3. Thế Giới Bên Kia (A WORLD BEYOND)
Chúng ta dang tay chào đón người mới đến với tất cả tình thương. Lúc đầu
họ thường ngạc nhiên, nếu trước kia họ không học hỏi và tham thiền. Họ đói
họ khác thì chúng tôi cho ăn cho uống tuy đó chỉ là tưởng tượng nhưng họ
coi là thật vì vẫn tưởng là còn xác thân. Dần dần quen rồi, họ mới thấy
rằng không cần ăn uống nữa. Chúng tôi để mặc họ muốn làm gì tùy ý, nhưng
sẵn sàng giúp họ.
Người tự sát tưởng rằng hủy thân đi là hết, không biết rằng hồn vẫn còn,
và như thế vấn-đề vẫn còn, lại thêm khó khăn hơn nữa. Trong cõi vô hình
không giải quyết được vấn đề trần gian, phải đợi sang đời sau, biết đến
bao giờ? Linh hồn rất đau khổ, tức giận cho mình đã phí mất một đời, khiến
cho đời sau càng thêm nặng nợ và còn mang cái tội là đã hủy diệt sự sống
mà Thượng Ðế đã ban cho, không ai được quyền lấy đi.
Kẻ sát nhân cũng rất đau khổ, không những đau khổ vì không thể trả lại đời
sống cho nạn nhân của y nay cùng ở với y, mà còn đau khổ vì đã cản trở nạn
nhân trả nghiệp quả riêng của họ. Hai hạng người nầy tự mình bị dày vò cực
khổ vô cùng tro ng thời gian rất lâu chờ đợi để được sang đời khác đền bù
tội lỗi.
Những người tuy không có tội nặng nhưng rất khó thích nghi, là những người
không tin rằng có đời sống vô hình. Người vô tín-ngưỡng từ trước vẫn nghĩ
rằng chết rồi là hết, nên không sẵn sàng để đón nhận hoàn cảnh bất ngờ,
nay rất ngạc nhiên, tưởng rằng những người và cảnh vật trông thấy quanh y
chỉ là ảo ảnh, do y tưởng tượng. Trong lúc sống không tử tế với ai, tự
nghĩ không có bổn phận giúp đở ai. Nay y phải ở chung với đám người cũng
ích kỷ như y, nhưng thô-lỗ cục-cằn mà y coi là hạ cấp, muốn thoát ra khỏi
mà không được, rất là khổ sở.
Người còn tha thiết đến đời vật chất, đến những người thân, đến tiền của
công việc còn bỏ lại, thì tâm trí loạn động nhiều, cần một thời gian dài
và nhờ những linh hồn khác giúp đỡ, mới dần dần bỏ được sợi dây ràng buộc
y với đời sống trên trần. Rồi y phải kiểm điểm những lầm lỗi trước và tìm
cơ hội tái sinh để chuộc lại.
Trước khi lựa chọn nơi tái sinh, tâm linh phải tự kiểm điểm xem những món
nợ nào cần trả trước và cần có những đức tính nào để tiến. Rồi phải tìm
xem hoàn cảnh nào thích hợp với điều kiện của mình. Nếu y muốn học yêu
thương, thì phải chọn nơi nào đức tính ấy không có nhiều. Thường y chọn
cha mẹ ở những người xưa kia y đã biết hoặc có sự liên lạc về nhân quả.
Rồi y chọn phái nam hay nữ để có thể tiến được nhiều hơn. Nếu nhiều linh
hồn trình độ ngang nhau muốn đầu thai và cùng một nơi, thì hồn nào thích
hợp hơn cả sẽ được lựa chọn, sự lựa chọn nầy có thể ví như máy tính thiên
tạo tự động ghi nhận và ấn định tư cách của mỗi linh hồn.
Linh hồn được trúng tuyển bay lơ-lững gần cha mẹ, và khi ngày giờ đã đến,
nhập vào bào thai hoặc đúng lúc hoặc ngay trước hay ngay sau khi lâm sản.
Những linh hồn bị loại đi tìm nơi khác thích hợp với mình.
Trường hợp đứa trẻ mới sinh ra đã bị tật nguyền, là gì linh hồn đã chọn
thân hình bất toàn ấy, thay vì một thân hình đầy đủ, để trả nợ mau chóng
hơn. Những chướng ngại trong đời vật chất càng nhiều, thì linh hồn tiến
hóa càng nhanh, nhanh hơn là những người có đủ tiện nghi trên đời. Càng
tiến nhanh trên phương diện tâm linh, thì càng ít phải trở lại thân xác
thịt.
