôi bỗng có giờ nghỉ. Bố Thế nhận được điện từ quê báo
tin mẹ ốm đã về từ trưa qua. Tụi bạn rủ nhau xuống sân đá bóng.
Riêng tôi, tôi mới ốm dậy nên không tham gia. Tôi thơ thẩn trèo lên
nóc bể đựng nước chơi. Tôi chưa nói với các bạn rằng trường tôi có
một bể xi măng lớn. Bể đào chìm trong lòng đất, chỉ nhô phần thân
trên chừng một thước tây. Thành và nắp bể rất dày, xi măng láng
bóng. Mùa mưa, hai ống máng dài chạy dọc mái trường hứng nước tuôn
vào bể xối xả. Khi bể cạn, chúng tôi thường thò đầu vào trong hét
lên và nghe tiếng dội lại âm u ghê rợn như tiếng con quỷ ngồi trong
lòng đất. Dạo ấy bể lưng lưng nước nên ông bảo vệ đóng chặt hai
chiếc nắp lại. Chúng tôi tha hồ chạy nhảy trên bể, ngồi truy bài
hoặc chơi ô. Từ bể có con đường nhỏ dẫn tới nhà vệ sinh. Hai bên
đường, vườn bạch đàn liễu tươi tốt rủ lá xuống. Khi leo lên nóc bể,
tôi chợt thấy một bóng người mặc quần áo trắng đi giữa lối mòn qua
vườn bạch đàn ấy. Ngay tức khắc, mặt tôi nóng bừng lên. Hình ảnh con
đường kẻ vạch vôi, cặp bàn đạp bằng sắt và lá cờ hiệu phất phất hiện
lên ngay trước mắt. Một ý nghĩ như tia chớp vụt qua. Rồi ý nghĩ đó
xâm chiếm tôi không kịp đắn đo gì. Tôi nhìn quanh. Không một bóng
người. Cả lớp dồn xuống sân bóng hết. Chỉ một mình tôi đứng trên nóc
bể và nhìn thấy ông Gia vào nhà vệ sinh. Nhà vệ sinh của trường gồm
bốn ngăn buồng nhỏ xây gạch, nóc đổ bê tông kiên cố. Phía trước có
bức tường che cao vượt đầu người lấp cả dãy cánh cửa phía trong. Các
cánh cửa đều bằng gỗ lim dày, che kín từ bực thềm tới mái không hà
tiện hở đầu hở đuôi như các nơi khác. Bởi thế người ngồi bên trong
không thể nào nhìn thấy người đứng bên ngoài. Tôi tính toán lại lần
nữa, rồi tới đống bàn ghế hỏng chờ sửa chữa của trường, chất gần bể
nước dưới một mái tôn che tạm. Tôi vác chiếc ghế băng cụt chân, dày
và nặng. Đi theo lối mòn giữa vườn bạch đàn, tôi đem xuống nhà vệ
sinh, chống lên cánh cửa đang đóng kín mít, còn đâu kia gối lên bức
tường che phía trước. Có lẽ hai người đàn ông lực lưỡng hè nhau cũng
không du đổ bức tường kiên cố đó.
Tôi lên lớp lấy cặp. Tụi bạn đang xem đá bóng dưới sân gọi ơi ới:
- Bê ơi, làm gì về sớm thế? Xuống đây xem một tăng.
Tôi đáp:
- Mệt lắm. Tớ về đây… Các đằng ấy có về tới đợi.
Một vài đứa lác đác bỏ cuộc về theo tôi. Rồi cả lớp bỏ về hết. Sân
trường vắng tanh.
Chiều thứ bảy là buổi chiều duy nhất trong tuần tôi được đi chơi tự
do. Ăn xong, tôi chuồn sang nhà Loan ngay. Cô bạn báo tin:
- Ngày mai mẹ tớ cưới rồi.
Tôi thương Loan quá. Gọi một người tốt là bố thì không sao. Nhưng
gọi cai Cân là bố thì khổ thật. Tôi bảo bạn:
- Ra đảo chơi.
Loan lặng lẽ gật đầu. Với nó, đi đâu bây giờ cũng vui hơn ngồi nhà
nhìn cai Cân nhe răng vàng ra cười cợt.
Chúng tôi ra sông. Chiếc thuyền tôn của bà An Lạc đã buộc sẵn ở cây
cọc. Trên thuyền vương vãi và sợi rong xanh và mấy cánh bèo dập nát.
Bà đã đi lấy rau lợn rồi và chúng tôi có thể yên trí rong chơi. Loan
ngồi đàng hoàng rồi, tôi thong thả đẩy thuyền ra rồi nhảy lên, chèo.
Nắng chiều nhè nhẹ phủ lên dòng nước làn ánh sáng tươi tắn, lộng
lẫy. Bầu trời vàng rực nhưng êm dịu vì những cơn gió đẫm nước bay từ
đầm sen bát ngát bên kia sông tràn tới, mang theo mùi thơm trong
suốt thanh cao. Những cây cỏ trứng ếch rập rờn bên roi cát..
- Trời đẹp quá
Tôi thốt lên kêu, lòng nhẹ lâng lâng.
Loan thở dài:
- Mình chán lắm, ngày mai phải về ở nhà cai Cân rồi.
Tôi chợt nghĩ, đúng thế thật. Ngày mai cai Cân cưới cô Lưu. Cô sẽ
giao nhà cho chủ mới và theo lão về ở căn nhà có sáu buống. Hẳn mẹ
con cô sẽ phải ở căn nhà ngang phía dưới mà lão vừa thuê thợ quét
vôi, sửa sang lại. Mấy đứa con trai ghê gớm của lão không đời nào
chịu nhường ngôi nhà trên cho người khác. Dân thị trấn đã bàn tán ba
bốn tuần lễ nay. Họ chờ đợi cai Cân đối xử với mẹ con cô Lưu ra sao,
một khi lão đã nắm hết vàng lẫn tiền bán nhà trong tay.
Tôi bảo:
- Buồn làm quái gì? Nếu lão giở mặt thì sang nhà tớ ở.
Chúng tôi lên đảo Hoa Vàng, kiểm tra lại kho tàng. Mọi thứ nguyên
vẹn, riêng khoai nghệ lác đác nảy mầm. Sợ để lâu khoai xốp nên chúng
tôi dỡ xuống thuyền đem về nhà. Trước khi chèo thuyền về, tôi rủ
Loan sang nhà thằng bé chụp cá chơi nhưng cô bạn từ chối. Chúng tôi
trở lại thị trấn vào lúc sao Hôm vừa mọc nơi chân trời phía tây,
long lanh như hạt nước lớn. Những hàng phượng vĩ hứng ráng chiều hóa
thành màu vàng rơm, trông xa như phủ lớp bụi kim nhũ. Lũ trẻ nhỏ ùa
ra hè phố, chạy nhảy la hét. Và mấy ông già lững thững dạo chơi giữa
bọn chúng, vẻ thung dung.
Tôi hôm đó, Loan ăn cơm với tôi rồi ngủ lại luôn.
Sáng hôm sau, chủ nhật, mẹ tôi bảo hai đứa:
- Dẫu sao hôm nay cũng là ngày vui của mẹ, cháu nên về. Còn Bê, con
mang đồ mừng sang cho cô Lưu và nói rằng mẹ xin phép ở nhà vì có
việc bận.
Mẹ đưa cho tôi một mảnh lụa hoa dâu trắng, gói trong giấy mỏng. Hai
đứa tôi vâng lời ra đi. Tôi chẳng cần mô tả lại cái đám cưới trớ
trêu đó cho các bạn phiền lòng. Đám cưới gì mà cô dâu ra phòng ngoài
tiếp khách thì cười, vào trong buồng trong lại khóc nức nở như mẹ
chết. Chỉ cai Cân là liên tục nhe hàm răng vàng ra cười hí hí, hơ hơ
một cách khả ố, vô duyên. Khi tôi và Loan tới, cô Lưu vội vã gọi
chúng tôi vào buồng. Tay cầm món quà tặng của mẹ tôi, tay ôm con gái
vào lòng, cô khóc tức tưởi như đứa trẻ bị đòn oan, nước mắt rơi
xuống đầu Loan lã chã. Loan cũng sụt sịt khóc theo. Và tôi, cầm lòng
không nổi, khóc theo nốt. Mấy bà phù dâu vào gọi cô Lưu rối rít. Cô
lau nước mắt, ra ngoài. Tôi và Loan chuồn về nhà, ăn cơm. Ngày cưới
của cô đối với chúng tôi là như vậy.
Sáng hôm sau, thứ hai, tôi với Loan cắp sách tới trường. Dọc đường,
tôi nhớ lại việc làm của mình ngày thứ bảy, vừa lo vừa hả hê trong
dạ. Tới lớp , tôi nghe ngóng xem có ai bàn tán về việc ông Gia bị
nhốt trong khu nhà vệ sinh không.
Nửa giờ sau, tin ông Gia bị nhốt trong nhà tiêu hôm thứ bảy lan khắp
trường. Đám học sinh nhỏ thì thầm, mắt to mắt bé. Những anh chị khối
chín, khối mười thì cười ha hả, vui vẻ đùa cợt không giấu giếm:
- Hề quá nhỉ… Thằng nhóc nào nghĩ ra cái trò ấy cũng hay. Ngồi trong
nhà xí tha hồ cho thầy Gia suy tư nhé.
- Ừ, thừa thời gian nghĩ cách tán tỉnh các em nữ sinh khau kháu.
- Lớp nào lão cũng chõm một cô. Học sinh thắc mắc, bép xép là lão
trù cho khốn khổ. Các cậu biết chuyện thằng Xít 9B không?
- Có nghe loáng thoáng. Cậu kể lại đầu đuôi cho rõ.
- Thằng này vốn nghịch ngợm nhưng lại rất lễ độ với các thầy cô. Tuy
nhiên, lão Gia này thì chẳng đáng là thầy. Tuần trước tập nhảy ngựa,
lão vờ vĩnh kiếm cớ ôm lưng con Bích. Bích mắt ngọc thạch ấy mà.
Thằng Xít bưng miệng không được, cười phá lên. Lão bẽ mặt, cáu lắm.
Giờ sau, lão kiếm cớ bắt thằng bé nhảy ngựa suốt nửa tiết học dưới
trời nắng chang chang… Ha, ha, cái trò này chắc cậu Xít nghĩ ra để
trả hận đây… Ha ha ha… Đáng lắm…
Lời bàn tán, người đi lại rộn rịp, ầm ĩ ngoài hành lang. Tôi rút lui
vào lớp, ngồi xuống ghế. Yến sếu tới bên cạnh:
- Bê, mày có biết thằng Xít không?
- Biết.
- Thằng ấy trông thế mà ghê thật. Liệu cậu cả có bị đuổi học không
nhỉ?
Tôi quay mặt, đáp dửng dưng:
- Biết đâu đấy…
Tuy nói vậy, đầu tôi nóng bừng lên: câu chuyện đã xoay sang hướng
khác. Trước đây, tôi hồi hộp chờ phút người ta tìm được thủ phạm, và
chuẩn bị tư thế giơ lưng ra chịu đòn. Giờ, bỗng nhiên một kẻ khác
phải hứng chịu thay tôi. Một cậu học sinh vô tội. Nỗi lo sợ bay mất,
thay vào đó là nỗi hổ thẹn và buồn bã. Tôi cảm thấy nhục nhã như
mình là một tên móc túi mà đang tâm nhìn người khác bị còng tay dẫn
vào trại giam. Trống trường điểm thùng thùng. Tiết học thứ năm kết
thúc. Từ các lớp, học trò đổ ra ào ào. Tôi đi lẫn vào dòng người
đông đúc, mặt cúi gằm, trán vã mồ hôi. Qua văn phòng, tôi liếc mắt
nhìn. Ở gian chính, bốn bề mở cửa toang, một cậu học trò mặc quần
xanh, áo trắng, ngồi đối diện với bà hiệu trưởng. Ở giữa là chiếc
bàn có quả cầu nhựa màu xanh. Cậu học trò nói vài câu rồi đưa tay áo
lau nước mắt. Mặt bà hiệu trưởng lạnh như nước đá, không hề máy
động. Đôi mắt bà mở rộng sau cặp kính. Còn gương mặt cậu kia thì tái
nhợt đi…
“Đó là Xít. Đó là người chịu tội một cách oan uổng thay mình…” – tôi
nghĩ, cố gắng bước cho nhanh qua cửa văn phòng. Loan hạt mít lạch
bạch chạy sau:
- Bê ơi, đợi tớ với! Làm gì mà đằng ấy như ma đuổi vậy?…
Tôi không trả lời, bước vùn vụt.
Chiều, cố gắng lắm tôi mới học thuộc bài. Những dòng chữ nhảy nhót
lung tung, không chịu sắp thành hàng lối trong trí nhớ. Học xong,
tôi lơ láo nhìn những người qua đường. Một con nhện to kềnh giăng
lưới trên cửa sổ, tôi cũng không buồn đuổi. Hình ảnh cậu học trò xa
lạ với gương mặt nhợt nhạt đầm nước mắt cứ hiện lên. Hẳn chiều nay
cậu phải ngồi viết bản kiểm thảo. Không tham dự, không làm, không
biết… nhưng chắc chắn bà hiệu trưởng buộc cậu phải nhận lỗi. Cả
trường chúng tôi không ai quên được vụ kỷ luật Đào Ca năm ngoái…
Đào Ca là học sinh 8D, con một người đàn bà gầy còm, bán kim chỉ và
đồ vặt ngoài chợ. Ông bố Ca làm thợ mộc, nhưng quanh năm rượu chè
nên không bao giờ đưa cho vợ được một đồng nuôi con. Nhà sáu miệng
ăn, ngoài giờ học Ca phải bán thêm kẹo kéo. Mặt mũi cậu ta lúc nào
cũng ủ ê, cau có. Bỗng nhiên, trường bị mất năm cân đường chuẩn bị
cho hội thi văn nghệ. Không hiểu người nào đó xướng lên rằng thủ
phạm chỉ có Đào Ca, vì hoàn cảnh khó khăn, vì chính bản thân cậu
thường phải tìm mua đường trắng ở cửa hàng về nấu kẹo. Ý kiến đó lọt
vào tai bà hiệu trưởng. Bà vốn nổi tiếng về sự sắt đá. Bà tin là sự
thật. Bà quyết bắt Ca phải nhận lỗi. Cậu phải viết đi viết lại một
trăm hai mươi hai bản kiểm điểm, từ chỗ không biết gì đến chỗ hoàn
toàn nhận tội và miêu tả cụ thể, ngày giờ, cách thức lấy trộm năm
cân đường. Hơn ba tuần ngồi viết kiểm thảo, Đào Ca đờ đẫn như kẻ mắc
chứng tâm thần. Sau khi nhận tội, cậu ta được hưởng kỷ luật khoan
hồng của bà là cảnh cáo ghi lý lịch và lưu ban. Nhưng Đào Ca không
đủ sức theo học nữa. Cậu nghỉ luôn và trở nên ngờ nghệch như mắc
chứng tâm thần thật sự. Đào Ca nghỉ học được một tháng, công an tới
trường báo đã phát hiện ra kẻ trộm. Đó là gã con trai lớn của ông
bảo vệ trường, hai mươi tám tuổi, làm nghề đẽo đá đóng cối xay và
bia mộ. Gã làm thợ thì tồi nhưng xoáy vặt thì rất giỏi. Nhờ những vụ
trộm liên tục, công an mới tóm được gã một cách đột ngột, tường tận,
không thể chổi cãi…
Mọi người thương xót Đào Ca . Duy chỉ có bà hiệu trưởng tỏ ra không
xao động. Mặt bà lúc nào cũng uy nghiêm, lạnh lùng. Một gương mặt
như chạm bằng đá rắn. Lúc đó tôi nghĩ rằng những người đàn bà ham
quyền lực còn khắc nghiệt hơn cả đàn ông. Tôi rờn rợn khi gặp bà.
Điều đó sau này trong cuộc đời tôi thấy hoàn toàn đúng.
Trở lại sự việc của mình, nỗi day dứt giày vò tâm trí tôi. Bà hiệu
trưởng nhất quyết bắt Xít nhận lỗi, dù phải viết tới năm trăm bản
kiểm thảo. Trước đây bà đã chẳng bắt Đào Ca từ không đến có đó là
gì?… Xít sẽ không thể nào chống đỡ. Sẽ không ai an ủi, dìu dắt được
cậu trong cơn tai biến này. Sẽ không ai cứu cho cậu thoát khỏi vòng
oan nghiệt..
- Mình phải làm việc ấy. Mình phải đứng lên nhận hình phạt.
Tôi tự bảo mình. Nhưng cặp mắt bà hiệu trưởng hiện lên sau lớp kính
trắng, lạnh lùng và nghiệt ngã. Đừng hy vọng một sự khoan dung nào ở
bà. Bà sinh ra đời là để trừng phạt và chỉ thế thôi. Những học sinh
khối mười đã nhiều lần bàn tán về bà như vậy. Nhận tội, tôi sẽ bị
đuổi học tức khắc. Trời ơi, con cô giáo Hạnh mà bị đuổi học sao? Mẹ
tôi sẽ nói năng với bạn bè đồng nghiệp thế nào?…
Còn Xít bị đuổi học, mẹ cậu ta sẽ khó mà sống nổi. Bà ấy gầy như que
củi, suốt ngày ngồi đan sau chiếc tủ kính đựng len, những sợi gân
xanh nổi như cọng rau muống trên làn da trắng bệch vì thiếu máu. Bà
goá chồng từ năm ba mươi lăm tuổi, ở vậy nuôi Xít và mắc bệnh đau
tim đã sáu bảy năm nay. Tôi nỡ nào để một người mẹ yếu đuối như vậy
đau khổ?