Thường thường linh hồn trước kia thuộc phái nào, nam hay nữ thì lại thác
sinh vào phái ấy. Nhưng cũng có khi lựa chọn phái khác để học hỏi, như một
người tính vũ phu muốn sinh ra phái nữ để học tính dịu-dàng, một phụ nữ
nhút-nhát sinh ra phái nam để học can đảm. Trường hợp một bà bị tê liệt
nửa người và run rẩy, chúng tôi nhận thấy rằng trong một tiến thân, người
ấy ở thành La-Mã là một tên lính dữ tợn ưa làm cho kẻ khác run sợ; Y đã
thả thú dữ ra để cho nạn nhân sợ hãi trước khi bị cắn xé. Nay để đền tội,
y phải sinh ra làm một người đàn bà yếu ớt và run rẩy.
Những linh hồn đã tiến hóa đến một trình độ tương đối cao, đều hộp nhau để
học hỏi. Không có lể nghi như ở trần gian hộp ngày chúa nhật tán dương
Thượng Ðế. Những linh hồn nầy trong đời vật chất đã tiến hóa, đã tham
thiền để hòa đồng với Vũ -trụ. Họ đã không uổng phí thời giờ trên mặt đất,
nay họ có thể tiến hóa nhanh chóng hơn. Nhờ bước tiến nhanh, những lần
phải luân hồi sau nầy sẽ giảm bớt đi. Có ở trình độ nầy mới biết cái cảm
giác thích thú và thỏa mãn được tiếp tục học hỏi về tâm linh khi bước sang
cõi nầy. Những người không tin và nhạo báng rất đáng thương, họ không bao
giờ biết cảm giác khoái lạc ấy.
Những linh hồn đã tiến hóa luôn luôn hoạt động. Một số trong chúng tôi học
hỏi để tiếp tục tiến hóa, một số dạy những linh hồn mới đến, một số nữa
tham thiền và cầu nguyện mong chuộc tội lỗi đã qua. Ðừng có điên rồ tưởng
rằng chúng tôi lìa bỏ xác phàm bước sang thế giới tâm linh là chúng tôi
gần thiên đường hơn và tự nhiên được hợp nhất với Thượng Ðế. Muốn đạt tới
sự hợp nhất ấy, phải trải qua nhiều triệu triệu năm cố gắng đặc biệt theo
luật Thượng Ðế và giúp đở người khác trên đường thăng tiến. Mỗi việc lành
ta làm cho người khác mà không cầu báo là một lần làm thêm sáng tỏ và rút
ngắn bớt con đường ấy.
Tâm bố thí không giới hạn, không mong báo đáp, là bật thang lên thành quả
tâm linh. Ðừng cho tay trái biết việc làm của tay phải. Hãy bố thí trong
thầm lặng, đừng nói cho ai biết, nên tìm cái vui thú trong việc làm hơn là
trong lời nói. Nếu người đời đã khen, đã ca tụng rồi, thì còn mong gì
Thượng Ðế khen thưởng nữa. Ta không mong ai ca ngợi khi ta tự giúp ta, tại
sao ta lại mong ca ngợi khi ta giúp người khác, khi người ấy cũng là một
phần chúng ta, một phần của Thượng Ðế!
Bên trong mỗi chúng ta đều có trí sáng suốt hiểu rõ chân lý. Chúng ta đều
có khả năng tiến tới cái gọi là Thượng Chủng, nghĩa là giống thượng đẳng
(super race). Xưa kia chúng ta là một phần của Thượng Chủng, nhưng về sau
lòng tham lam, ích kỷ, thù hận và nhiều ý nghĩ tồi tệ khác dần dần thâm
nhập vào những người mang thân xác thịt.
Tiềm thức chúng ta chứa chất tất cả mọi điều hiểu biết mà chúng ta thu
thập từ khi bắt đầu được cấu tạo. Nó là cái kho tài liệu vĩ đại nhất chưa
bao giờ thấy, nhưng trong khi còn mang thân xác thịt thì không thể mở kho
ấy bằng cách thường. Qua những giấc mơ và lúc tham thiền, hoặc nhờ thôi
miên đúng phép, ta cũng chỉ có thể mở được một phần mà thôi. Nhưng ở đây,
trong cõi vô hình, tất cả kho ấy trong đời quá khứ luôn luôn bày ra trước
mắt, và nếu tâm linh ta có khả năng hơn, ta có thể thấy được các đời trước
nữa.
Có rất nhiều trường dạy tiến hóa tùy theo trình độ của linh hồn. Chúng ta
được tạo nên do một phần của Thượng Ðế, có đủ tính chất của Thượng Ðế, vậy
muốn hoàn tất cuộc hành trình của chúng ta và trở về với Thượng Ðế, thì
phải được thấm nhuần triết lý của Vũ-trụ và hiểu biết luật lệ của Vũ-trụ
để được hòa đồng với Tạo-Hóa là cha chúng ta.
Ông Ford nói đến hai phần tự tin là mình hoàn toàn, đã đạt tới đức hạnh
bực Thánh.
Một người cho rằng mình đã sẵn-sàng để được vào hàng Thánh, và mong được
Thánh Gabried dẫn đến ngay vàng của Thượng Ðế ngay khi bước sang cõi vô
hình. Y khoe với mọi người rằng y không hề làm gì lầm lỗi, không bao giờ
trộm cắp, lừa dối, tà dâm. Y làm việc trong nhà thờ và dự vào nhiều việc
từ thiện, y chắc rằng đời sống nầy là đời cuối cùng trước khi về với
Thượng Ðế ở trên trời. Tâm y nhẹ nhàng khi bước qua bên nầy, và tỉnh giậy
thấy quanh mình phong cảnh ngoạn mục. Y thấy một đám người áo trắng đi đến
tưởng rằng họ đến đón y, nhưng họ đi thẳng. Lại thấy lũ trẻ chơi đùa, y
gọi chúng hỏi thánh Gabried ở đâu, chúng nói chúng chẳng gặp thánh thần
nào cả. Y tìm đến một ông già râu bạc ngồi trong lều, y hỏi đường đi tìm
thánh Gabried, Ông già nói: "con đường nằm ở bên trong"
Y nghĩ là một đường hầm, nhưng tìm không thấy, y lại hỏi: "tại sao không
ai chỉ đường cho tôi đến Thượng Ðế? Tôi có việc cần gặp Thượng Ðế, Thượng
Ðế ở đâu?".
Ông già lại nói: "hãy nhìn vào bên trong"
Y nhìn quanh trong lều chẳng thấy gì, bực mình nói: "đừng có đùa bỡn, tôi
cần đến Thiên đình."
Ông già nói rõ: "Tôi biết , nên tôi đã bảo anh hãy nhìn vào bên trong anh.
Ai nấy đều phải tự xét đoán mình trước khi gặp Ðức Sáng Tạo.
- Nhưng tôi không làm gì lầm lỗi cả, đời tôi trong sạch nay tôi sẵn sàng
gặp Thượng Ðế.
- Còn tánh tự phụ của anh thì sao? anh lấy làm chắc rằng anh không lầm
lỗi?
- Tôi chắc, vì cả đời tôi không làm gì trái cả. Tôi đã cố gắng làm phận
sự, và nay tôi chờ được khen thưởng trên trời.
Bấy giờ ông già nắm tay y nói: "con chưa thấy sao con? Con đã nghĩ đến
linh hồn con nhiều quá, mà không nghĩ đến làm bớt đau khổ cho những người
không bằng con. Con đã bao giờ hy sinh miếng bánh của con cho kẻ ăn mày
đói ngồi ở đầu đường chưa? Con có lúc nào bớt thì giờ để nghe những nỗi
khó khăn của người dưới quyền con không? Con có bao giờ nghĩ đến làm cho
tâm hồn vợ con được thoải mái không? Nay vợ con được sung sướng hơn khi
con còn sống, vì không phải bị con bắt phải kính trọng con như một ông
thánh. Hãy nhìn xem vợ con đang làm gì."
Lúc ấy y nhìn thấy nhà y ở California. Một người đàn ông ngồi ruỗi dài
trên ghế của y. Vợ y trông khỏe mạnh vui vẻ. Người kia nói: "Chúng ta sẽ
được hoàn toàn hạnh phúc.
- Phải sau khi mãn tang.
- Sau lâu thế.
- Sợ người ta chê cười. Còn John thì chắc y chẳng để ý gì đến dưới nầy
nữa, chắc y đương ở trên trời và tìm đến Thượng Ðế. Thật là khó kinh khủng
mà sống với một người tự cho mình là ông thánh."