Nhưng Xít chỉ là một học sinh bình thường. Còn mình được cả trường
biết đến tên tuổi. Nào là học sinh xuất sắc, diễn viên kịch trứ
danh, vận động viên thể dục mềm dẻo số một…
Bao nhiêu vinh quang. Tất cả sẽ rơi rụng hết một khi tôi đứng trước
văn phòng, nghe bà hiệu trưởng tuyên án…
Đầu óc quay cuồng, tôi mở tung cửa chạy ra hè phố.
Lúc đó khoảng bốn giờ chiều, nắng đã nhạt. Một đoàn xe ngựa chạy qua
đường. Những chiếc chuông rung reng reng. Từng con ngựa bụi bặm, mỏi
mệt lắc bờm diễu qua mắt tụi nhóc, nửa như phớt lờ, nửa như trêu
chọc. Lũ trẻ reo hò, đuổi theo chúng tới tận ngã ba đường. Trên hè
phố trơ lại hai đứa bé. Một thằng to béo, má đỏ, trông nhanh nhẹn.
Thằng kia thấp nhỏ, yếu đuối hơn. Hai đứa bị đám trẻ lớn gạt lại nên
đành đứng trông theo đoàn xe ngựa. Mặt chúng tần ngần một cách tội
nghiệp, lát sau thằng bé to béo rủ bạn chơi bi. Chúng cởi hai chiếc
cặp da có quai đeo, đặt vào gốc cây cơm nguội, rút phấn trong túi
quần vẽ lồ rồi bắt đầu bắn bi. Lát sau, thằng lớn ăn gian, đút viên
thuỷ tinh mới có múi khế xanh đỏ vàng của bạn vào túi. Rồi nó xách
cặp chạy về nhà. Thằng bé bị mất oan viên bi không dám chạy theo
đòi. Nó đứng lặng yên nhìn theo kẻ cướp giật kia, nước mắt ứa qua bờ
mi, lăn hối hả trên gò má. Cặp mắt thằng nhỏ xanh trong, tròng đen
màu nâu có những rạch sáng. Những giọt nước mắt của nó cũng trong
suốt như thủy tinh. Tôi đến gần dỗ:
- Nín đi em, nín đi…
Thằng bé ngước cặp mắt trong veo nhìn tôi. Và ngay lúc đó, nỗi hổ
thẹn khiến miệng tôi đắng nghẹn lại. Tôi có khác gì thằng bé lừa đảo
kia. Tôi cũng gạt tội lỗi cho kẻ khác mà kiếm phần hơn cho mình. Tôi
không dám hỏi thằng bé nữa, bỏ vào nhà.
Loan hạt mít cũng vừa sang:
- Đằng ấy ốm à? Sao xanh tái như tàu lá thế?
Tôi gượng gạo đáp:
- Ừ, chóng mặt…
- Thôi, đúng rồi. Đằng ấy bị cảm gió. Năm nay trời độc lắm, người
già con trẻ ốm la liệt ra.
Loan bắt tôi nằm xuống giường để nó xoa dầu đánh gió. Tôi mặc cho nó
làm vì chính tôi cũng thấy bải hoải như ốm thật. Vừa làm, Loan vừa
nói lem lém:
- Tớ vừa gặp ông Gia xong.
- Ở đâu?
- Hiệu phở. Mặt ông ấy to ơi là to. Tớ sợ không dám mua phở phải vác
bát vào chợ mua cháo lòng cho mẹ tớ.
- Sợ gì?
- Sợ chứ. Nghe Yến sếu bảo ông ấy tuyên bố trước hội đồng giáo viên
là không tìm được đứa nào nhốt ông ấy vào nhà xí và đuổi học thì ông
ấy sẽ nghỉ dạy.
- Nghỉ thì đã có người khác. Thiếu gì giáo viên thể dục.
- Nhưng ông ấy lại là em chồng bà hiệu trưởng. Anh rể Yến sếu làm
trên Ty giáo dục nói rằng ông Gia bị kỷ luật ở trường cũ phải đổi đi
Lào Cai nhưng bà Vinh xin về đây. Bà ấy mạnh cánh lắm. Hiệu trưởng
nào cũng phải sợ
Tôi lặng im. Dẫu sao, tôi cũng đã quyết định rồi. Và dù tai ương có
khủng khiếp đến đâu tôi cũng không thay đổi ý nghĩ.
Sớm hôm sau, tôi tới trường. Bố Thế ở dưới quê vừa lên. Bố đem cho
chúng tôi một gói quýt và khoai lang luộc. Cả lớp xúm xít vây quanh:
- Bố ơi, bà khoẻ chưa hả bố?
- Khoẻ rồi. Tưởng cụ chết. Nhờ châm cứu với mấy chén thuốc bắc, cụ
lại hồi.
- Cô con khoẻ không ạ?
- Cây táo vườn sau còn quả không bố?
- Luống khoai dong riềng dỡ hết chưa mà bố không đem lên đây luộc?…
Bố Thế tươi cười trả lời lần lượt những câu hỏi. Rồi bố ngạc nhiên
nhìn tôi:
- Con Bê làm sao thế? Mọi ngày mồm mép như tép nhảy cơ mà?
Loan nhanh nhẹn đáp:
- Thưa bố, Bê ốm từ chiều qua.
Bố Thế đặt bàn tay thô nháp lên trán tôi:
- Ô, trán hơi nóng mất rồi. Mày đã uống thuốc gì chưa?
Bố nhìn vào mắt tôi, hỏi. Bao giờ bố cũng chỉ có môt kiểu nhìn như
vậy: trung thực và tin cậy.
Tôi nghĩ bụng: Với một con người như bố, chỉ có quỷ sứ mới có thể
dối trá được. Cảm giác kinh hãi thoáng lướt qua như cơn gió lạnh
khiến tôi bất giác rùng mình. Rồi tôi thu hết can đảm ngẩng lên nhìn
vào mắt bố và nói:
- Bố đi về phòng đi… Con có chuyện này…
Có lẽ thầy chủ nhiệm của tôi cũng đoán được đôi phần điều hệ trọng
sau câu nói của tôi. Bố Thế không cười nữa, dắt tay tôi đi dọc hành
lang trở về phòng. Đám bạn trong lớp ngơ ngác nhìn theo.
Khi bố Thế vừa mở cánh cửa, dẫn tôi tới ghế ngồi thì tôi bỗng bật
lên khóc. Những cơn nấc dữ dội như những làn sóng bị dồn nén từ lâu
trong mạch nước theo nhau trào ra, ào ạt xối xả khiến tôi mụ mẫm cả
người. Tôi khóc như đứa trẻ con bị đòn oan, ngây ngất không chú ý
tới mọi vật xung quanh mình. Cổ họng khản đặc. Mắt sưng húp lên. Hai
ống tay áo và khoảnh bàn tay tôi tì lên ướt đầm đìa. Chưa bao giờ
tôi khóc như hôm ấy. Khi tỉnh dậy, tôi thấy mình đang nằm trên
giường bố Thế, chiếc chăn hoa mỏng đắp tới tận cằm. Giường bên kia,
thầy Bách ngáy khò khò. Bố Thế ngồi chấm bài ở bàn. Góc bàn, một
chiếc lồng bàn nhỏ đậy phần cơm. Thấy tôi ngồi dậy, bố quay lại bảo:
- Dậy xúc miệng rồi ăn cơm kẻo đói lả bây giờ.
Tôi trả lởi:
- Thưa bố vâng.
Nhưng tôi hoàn toàn không thấy đói. Giờ này, chắc mẹ tôi đã đi dạy
học rồi. Hôm nào tôi về muộn, mẹ cũng để phần cơm tôi như thế này.
Bố Thế pha một cốc nước chè nóng với đường cho tôi uống rồi gạt
chồng bài kiểm tra sang bên, ngồi đối diện với tôi.
- Lúc ngủ, mày nói mê loạn xạ… Bố phải dấp khăn ướt trùm lên trán
mới thôi. Nào, sự việc ra sao, kể cho bố biết.
Tôi bắt đầu kể hết mọi chuyện: Từ chuyện tôi và Loan thấy ông Gia
tán tỉnh chị Bội tới giờ kiểm tra chạy tôi bị trù. Cuối cùng là sự
việc sáng thứ bảy tuần trước, khi lòng căm tức đã xui khiến tôi có
hành động dại dột.
Tôi kể xong, bố đứng dậy.
- Giờ bố con ta xuống văn phòng minh oan cho cậu Xít. Rồi mọi chuyện
sẽ tính sau.
Chúng tôi xuống văn phòng. Quả nhiên, Xít đang ngồi ảo não trước tờ
giấy trắng. Trông cậu ta thiểu não. Đường gân xanh nổi phập phồng
bên thái dương. Sau tấm bàn, bà hiệu trưởng đang ghi chép gì đó lên
cuốn sổ tay bọc da lớn bằng cuốn sách vỡ lòng. Không khí lặng lẽ đến
mức nghe rõ tiếng mọt đục kèo trong chân bàn. Hai thầy trò bước vào.
Bà hiệu trưởng không ngẩng lên, cất tiếng hỏi:
- Có việc gì thế anh?
- Tôi muốn nói với chị chút việc riêng.
Bà hiệu trưởng ngước mắt nhìn. Đôi mắt lạnh và sắc của bà khiến tôi
run rẩy. Bố Thế biết tôi sợ, quay lại nói:
- Con ra ngoài sân chơi. Lát nữa bố gọi.
Tôi chào bà hiệu trưởng, chạy ra ngoài. Chừng năm phút sau, Xít ra
theo. Cậu ta rón rén lại gần gốc cây phượng, nơi tôi đang ngồi:
- Này, bạn đã nhốt lão Gia đấy à?
Cậu ta cất tiếng hỏi, vừa rụt rè vừa hồ nghi.
Tôi gật đầu, không đáp.
Xít đi vòng quanh, vẫn bằng dáng điệu rón rén e sợ, rồi sau khi thở
một hơi dài, quả quyết, cậu ta gọi tôi:
- Bạn này.
Tôi ngước mắt lên:
- Gì cơ?
Xít rón rén ngồi xuống cạnh tôi:
- Bạn là con gái mà ghê thật đấy. Bạn không sợ bà Vinh đuổi học hay
sao?
- Có sợ.
- Thế sao bạn lại dám nhận tội?
- Tôi không nhận thì anh bị đuổi học thay tôi. Mà anh bị đuổi học,
mẹ anh sẽ buồn phiền mà chết.
Xít im bặt. Rồi lát sau, cậu ta khe khẽ nói:
- Cám ơn bạn nhé.
Tôi đáp:
- Chẳng cần đâu.
Cậu trai tần ngần:
- Có cách nào thoát được không nhỉ?
Tôi lắc đầu:
- Chẳng cần. Tôi làm, tôi chịu.
Xít cau mày:
- Bạn biết tính bà hiệu trưởng chứ? Mà lão Gia lại là em ruột của
chồng bà ta.
Tôi gật đầu:
- Biết rồi.
Xít hạ giọng thì thầm:
- Bạn có biết từ hôm qua tới giờ bà Vinh tra khảo tôi những gì
không? Cứ thế này kéo dài một tuần chắc tôi ốm chết…
Tôi nói:
- Tôi thì chẳng sợ tra khảo. Tôi nhận rồi mà.
Xít ái ngại nhìn tôi, thở dài sườn sượt:
- Thế cũng chẳng sung sướng gì hơn. Bạn sẽ bị buộc thôi học ngay
trong vòng một tuần.
- Đành vậy thôi.
Tôi đáp và quay đi. Tôi không muốn Xít nhìn thấy cặp mắt sưng mọng
của mình. Chưa bao giờ tôi khóc trước mặt bạn trai. Xít cũng đoán
được ý tôi. Cậu ta băn khoăn đi đi lại lại một hồi rồi chụp mũ lên
đầu, chào tôi ra về.
Nửa giờ sau, bố Thế gọi tôi:
- Con hãy nói cho cô Vinh nghe mọi chuyện.
Bố ngồi bên tôi. Tay bố nắm cánh tay tôi khiến tôi vững dạ. Tôi đủ
minh mẫn để thuật lại đầy đủ những sự viêc dẫn tói hành động cuối
cùng của mình. Bà hiệu trưởng vừa nghe vừa gõ nhịp chiếc bút lên
bàn. Tôi nói xong, bà hất bàn tay lên:
- Cho cô ra ngoài.
Tôi đi ra. Bố Thế còn ngồi lại nói chuyện với bà cho tới khi trời
tối. Sương buông xuống, phủ trên đồi bạch đàn. Cánh đống xung quanh
mờ mờ như bị xông khói. Bố Thế lấy xe đạp đưa tôi về nhà. Bố dặn tôi
đừng nói cho mẹ tôi biết chuyện.
Tôi hôm đó, ngồi trước ánh đèn, tôi bỗng thấy chua xót tràn ngập tâm
hồn. Tôi là một học sinh gương mẫu, tôi muốn mãi mãi là trò giỏi, là
vận động viên xuất sắc, là diễn viên không chuyên nghiệp nổi danh
của tỉnh, tên tôi mãi mãi ghi trên tấm bảng danh dự của trường… Lạy
trời, ông giáo thể dục này từ đâu tới phá vỡ cuộc sống tươi sáng
ngọt ngào của tôi? Vì sao cuộc đời lại có những con người khả ố thế
và vì sao lòng căm tức lại xui khiến tôi có những hành động liều
lĩnh như vậy?… Không một nàng tiên nào giáng thế để trả lời những
câu hỏi cho tôi.
Chương 7
NHỮNG NỖI BẤT NGỜ CAY ĐẮNG VÀ ÊM DỊU
Trong bản kiểm điểm, tôi giải thích hành động của mình có hai duyên
cớ: Thứ nhất, đáp lại sự hành hạ tàn nhẫn của ông giáo. Thứ hai,
phản đối thái độ bất chính của ông ta với nữ sinh. Bà hiệu trưởng
đọc xong nhưng chưa trả lời. Bà cần nghiên cứu, xác minh. Và trong
thời gian chờ đợi ấy, bà buộc tôi nghỉ học. Bố Thế và thầy Bách đấu
tranh rất kiên quyết và nhẫn nại nhưng không thể lay chuyển quyết
định của bà. Bà muốn chứng tỏ cho mọi người thấy bà là hiệu trưởng
và quyền quyết định tối cao của bà là một thứ tài sản bất khả xâm
phạm. Những ngày bị buộc nghỉ học, tôi gầy tọp đi. Bạn hãy tưởng
tượng một ngày nào đó, người ta nói với bạn rằng: Mày sẽ được cho
ăn, cho uống, nhưng bị nhốt vào chuồng sống chung với lũ bò và sống
như thế cho tới mãn kiếp… Tôi cảm thấy mình bị hành tội đúng như vậy
trong những ngày chờ phán xử.
Mẹ tôi không dung tha cho bất cứ hành động hoặc lời lẽ nào của tôi.
Mẹ tôi chỉ nhắc đi nhắc lại điều duy nhất:
- Bất luận lý do gì, thầy vẫn là thầy, trò vẫn là trò. Trò dám chống
lại thầy là tội không dung thứ.
Hoặc là mẹ tôi cố tình không hiểu. Hoặc là mẹ không bao giờ hiểu
rằng đôi khi số phận áp đặt cho ta một ông giáo không đủ tư cách làm
thầy, thậm chí không đủ tư cách làm một người đứng đắn và lương
thiện. Vì thế mọi lỗi lầm mẹ trút cả lên đầu tôi:
- Con là đứa phá hoại luân lý gia đình. Bốn đời nhà ta làm nghề dạy
học mà chưa gặp đứa học trò bất trị nào như con. Con phải hiểu rằng
người học trò ngoan chỉ có mỗi nhiệm vụ: lắng nghe và học hỏi thầy…
Tôi buồn rũ, chỉ ngồi im. Nhưng có lúc nổi khùng, tôi vặn lại mẹ:
- Nếu con là con trai mà thực hiện đúng lời mẹ dạy, thì con đã theo
ông Gia đuổi theo các cô gái tán tỉnh suốt ngày… Liệu mẹ có chịu
không?
Lúc đó, mẹ lại quát to:
- Con nhà mấy dạy, không được cãi lý với mẹ.
Tôi nói:
- Nhưng thưa mẹ, mẹ vừa bảo con phải học hỏi người thầy. Vậy con đã
nghe thấy thầy Gia nói với chị Bội rằng…
Tôi nhắc lại nguyên văn những câu tán tỉnh ba xu của ông giáo thể
dục. Mẹ tôi bí thế, lại đùng đùng quát lên:
- Giỏi thật, cho chúng mày tiền đi ăn kem, lại đứng nghe những
chuyện nhảm nhí. Ngữ này không đánh cho no đòn thì cũng đến nước hư
hỏng thôi. Bê, nằm xuống đây!…
Mẹ tôi quất roi mây lên mông tôi, vừa thở hổn hển. Thoạt đầu, tôi
còn khóc vì đau đớn. Sau, tôi không khóc nữa. Tôi cảm thấy mình trở
nên lỳ lợm. Tôi nằm im đếm những roi đòn rơi xuống và thầm nói:
- Lão Gia ác độc, cầu cho lão chết đi, cầu cho lão chết…
Tôi không giận mẹ, mặc dầu mẹ đánh tôi quá nhiều và thật vô lý. Đánh
xong, mẹ ném roi, ngồi ôm mặt khóc. Dường như mỗi roi đòn mẹ quât
lên mông tôi thì một ngọn roi vô hình nào đó cũng quất xuống trái
tim mẹ và khiến mặt mẹ co dúm lại vì đau khổ. Đêm tới, khi thấy tôi
ngủ say, mẹ rón rén tụt quần tôi ra, xoa dầu lên những lằn roi bỏng
rát. Tôi thức giấc,nằm thật yên, nhưng nước mắt rơi ướt đầm gối vì
thương mẹ và thương cả thân mình.
Giấc ngủ kéo dài mười hai giờ liền. Mãi gần trưa hôm sau, tôi mới
tỉnh. Lúc ấy khoảng mười giờ rưỡi. Mẹ tôi đi đâu đó, khoá cửa ngoài.