Bấy giờ y mới nhìn vào nội tâm y và nhận thấy rằng y đã lo tạo cho y trở
thành ông thánh nhiều hơn là phụng sự Thượng Ðế và những người chung
quanh. Tệ hại hơn nữa là y đã được nhiều lời khen ngợi ở thế gian về việc
làm của y, nên không còn gì để đem theo tâm linh nữa. Nay y hiểu rằng chỉ
có bố thí và giúp đỡ trong sự yên lặng vô danh mới được thưởng công trên
trời, y đau khổ giận cho y rằng đời gương mẫu của y đã không giúp ích cho
linh hồn y như đã giúp cho đời vật chất của y. Chi mà khôn g có tình
thương, tình thương không vị kỹ, thì những việc làm của y trong xã hội
được khen ngợi nhiều, chỉ là những ngày trống rỗng. Nay y đã hiểu bí mật
của sự cứu rỗi là bố thí không vị kỷ, đặt quyền lợi người khác trước quyền
lợi của mình, yêu thương v à giúp đở lẫn nhau.
Một người đàn bà cũng tin rằng mình có đủ đức tính của một vị thánh và
mong đợi được đưa thẳng đến gặp Thượng Ðế. Thị thức giậy ở bên nầy và nhìn
quanh tìm cửa bằng ngọc để đi vào tìm thánh Peter. Thị đến một cửa, không
đẹp như thị tưởng, đi vào thấy vườn hoa đẹp nhưng không để ý, chỉ chăm
chăm đi gặp Thượng Ðế. Trên đường thấy có nhiều người cùng đi, thị vượt
lên trước họ đến một nơi cao, chắc rằng trên đó Thượng Ðế đương ngồi chờ
thị. Thấy một người cũng leo lên gần thị, nhận ra bà lão ăn mày trước kia
vẫn gặp ở đầu đường, thị tỏ ý khinh bỉ, chỗ nầy đâu phải là nơi lão được
đến! Thấy một người trẻ tuổi mặt sáng, chắc là một vị thiên thần, thị xin
được đưa đến trước Thượng-Ðế. Vị nầy nói: "Nhưng thưa bà, tất cả chúng ta
là Tượng-Ðế" Thị bực mình, vì nói như thế là gồm cả lão ăn mày bên cạnh
thị. Thị nói: "Ðừng có đùa cợt, ông hãy dẫn tôi đến gặp Thượng Ðế".
Bấy giờ đám đông mà thị đã vượt lên trước đã đến nơi vây quanh thị, thị
bực rằng sẽ không được đứng hàng đầu nữa. Người trẻ tuổi nói với tất cả
đám đông:
"Quý vị hãy nghe đây, Thượng Ðế ở khắp nơi. Thượng-Ðế là tình thương, quý
vị thương yêu nhau và giúp đở nhau là có Thượng-Ðế trong đó".
Thị bực lắm, hỏi rằng: "Thiên Ðình ở đâu?
- Thiên Ðình ở ngay nơi bà đứng."
Nhưng thị nhìn quanh, chẳng thấy Thiên Ðình đâu cả. Dần dần thị mới hiểu
ý, Thiên Ðình ở ngay nơi thị, quan tòa là thị. Bấy giờ thị nhìn vào nội
tâm, mới thấy rõ sự thật kinh khủng. Trong khi cố gắng một đời sống trong
sạch không tội lỗi, thị chỉ nghĩ đến riêng mình, không bao giờ có một lời
an ủi cho người kém mình, mà lại còn muốn tránh xa sợ họ làm nhơ bẩn cái
áo trắng trong của thị. Ðâu là tình thương người khác? Thượng-Ðế không cần
nói, thị cảm thấy câu trả lời trong tâm thị, thị biết cái tâm của thị hơn
ai hết, chính thị là quan tòa của thị.
Những người đã chết không phải là bay lơ lửng trên không trung. Họ ở ngay
trên mặt đất, không ở đâu khác, vì chỉ có một Vũ-trụ duy nhất. Họ không
ngủ trên giường ta, không ngồi trên ghế ta, nhưng họ hoạt động ngay giữa
chúng ta. Họ cũng đi cùng đường nhưng không bị cản trở về vật chất, không
phải đi vòng quanh những chướng ngại như nhà cửa hay tảng đá. Tuy họ cùng
ở với ta, nhưng ta không thấy họ mà họ vẫn thấy ta và biết được cả ý nghĩ
của ta.