Nắng lọt qua cửa sổ kẻ lên mặt chiếu. Vệt nắng khiến tôi nhìn ra
những đồ đạc quen thuọc hàng ngày: bàn ghế, tủ treo quần áo, tủ chè
gương mặt đã ố, con búp bê ngồi trên xích đông, cái đầu sư tử treo
trên tường mua ngày Tết Trung Thu năm tôi lên bảy… Tất cả đều xám
xịt và buồn tẻ.
Căn phòng tối lờ mờ như nhà tù. Còn tôi, tôi là một tù nhân. Đúng
tôi là một tù nhân. Nhưng không phải tù hình sự - đám lưu manh
chuyên móc túi, cướp giật, lừa đảo… Tôi là tù chính trị. Nếu sinh
vào thời cách mạng, rất có thể tôi sẽ trở thành Tô Hiệu, Lý Tự
Trọng… Các chiến sĩ cách mạng đã chẳng chống lại lũ thực dân áp bức
dân lành đó sao? Còn tôi, tôi không thể chống thực dân Pháp vì chúng
đã cút về nước và cách mạng đã thành công rồi.Nhưng tôi chống lại
ông Gia là kẻ độc ác, hành hạ trẻ nhỏ, cưỡng bức phụ nữ… Ít ra, việc
làm của tôi cũng khiến lão phải e dè hơn trước. Và sự hả hê không
che giấu của học sinh trong trường đã chẳng nói lên điều đó sao?…
Nếu tôi biết căm ghét và phản kháng cái xấu, tôi có thể trở thành
người chiến sĩ khi nước nhà gặp cơn nguy biến… Tôi tự an ủi và không
buồn chán nữa. Tôi vừa định ngồi lên thì có tiếng khoá lách cách. Mẹ
về. Nhớ lại những đòn roi tối qua, tôi lại nằm xuống giường. Mẹ toi
cất túi xong, vội vã tới hỏi:
- Bê đã dậy chưa con?
Tôi im lặng.
- Bê đã tỉnh chưa con?
Mẹ tôi hỏi lần thứ hai, hốt hoảng hơn. Tôi không trả lời.
- Trời ơi, con bé ốm mất rồi! … - mẹ kêu lên, ôm chặt lưng tôi - khổ
thân con bé, trời ơi!
Tôi co cứng người lại để mẹ không thể xoay mặt tôi ra ngoài. Giờ
đây, những giọt nước mắt nóng hổi đang theo nhau lăn xuống gối.
“Không được khóc, chẳng chiến sĩ nào khóc trong nhà tù cả… Mày phải
nín ngay đi…” – tôi thầm giận dữ mắng mỏ mình.
Mẹ tôi vẫn ôm tôi, vừa lay vừa nói:
- Con ơi, xôi cô Vân Anh cho kia kìa, cả cháo sườn mẹ mới mua ở nhà
bà Soi về còn nóng hổi… Con ăn một tý kẻo ốm bây giờ, con ơi…
Tôi nghĩ: “Ăn bây giờ là hèn. Ăn bây giờ là chấp thuận ý kiến của
mẹ. Mẹ buộc mình phải kính trọng lão Gia và hoàn toàn nhận lỗi…”
Mặc cho mẹ nài nỉ, tôi vẫn nằm im, quay mặt vào tường. Rồi một ý
nghĩ như cơn gió lướt tới: Tôi tuyệt thực. Đúng rồi… ngày xưa, các
chiến sĩ Nam Kỳ khởi nghĩa đã chẳng nằm nghiêng, không cử động,
không ăn uống mười lăm ngày liền và đã anh dũng chết đó sao?… Các
nhà hoạt động chính trị đã chẳng tuyệt thực hàng tuần trong nhà tù
Sơn La cho tới khi thực dân Pháp phải thực hiện yêu sách đó sao?…
Tại sao mình lại không học tập được những con người dũng cảm đó?… Ý
nghĩ đó khiến tôi như lớn hẳn lên, vững chãi và đầy uy lực của một
người chiến thắng. Tôi quay mặt lại, mở mắt nhìn mẹ và nói dõng dạc:
- Mẹ không thể nào mua chuộc được con. Con tuyệt thực.
- Cái gì? - mẹ tôi trợn tròn hai mắt, dường như không tin ở tai mình
nữa – Con nói gì?
Tôi dằn từng tiếng:
- Con nói rằng con tuyệt thực. Tuyệt thực để bảo vệ chân lý.
Mẹ tôi đứng dậy, ngơ ngác nhìn tôi như nhìn người từ âm phủ chui
lên. Biết mẹ chưa hiểu, tôi nói tiếp:
- Từ nay con sẽ nằm nghiêng, không ăn uống, không cử động cho tới
khi áo quần thối rữa. Con sẽ chết, giống như cácchiến sĩ Nam Kỳ khởi
nghĩa trong khám Chí Hoà ngày trước. Mẹ tôi lặng đi vài giây. Rồi
sau khi hiểu ra mọi chuyện, mẹ bật khóc:
- Hu hu hu… Trời đất ơi… Khổ thân tôi… Tôi cũng chết đi cho rồi…
Mẹ khóc như đứa trẻ bị đòn, yếu đuối và thơ ngây. Tôi mủi lòng, định
dỗ dành mẹ. Nhưng lúc đó tôi đã nằm nghiêng quay mặt vào tường như
đã dự định nên tôi không thể quay ra.
“Phải cứng rắn, phải đấu tranh cho chân lý…” – Tôi tự hạ lện cho
mình. Và cứ thế, tôi nằm yên lặng. Mẹ tôi hết khóc lóc dỗ dành lại
nhờ Loan hạt mít, Yến sếu tới khuyên can tôi. Tôi đã chiến thắng
được những phút yếu lòng. Tôi đã chiến thắng được mùi thơm của cháo
sườn, cháo gà hạt tiêu, phở bò, xôi nén với chả…
Khoảng năm giờ chiều, vì mệt, tôi nằm thiu thiu ngủ. Chợt nghe tiếng
đập cành cạch của tấm nhôm rách bên ngoài. Bố Thế đã dắt con ngựa
già lọc cọc tới – tôi nghĩ bụng. Đúng như vậy, chưa đầy một phút sau
đã có tiếng gọi:
- Cô Hạnh có nhà không?
Mẹ tôi dưới bếp cuống quýt chạy lên. Thấy bố Thế, mẹ tức tưởi khóc:
- Em mong anh suốt từ trưa. Cả ngày nay, nó chẳng chịu ăn uống gì.
Nó bảo em là nó sẽ tuyệt thực để đấu tranh cho chân lý. Nó kiên
quyết nằm úp mặt vào tường đến khi nào thối hết da thịt, chết như
những chiến sĩ Nam Kỳ trong khám Chí Hoà. Mấy chị hàng xóm khuyên em
nên mời sư sãi trên chùa về nhà cúng giải ma… Mà em thì sợ rằng…
Bố Thế ngắt lời:
- Cô cứ bình tĩnh. Đừng có cuống lên như thế…
Nghe tiếng động, tôi biết rằng bố đã bỏ cái xắc da to tướng xuống và
kéo ghế ngồi. Mẹ tôi hấp tấp đi lại, chừng như để kiếm trà pha nước.
- Mời anh xơi nước. Trà ướp sen cô Vân Anh mới cho em.
Bố Thế uống trà, khà một tiếng theo thói quen của bố mà chúng tôi
biết từ lâu. Rồi bố ề à cất tiếng:
- Cô ăn cơm chưa? Chạy ra phố mua cho tôi mấy chiếc bánh ngọt. Mặc
tôi ở đây với con Bê.
- Vâng, em đi ngay bây giờ.
Mẹ tôi hối hả đi ngay tức khắc, tiếng xe đạp tanh tách xa dần. Tôi
hé mắt nhìn, thấy đôi vai to ngang của bố Thế in lên bóng tường.
Chao ôi, mới nghỉ học mấy ngày mà tôi nhớ bố quá thể. Nỗi nhớ người
thầy thân thiết hoà trong nỗi nhớ lớp, nhớ trường. Bởi thế khi thầy
vừa cất tiếng gọi: “Bê, dậy bố bảo…” tôi liền nhổm ngay dậy và oà
khóc.
Thầy ôm tôi vào lòng và rút chiếc khăn tay sặc mùi thuốc lào lau
nước mắt cho tôi:
- Sao mày không chịu ăn uống gì hả con?… Đúng là đồ ngốc.
Tôi nức lên to hơn, không nói được lời nào.
Bố Thế hỏi:
- Bố nghe con Loan nói mày nhất quyết tuyệt thực phải không?
Nói rồi bố cười hì hì, đúng như tiếng cười của một ông già hiền
lành.
- Ngốc lắm – bàn tay ấm và nham nháp của bố xoa lên tóc tôi – ngày
xưa bố cũng đã tuyệt thực khi ở trong nhà tù của kẻ địch chứ không
ai tuyệt thực trong ngôi nhà êm ấm của mình. Mày có hiểu tuyệt thực
là gì không? … Một biện pháp đấu tranh chống kẻ địch. Vậy mà con lại
đem biện pháp đó áp dụng với người thương yêu mình nhất trên đời.
Như vậy có đúng là điên không?…
Tôi vẫn úp mặt vào lòng bố Thế và không nhìn rõ bố đang cười. Nhưng
tôi hình dung được trước mắt những chiếc răng thưa đều và ám đen
khói thuốc của bố. Tôi cố cãi một câu chiếu lệ:
- Nhưng tại sao mẹ con cứ bắt con phải con phải kính trọng, học tập
ông Gia.
- Phải kính trọng, học tập các thầy các cô giáo nói chung - bố Thế
ngắt lời tôi – vì các thầy các cô là người dạy dỗ, truyền đạt cho
mình những kiến thức về cuộc sống. Không có kiến thức, sao con người
tốt đẹp và trưởng thành lên được?… Nhưng trong số những cá nhân lãnh
trách nhiệm làm thầy, làm cô… cũng có người không đoan chính. Bố
biết vậy… Nhà trường, các thầy cô có trách nhiệm giúp đỡ những giáo
viên có khuyết điểm. Còn học sinh không được làm điều gì xúc phạm
đến thầy cô giáo.
Tôi ngẩng lên, nhìn thầy. Ánh mắt hiền hậu của thầy lộ rõ vẻ buồn
bực.
- Bố biết, tay Gia này…
Tôi ôm chặt bố Thế thân yêu của mình. Phải, bố đã hiểu tất cả, bố đã
công bằng. Tôi chỉ chờ vào điều ấy thôi…
Bố vuốt tóc tôi, xoa vầng trán tôi và nói tiếp:
- Con xử sự với ông Gia như vậy là con có lỗi. Đáng lẽ con phải cho
bố biết mọi sự. Con phải kiên nhẫn chờ bố ở dưới quê lên.
Bố nhìn tôi thở dài, mắt bố rất buồn. Tôi cũng rưng rưng trong dạ.
Biết vậy, bố khẽ nói:
- Thôi, dẫu sao thì mọi chuyện cũng qua rồi. Giờ phải ăn đi chút gì
đã. Mới bằng con ếch đã tưởng đấu được với bò. May mà không ốm nặng.
Đúng lúc ấy, mẹ tôi hớn hở dắt xe vào, đặt gói bánh ngọt lên bàn. :
- Anh xơi bánh với nước chè. Bánh mới còn mềm lắm.
Bố Thế đeo chiếc xắc da to tướng lên vai:
- Thôi để bữa khác. Giờ thầy trò tôi ra phố đã.
Rồi bố đèo tôi đi ăn phở. Ăn xong, thầy trò tới hàng nước uống chè
tươi nóng với kẹo bột, chè lam. Bố nói toàn chuyện vui cho tới khi
đưa tôi về nhà, bố mới dặn:
- Chiều mai cô Vinh gặp đấy.
Rồi bố về trường. Còn tôi nằm nghĩ tới buổi chiều mai. Đó là thời
khắc quyết định số phận mỏng manh của tôi.
Vào buổi chiều ghê sợ đó, nắng gay gắt như thể giữa tháng sáu ta.
Chiếc đồng hồ quả lắc cổ lỗ trong văn phòng kêu tích tắc, tích tắc
một cách nặng nhọc và cáu kỉnh. Cái quả lắc hoen rỉ đung đưa đều đặn
trước mắt tôi. Tôi giương mắt nhìn nó trong khi chờ đợi bà hiệu
trưởng phán xét. Bố Thế ngồi bên tôi, vẻ trầm tĩnh nhưng buồn. Dường
như bố đã thấy trước một kết thúc không mấy tốt đẹp đang chờ đợi
tôi. Tôi cảm thấy điều đó và thêm lo lại. Tim nhảy trong lồng ngực
như một con chim bị trói. Tôi phải bấu chặt mép bàn để giữ bình
tĩnh. Bà hiệu trưởng ngồi im lặng lật từng tờ giấy trong tập hồ sơ
dày cộm. Hồi lâu, bà rút ra bản kiểm thảo của tôi, nói:
- Đọc lại đi
Giọng bà lạnh lẽo khiến tôi tái tê cả người. Bố Thế ngồi im như
tượng, nhìn qua ô cửa về phía cánh đồng xa tít tắp. Hình như bố đang
nghĩ tới điều gì đó không liên quan gì tới bà hiệu trưởng, bản kiểm
điểm và bầu không khí nghiêm trọng trong căn phòng này. Tôi chợt
thấy bơ vơ như đứa trẻ bị lạc trong bãi tha ma đêm, hoảng hốt, run
rẩy. Trước mặt tôi, những dòng chữ xanh đậm trên bản kiểm điểm nhảy
nhót, chập chờn. Một giọt mực rơi giống hệt con nhặng đậu lên trang
giấy. Ngay chữ ký dưới cùng cũng xa lạ như thể chữ ai đó, chứ không
phải chữ ký của mình…
- Đọc kỹ chưa?
Bà hiệu trưởng cất tiếng hỏi đột ngột khiến tôi giật nẩy người. Ngón
tay trỏ của bà đưa lên, ấn vào sống chiếc kính cận đang tụt xuống
chóp mũi. Rồi bà nhìn xoáy vào mặt tôi. Mắt bà trơ trơ như hai hạt
nhãn nước, không giận giữ, không xót thương, không căm ghét. Cả đến
sự giễu cợt cũng không. Trước cặp mắt vô tri của bà, tôi thấy mình
bị tan vụn ra như cục bột ngâm nước. Chưa bao giờ tôi bắt gặp một
ánh mắt nhọn như kim, tàn nhẫn một cách bình thản và ngọt ngào như
thế.
- Em nhớ rõ những gì đã viết chứ? – bà hỏi từ tốn.
- Thưa cô, vâng. – Tôi trả lời.
Bà hiệu trưởng hơi nhếch mép, môi trên đụng đậy. Hình như bà mỉm
cười thì phải. Rồi gõ ngón tay xuống bàn, bà dõng dạc goi:
- Nguyễn Ngọc Bội, vào đây.
Cánh cửa sau lưng bà mở ra lẹ làng, không tiếng động như được làm
phép. Một bàn tay trắng nõn vịn vào khuôn cửa. Rồi sau đó, một thiếu
nữ bước ra:
- Thưa cô, em đây ạ.
Chị Bội trả lời. Đúng là chị Bội. Nhưng mặt chị trắng phếch, nhợt
nhạt và đôi mắt đen sập xuống, như bị cắm vào từng bước đi ngắn, e
dè như bước đi của ông già mù hát xẩm.
- Mời em ngồi… - bà hiệu trưởng kéo ghế - Hôm nay, nhà trường mời em
tới để xác minh một sự việc. Trước tiên, tôi yêu cầu em phải nói
thật, hoàn toàn sự thật – Bà dằn từng tiếng. – Em rõ chưa?
- Thưa cô, rõ ạ.
Chị Bội đáp, giọng run run và mặt càng nhợt ra như tờ giấy.
Bà hiệu trưởng gõ ngón tay lên bàn:
- Tốt lắm. Bây giờ, em nghe cho kỹ càng: Thầy Gia có tán tỉnh, bờm
xơm với em không?
- Thưa cô, không ạ.
- Thầy Gia có biểu hiện thiếu đứng đắn với em không?
- Thưa cô, không ạ.
- Thầy Gia có tới rủ em đi xem phim Pha-ti-ma không?
- Thưa cô, không ạ.
- Thầy Gia có vuốt tóc, ôm lưng em không?
- Thưa cô, không…
Cứ mỗi câu trả lời, đầu chị Bội lại cúi thêm xuống. Cuộc đối thoại
xong, mặt chị gằm xuống sát mặt bàn. Mỗi câu trả lời của chị giống
như những viên đại bác bắn vào đầu tôi, khiến tất cả nát vụn, tan
tành. Tôi không nghĩ được gì nữa. Óc tôi như khối bùn nhão, lạnh
tanh. Tôi chỉ cảm thấy mặt mình từ nóng phừng phừng chuyển sang giá
ngắt. Bàn tay tôi tuột từ mép bàn xuống gối, run bần bật. Còn quả
lắc đồng hồ thì đảo đi đảo lại như cái đầu trọc của lão già trên
chùa Đông Na. Cuối cùng, không hiểu vì sao, tôi đã thu hết sức lực
mà hét lên:
- Chị Bội nói điêu, chị Bội nói dối!..
Bà hiệu trưởng quắc mắt lên, nhưng giọng lại rất mềm dẻo:
- Em ngồi xuống, không được vô lễ…
Nói xong, bà ta quay sang chị Bội:
- Em hãy trả lời trước tôi, thầy Thế và em Bê. Những điều em nói
đúng hay sai?
Tôi nhìn trân trân vào cái má trắng bợt của chị Bội. Những sợi tóc
mai rung rung:
- Thưa cô em nói đúng.
Chị Bội trả lời không nhìn ai.