3. Thế Giới Bên Kia (A WORLD BEYOND)
Khi chúng ta tham thiền là chúng ta được gần Thượng-Ðế, chúng ta gặp
Thượng-Ðế ở trong chúng ta. Càng thiền được nhiều trong cõi hữu hình, thì
càng tiến nhanh trong cõi vô hình. Nên nhớ là khi tham thiền, bắt đầu phải
thở cho sâu, để tống r a những hơi độc tích tụ trong thân hình. Ðọc một
câu chú, rồi nghĩ rằng mình hòa đồng với Vũ-trụ. Hãy tự coi mình là một
phần của tạo Vật, của tinh hoa Thượng-Ðế, hãy quên cá tính mình đi, tưởng
tượng như mình với Vũ-trụ chỉ là một. Sau một thời gian, sẽ cảm thấy mình
nhẹ bỗng, tựa hồ như một tâm linh bay vơ-vẫn trong một bầu trời xa lạ. Hãy
thí nghiệm, luôn luôn giữ ý nghĩ hợp nhất hoàn toàn, chẳng bao lâu sẽ cảm
thấy hòa đồng với Tạo Vật. Rồi tiến sâu hơn, hãy để cho tâm linh Thượng Ðế
tràn ngập vào tâm khảm mình. Hãy dành ra ít nhất 15 hay 20 phút mỗi ngày
giữ yên lặng như thế. Hãy đón nhận lời của Thượng Ðế.
Cầu nguyện khác hẳn với tham thiền. Cầu nguyện là tác động, không phải thụ
động như tham thiền, mong cảm đến trái tim của Thượng-Ðế. Nghĩ điều thiện
thì Thượng Ðế ở kề bên. Hãy cầu nguyện cho một mục tiêu tốt đẹp, không
phải cho lợi riêng m ình. Nên nhớ rằng cầu nguyện để hại người khác, thắng
địch thủ, hơn bạn bè là vô ích.
Khi một linh hồn mong đợi gần Tâm của Thượng-Ðế, nó sẽ nâng cao ý nghĩ đến
độ cảm thấy mình như bay bổng và đầy khoái lạc. Cảm giác mạnh đến nổi quên
cả mình trong thế giới tâm linh, bấy giờ thấy rằng khoái lạc xác thịt
không còn có nghĩa g ì nữa. Rồi từ đó sẽ tiến lên, không phải trở lại đời
vật chất nữa. Trên tầng cao hơn, ta chỉ còn là tâm thức, không còn nghĩ
đến cá tính nữa. Tầng nầy chưa phải là tầng cao nhất, chỉ là một nấc thang
trên đường tiến hóa. Chúng ta đi trong ánh sáng, ánh sá ng của Chân-Lý
Vũ-trụ. Cũng không ở luôn mãi đó, mà tiến mãi đến toàn thiện.
Ông Ford nói đến một người, lúc sống đã học hỏi, hiểu biết và tham thiền
linh hồn thoát xác được sáng suốt ngay. Sau khi chào hỏi bạn bè thân thuộc
y tham thiền trong khi rung động của vũ-trụ tràn ngập y với cảm giác sung
sướng lạ lùng. Y tìm ngay những hồn mới đến, lạc lõng hoặc mê man để giúp
đỡ. Y không mất một giây phút thương tiếc cho cái thân xác đã mất, y biết
rằng sẽ gặp lại người thân trong cõi-vô-hình, y đã để lại mọi việc tốt đẹp
trên đời, nay y tiếp tục tiến hóa. Có nhiều người được như thế, không phải
ai nấy đều biết rõ những gì chờ đón họ, nhưng họ sẵn sàng chấp nhận mọi
điều Thượng Ðế ban cho, và rất vui mừng rằng vẫn được tiếp tục hoạt động
với nhiều việc để làm.
Người nầy sẽ tiến rất nhanh, sẽ sớm có dịp trở lại thân hình khác, hoặc
tiến lên tầng cao hơn. Nếu muốn tiến lên, thì phải học các thầy tiến hóa.
Các thầy sẽ dạy cách thay đổi tần số rung động để dần dần hòa nhịp với với
rung động ở tầng trên. Khi tần số rung động của họ đã cao và lên được tầng
trên, thì chúng tôi sẽ không thấy họ nữa, mặc dù họ vẫn ở đây, họ vẫn thấy
chúng tôi, đại-khái cũng như người trần không thấy chúng tôi mà chúng tôi
vẫn thấy người trần. Nhưng nếu họ muốn thì họ vẫn có thể hạ thấp rung động
để cho chúng tôi thấy. Trong đoạn sau, ông Ford sẽ nói đến những tầng trên
rõ ràng hơn.
Ông Ford trước kia đã được lên tầng trên, nhưng tự ý muốn trở lại thế gian
để thực hành những điều đã học hỏi. Vì thế khi ông là mục sư ở trong trại
lính, ông đã trông thấy danh sách những người chết đêm trước khi ông mới
ngủ giậy còn ở trong phòng (xem trang 13) vì đã có khả năng nhận tin tức
từ khắp nơi.
Trái lại, một người không tin, lúc sống cho rằng chết là hết không còn gì
nữa, khi mở mắt ra thấy có nhiều người quanh mình khuyên nhủ và giúp đở,
lại cho là ảo-ảnh, là tưởng tượng, không phải thực, nên nhắm mắt lại. Khi
mở mắt ra thì không thấy ai nữa, mà thấy mình rơi vào vực thẩm đen tối, ở
trong tình trạng rất sợ hãi. Tình trạng nầy thường kéo dài rất lâu, đến
khi nào lòng tin trở lại, cầu Thượng Ðế cứu, bấy giờ lại được thấy nhiều
người đến giúp đở. Những linh hồn nầy khi tỉnh ngộ rồi thì cố gắng học
hỏi, giúp đỡ những hồn khác và sẽ tiến hóa nhanh. Còn những hồn cố chấp
không tỉnh ngộ thì cứ ở trong cảnh đen tối hàng ngàn năm.
Kẻ sát nhân cố tình giết hại người khác để thỏa mãn ác ý của mình, thì ở
trong tình trạng như chết một thời gian lâu, đến khi tỉnh giậy thấy mình ở
trong địa ngục mà chính mình đã tạo nên. Không phải là trông thấy quỷ sứ,
nhưng thấy chính mặt y bị biến dạng vì thù hằn, tham lam, ác độc. Y sợ rúm
lại tưởng mình bị quỷ nhập. Y thất đảm khi nhận ra rằng không những y đã
bỏ phí một đời không tiến, mà còn thụt lùi trở lại nhiều đời nữa mới có
thể chuộc được tội y. Bấy giờ y nhớ lại ý muốn của y là vượt qua mọi sự
cám dỗ khi y bước vào cuộc đời, khốn nỗi y đã làm trái ngược với ý muốn
ấy.
Linh hồn nầy bị đau khổ trong thời gian rất dài. Ðến khi thất vọng cùng
cực, y rên xiết cầu Thượng-Ðế cứu. Nếu y thực tâm hối hận, những linh hồn
khác sẽ đến giúp y, và dần dần y sẽ tiến lên rất chậm, rất chậm, cho đến
khi hiểu biết cái hình phạt vì đã lấy đi một mạng sống do Thượng Ðế ban
cho. Như Lee Oswald đã bắn John Kennedy, và Jirhan đã bắn Bobby Kennedy,
sẽ còn phải đau khổ lâu lắm trong sự hối hận. Ðến như Hitler thì chẳng
khác nào y bị trơ-trọi trên một cù-lao đen tối không nhà cửa , và sẽ không
bao giờ rữa sạch được tội ác của y.
Người tự sát trong một giây phút thất vọng, đã lầm tưởng rằng chết là giải
quyết được vấn đề, không biết rằng đâu có dễ-dàng giải quyết như thế, và
chúng ta không có quyền dập tắt ngọn lửa sống mà Thượng Ðế đã thắp sáng
lên. Ðược mang cái thân xác thịt là đặc-ân Thượng Ðế ban cho để trả nợ
nghiệp chướng. Nhiều hồn khác còn phải chờ đợi để được trở lại làm người,
nay ta đã được rồi lại hủy bỏ cái đặc-ân ấy, thì nghiệp chướng sẽ tăng lên
gấp mười, và phải chờ đợi rất lâu mới lại được đầu thai.
Những nạn nhân bị sát hại không mang mối hận thù kẻ đã hại mình. Ở trong
cõi vô hình mà còn hận thù thì sẽ bị thoái hóa rất nhiều, có khi hàng vạn
năm. Họ hiểu rằng như thế là họ đã trả được nghiệp chướng, trả được tội
lỗi quá khứ, và sẵn sàng tha thứ.
Ông Ford nhắc lại rằng không có tòa án xử tội, ngoại trừ chính lương tâm
chúng ta, lương tâm ấy lại chính là Thượng Ðế. Khi tấm màng che mắt ta
không còn nữa, thì ta thấy rõ đâu là trái đâu là phải. Ta rất vui mừng khi
nhận thấy rằng những việc giúp đở nhỏ mọn, một lá thơ hay một nụ cười
an-ủi, những việc mà ta đã quên, lại giúp ích cho ta tiến hóa nhiều hơn.