Có cái gì đó vỡ oà trong tôi. Nỗi đau quặn lên, cồn cào gan ruột. Nó
khiến tôi rã rời như biến thành những hạt cát. Tôi không thể gào
thét được, thậm chí không thể gọi được tên một người thân thiết nào
đó tới với mình. Những viên gạch men lát nền nhà quay chậm chậm dưới
chân tôi. Rồi tốc độ quay mỗi lúc mỗi nhanh như cánh chong chóng
trên đỉnh đồi. Chúng khiến tôi chóng mặt, đầu óc quay cuồng. Một
tiếng còi xe lửa rít lên trong óc, và tôi rơi vào trong cái vòng
quay tròn dưới chân tôi…
Tôi ốm năm ngày thì được biêt hội đồng nhà trường họp thi hành kỷ
luật tôi. Mức kỷ luật bà hiệu trưởng để ra là mức kỷ luật cao nhất
đối với một học sinh: Đuổi học, cảnh cáo và thông báo toàn thể các
trường cấp ba trong tỉnh; hạnh kiểm 0 điểm. Lý do kỷ luật: Vu khống
và có hành động trả thù giáo viên.
Tất cả bạn bè của tôi đã thay nhau theo dõi các cuộc họp. Tụi nó kể
với tôi rằng cuộc đấu tranh giữa bố Thế và bà Vinh vô cùng gay go.
Cuối cùng, bà Vinh lấy quyền thủ trưởng quyết định vì ý kiến ủng hộ
hai bên ngang nhau, không hơn kém một phiếu. Tôi đã chuẩn bị tinh
thần chịu đựng kỷ luật cao nhất là đuổi học. Nhưng tôi không ngờ bà
hiệu trưởng còn kèm theo điều kiện thông báo toàn bộ các trường cấp
ba trong tỉnh. Như vậy, bà vĩnh viễn buộc tôi thôi học vì không một
trường nào dám nhận tôi nữa. Bà đã chặn tất cả các ngả đường phía
trước đời tôi. Hẳn bà biết cậu ruột tôi có ý định đem tôi lên một
trường huyện cho học tiếp. Bà dập tắt nốt ngọn lửa cuối cùng trong
hy vọng của tôi.
Tôi gục đầu xuống hồi lâu, không ngẩng lên được. Sau đó, thay nỗi
thất vọng và buồn tủi là lòng hờn oán. Tôi hỏi:
- Còn lão Gia thì sao?
Tụi ban hỏi lại:
- Thì sao là nghĩa gì?
Tôi đáp:
- Lão ta có bị kỷ luật, phê bình gì không?
- Làm gì có chuyện ấy. Lão ta còn được thể làm già, khăng khăng đòi
đi nơi khác. Nhiều thầy cô ghét lão nhưng không dám nói. Riêng bố
Thế với thầy Bách chỉ trích lão thì bị bà Vinh phê bình là nuông
chiều học sinh, thành kiến với đồng nghiệp… Mấy hôm nay, mặt lão
vênh lên trông đáng ghét lắm.
Tôi lặng im, tức thở như bị ngạt khói. Trước mặt tôi bỗng hiện lên
con đường quen thuộc dẫn tới trường. Nắng rực rỡ. Những cây kim
phượng hoa vàng và những cây phượng vĩ hoa đỏ chót nở dọc lối đi.
Sân trường xanh mướt cỏ. Nơi ấy cơ man nào cỏ may, cỏ chỉ. Chúng tôi
đã ngắt cọng cỏ, cắm vào đuôi những con chuồn ớt, chuồn ngô rồi thả
chúng lên trời. Thế là hàng chục chiếc phi cơ óng ánh sắc màu lượn
trên khung trời lơ, trong như lọc. Sát sân cỏ là hội trường với hai
chùm đèn bóng trắng. Các đêm liên hoan đã diễn ra ở đó. Nào tiếng
ghi-ta, tiếng phong cầm, tiếng vi ô lông, tiếng sáo… Nào váy áo lụa
xanh, lụa hộng rực rỡ và những chiếc mũ dán giây tráng kim lấp lánh
dưới ánh đèn… Chẳng lẽ không bao giờ tôi còn được thấy chúng nữa
sao?… Cả cái bàn bóng một bên vênh, một bên có khe nứt, bóng đi xiên
vẹo và luôn gây cho ta những cú thua oan. Cả cái phòng thí nghiệm có
ông già mặc áo bờ lu trắng, mũi khoằm khoằm và luôn hăm dọa lũ học
trò nhưng lại hiền như đất. Rồi những dãy chai lọ hình thù lạ lẫm,
những chiếc bình cong cổ, những ống nghiệm làm phản ứng hoá học,
chum a xít sun-phua-ríc có hình chiếc đầu lâu với hai ống xương bắt
chéo bên trên, bộ xương người bằng thạch cao nhe hai hàm răng trắng
nhởn trong bóng tối, lọ phoóc môn ngâm bào thai người… Rồi dãy hành
lang lát gạch men vàng, những tấm kính cửa sáng bóng mà ngày ngày
chúng tôi soi gương vào đó, chiếc bàn dài đầy vết mực và có các hình
vẽ nguệch ngoạc, ngăn kéo dưới bàn là nơi chúng tôi bí mật giấu ô
mai và ngô nướng ăn vụng trong giờ học, tấm bảng đen có ô nhỏ bên
trên ghi sĩ số từng ngày… Thế giới thân yêu tràn ánh sáng và tiếng
cười đó sẽ mãi mãi rời xa tôi sao? Tôi là người sinh ra để gắn bó
với nó. Tôi yêu nó đến nỗi trong mỗi vụ nghỉ hè, dù bao nhiêu trò
chơi vui thú lôi cuốn, tôi vẫn không quên được màu phấn trắng, mùi
hăng hăng bụi bặm của phòng thí nghiệm và không khí hồi hộp trước
mối tiết kiểm tra bài. Ngôi trường đó có bao nhiêu dấu vết của tôi.
Này nhé, cái cọc lưới bóng bàn tôi đã xin Ban thể dục thể thao tỉnh.
Đôi vợt mút là phẩn thưởng cây vợt trẻ của tôi. Chiếc bình cắm hoa
lớn nhất thường dùng trong ngày lễ là phần thưởng diễn viên văn nghệ
không chuyên của Ty văn hóa tỉnh. Còn bồn hoa trước văn phòng là do
cả lớp tôi trồng mùa thu năm ngoái. Hôm trồng hoa, tôi đã bị cảm
nắng một trận nên thân…
Những kỷ niệm tha thiết quá. Chúng khiến tôi đau đớn nhiều hơn. Nước
mắt trào qua bờ mi, lăn xuống tận cằm. Tôi để mặc cho nước mắt rơi
ướt đẫm vạt áo.
Hôm sau chủ nhật, tôi vừa thức dậy thì lũ bạn đã kéo tới đầy cửa.
Chúng gào ầm ĩ:
- Bê ơi, dậy mà nghe tin mừng.
- Bê ơi, có chuyện quan trọng lắm…
Tôi đứng dậy mở cửa vì mẹ đi chợ từ sớm đã chốt then ngang thay
khóa. Tụi bạn xô vào, xúm quanh giường. Rồi chúng tranh nhau kể cho
tôi nghe. Tiết học thứ năm hôm qua, bà hiệu trưởng cho văn thư đánh
máy quyết định kỷ luật của tôi gửi đi các nơi. Trong lúc bà đang
đọc, Ly bước vào nhận rằng chính mình mới là người nhốt ông Gia vào
nhà xí. Vũ Thị Bê chỉ khiêng giùm cậu ta chiếc bàn lim thôi. Nhưng
chị ấy đã đứng ra nhận tội vì thương Ly gầy gò, ốm yếu và nếu bị
đuổi học sẽ không đủ sức chịu những trận đòn của ông bố…
Tụi bạn kể xog, giương mắt nhìn tôi đầy vui vẻ và tò mò. Tôi im
lặng. Tôi không ngờ chú bé loẻo khoẻo, thể xác ốm yếu, có bộ mặt ủ
ê, sầu não đó lại tốt đến thế. Niềm thương mến tràn ngập tâm hồn
khiến tôi rung cảm.
Loan hỏi:
- Đằng ấy mừng quá phải không?
Tôi gật đầu:
- Ừ.
Loan tức tối:
- Thế mà bà Vinh xử oan đằng ấy.
Tôi lắc đầu:
- Không oan đâu.
Tụi bạn trợn tròn mắt nhìn tôi:
- Sao lại thế?
Tôi bảo:
- Tớ mừng vì điều khác chứ không phải vì thoát được kỷ luật của bà
Vinh.
Tối hôm đó, tôi đến nhà Ly.
Ông bố say rượu của nó đang ngồi ngất ngư trước một mâm bún lòng.
Trống quân, trống quýt, trống còi,
Tôi chẳng lấy nó, nó đòi lấy tôi…
Ông ta ngửa cổ lên trần nhà, cất giọng khê nồng nặc hát. Hát xong,
ông hét thằng con út đang đứng gần cửa:
- Cu, con mẹ sề của mày đâu rồi?
Thằng bé lên năm nhưng mặt già câng trả lời:
- Bà bô sang nhà mụ đồng Son. Có thuê cu đi gọi thì đưa năm hào.
Ông bố móc túi, tìm đồng năm hào ném cho con:
- Này, con mẹ sề mày đi với ai hả?
Đứa con giơ từng ngón tay đen nhẻm, móng tay đầy ghét lên đếm:
- Bà Năm Nghĩa này, bà Tư này, bà Nhàn này… Cả chú Lợi công văn nữa
này… Nhiều lắm…
Ông bố gầm lên, đôi mắt lồi như hai quả nhót chín:
- Tiên sư nhà nó, rượu nhạt như nước ốc, mắm tôm chấm lòng thì không
chanh, không ớt… Nó bỏ đi đàn đúm với cái thằng đĩ đực ấy. Ông thì
ông cho cả nút ăn dao…
Ông ta giơ chén rượu lên cao, đập cộp một cái thật mạnh. Chiếc chén
thủy tinh vỡ vụn trên tấm phản gỗ lim. Mảnh thủy tinh đâm vào tay
người đàn ông nát rượu. Ông ta giơ bàn tay ròng ròng máu lên và kêu:
- Ly, Ly đâu? Cha tiên sư mày, chết ở đâu rồi?
Tôi nép vào cánh cửa, sợ hãi nhìn những giọt máu đỏ tươi từ bàn tay
người đàn ông rớt trên mặt gỗ. Trước đây tôi vẫn nghe dân thị trấn
đồn cặp vợ chồng này vô cùng hung bạo, đánh đập nhau luôn luôn và
hành hạ thằng bé mồ côi mẹ không tiếc tay. Tuy thế, tôi cũng chưa
thể hình dung rằng trên đời có một người cha gớm ghiếc đến như vậy.
Người đàn ông say rượu vẫn gào:
- Cha con đẻ mẹ mày! Ly, Ly… y… y…
Lúc bấy giờ, chú bé hớt hải chạy lên:
- Bố gọi con ạ.
Ông bố quát:
- Không gọi mày thì gọi con chó à?
Nói xong, ông ta co chân đạp thốc vào bụng đứa con, văng ra một câu
chửi tục. Ly thót bụng lại như con tôm, lùi ra sau rất nhanh nên cú
đạp tàn bạo kia rớt xuống cặp đùi gầy gò của nó. Hẳn là Ly đã quen
tránh đòn chứ như tôi mà bị đạp vậy thì chỉ đứng thưỡn ra hứng trọn
cú đòn và sau đó lên bệnh viện ngay.
Trong nhà, ông bố gào:
- Kiếm giẻ băng tay cho tao.
Đứa con trai lẳng lặng vào buồng. Lát sau, Ly mang ra mảnh giẻ cũ
với nhúm thuốc lào. Nó cầm bàn tay ông bố lau hết máu, rịt thuốc rồi
lấy giẻ băng kín lại. Ông bố đưa bàn tay đã băng cẩn thận lên nhìn,
vẻ mặt dịu đi. Ly thu dọn những mảnh thủy tinh vỡ, lấy giẻ ướt lau
vết máu trên phản rồi ra sân. Lúc đó, cậu ta mới thấy tôi. Nó nhìn
trước nhìn sau rồi chạy ra:
- Đằng ấy đến từ bao giờ?
Tôi không trả lời, hỏi lại:
- Ông ấy đá đằng ấy có đau không?
Ly ấp úng:
- Không… tớ tránh được.
Tôi cau mày:
- Tội nghiệp!... Bố đằng ấy ác quá...
Ly im lặng. Lát sau, nó dịu dàng nói:
- Ông bố tớ ấy mà… ông ấy cũng chẳng sung sướng gì đây. Ông ấy khổ
lắm nên mới đâm ra nghiện rượu…
Tôi nói:
- Nhưng ông ấy không thương đằng ấy.
Ly cúi đầu nói khẽ:
- Có chứ. Bố tớ cũng thương tớ…
Rồi sau một lát im lặng, nó lảng sang chuyện khác:
- Đằng ấy tới bảo gì tớ thế?
Tôi ngẩn người, bỗng dưng quên hết những lời lẽ mà dọc đường tôi đã
nghĩ ra để nói với Ly. Sau cùng, tôi buông một câu hỏi cộc lốc:
- Sao đằng ấy lên hội đồng nhà trường nhận kỷ luật cho tớ?
Ly từ tốn đáp:
- Thế tốt hơn.
Rồi nó cười:
- Mà sao đằng ấy biết? Nhanh thế! Loan hạt mít thông báo à?
Tôi không trả lời, hỏi lại:
- Ai bảo đằng ấy làm việc đó?
- Không ai cả.
- Thế tại sao?
- Tớ học kém quá. Học thêm nữa cũng chẳng ích gì. Đằng ấy học giỏi
mà lại phải thôi thì tiếc quá. Bố Thế nhiều lần bảo rằng lớn lên
đằng ấy thừa sức du học nước ngoài.
- Đằng ấy không sợ ông bố với bà dì ghẻ đánh hay sao?
- Chắc… cũng có đánh. Nhưng chẳng sao, tớ quen đi rồi…
Ly lại cười. Gương mặt nhỏ sáng long lanh. Tôi mủi lòng nói:
- Ly, đằng ấy nghĩ tớ cam tâm để đằng ấy bị đòn oan hay sao?
Nói xong, tôi nhìn Ly. Nó cũng ngước nhìn tôi. Ánh mắt chúng tôi soi
vào nhau. Và tôi biết rằng, chỉ một giây nữa, hai đứa sẽ cùng òa lên
khóc. Vì thế tôi vội vã quay đi, cắm đầu chạy một mạch về nhà.
Sáng thứ hai, tôi đến nói với bà hiệu trưởng rằng bà cứ việc công bố
thi hành kỷ luật tôi như cũ. Rằng việc Ly đứng lên nhận lỗi chỉ là
do thiện ý của cậu ta và hoàn toàn không xác thực. Tôi nói một cách
bình tĩnh, không mảy may run sợ, hồi hộp. Khi đã biết hoàn toàn sự
tàn nhẫn và độc ác của bà, tôi không e sợ quyền lực của bà nữa.
Chúng tôi, những đứa trẻ chưa tới tuổi trưởng thành, chúng tôi dũng
cảm trước sự thật, chúng tôi thương yêu nhau và biết hy sinh vì
nhau. Chúng tôi cao hơn bà. Tôi nhận cuốn học bạ mà bên dưới những
dòng chữ dài dằng dặc biểu dương mọi ưu điểm, dưới những cột số điểm
nằm đỏ chói, có dòng chữ đuổi học to tướng và điểm hạnh kiểm 0. Tôi
nhận cuốn học bạ đó từ tay bà, lặng lẽ, dửng dưng. Tôi đã vượt qua
giới hạn của nỗi đau khổ rồi.
Chương 8
VÀ NHỮNG LO TOAN KHÔNG TÍNH TRƯỚC
Ngày mai mình sẽ sống như thế nào đây? Mình sẽ trở thành cái gì?
Mình sẽ làm gì…
Trên đường về, những câu hỏi quay cuồng trong óc. Dẫu sao, tôi cũng
đứt ruột khi rời bỏ cái cồng trường đồ sộ, cả hai cánh lớn quay cọt
kẹt trên ổ trụ và một tán phượng vĩ xanh mướt che bên trên. Dẫu sao,
tôi cũng đau lòng khi nhìn từng tốp học sinh ngược tới trường. Tôi
thèm muốn số phận của họ biết bao. Đứa học trò kém cỏi nhất, láo lếu
nhất, đội sổ hoặc lưu ban cũng còn sung sướng gấp ngàn lần tôi bây
giờ. Dẫu dốt nát và lười biếng, nó vẫn có quyền bước vào lớp, nơi
ngày ngày trên tấm bảng đen diễn ra một phương trình toán mới, một
phản ứng hóa học mới, một định luật vật lý mới, một bài thơ hay một
bài văn mới. Đứa học trò hư hỏng nhất cũng có quyền bước vào phòng
thí nghiệm, nơi trong bóng tối chúng tôi hồi hộp ngước nhìn bộ xương
thạch cao hay bức tranh vẽ con khủng long thời cổ đại. Đứa học trò
tồi tàn nhất cũng có quyền cầm chiếc vợt mút của tôi, đánh bóng trên
chiếc bàn tôi quen từng vết nứt, hái hoa trong bồn hoa trước cửa văn
phòng… Đám học sinh đông đúc và sung sướng kia tới trường. Còn tôi,
tôi trở về nhà với cuốn học bạ đen kịt. Lòng tủi hổ, tôi không dám
đi đường lớn tôi rẽ xuống con đường nhỏ băng qua cánh đồng.
Về phố, tôi lang thang thơ thẩn chơi ở các cửa hàng. Tôi không muốn
về nhà. Từ ngày tôi tuyệt thực, mẹ tôi không đánh tôi nữa. Nhưng mẹ
không nhìn tôi và nói với tôi một câu. Sự im lặng của mẹ khiến tôi
cảm thấy tôi đã chết rồi. Tôi đã chết thật.
Tôi là đứa con hư, là học trò bị đuổi, tôi không xứng đáng là con cô
giáo Hạnh…
Đang đứng, tôi chợt nhìn thấy một đám đông trước cửa nhà cai Cân.
Chắc có chuyện gì… - Tôi nghĩ.
Ở thị trấn, hễ có sự lạ là người ta xúm lại vòng trong vòng ngoài.
Trước đây mẹ tôi dặn phải lảng tránh những đám đông hiếu sự, tò mò
đó. Người bây giờ, buồn chán nên tôi tới xem. Tới nơi, chưa chen
chân vào đám đông được, tôi lại gặp ngay Cóc tóc đỏ. Cóc tóc đỏ là
đứa con gái kém tôi một tuổi, con ông gác chợ. Vì mặt nó bị mụn, sần
sùi từ nhỏ nên bố nó đặt luôn tên là Cóc. Cóc học dốt quá, nên đúp
ba năm mà không lên nổi cấp hai. Ông bố liền bắt nó thôi học ở nhà
giúp bố gác chợ, thu thuế đám hàng rong. Ngoài ra, nó xếp chỗ bán
lấy tiền. Cửa hàng thịt, hàng mậu dịch nào Cóc cũng đặt hàng chục
hòn gạch, rổ cá, nón rách, mũ mất chóp… để giữ chỗ từ tối hôm trước.
Hôm sau người ta tới xếp hàng mua thực phẩm thì Cóc bán lại chỗ cho.
Chỗ tốt một hào, chỗ kém hơn năm xu. Làm cái nghề kỳ quặc thế nên
con bé nổi tiếng là đanh đá, láo xược. Nó sẵn sàng chửi nhau tay đôi
với một bà già hoặc cởi trần đánh nhau với một thằng bé mười ba,
mười bốn tuổi. Suốt ngày phơi nắng nên da Cóc đã đen lại càng giống
như nhọ chảo. Tóc đỏ xác xơ như lông bò. Những mụn thịt ở mặt ngày
càng dày chi chít và to thêm Cóc tóc đỏ là hình ảnh quái gở nhất mà
các bà mẹ thường đem ra dọa đám con trai. Đứa nào nho nhoe, bướng
bỉnh là bị cảnh cáo:
- Mày liều liệu không tao cưới con Cóc tóc đỏ cho đấy…
Các cậu con trai dù ương ngạnh mấy cũng phải nhũn như chi chi ngay.
Vậy mà đối với tôi, Cóc lại tỏ ra tử tế. Không hiểu sao, nó chuyên
gọi tôi là chị, xưng em một cách ngon lành mặc dù bình thường nó cứ
mày mày tao tao với đám thiếu nữ mười lăm, mười bảy. Có lần, tôi ra
chợ mua thịt, Cóc sấn sổ gạt mọi người, giành chỗ tốt nhất cho tôi.
Mua xong, tôi dúi vào tay Cóc năm xu và bảo:
- Cám ơn nhé.
Cóc tóc đỏ lập tức trợn mắt lên:
- Sao chị coi khinh em thế? Em với chị mà lại ngửa tay nận năm xèng
hay sao?
Rồi vỗ bộp vào túi quần, nó nói:
- Em mời chị một bát tái bò, phở nhà Hoi ngon lắm…
Tôi vừa lắc đầu từ chối thì Cóc tóc đỏ đã nắm tay tôi kéo đi xềnh
xệch trước những cặp mắt tò mò vì kinh ngạc của mọi người…
Bây giờ, nó đang đứng trên hè, kể cho tôi nghe vụ xung đột nhà cai
Cân:
- Chị biết không? Lão cai Cân vừa đánh mụ vợ kế đấy. Hai thằng con
trai lão cũng nhảy vào đánh hôi. Công an tóm lão lên đồn. Còn hai
thằng ranh bị em trai bà Lưu tát tai cho đang la lối om sòm trong
sân…
- Nhưng vì sao lão đánh cô Lưu chứ? Vừa cưới nhau được hơn một tháng
mà!...
- Vàng, vàng… Tiền, tiền… Từ đó mà ra cả…
Cóc tóc đỏ cong môi, khua hay tay như người rao bán dầu cù là. Vẻ
mặt nó hăm hở và tức tối, đúng tính cách của một đứa trẻ quá quan
tâm và làm quen với đồng tiền:
- Chị hiểu không, lão cai Cân lừa mụ vợ kế ngon ơ. Hồi cưới, lão xui
mụ bán nhà về ở với lão. Thu được sáu lạng vàng và một cục tiền, lão
bảo vợ đem chung vốn buôn thuốc phiện với cánh Hà nội. Mụ vợ nghe
ngọt nhạt gật đầu. Thế là lão tuốt về quê. Tuần sau, lão trở về bảo
đã bị lừa hết. Mụ vợ phát điên rồ kêu la, lão nện liền…
Tôi đứng lặng người. Thế là Loan bắt đầu cơ cực. Nỗi lo buồn không
thể đo đếm, những tai ương không thể tính trước, người xưa nói đúng
thật.
Cóc tóc đỏ thấy tôi im lặng, giơ tay lên:
- Em mà như vậy ấy à?... Em sẽ róc xương lão ra cho tới khi lão trả
đủ số vàng đó…
Lúc đó một bà già cao lòng khòng đứng bên kia đường gọi to:
- Con bé trời đánh kia, bố mày hét ầm cả nhà lên kia kìa…
Cóc tóc đỏ nhướng cổ đáp:
- Rõ rồi, thưa bà…
Nó chào tôi rồi biến mất. Tôi đứng suy tính hồi lâu, quay lại, tìm
quán nước chè quen, vào ngồi chờ Loan đi học về. Ỏ quán nước đó cũng
như mấy quán bên cạnh, đâu đâu người ta cũng xôn xao bàn tán vụ đánh
lộn ở nhà cai Cân. Nhân cớ đó, người ta lục tìm quá khứ mờ ám của
lão, từ những vụ mua bán lừa đảo tới việc chạy chọt xin giấy mở cửa
hàng chạy nước đá bán lẻ. Tôi ngồi nghe chuyện vặt đó cho tới gần
trưa Loan hạt mít mới về. Tội nghiệp, nó đi thui thủi một mình giữa
những tốp học sinh vui vẻ. Ngày thường, bao giờ chúng tôi cũng cặp
kè nhau như đôi cá thờn bơn. Loan bảo tôi:
- Tối nay bố Thế đến nhà đằng ấy đấy. Buổi sớm bố ở Ty giáo dục về
thì đằng ấy đã đi rồi…
Tôi biết rằng bố Thế thương tôi. Nhưng tôi không muốn gặp mặt bố
nữa. Vì tôi bố đã phải chống đỡ và sẽ còn gặp nhiều sự phiền hà. Tôi
không thể nào nhìn gương mặt chất phác và nhân hậu của bố, khi gương
mặt đó nặng trĩu những nỗi lo buồn. Tôi bảo Loan:
- Mình không về nhà đâu.
Loan chưa kịp hỏi, tôi đã nói tiếp:
- Còn đằng ấy cũng có chuyện cần phải nghĩ đấy. Ta tìm chỗ vắng rồi
tớ sẽ kể lại đầu đuôi.
Nhìn vẻ mặt tôi, Loan ngoan ngoãn phục tùng. Chúng tôi chui vào một
ngõ hẻm có ngôi chùa cổ để tránh đám học sinh tan trường đang tiếp
tục diễu qua. Ở đó, dưới một tán bàng xanh um, tôi kể cho Loan biết
vụ xung đột tại nhà cai Cân, biết mẹ Loan hiện đang nằm bệnh viện,
biết tình thế của Loan hiện tại. Sau cùng, tôi bảo:
- Đằng ấy về thẳng nhà mình. Buổi chiều, mẹ mình sẽ đưa về nhà cai
Cân lấy quần áo. Có đằng ấy ở với mẹ, mình sẽ yên tâm. Mà đằng ấy sẽ
bớt khổ sở.
Loan im lặng. Tôi biết nó sẽ ưng thuận hoàn toàn. Lát sau, cô bạn
ngước nhìn tôi, hỏi rụt rè:
- Còn Bê… Bê đi đâu?
Tôi đáp:
- Không thể cho đằng ấy biết được. Chiều nay lúc năm giờ ta sẽ gặp
nhau ở bến sông, chỗ buộc thuyền của bà An Lạc. Tuyệt đối không được
cho mẹ mình và bố Thế biết rằng đã gặp mình. Thôi, đứng dậy… và đi
đi…
Tôi ngồi dưới gốc bàng, ôm đầu suy tính: Đi đâu bây giờ? Đi đâu? Ở
thị trấn này chăng?
Các thầy cô giáo quen biết mẹ ở khắp nơi. Họ sẽ phát hiện ra tôi và
đem trả ngay cho mẹ. Và mẹ lại nhìn tôi với con mắt lạnh lẽo, buồn
rầu, không nói một tiếng. Chao ơi, tôi sợ những tia nhìn nghiệt ngã
đó và sự im lặng hơn những roi đòn đau rát nhất từ xưa đến nay… Hay
về quê?
Không, về quê xa xôi quá. Vả lại có về đó rồi mẹ tôi cũng sẽ tìm
thấy ngay. Mà tai hại hơn nữa, là tất cả bà con họ hàng, chị em họ,
cháu họ xa gần sẽ biết tôi bị đuổi học. Xưa nay, tôi vẫn là ngọn cờ
để họ biểu dương: “Cứ nhìn chị Bê con bác giáo Hạnh đấy, học sớm hai
năm mà năm nào cũng đứng thứ nhất”. Hoặc: “Cứ nhìn cô Bê con bà trẻ
Hạnh đấy, học cứ như thần đồng. Còn chúng mày thì chỉ là một lũ ăn
hại thôi…” Đáng buồn thay, thần tượng của họ đã bị sụp đổ rồi. Tai
ương và lỗi lầm đã cướp đi của tôi niềm tự hào nhất đối với tuổi
niên thiếu. Đi tới đâu, bây giờ tôi cũng bị nỗi tủi nhục bao vây…
Nghĩ tới đó, nước mắt tôi chảy ròng ròng trên má tự lúc nào không
biết. Tôi cúi đầu úp mặt vào hai đầu gối để mấy bà đi vào chùa khỏi
nhìn thấy. Nghĩ lan man mãi, cuối cùng tôi quyết định đi tới nhà chú
bé chụp cá bên kia sông.
Đồng hồ các nhà trong ngõ thong thả điểm mười hai tiếng chuông. Đám
học sinh tan trường đã về tới nhà. Đường phố vắng vẻ hơn. Tôi đi rất
nhanh ra bờ sông, mặt cúi gằm xuống đường để tránh những cặp mắt của
người quen trong thị trấn. Bến sông vắng lặng. Làn nước lấp lánh
dưới ánh nắng. Vài đám bèo Nhật bản hoa tím nổi bập bềnh trên sông
và một con bói cá lẻ loi, lông xanh biếc chốc chốc lại nhào xuống
cắp mồi. Tôi định bơi qua sông nhưng chợt nhớ mình đang đói bơi dễ
bị chuột rút nên tôi cố gắng leo lên đồi, đi vòng qua cầu để sang bờ
bên kia. Vượt qua đê, tôi tới làng chú bé chụp cá đêm. Men theo hồ
sen, tôi lại tìm được nếp nhà tranh nhỏ xíu, cổng bằng rào tre, mảnh
sân hẹp như chiếc chiếu xung quanh co vài bông mào gà và cúc kim chi
vàng nở.
- Cau ơi Cau… Cọt ơi… Cọt…
Tôi cất tiếng gọi:
- Ai đấy, vào đi i i…
Giọng đàn bà cao vút trả lời. Rồi mẹ chú bé bước ra. Ban ngày, tôi
nhìn rất rõ người đàn bà lai tàn tật. Lưng cô gù gập xuống khiến
dáng người như con cua. Khuôn mặt đẹo nhưng quá nhỏ nên trông kỳ dị,
đôi mắt rất to với những rạch sáng xanh lam, và những lọn tóc quăn
màu hung rực rõ bao quanh mái đầu.
- A, cháu đã đến chơi hôm trước, đúng không?
Cô cất tiếng cười vui vẻ, hỏi tôi.
Tôi lúng túng cảm động vì thái độ hồ hởi của người đàn bà, khẽ đáp:
- Thưa cô, vâng ạ…
Chủ nhân quay người đi trước, miệng nói:
- Vào nhà kẻo nắng.
Tôi hỏi:
- Em Cau có nhà không cô?
Người đàn bà bước vào nhà, ngồi xuống chõng. Lấy tích rót nước vào
chén cho tôi rồi mới trả lời:
- Em Cau đi học rồi. Nhưng cháu cứ ngồi chơi.
Chờ tôi bưng chén nước uống, người đàn bà lặng lẽ xuống bếp. Rồi sau
đó, cô trở lại với một nồi đất đầy ngô bung đậu đen:
- Cháu uống nước rồi ăn ngô. Cô với em vừa ăn xong tức thì.
Tôi thấy những ánh mắt xanh long lanh của cô nhìn tôi trong sáng và
nhân hậu quá. Dưới cái vỏ ngoài kỳ dị, tâm hồn cô dịu dàng và tinh
tế. Lòng tốt của cô khiến tôi bàng hoàng. Tôi nói khẽ:
- Cháu cám ơn cô.
Người đàn bà cười:
- Ồ, có gì đâu…
Rồi cô nói lảng chuyện khác:
Chiều hôm đó tôi kể cho cô nghe tất cả những rủi ro của mình. Tôi kể
một cách tự nhiên, tin cậy như tôi đã thân thiết với gia đình cô từ
lâu lắm. Người đàn bà lắng nghe với vẻ cảm thông, trầm tĩnh. Sau đó
cô bảo tôi:
- Tất cả rồi đâu sẽ vào đấy. Cháu cứ tin điều cô nói. Qua cơn bĩ
cực, tới tuần thái lai.
Chừng non chiều, người tôi bỗng mệt rã rời. Mắt díp lại sau những
ngày căng thẳng. Tôi có ý nghĩ nếu đặt lưng nằm xuống tôi sẽ ngủ mãi
mãi không thể thức dậy được. Thế nhưng, tôi ngủ được tới năm rưỡi,
Cau đánh thức. Chú bé gọi:
- Chị dậy ăn cơm. Cơm chín rồi.
Tôi choàng dậy. Tắt nắng rồi. Những ráng chiều màu đỏ, màu da cam
chất ngất ở phía tây, trải lên mặt đất thứ ánh sáng như đồng chảy.
Trong ngôi nhà tranh, mọi vật đã nhũ nhòa. Trước sau chỉ còn những
bông cúc kim chỉ và những bông hoa mào gà là còn tươi sáng. Tôi sực
nhớ giờ hẹn với Loan, hốt hoảng:
- Mấy giờ rồi, Cau nhỉ?
Chú bé ngửa mặt nhìn trời:
- Sắp sáu giờ.
Tôi nói:
- Thôi chết, mình phải đi ngay.
Cau túm tay tôi lại:
- Không đi đâu cả. Cơm dọn ra rồi. Ăn xong đã.
- Nhưng có việc cần, mà mình đã hẹn…
Chú bé nghiêm nghị nhìn tôi:
- Việc nào cũng phải ăn rồi mới có sức làm được.
Và mẹ chú từ trong bếp bước ra, má đỏ lựng hơi lửa, tiếp lời con:
- Cơm thương cháo thương hơn tất cả mọi người thương. Phải ăn đã,
cháu ạ...
Tôi không còn cách nào hơn là ngồi xuống bên chiếc mâm gỗ đặt ngay
giữa sân. Trên mâm, một đĩa rau khoai lang luộc chín tới xanh rờn
đang bốc khói. Chiếc đĩa nhỏ đựng cà pháo kho với tép và ớt chỉ
thiên.
Mẹ chú bé chụp cá bảo con:
- Cau múc tương chưa nhỉ?
Chú bé vội vã trả lời:
- Con múc tương bây giờ đây.
Nói đoạn, chú cầm chiếc bát sạch, ra góc sân. Ở đó, có một chiếc
chum da lươn nhẵn bóng. Trên miệng chum úp cái chậu sành non. Cau
thận trọng lật chiếc chậu sành lên. Xong, nó dỡ mấy lượt lá chuối
khô phủ trên rồi mới tới lượt vải màn bên dưới. Cuốn tấm vải màn
sang một bên, chú bé vực cái bát ăn cơm vào trong chum. Rồi khi nhấc
bát tương lên, nó thè lưỡi liếm những giọt tương rớt bên dưới bát
khiến cho tôi suýt bật cười. May mà tôi ghìm giữ được.
Chúng tôi ngồi ăn cơm khi trời chập choạng tối. Ánh hoàng hôn chỉ
còn vương vất trên những ngọn tre cao vút và những tàn lá xoan mỏng
manh, luôn luôn lay động vì gió thổi. Quanh sân, những con cóc già
nghiến răng trèo trẹo nơi góc tường hoặc kẽ đất. Thỉnh thoảng, cào
cào châu chấu từ đồng lúa bay vào, đá tạch vào tai tôi, vừa đau vừa
ngứa. Tôi lo ngay ngáy khi nghĩ tới chuyện một chú ễnh ương hoặc
nhái bén nhảy vào bát tương hay đĩa cá. Nhưng may sao, điều đó không
xảy đến. Còn mẹ con chú Cau đã quen ăn cơm ngoài trời nên chẳng mảy
may bận tâm. Sau này, khi đã quen, tôi cũng cảm thấy ăn cơm ngoài
trời thú vị. Bầu không khí mát mẻ, thoáng đãng khiến ta ngon miệng
hơn. Và phong cảnh xung quanh cũng làm cho bữa ăn đạm bạc thêm thú
vị.
Ăn xong, tôi ra bến sông. Không thấy Loan hạt mít ở đó. Tôi ngồi
chầu hẫu bên chiếc thuyền tôn của bà An Lạc cho tới hơn bảy giờ tối,
Loan mới dò dẫm tới nơi.
Tôi chưa kịp hỏi, nó đã nhăn nhó:
- Mẹ đằng ấy không cho đi.
- Tai sao cơ?