Trái lại những hành động mà ta tin rằng có lợi cho ta lại làm cho ta chậm
tiến, vì ta đã làm một cách rầm-rộ, khoa trương, để được hãnh diện, được
khen ngợi. Hãy giúp người chỉ vì người ta cần giúp, tùy theo khả năng của
mình, xong rồi quên đi đừng mong cảm ơn và báo đáp, cũng không cần ai biết
cả. Hãy coi mình như một cái giếng, lúc nào cũng tràn đầy tình thương.
Chỉ có thể chữa bỏ những thói hư tật xấu ở trong đời hữu hình. Ở cõi vô
hình không làm gì được cả vì không có những cám dỗ. Trường học gian khổ là
đời vật chất, có nhiều cám dỗ mà ta phải vượt qua.
Có người lấy làm lạ tại sao có những linh hồn tiến hóa cao luôn luôn giúp
đỡ người khác, lại có những linh hồn cục-cằn không hơn thú vật. Sự đó có
thật. Lúc mới đầu chúng ta đều như nhau, là những tàn lửa của Thượng Ðế,
nhưng trải qua những đời sống trên trái đất, mỗi linh hồn phản ứng với
hoàn cảnh một cách khác nhau. Chớ nên mắc vào thói hư tật xấu, luôn luôn
giúp đở người khác, nhớ mục tiêu là trở về với Thượng Ðế.
Ðừng mong tiến hóa lấy riêng mình, không thể nào có chuyện ấy. Nếu muốn
chạy đua vượt lên trước người khác, thì không bao giờ đến được thượng
đỉnh. Bỏ lại người khác là cách tốt nhất để thục lùi, rồi phải bắt đầu trở
lại. Cần phải thương yêu lẫn nhau, giúp đở người khác cùng tiến với mình.
Tự ta ghi chép lấy vào cuốn sổ của ta. Không có tòa án, không có quan tòa
râu bạc nào, ngoài lương tâm của chính ta, không thể che đậy gì được,
không thể trốn chạy đâu được.
Những tầng cao hơn có nghĩa là những trình độ thức-giác cao hơn, chứ không
phải là ở tầng lớp cao hơn, vì các giới cùng ở một nơi. Muốn được tiến lên
tầng cao, cần nhiều công phu học hỏi, những người ở tầng trên mà muốn
xuống tầng dưới thì rất dễ-dàng. Người ở tầng dưới không thấy được người ở
tầng trên, nhưng người trên thấy rõ người dưới, đại khái cũng như chúng
tôi đối với người ở cõi trần. Không thể lấy lời nói của trần gian để tả
trình độ sáng suốt ở mỗi tầng. Ví như một quả bóng thổi phòng bằng khinh
khí, khi còn ở dưới đất là còn trông thấy và sờ mó được, nhưng khi đã cắt
dây thì quả bóng bay lên, cũng như sợi dây bạc nối hồn với xác, khi chết
dây đứt thì hồn lìa khỏi xác. Quả bóng lên cao trên thượng tầng không khí,
người dưới đất không trông thấy nữa, nhưng ở trên cao vẫn trông thấy ở
dưới. Ðó là thí dụ rất thô sơ, nhưng khó nói rõ hơn, vì tâm chí người ta
bị hạn chế, không thể hiểu xa hơn được. Chúng tôi hiện nay ở cõi
trung-giới, còn có liên lạc với đời vật chất, những người ở tầng trên đã
đoạn tuyệt với trần gian.
Chúng tôi học hỏi ở đây, có thể lựa chọn hoặc trở lại luân hồi, hoặc tiến
lên tầng trên. Tầng trên ví như tầng không khí loãng, trong một thời gian
không còn liên lạc với những hồn khác và với cõi trần. Chúng tôi như là
bay bổng trong một bầu khí quyển mà tần số rung động rất cao. Tạm giải
thích như vậy, thật ra không có lời nào tả được. Ở đấy không khí rất mạnh,
hay đúng ra là không có không khí, không có gì che đỡ những tia sáng chói
lọi. Chúng tôi phải cố gắng chịu đựng ở đó, rồi lại học hỏi để tiến xa hơn
nữa.
Rồi sau chúng tôi đi qua từ tinh cầu nầy sang tinh cầu khác. Chúng tôi đi
trên mặt tinh cầu như người trần đi trên mặt trái đất, chỉ khác là không
còn thân xác thịt nặng nề. Chúng tôi chỉ còn như là ý nghĩ (theo kinh Phật
thì có lẽ đây là H ữu-tưởng-giới). Lên trên nữa thì chúng tôi chỉ còn là
ánh sáng, tuy nhiên chúng tôi vẫn là chúng tôi, cái ta vẫn còn.
Những tầng trên có thể gọi là tầng thứ ba và tầng thứ bốn, những tầng chỉ
khác nhau về tần số rung động. Chúng tôi phải học hỏi để có thể thích hợp
được với những làn sóng ánh sáng và tiếng động nó mạnh đến độ có thể làm
mù hoặc điếc những người ở cõi trần. Chúng tôi bấy giờ ở trong tình trạng
như một chất dịch-thể, tuy nhiên không phải là một chất lỏng. Chúng tôi
được đổ vào cái khuôn Vũ-trụ "nói thế cho dễ hiểu" và gần như hợp nhất với
Vũ-trụ.
Ðó là tầng thứ ba. Tầng thứ bốn là lên ở những tinh cầu khác như Hỏa-tinh,
Thủy-tinh, Mộc-tinh, Kim-tinh, Thổ-tinh..v.v. nhưng không phải là thân vật
chất, mà là trình độ giác-thức cao hơn. Trên những tinh cầu đó cũng có
hình thể sinh vật, nhưng khác hẳn với hình thể trên trái đất, trình độ
tiến hóa các sinh vật ấy cũng khác nhau.
Nếu một linh hồn tội lỗi nhiều kinh khủng đến độ cần phải tới ngàn triệu
đời sống mới chuộc được, thì linh hồn ấy sẽ ở trong tình trạng tuyệt vọng
nơi trái đất nầy (thí dụ như Hitler). Linh hồn ấy có khi phải nhận lấy một
thân hình hoàn toàn khác mà chúng ta ở trái đất không gọi là người, ở trên
một tinh cầu khắc khổ bội phần, để có thể đền bù tội lỗi nhanh chóng hơn.
Những tâm linh ở trái đất muốn tiến hóa lên những tầng cao, phải mất nhiều
công phu học hỏi nâng cao tần số rung động của mình, để không những lên
cao mà còn phóng mình sang tinh cầu khác. Cuộc viễn-du nầy khiến họ học
hỏi được nhiều về nhữ ng định luật của Vũ-trụ. Và khi lên đến tầng thứ bốn
và thứ năm, thì có thể ở trên nhiều tinh cầu cùng một lúc, vì khi đó với
thức-giác cao, hồn có thể phân thân ra nhiều nơi.
Cao hơn hết là tầng thứ sáu, linh hồn đã đạt tới toàn thiện, có thể hợp
nhất với Thượng-Ðế. Tất nhiên chúng tôi còn xa quá chưa thể biết được,
nhưng được dạy cho biết rằng khi một linh hồn gần đến mức toàn thiện, phải
kiểm điểm lại tất cả bao nhiêu đời đã qua, từ đời trước nhất, không còn gì
vướng mắt nữa. Chúng tôi chỉ được nghe nói thế thôi, những linh hồn đó
không bao giờ quay ngược bánh xe vận mệnh vòng trở lại nữa.
Sáu tầng trên đây có lẽ cũng là những giới nói trong kinh Phật.
Tầng thứ nhất là cõi Dương thế mà chúng ta đương sống, có thân hình vật
chất, có dục tính, thường gọi là hạ giới, kinh Phật gọi là Dục giới.
Tầng thứ hai là cõi âm, cõi của những linh hồn mới bước qua bên kia, gọi
là trung giới, kinh Phật gọi là Sắc giới.
Tầng thứ ba linh hồn không còn sắc chất, là Vô Sắc giới.
Tầng thứ tư chỉ còn ý nghĩ, là Hữu Tưởng giới.
Tầng thứ năm chỉ còn ánh sáng, là Vô Tưởng giới.
Tầng thứ sáu linh hồn đạt tới toàn thiện, là
Phi-Hữu-Tưởng-Phi-Vô-Tưởng-Giới, có lẽ là giới của các vị Giáo chủ: Phật,
Chúa ..v.v..
Trên hết là Thượng Ðế, có thể gọi là tầng thứ bảy.
Ðó là lấy trí nhỏ mọn của tôi đoán phỏng như thế.
Sau hết, ông Ford nhắc lại rằng trong cõi trung-giới mà ông đương ở, không
có thời gian: Chúng tôi nhận thấy rằng chúng tôi tồn tại luôn luôn, vô
thủy vô chung. Chúng tôi có thể thấy một khoảng thời gian dài hơn người
đời thấy rất nhiều, nhưng vẫn không thể biết được đâu là khởi đầu đâu là
tận cùng. Chúng tôi chỉ hiểu biết rộng hơn người trần gian về mục tiêu của
Thượng Ðế, nhưng chúng tôi chưa phải là hoàn toàn sáng suốt.