- Cô bảo ở nhà với cô cho đỡ buồn. Sau đó tớ phải nói dối là tới nhà
Yến sếu mượn bài tập vật lý mới đi nổi.
- Mẹ tớ có tìm tớ không?
- Có. Cô đi khắp lượt những nhà quen trong thị trấn.
- Rồi sao?
- Không tìm thấy, cô đoán đằng ấy về quê ngoại.
- Biết ngay mà...
Tôi lẩm bẩm, hết sức hài lòng vì mình đã tính đúng mọi nước.
Loan kể tiếp:
- Chiều, cô đưa tớ lên viện thăm mẹ rồi sang nhà cai Cân lấy quần
áo.
- Mẹ đằng ấy ra sao?
- Đau lắm nhưng vẫn tỉnh. Mẹ tớ khóc nức nở, xin lỗi vì không nghe
lời cô.
- Thế mẹ đằng ấy có bằng lòng cho đằng ấy ở với mẹ tớ không?
- Có. Mẹ tớ bảo khi ra viện, mẹ tớ không về nhà lão cai Cân nữa...
Hai đứa im lặng một lúc, rồi tôi hỏi Loan:
- Chiều ăn cơm với gì?
- Rau muống xào tỏi và trứng luộc.
- Còn mình, mình ăn rau lang luộc chấm tương mà cũng thấy ngon. Con
người sẽ quen được mọi thứ...
Tôi nói vừa như để lên lớp cô bạn, vừa như tự bảo mình.
Loan nhìn tôi, mắt long lanh như ướt nước:
- Đằng ấy có đói không?... Này cầm lấy cho đỡ thèm.
Nó rút trong túi ra một gói kẹo đưa cho tôi. Tôi chưa kịp bóc kẹo ăn
thì Loan đã thò tay vào lục trong lưng quần hồi lâu, rồi móc ra một
gói giấy khác:
- Đây nữa.
Tôi cầm gói giấy, giơ lên dưới ánh sao?
- Gì thế này?
Loan nói khẽ:
- Tiền.
Tôi sửng sốt hỏi:
- Một mình đằng ấy mà dám ra đảo lấy tiền cơ à?
Loan lắc đầu:
- Không. Đây là tiền khác... Mà nhiều lắm, nhiều hơn cả kho tàng của
chúng mình.
Nó nhìn quanh quẩn rồi quỳ gối, ghé sát vào tai tôi, thì thầm:
- Hai trăm cơ đấy. Toàn giấy mười đồng thôi.
Tôi sững sờ. Quả thực hai trăm lúc đó là to lắm. Cả vốn liếng hai
đứa tôi dành dụm ngoài đảo cũng chỉ ngót nghét năm mươi đồng. Mà chỉ
toàn giấy năm hào, một đồng mới. Chưa bao giờ chúng tôi có được một
tờ năm đồng trong tay. Ngày ấy ăn quà chỉ cần ba hào là sang lắm. Ba
hào một bát phở tái. Một hào ba quả chuối chín, mười hai cái kẹo
bột, hoặc hai tấm bánh dẻo không nhân. Trứng gà chỉ có sáu bảy xu
một quả. Còn trứng vịt to nhất cũng chỉ một hào mốt là cùng... Đó,
bạn hãy cứ hình dung ra giá trị món tiền hai trăm đối với chúng tôi
trong lúc vật giá như vậy.
Tôi cầm gói tiền, hỏi Loan:
- Tiền ở đâu ra? Ai cho thế?
Loan rụt tay lại:
- Không ai cho cả.
Tôi nói:
- Không ai cho thì cậu lấy ở đâu?
Thấy vẻ mặt nghiêm nghị và ngờ vực trên mặt tôi, Loan nói khe khẽ:
- Mình không làm điều gì xấu cả. Mai mình sẽ nói. Bây giờ mình phải
về, không cô sẽ mắng.
Nói xong, không chờ tôi trả lời, Loan quay về phía thị trấn, đi mải
miết như chạy.
Tôi giắt gói tiền vào cái túi nhỏ trong lưng quần. Tính tôi hay ăn
vặt: lạc rang, hạt dẻ, thóc nếp rang hay bỏng ngô... Thế nên quần
nào tôi cũng khâu một chiếc túi để tiện chứa thực phẩm. Không ngờ
cái túi con bây giờ có giá trị lớn lao thế. Tôi cẩn thận sờ các
đường chỉ may xung quanh, rồi lấy ghim băng cài chặt lại Về nhà Cau,
tôi thấy chú bé đang chuẩn bị đồ nghề đi cá. Tôi bảo:
- Cho chị đi với nhé.
Cau lắc đầu:
- Không được. Mẹ em bảo chị đang mệt lắm, đêm nay phải nghỉ ở nhà
nghỉ ngơi đã. Khi nào béo khỏe mới được đi. Sương đêm độc lắm, con
gái không thể liều được đâu.
Nói xong, chú bé đưa mắt nhìn mẹ. Người đàn bà cười:
- Em Cau nói đúng đấy. Cháu không bì được với nó đâu.
Cau đưa mắt nhìn tôi kiêu hãnh như muốn nói: “Chị đã thấy chưa?”.
Rồi nó cao giọng:
- Chị ấy ở ngoài phố nên thích ăn khoai hầm lắm đấy. Chốc nữa mẹ đổ
trấu ủ một nồi mẹ nhé.
Người đàn bà gật đầu, trả lời với giọng nói thánh thót nhẹ nhàng như
giọng thiếu nữ
- Con cứ đi đi. Mẹ nhớ rồi.
Chú bé đeo giỏ, xách chụp ra sân. Lưng lủng lẳng những hộp mồi lớn,
mồi nhỏ. Tay nắm một bó cần câu nhỏ. Trông nó oai vệ như viên tướng
xuất trận. Bỗng dưng tôi ao ước được như nó. Tôi ao ước mình cũng
làm được một công việc gì đó hữu ích như Cau để nuôi mẹ, đem lại
niềm vui sướng cho những người thân và trở thành trụ cột của gia
đình...
Tôi cứ theo đuổi những ý nghĩ đó mãi cho tới khi mẹ chú bé đứng dậy
để sắp nồi khoai theo lời con dặn. Tôi theo cô xuống bếp. Người đàn
bà vần nồi cám lợn sang bên, bắc nồi khoai lên bếp. Những tàn lửa đỏ
bắn lung tung như hoa cà hoa cải. chúng tôi đung khoai tới lúc nước
sắp cạn thì ủ vào lửa trấu. Sẵn than, người đàn bà nướng thêm mấy củ
khoai nhỏ cho tôi ăn trước. Tồi ngồi rủ rủ nói chuyện với cô mãi cho
tới khuya mới lên giường đi ngủ. Trong giấc ngủ đầu tiên xa nhà, bao
nhiêu giấc mơ ngắn ngủi và lộn xộn ập đến, giống như những câu
chuyện thực xen lẫn những huyền thoại hoang đường. Tuy thế, đó cũng
là một giấc ngủ ngon lành, nó đem lại cho tôi sự thăng bằng, niềm
phấn khởi để bước tiếp trong những ngày tháng tới.
Chương 9
ÔNG GIÀ CHĂN VỊT
Tám giờ rưỡi sáng hôm sau tôi mới tỉnh dậy.
Căn nhà vắng vẻ. Chỉ có tiếng thạch sùng tắc lưỡi trên mái gianh. Gà
trong xóm chốc lát lại gáy te te. Ngoài sân, một con mèo hoang gừ gừ
với chú gián vừa chộp được. Mẹ con chú bé Cau đi đâu từ sớm. Họ để
phần tôi một bát khoai hầm trên chõng. Tôi ra sân đánh răng, rửa mặt
bằng tay rồi trở vào ăn khoai. Xong, tôi lững thững đi theo con
đường làng, qua những khu vườn là những mái nhà nối tiếp. Giờ này,
dân trong các xóm đã ra đồng. Chỉ có những bà già giữ cháu và đám
trẻ lau nhau chơi khăng, chơi đáo là còn ở nhà. Phía đình làng, lớp
mẫu giáo đang học. Bên cạnh đó, nhà trẻ hợp tác có cái giếng xây to
tướng và một dãy khăn mặt bay phất phới trên dây phơi. Thằng cu nào
đó đang ăn vạ gào rất to. Tiếng cô giữ trẻ cố át đi mà không được.
Tôi ngắm nhìn những rặng táo qua mùa, chỉ còn lại dăm quả lơ thơ,
nhỏ như cuống cà pháo. Hồi lâu, buồn chán, tôi quay gót ra đồng.
Từ làng ra đồng có một con đường nhỏ, chạy song song với dòng mương.
Đường bờ vùng vừa đủ cho xe cải tiến chở phân ra bón và chở lúa về
sân phơi. Còn khắp nơi là ruộng xanh bát ngát, chạy mênh mông tới
chân trời. Lác đác có những mảnh đầm ruộng, loang loáng nước. Ở đó,
dù xa, cũng có thể thấy những đốm trắng li ti xao động. Đó là những
đàn vịt được lùa đi kiếm ăn.
Nắng chưa gay gắt nhưng vừa đủ rực rỡ để cho những đám mây lung linh
như thêu kim tuyến. Dọc bờ ruộng, cây vòi voi uốn những chùm hoa tím
xuống mặt cỏ. Còn những bụi cỏ mật xanh um thì tỏa lên mùi hương
ngọt ngào, say sưa như ủ men rượu bên trong. Con mương kẻ một vệt
dài thẳng tắp trên cánh đồng lúa. Và mặt nước sóng sánh lay động của
nó khiến tôi nhớ lại một câu chuyện xa xưa:
“Có một hoàng tử thích chơi thuyền. Nhà vua đóng cho con chiếc
thuyền rồng xinh xẻo. Rồi ngài sai quân lính đào một dòng sông nhỏ
trong thành. Hoàng tử vui sướng thả con thuyền của mình lên đó. Viên
cận thần của vua nói: “Thưa hoàng tử, thuyền rồng của hoàng tử đã
tới biển Cát-xpiên...”. Ông hoàng con ngạc nhiên hỏi: “Thuyền ta tới
Cát-xpiên rồi sao?”. Viên cận thần đáp: “Thưa hoàng tử, đúng như
vậy”. Hoàng tử cười, và từ đó cứ đinh ninh dòng sông đào trong kinh
thành của vua cha là biển Cát-xpiên xa xôi hùng vĩ...”
Chợt nhớ lại câu chuyện về ông hoàng con ngây thơ, tôi mỉm cười. Dẫu
sao, tôi cũng trưởng thành và cứng cỏi hơn anh chàng con vua. Nghĩ
lan man, tôi đã tới giữa đồng. Cách dòng mương chừng hai mươi thước,
nổi lên một gò đất. Gò đất ăn liền với con đường. Trên đó, mọc sừng
sững một cây gạo lớn. Gốc cây to, xù xì bướu, một người lớn dang tay
mới ôm hết nửa vòng. Cành cây trổ ra bốn phía, da nâu pha từng mảng
trắng phếu. Hoa gạo đã rụng hết, chỉ còn lại những chùm quả xanh non
mềm mại. Tán lá mỏng, cuốn lao xao trong gió. Cây gạo già khiến tôi
đứng lặng đi vì cảm phục. Vẻ đẹp của nó hùng vĩ và thanh cao quá,
giống như vẻ đẹp của những ông thần trong chuyện cổ chứ không phải
vẻ đẹp của một loài cây bình thường trên mặt đất.
Nhưng sau phút giây sững sờ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, tôi chợt
thấy mình bơ vơ, lạc lõng giữa cánh đồng bao la tràn trề ánh nắng và
mày xanh cây cỏ, tôi thấy mình như một kẻ bị lãng quên. Chẳng ai cần
tới tôi, biết đến tôi lúc này. Dòng mương lấp lánh trôi. Nó tự thầm
thì trò chuyện với mình. Những cây vòi voi hoa tím rủ rỉ nói với
những con ong ruồi bé tí. Cây gạo oai phong kia trò chuyện với bầu
trời. Những người dân đang làm cỏ lúa và vãi phân trò chuyện cùng
nhau. Chỉ mình tôi trơ trọi, đơn chiếc. Tôi đi tới gốc gạo. Tôi định
bụng sẽ ngồi đó chơi cho tới khi chú bé Cau đi học về. Đến đỉnh gò,
tôi chợt thấy một ông già nhỏ bé ngồi thu lu dưới gò, giáp với những
đám ruộng. Vì gò đất cao, từ xa tôi không thể nhìn thấy ông. Ông nhỏ
bé đến nỗi tôi cứ tưởng rằng ông vừa lụ khụ bước ra từ cánh rừng nào
đó của các chú lùn và nàng Bạch Tuyết. Ông đội mũ lá, mặc áo bộ đội
chần ba mươi hai đường gian khổ (loại áo từ thời kháng chiến chống
Pháp). Chiếc quần vải nâu xắn cao. Tay ông khoanh trước gối, vẻ mặt
tư lự như mặt tượng Tuyết Sơn trong chùa. Bên cạnh ông, đặt một cây
que dài, đầu buộc túm lá chuối khô. Té ra ông là một ông già chăn
vịt. Trong mảnh đầm nhỏ bị vây giữa đám ruộng dưới chân ông, dăm
chục ả vịt bầu đang ngoi lên hụp xuống, vẻ thỏa thuê khoái trá.
Thấy tôi đi đến, ông già quay đầu lại:
- Cháu chào ông ạ. – tôi nói.
- A, ông chào cháu – ông già đáp lời, cặp mắt ẩn dưới hai hàng lông
mày bạc nhìn tôi hơi tò mò – Cháu ở đâu đến đây? – ông hỏi.
- Thưa ông, cháu ở trong phố.
Tôi đáp lời. Rồi tôi ngồi xuống vạt cỏ dưới chân gò. Những con vịt
dưới đầm ăn no, phởn chí vươn cánh lên vỗ phành phạch và định nhảy
sang ruộng lúa. Ông già chăn vịt đứng dậy, huơ cái cần tre buộc túm
lá chuối khô, miệng dọa:
- Xùy, xùy...
Lũ vịt quác mồm kêu cạc cạc rồi hốt hoảng quay lại, nhảy tõm xuống
đầm. Rồi chúng lại mò hụp, bơi lội một cách ngoan ngoãn trong phạm
vi mảnh đầm nhỏ bé. Ông già chăn vịt lại ngồi xuống, đặt chiếc cần
tre sang bên cạnh. Rồi ông lục túi áo, lấy ra bao thuốc thơm Thủ Đô.
Móc túi bên kia, ông lại lấy ra chiếc bật lửa nhỏ xíu, mạ kền sáng
loáng. Ông thong thả rút thuốc, dỗ lên mặt bao cho chặt, bật lửa
châm. Cử chỉ của ông không giống tất cả những ông già chăn vịt bình
thường. Những người chăn vịt không khi nào đuổi vịt “xùy, xùy...”
như ông hồi nãy. Họ cũng không hút thuốc như ông. Thường thường, khi
thèm thuốc, họ móc hộp thuốc lào trong túi áo ra, rút chiếc điếu tre
gài ở thắt lưng, nạp một một thuốc rõ chặt. Rồi họ rút ở phía thắt
lưng bên kia một que đóm mang đi từ nhà, hoặc giật mái lều lấy một
nuộc lạt châm lửa. Thuốc đã cháy, họ rít liền ba bốn hơi, cổ họng
thít vào thật sâu, điếu nổ giòn như pháo: roọc roọc roọc... Hút
xong, thế nào họ cũng ngửa cổ lên, lim dim mắt và từ từ nhả khói
trong họng ra. Họ nhả khói một cách chậm chạp, khoái trá và lâu đến
nỗi đôi khi, tôi tưởng cổ họng họ có một đám trấu rấm lửa ở bên
trong, nên những hơi khói trắng đục cứ tuôn mãi chẳng ngừng... Rồi
nhả hết khói, bất chợt họ mở choàng mắt, đưa chiếc điếu lên nhìn như
nhìn người bạn lâu ngày mới gặp. Và sau đó, họ giơ tay vỗ bộp vào
miệng điếu cày. Thế là mồi thuốc tàn trong nõ nhảy ra, như con cóc
nhảy ra từ miệng mụ phù thủy...
Những lần về quê ngoại, tôi thường theo đám em họ, cháu họ ra đồng.
Và nhờ những ngày lang thang, rong chơi đó, tôi biết được khá nhiều
thứ. Sau khi suy xét, tôi đâm nghi ngờ ông già chăn vịt kỳ lạ này.
Ngoài chuyện đuổi vịt như đuổi chó và cách hút thuốc rất tỉnh thành
ra, ông còn có đôi tay nhỏ xíu và những cử chỉ hết sức lịch lãm,
tinh vi.
Ông cụ ở đâu đến đây?
Tôi thầm hỏi, băn khoăn nhìn mái tóc trắng như cước của ông phủ
xuống tận gáy. Ông già dường như không để ý đến vẻ tò mò của tôi,
ngả người ra phía sau, nhả khỏi lên trời. Mắt ông nheo lại và những
nếp nhăn chi chít tụ sau đuôi mắt.
Bất ngờ, ông quay lại bảo tôi:
- Này cô bé, lại đây ông bảo.
Tôi vẫn ngồi trên vạt cỏ, phân vân.
- Lại đây với ông nào...
Ông già khuyến khích. Giọng ông nhỏ nhẹ, hơi trầm.
Tôi nhìn cặp mắt hiền hòa của ông, vững tâm tới gần. Ông dắt tay tôi
ngồi xuống bên mình, cất tiếng hỏi:
- Có chuyện gì buồn mà lang thang bỏ học bỏ hành thế?... Nhìn vào
mắt cháu, ông biết được điều đó... Hãy nói cho ông nghe xem sao. Có
thể, ông sẽ giúp được cháu ít nhiều.Còn như nếu không giúp được
cháu, ông sẽ im như hạt thóc trong vựa lúa. Cháu cứ yên tâm...
Tôi ngạc nhiên nhìn ông. Ông đưa cặp mắt già nua, thoáng nhìn tôi
trìu mến. Rồi ông lại ngẩng lên, rít thuốc và lơ đãng thả từng làn
khói vào khung trời xanh thoáng đãng. Sự im lặng của ông chứa đựng
điều gì đó khiến tôi bỗng thấy ông gần gũi, tin cậy. Và phía sau
những lời khích lệ nhẹ nhàng của ông có một sức mạnh vô hình mà tôi
có thể tựa đỡ, cũng như có thể gửi gấm tâm sự của mình. Tôi im lặng
hồi lâu, rồi chậm rãi cất tiếng. Mọi chuyện đều được miêu tả lại
minh bạch, rõ ràng, không thêm bớt. Có lẽ, tôi đã qua những phút
giây quá xúc động. Tôi đã quen được với nỗi đau khổ của mình nên tôi
nói về nó với một giọng điệu bình tính. Trong thời gian tôi nói, ông
già đã hai lần rút thuốc, châm lửa hút. Những mẩu tàn ném xuống vạt
cỏ, dưới chân ông. Cặp mắt sâu của ông như bất động dưới hai hàng
lông mày bạc trắng. Cánh mũi khẽ phập phồng và cục yết hầu chuyển
động mỗi khi ông thở.
Khi tôi kể xong, ông khẽ đưa tay vuốt mái tóc tôi:
- Này cô bé, theo cháu thì việc làm của cháu sai hay đúng?
Tôi hỏi:
- Ông muốn cháu nói tới việc cháu nhốt ông Gia vào nhà tiêu? Vâng,
cháu biết là sai, nhưng dù sao...
- Nhưng dù sao cũng phải làm, có đúng không?... – Ông già cất tiếng
cười và ngắt lời tôi.
- Thưa ông, cháu định nói là... – tôi ấp úng.
- Thôi, không cần giảng giải... ông biết rồi.
Ông giơ tay lên, ra hiệu cho tôi im lặng. Sau đó ông nói:
- Những người theo đạo Thiên Chúa thường nhắc câu nói của Giê-Su:
“Nếu có kẻ tát vào má trái của con, con hãy chìa nốt má phải cho y”.
Câu nói ấy là bình phong che đậy cho cuộc sống an phận, không đấu
tranh. Nếu dân tộc mình cũng chìa nốt má phải cho thực dân Pháp thì
chúng ta không còn Tổ quốc. Các cháu sẽ không được học lịch sử Hai
Bà Trưng, Bà Triệu, chí khí anh hùng của Nguyễn Huệ, Quang Trung.
Các cháu sẽ bị bắt buộc đọc những bà sử nhập cảng: “Tổ tiên ta là
người Gô Loa...”. Ngày xưa ông đã phải học như thế đấy...
Ông già thấy tôi trợn tròn mắt nhìn liền mỉm cười, gật đầu nói:
- Đúng như vậy. Hồi Pháp thuộc, ông đã nhai nhải học thuộc lòng: “Tổ
tiên ta là người Gô Loa...” Ông nói vậy để cháu thấy rằng ý chí đấu
tranh của một dân tộc cũng như mỗi cá nhân con người là vô cùng cần
thiết...
Ông ngừng lại, nhìn tôi. Đôi mắt nheo nheo đầy hóm hỉnh mà vui vẻ.
Tựa như trong đó có một ngọn lửa nhỏ đang nhảy nhót, reo cười. Và
ông nói tiếp:
- Nhưng cái khó nhất là phải biết đấu tranh thế nào cho đúng. Đấu
tranh với kẻ ác thì khác, đấu tranh với những sai lầm của những
người xung quanh khác. Nhất là khi người đó lớn tuổi hơn và đứng vào
một vị trí mà mình phải tôn trọng.
Tôi nói luôn:
- Như thế có nghĩa rằng cháu phải im lặng chịu đựng hoặc chỉ có
quyền báo cáo mọi chuyện với thầy chủ nhiệm...
Ông già đặt tay lên đầu tôi, ngắt lời:
- Cứ từ từ, đừng vội vã. Ông không bảo cháu phải nhẫn nhục chịu
đựng. Nhưng cần thận trọng.
- Thế ở hoàn cảnh của cháu, ông sẽ làm gì? – tôi nôn nóng hỏi tiếp.
- Ờ ờ... – ông gật gù – Ông sẽ kiên tâm theo dõi mọi sự thêm một
thời gian nữa, vì biết đâu mình chẳng kết luận hồ đồ. Hoặc nếu không
hồ đồ thì cũng thiếu tang chứng cụ thể. Đời xưa đã có câu: “Nói có
sách, mách có chứng”. Cháu không nhớ sao?
Tôi sực nhớ lại việc chị Bội từ chối hoàn toàn sự thực và cảm thấy
ông già nói đúng. Nói có sách, mách có chứng... Quả là chúng tôi đã
quá ngây thơ, hấp tấp trong việc báo cáo lại những hành vi thiếu
đứng đắn của ông Gia.
Ông già nói tiếp:
- Muốn được việc, tất cả điều kiện phải chín mùi. Như ông, thì cháu
nên nói rõ chuyện với mẹ, với thầy chủ nhiệm, với người nào đó sáng
suốt, công bằng và quan trọng hơn cả là có đủ tư cách và quyền lực
giải quyết.
- Nhưng mà ông ấy trù úm cháu, hành hạ cháu ác độc lắm – tôi kêu
lên.
- Ông biết chứ - Ông già nhẹ nhàng, trầm tĩnh trả lời – Nhưng dù sao
cháu cũng phải cắn răng chịu đựng cho mọi sự sáng tỏ. Trong đời, đôi
khi rủi ro ta gặp phải những kẻ xấu, kẻ ác. Nếu ta hấp tấp chống trả
lại, không đắn đo suy nghĩ thì hỏng việc. Kẻ xấu không bị phơi áo mà
chính ta sẽ thiệt thân. Ví như hoàn cảnh của cháu vậy, cháu bị đuổi
học, còn ông giáo hư hỏng kia thì lại trắng án...
- Đời toàn những bất công – tôi kêu lên lần thứ hai, tức tối.
Ông già lại nhè nhẹ vuốt tóc tôi, cười:
- Đừng vung tay lên thế, va vào đầu ông thì ông đau lắm. Ông già
rồi, không chịu được đòn như cháu đâu. Này cô bé ngoan ngoãn ơi,
cháu đang buồn nhưng đừng vội bi quan. Đời có bất công chứ không
hoàn toàn bất công như cháu nói. Mẹ cháu có thương yêu cháu hết lòng
không? Có thchỺ cháu chỉ quen nghĩ một cách đơn giản và không lường
hết những phức tạp của cuộc đời nên đã không tìm được cách cư xử
đúng với cháu trong lúc này và khiến cháu bỏ nhà ra đi... Nhưng mẹ
cháu vẫn là người tốt. Thầy chủ nhiệm của cháu thì tuyệt diệu. Đúng
không? Còn cậu bé có ông bố nát rượu đó, tên là gì nhỉ? À Ly, Ly...
một cái tên đẹp như tên con gái. Nó cao thượng đấy chứ? Và còn mẹ
con chú bé đánh cá ở làng này nữa... Biết bao người! Vì những người
đó mà cuộc đời này tươi đẹp và đáng sống biết bao. Cháu đừng mong
trên trái đất chỉ toàn những người tốt. Cái xấu đi kèm cái tốt như
bóng đêm đi bên ánh sáng. Không có đêm, sao ta phân biệt được ngày?
Kẻ xấu, kẻ ác bao giờ cũng tồn tại trong xã hội, và người tốt phải
đấu tranh với chúng... Vả lại, cái xấu ngày nay đâu có thấm tháp gì!
Cháu cứ tưởng xem, tên giáo viên đồi bại kia lại là một thằng mắt
xanh mũi lõ. Nó có thể hãm hiếp mẹ cháu, đốt nhà cháu...
- Thà như thế để cháu đi làm cách mạng giết chết nó còn hơn... Chứ
như thế này tức lắm... – tôi ấm ức nói.
- Cha cha cha... – ông già cười to – Đừng nói tầm bậy. Không có thù
hận nào mãnh liệt và thiêng liêng hơn thù hận của dân tộc bị cướp
đoạt tự do. Nỗi oan ức bây giờ của cháu chỉ là cái gai đâm sầy tí da
chân thôi. Phải dũng cảm vượt lên, cô bé ơi. Phải nghĩ tới tương
lai.
- Chẳng có tương lai nào hết... – tôi nói – Bà hiệu trưởng đã gửi
thông báo kỷ luật cháu khắp các trường cấp ba trong tỉnh. Cháu biết
đi đâu bây giờ? Thế là chấm hết.
- Chấm hết. – ông già nhắc lại câu nói với vẻ diễu cơt thân ái – năm
mười bảy, sống dưới ngọn roi của pô-lít Pháp, ông vẫn thấy cuộc đời
bắt đầu chứ không phải là chấm hết...
- Nhưng cháu biết làm gì bây giờ? Chẳng lẽ cháu lại đi bán kem lấy
tiền lời hay ra chợ xếp hàng bán năm xu một chỗ...
Tôi định nói đùa nhưng miệng lại méo xệch và nước mắt cứ tự tuôn ra
ào ào không thể nào ghìm được.
Ông già lặng im giây lát, rồi lại vuốt tóc tôi:
- Đừng mưa rào nữa mà! Trời đã tạnh ráo từ lâu rồi... Cô bé ơi, nín
đi rồi ông kể cho mà nghe. Hồi trước ông đọc một cuốn truyện bằng
tiếng Pháp, nhan đề Pa-pi-ông, nghĩa là con bướm. Con bướm là biệt
hiệu của một người tù. Và cuốn truyện đó thuật lại cuộc đời của anh
ta. Con bướm vốn là một thanh niên lương thiện bị kết tội oan. Cuộc
sống tù tội khiến anh ta trở nên một người gan góc, lỳ lợm, có khả
năng làm những việc ghê gớm như bắt cá sấu, giết kẻ mưu phản dễ như
trở bàn tay, tổ chức những cuộc vượt ngục mạo hiểm và đẫm máu... Con
bướm trốn trại nhiều lần. Lần nào cũng bị bắt và đầy đọa khổ sở hơn,
anh ta bị nhốt dưới hầm cấm cố, quanh năm không nhìn thấy ánh mặt
trời. Phải ăn cả những con gián, con rết sống để sống. Anh ta đã
từng lạc tới đảo của những người hủi bị chìm trong đầm lầy, bị vùi
dập trong những cơn giông tố... Mặc những đầy ải khủng khiếp đó, ý
chí tự do của người tù không lùi bước. Cuối cùng, khi tất cả bạn bè
đầu hàng, yên phận cuộc sống trong trại gian, con bướm đã vượt biển
trên một chiếc bè làm bằng những quả dừa khô và đi tới châu Mỹ. Lúc
đó, anh ta đã già, tóc trắng như sương. Pa-pi-ông viết cuốn truyện
tư thuật cuộc đời mình và trở thành một nhà văn lẫy lừng của thế
giới. Chính phủ Pháp, cái chính phủ bỏ tù oan Pa-pi-ông tại đảo Guy
Am đã phải mời anh trở về thăm tổ quốc, không phải với danh hiệu một
tù nhân, mà với danh hiệu một nhà văn được hâm mộ...
Thấy tôi há hốc miệng nghe, ông già cười:
- Thế nào?
Tôi thẹn thùng cúi xuống.
Ông già chăn vịt hỏi tiếp:
- Cháu đã đọc Goóc Ki chưa?
Tôi đáp:
- Cháu mới đọc “Bài ca chim báo bão” trong văn tuyển lớp chín.
Ông già hỏi:
- Còn quyển “Thời thơ ấu” và “Trường đại học của tôi”?
Tôi thẹn thùng thú nhận:
- Chưa ạ.
Ông già lắc đầu:
- Thật đáng tiếc. Đọc những tác phẩm đó, cháu sẽ hiểu được nhiều
điều. Goóc Ki tiếng Nga có nghĩa là cay đắng. Ông là đứa trẻ mồ côi,
phải lang thang kiếm sống từ thời thơ ấu. Ông đã từng đọc sách bằng
ánh trăng phản chiếu lên một chiếc xoong nhôm, chứ không phải dưới
ánh đền một trăm nến như cháu ở nhà – nói tới đây, ông nhìn tôi cười
giễu cợt – Goóc Ki đã từng làm đủ mọi nghề, sống với những kẻ mà
người ta quen gọi là lớp người đáy của xã hội. Các trường đại học
của ông chính là khuôn hình của cuộc đời rộng lớn và đau khổ ở nước
Nga xưa. Đi qua cuộc đời ấy, ông vẫn giữ được tấm lòng nhân ái, cao
thượng của mình. Ông trở thành môt nhà văn được nhân loại yêu quý.
Tôi im lặng. Ông già lại nhìn vào mắt tôi:
- Chắc chắn rằng Goóc Ki không bao giờ nghĩ tới chuyện chấm hết, dù
ông đói khát hay đau khổ.
Ngừng lại giây phút, ông hạ giọng nói khẽ khàng:
- Đừng bao giờ nghĩ tới chuyện chấm hết, ngay cả khi người ta đã già
rồi.
Dứt câu, ông trầm ngâm nhìn ra phía trước. Tôi im lặng ngồi bên ông.
Tôi biết ông đang theo đuổi những ý nghĩ rất riêng biệt và tôi không
muốn khuấy động giây phút trầm tư đó. Những câu chuyện ông vừa kể
còn xáo động tâm tư tôi.Chúng khơi mở một thế giới hùng vĩ và lấp
lánh. Có lẽ từ khi tôi lớn tới giờ, chưa người nào làm được công
việc thiêng liêng đó. Ông già thổi vào tôi một ngọn lửa kỳ diệu,
khiến tôi bỗng thấy mình khôn lớn vượt bậc, nhìn cuộc sống với cặp
mắt trong sáng, tự tin và bình tĩnh trước mọi gian nguy. Nỗi đau khổ
tôi đang chịu bỗng trở nên nhỏ bé, tầm thường. “Ít ra mình cũng phải
vượt qua những tai ương và nguy biến dữ dội gấp năm lần như thế...”
– tôi nghĩ vậy mà yên tâm. Dẫu sao tôi cũng phải đứng lên đi tiếp
tới mục tiêu của đời mình.
Mặt trời lên cao. Ánh nắng ngả sang màu trắng. Cánh đồng xanh mênh
mông yên lặng. Chỉ còn nghe gió rì rào. Xa xa, nơi đồng lúa tiếp
giáp với chân trời, những gợn mây trắng mỏng từ từ bay lên cao như
những con cừu rong ruổi qua thảo nguyên vô tận của thinh không. Tôi
bỗng nảy ra ý muốn ôm chúng trong vòng tay, những con cừu nhẹ như
bông , trắng như sữa và hẳn là mát lạnh. Vài đốm nắng lọt qua tàn lá
gạo rọi xuống gáy tôi nóng ấm. Tôi chợt nhớ ra là đã trưa và có thể
là Cau đã về nhà. Tôi đứng dậy:
- Thưa ông, cháu xin phép ông.
Ông chăn vịt như choàng dậy. Ông nhìn tôi rồi nói:
- Cháu về làng hả?... Thôi được cứ về đi...
Tôi cúi chào ông, định quay lưng bước đi. Ông già vội vã gọi:
- Này cô bé...
Tôi nhìn ông:
- Ông bảo gì cháu ạ?
- Có mỗi việc quan trọng nhất thì lại quên – ông nói, lục túi áo lấy
ra một chiếc bút máy hoàn toàn bằng vàng tây, nhỏ như điếu thuốc lá
– cháu cho ông ghi tên tuổi của cháu, mẹ cháu và số nhà cháu ở, tên
trường và lớp cháu học, cả thầy chủ nhiệm nữa. Ông sẽ cố gắng hết
sức mình...
Ông nghe tôi đọc và ghi trên bao thuốc lá những dòng chữ nhỏ li ti.
Xong, ông cất chiếc bút sang trọng và bao thuốc váo túi chiếc áo cổ
lỗ có ba mươi hai đường gian khổ:
- Dũng cảm lên, cô bé nhé... Ông hy vọng ông cháu ta sẽ còn được gặp
nhau. Nhất định sẽ gặp nhau, trong một hoàn cảnh thú vị hơn bây giờ.
Người ta nói trái đất tròn mà... Có đúng không?
Tôi không biết trả lời sao, đành ấp úng:
- Thưa ông, cháu cảm ơn ông... Cháu chào ông ...
Ông già giơ bàn tay nhỏ bé , nhăn nheo và nổi những vệt đồi mồi:
- Ông chào cháu. Chúc cô bé gặp may mắn trong cuộc đời. Hãy nhớ
những lời ông nói. Nó không thú vị như trò chơi nhưng rất có ích cho
cháu, ngay cả khi cháu đã lớn rồi...
Ông đứng dậy, bắt tay tôi như bắt tay một người bạn thật sự. Khi tôi
ra về, ông trở lại chỗ ngồi. Hết con đường bờ mương vào đến làng,
tôi còn thấy bóng ông dưới gốc cây gạo hùng vĩ. Nhỏ bé và uy nghi,
mái tóc trắng như cước bay phơ phất,ông đúng là ông già tốt bụng từ
trong cánh rừng của nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn đi lạc tới đây.
Chương 10
CON ĐƯỜNG DẪN TỚI CUỘC PHIÊU LƯU
Tôi về nhà, đã non trưa. Hóa ra tôi đã ngồi trò chuyện với ông già
chăn vịt gần ba tiếng đồng hồ.
Cau lúi húi nấu cơm dưới bếp. Nó bảo tôi:
- Hôm nay chỉ có hai chị em mình ăn cơm thôi. Mẹ em sang nhà cô Nhài
làm giúp đám cưới rồi ăn ở đó luôn.
Nó bảo tôi ra vườn hái một nắm lá lốt.
- Để bỏ vào canh ếch. Chị đã ăn canh ếch nấu lá lốt bao giờ chưa?
Tôi rửa nắm lá lốt đưa cho Cau và đáp:
- Chị chưa bao giờ ăn ếch cả.
Cau nói:
- Thế thì dại quá. Thịt ếch ngon ghê lắm. Người ta đã bảo gà đồng mà
lại.
Rồi nó đọc luôn:
Măng chua nấu với gà đồng
Chơi nhau một mẻ xem chồng về ai?...
Tôi cười rũ ra. Chúng tôi cùng ngồi trước một chiếc nồi đất đang sôi
lục bục trên bếp lửa. Cau giải thích cho tôi hiểu rằng các món canh
như cá, cua, lươn, ếch nấu nồi đất thường ngon hơn nồi đồng, xoong
nhôm, vì đất hút hết mùi tanh. Ở làng này, người ta thích ăn canh
cua, canh lươn và canh ếch. Canh lươn cho rau răm, hành, còn canh
ếch cho măng mụt tước nhỏ với lá lốt và ớt chỉ thiên. Món nấy ở làng
quê đơn giản vì người ta còn vội làm nhiều việc khác. Nhưng nhất
thiết phải tươi và nóng. Bưng nồi canh ra, mở vung là hơi phà lên mù
mịt, mùi lá thơm bốc lừng nhà, thế mới đạt tiêu chuẩn.
- Đây này, chị xem nhé...
Cau bảo tôi. Miệng nói, tay nó mở vung nồi. Trong lớp hơi nước bốc
mù mịt, tôi thấy những miếng thịt ếch trắng nõn nhào lộn với nhiều
sợi dài như sợi bánh đa, đó là măng mụt và măng vòi tre tước nhỏ.
Cau nêm một thìa tương vào nồi canh, rồi ném nắm lá lốt thái nhỏ
vào. Xong nó hối hả bắc ra ngay, không để những sợi rau thơm kịp
chín. Thằng bé lấy chiếc vung đất úp chặt miệng nồi lại, bảo tôi:
- Được rồi đấy, chị bưng ra mâm cho em.
Trên mâm, đã có đĩa cá bống kho tương khô lăn lóc. Cau xới cơm ra
bát rồi mở vung nồi canh.
- Nào, ăn thôi.
Mùi canh ếch bốc lên ngọt ngào. Những miếng thịt ếch còn tươi rói
nên vừa trắng lại vừa ngọt. Tuy không có mì chính, chỉ nêm tương ăn
cũng tuyệt vời. Chỉ có điều đáng tiếc là canh rất cay, tôi ăn ớt
chưa quen nên ho sặc sụa.
Ăn xong, chú bé phải tới trường ngay. Chỉ còn mình tôi nằm nhà, lắng
nghe tiếng mọt đục gỗ và những con thạch sùng tắc lưỡi trên mái
gianh. Tôi nhớ lại cuộc gặp gỡ với ông già chăn vịt lạ lùng buổi
sáng. Cặp mắt hiền hậu và tinh anh của ông hiện lên trước tôi, khích
lệ:
- Nào hãy dũng cảm mà tiến lên, cô bé.
Ô, nhưng tôi sẽ tiến lên bằng con đường nào cơ chứ? Việc lánh nạn
lên một trường huyện xa xôi nào đó thì đã hết hy vọng rồi. Ở lại thị
trấn, nhìn tụi bạn ngày ngày cắp sách tới trường, tôi không thể nào
chịu nổi. Nơi đó quá khứ oanh liệt của tôi chưa phai mờ trong tâm
trí mọi người và do đó nó sẽ không ngừng day dứt tôi. Về quê ư? Cũng
không được vì ở đó tôi cũng đã trót được coi như hình tượng tốt đẹp
nhất cho lũ trẻ trong họ hàng học tập. Hay tôi xin làm thợ nhỏ ở một
xưởng cơ khí hay nhà máy nào đấy? Cũng không được vì tôi đâu đã đến
tuổi lao động... Cuối cùng, tôi chợt nhớ đến bố tôi. Con người thân
yêu nhất nhưng lại xa biền biệt đến nỗi tôi chẳng kịp nghĩ tới trong
những lúc vui sướng cũng nhu khi đau khổ. Bây giờ tôi bỗng dưng nhớ
tới người. Có lẽ vì một thằng bé nào đó bị bạn đánh vừa khóc vừa gọi
“Bố ơi” ở ngoài đường. Tiếng gọi của nó vọng vào trong nhà, đánh
thức những ý nghĩ trong tôi: “Ồ, mình cũng có một người bố. Lẽ ra
trong lúc này, tôi cũng có thể gọi: “Bố ơi, con khổ quá, bố bảo con
làm gì bây giờ? Bố có thương con không? Bố che chở cho con và đừng
ghét con...”. Và khi đó, chắc chắn bố sẽ ôm tôi vào lòng: “Con Bê
của bố, làm sao bố ghét bỏ con được. Bố sẽ che chở cho con. Bố sẽ
dìu đỡ con...”
Lần nào về phép, bố cũng ôm tôi tha thiết, âu yếm như thế. Vậy mà
những lúc đó tôi lại cố gắng chui khỏi vòng tay bố để nhông ra phố
chơi, để khoe với lũ bạn chiếc túi thổ cẩm hoặc chiếc vuốt hổ treo ở
sợi dây đeo cổ. Tôi chê người bố có mùi thuốc lá và mùi hăng hăng là
lạ mang ở trên rừng về.
Mẹ tôi mắng:
- Con nhà bất hiếu.
Còn bố chỉ cười hiền lành. Rồi bố chìa tay:
- Bê ơi, bố con mình ra sông tắm nhé. Bố nghe mẹ viết thư kể rằng
con bơi vượt sông được rồi, bố mừng quá. Cả đồn biên phòng của bố
đều biết tin con Bê đã vượt được sông... Nào, bố con mình cùng nhau
bơi thi chứ?...
Chao ơi, những giờ phút đó ngắn ngủi và mau qua. Bây giờ bố đang làm
gì trên miền rừng xa xôi đó? Bố có biết tôi đang đau khổ và đang
khóc vì nhớ bố không?
Ngoài đường, thằng bé lúc nãy bị đòn lại khóc ré lên, gọi:
- Bố, bố ơi...
Tôi chợt nảy ra ý nghĩ: lên biên giới tìm bố. Hai bố con sẽ được ở
với nhau cho tới vụ hè. Rồi sẽ định liệu năm học tới. Đằng nào thì
tôi cũng phải bỏ hẳn năm nay. Ở trên đồn biên phòng heo hút đó, chắc
bố nhớ tôi ghê lắm. Tôi lên, chắc bố sẽ mừng biết bao. Tôi sẽ mang
kim chỉ vá áo quần rách cho bố. Tôi sẽ mang thuốc lá, dầu cù là,
thuốc ho cam thảo và ô mai mơ cho bố... Tôi quyết định ngay: Mình sẽ
đi. Dẫu sao mình cũng là con một đại úy mà kinh nghiệm chiến đấu và
lòng dũng cảm khiến nhiều cán bộ cấp tá phải kính nể. Đã nhiều lần
tôi nghe bạn bè bố nói vậy. Tôi phải đủ can đảm để lên miền biên
giới đó, đứng ở cửa đồn biên phòng mà gọi to:
- Bố ơi, con Bê của bố đã lên.
Bố tôi sẽ ngẩng đầu lên, kêi:
- Trời đất, thật hay mơ thế này. Các cậu nhìn xem, con Bê của tôi đã
lên tới tận đây sao?...
Viễn cảnh tươi đẹp khiến tôi vui vẻ, lòng nhẹ lâng lâng. Tôi cứ nghĩ
tới đó mãi và trôi vào giấc ngủ êm ái, dễ chịu.
Khi tôi tỉnh dậy, đã gần năm giờ chiều Mẹ Cau về, đem theo gói xôi
lớn:
- Cháu ăn một nửa, phần em Cau một nửa.Chiều nay khỏi phải nấu cơm.
Phần cô, cô đã ăn no nê rồi.
Xôi đám cưới là xôi gấc đỏ tươi, vừa ngọt vừa béo ngậy mỡ. Tôi ăn
xôi xong, chào cô để ra bến sông chờ Loan. Lần này chỉ năm phút, cô
bạn đã tới.
Tôi hỏi:
- Mẹ cậu khỏe chưa? Sao cứ ỉu xìu thế?
Loan đáp:
- Mẹ tớ đỡ rồi. Nhưng hai người em của mẹ tới dưới quê lên. Các cậu
ấy tới nhà lão cai Cân đòi tiền. Lão chửi ầm ĩ và sai hai thằng con
ra cổng đuổi. hai cậu tớ kéo cả một dây đàn ông trong họ tới định
đốt nhà. Thế là chính quyền, công an phải tới can thiệp. Chuyện ầm
lên, tớ xấu hổ quá.
Tôi an ủi cô bạn:
- Người lớn họ đánh nhau. Mình dính gì vào đấy mà sợ?...
Rồi tôi kể cho Loan nghe ý định của tôi. Loan kêu thét lên. Tôi
tưởng nó hoảng sợ can ngăn, không ngờ cô bạn hí hửng nói:
- Tớ đi với. Nhất định đằng ấy phải cho tớ đi. Hai đứa mình sẽ cùng
đi. Thú thật!
Tôi lắc đầu:
- Không được. Nhiệm vụ của cậu là phải ở nhà học. Học cho giỏi để
sau này còn kèm cặp tớ.
Loan kêu to:
- Tớ không thể học được nữa. Đằng ấy thì lang thang. Mẹ tớ thì nằm
trên viện. Chuyện nhà ầm ĩ lên, tớ không dám nhìn mặt ai cả. Đến bố
Thế, tớ cũng phải tránh đi...
Tôi nói:
- Tự dưng bỏ học, có họa là người điên.
Loan bướng bỉnh lắc đầu:
- Không. Tớ quyết sẽ đi. Xưa nay, tớ cứ làm theo sự chỉ huy của đằng
ấy. Bây giò, tớ làm theo ý mình.
Tôi chưa kịp đối đáp, Loan dọa thêm:
- Nếu đằng ấy không cho tớ đi, tớ sẽ báo mẹ đằng ấy tới đây bắt đằng
ấy về nhà. Nào, suy tính đi.
Tôi chưa bao giờ thấy Loan hạt mít tỏ ra bướng bỉnh và đáo để như
lúc ấy. Tôi nghĩ bụng: Có khi mình phải nhượng bộ nó thật. Mà kể ra,
đi hai đứa cũng vui hơn... Tôi đành dàn hòa:
- Thôi được. Nhưng gặp khó khăn gian khổ dọc đường, đừng có oán tớ,
nghe chưa?
Loan mừng cuống quýt, và nó trở lại hiện lành, êm ái ngay tức khắc:
- Mình hứa mà... mình hứa là sẽ...
Tôi ngắt lời:
- Còn chuyện này nữa. Số tiền hai trăm cậu lấy ở đâu? Nếu là tiền
phi nghĩa thì phải trả ngay.
Loan chợt ngẩn ra, thở dài. Sau đó, nó khẽ nói:
- Hồi mẹ tớ bán nhà, chú tớ không đồng ý. Vì đất là nhà của ông bà
nội để cho. Nhưng mẹ nghe lão cai Cân cứ bán. Chú tớ khóc, bảo tớ
rằng: “Cháu tìm cách lấy lại một món tiền trong số tiền bán nhà để
lập bàn thờ cúng vong hồn bố cháu. Chú tàn tật yếu hèn, chú không
giữ được mảnh đất tổ tiên để lại. Chú xin thắp ba nén nhang để vong
linh bố cháu chứng giám cho tấm lòng ...”. Thế rồi, từ đó tớ rình
mãi nhưng không có cơ hội. Một hôm, tớ đang ngồi đi đồng trong
chuồng xí chợt thấy thằng con lớn lão cai Cân chạy xuống nhà tắm,
lật ngói lên, giấu một gói giấy. Tớ đoán chắc đó là tiền. Tụi con
lão luôn tìm cách ăn trộm, ăn bớt tiền của bố. Chờ cho nó ra phố, tớ
nhấc viên ngói, lấy gói tiền cất đi. Hôm sau thằng đó cứ quanh quẩn
tìm nhưng không dám kêu. Nó hậm hực kiếm cớ đánh thằng em. Còn tớ,
tớ chờ dịp đưa cho chú tớ làm bàn thờ, nhưng chưa thấy chú lên. Bây
giờ, tớ nghĩ đằng ấy cần tiền hơn...
Tôi lắng nghe chuyện. Lòng tôi bỗng dấy lên nỗi chua xót. Bố Loan
ngày xưa là chú thợ cơ khí khỏe mạnh, đẹp trai, hiền như đất. Tôi
nhớ hai cánh tay lực lưỡng của chú thường tung Loan và tôi lên cao.
Hàm răng trắng ánh khi chú cười. Và mỗi khi chú khom lưng làm ngựa
cưỡi, chúng tôi thương kêu:
- Ếp ếp, nhong nhong...
Người đàn ông tốt bụng hiền lành đó đã chết đột ngột làm sao! Em
chú, một anh thợ rèn ở làng, khập khiễng, nhút nhát tới mức chỉ cần
một đứa trẻ hay một cô hàng xôi trêu cũng đỏ mặt lên, lưỡi líu lại.
Người em đó đã không đủ sức giữ mảnh vườn mà anh mình đã tưới biết
bao mồ hôi lên.
Loan thấy tôi im lặng hồi lâu, hỏi:
- Đằng ấy bảo sao?
Tôi thở dài:
- Thôi cũng được. Coi như đây là tiền của bố cậu. Chúng mình sẽ dùng
nó vào chuyến đi này. Khi nào có dịp, ta sẽ lập bàn thờ và cúng vong
linh cho bố cậu.
Rồi tôi dặn Loan những công việc cụ thể: Phải lấy đủ quần áo, nhất
là áo rét vì miền núi khí trời lạnh lắm. Phải tìm bằng được lá thư
bố tôi đề địa chỉ và ghi rõ đường đi. Mẹ tôi đã theo đường này lên
thăm bố khi tôi chín tuổi. Phải vào phố mua khăn mặt, bàn chải và
thuốc đánh răng, kẹo bạc hà, ô mai cam thảo, thuốc lào, kim chỉ,
phong bì, giấy viết thư với tem. Ngoài ra, phải nhớ mang chiếc hộp
bằng nhôm ở nhà đi. Thứ nồi lưu động đó, nấu ăn dọc đường là tiện
nhât. Các chú bộ đội đã bảo thế.
Tôi ra lệnh:
- Cậu phải chuẩn bị tất cả mọi thứ trong vòng ba tiếng đồng hồ. Đúng
chín giờ, mình lại chờ cậu ở đây. Ta ra đảo kho tàng. Sớm mai, lên
đường.
Loan nín thở, nghe tôi nói. Mắt nó long lanh, đầy xúc động. Tôi cũng
thấy hai đầu gối run run. Chao ôi, thiêng liêng làm sao cái phút
giây trước chuyến đi xa đầu tiên của cuộc đời. Loan về thị trấn, tôi
quay lại nhà chú bé Cau, xin mảnh giấy viết thư cho mẹ:
Thưa mẹ kính yêu của con,
Con rất đau khổ vì đã gây cho mẹ những nỗi lo buồn. Con mong mẹ tha
thứ cho con. Ngày mai, con sẽ lên đường đi xa, con sẽ tiến lên bằng
đôi chân bé nhỏ và lòng dũng cảm của mình. Con sẽ cố gắng để trở
thành con ngoan của mẹ, trò yêu của bố Thế. Mẹ đừng lo cho con. Lúc
nào con cũng giữ một tâm hồn trong sạch và ngay thẳng. Mẹ ở nhà đừng
ốm và đừng buồn vì con nữa. Con chắc mọi người không nỡ quên con.
Trước khi đi, con gửi mẹ và tất cả họ hàng ruột thịt nhà ta lời chúc
tốt đẹp.
Con gái mẹ: Vũ Thị Bê
Tái bút: Loan đi cùng với con. Mẹ nói để cô Lưu yên tâm.
Gập lá thư làm tư, tôi bỏ vào túi quần. Rồi tôi lấy trong số hai
trăm, ba mươi đồng, đặt dưới gối chú bé Cau. Và không nói một lời,
tôi lẳng lặng ra dòng sông xanh quen thuộc. Giá ban ngày, tôi đã có
thể thấy được làn nước trong với những gợn sóng lăn tăn, những đám
cỏ mềm xanh như lá liễu và bầu trời lơ soi mình trên đáy nước. Nhưng
bây giờ là đêm, nên tôi chỉ có thể lắng nghe tiếng gió rì rào và
tưởng tượng ra chúng mà thôi. Tôi tìm được cái thuyền của bà An Lạc
rồi. Chút nữa, tôi sẽ chở Loan ra đảo. Sáng tinh sương mai, chúng
tôi sẽ đi bộ lên một ga xép cách thị trấn năm cây số và lên tàu.
Trước khi lên tàu, tôi bỏ thư cho mẹ. Khi chúng tôi tới một thị trấn
cách ga hơn một trăm cây số, mẹ sẽ nhận được thư tôi.
- Trời ơi, con gái của mẹ, sao con dại dột thế?... Sao con bỏ mẹ ra
đi? Giờ này, con gái tôi bơ vơ ở đâu rồi?
Mẹ sẽ nức nở gục đầu lên chiếc bàn chất chồng vở học trò chờ chấm.
- Mẹ ơi, con không dại dột đâu, và mẹ cũng đừng lo cho con bơ vơ
giữa cuộc đời...
Tôi thầm nói với mẹ như vậy. Và nước mắt tôi chảy ra tự lúc nào
không rõ, ướt lạnh trên hai má.
Thôi, chào sông nhé, chào dòng sông thân yêu, chào hòn đảo đã cất
giấu kho tàng và những bí mật tuổi thơ. Chào thị trấn quê hương. Tất
cả ở lại nguyên vẹn, tươi đẹp. Và hãy chúc cho tôi một lời may mắn,
trước khi tôi bước vào chuyên đi xa thứ nhất của cuộc đời.