Disneyland 1972 Love the old s
Quảng cáo LH: 0128.543.5547
Online: 1
Bây giờ: 2024-11-21 18:35
Chỉ với 500đ có cơ hội trúng iphone 4, Card (100k, 20k, 10k), hàng trăm game, nhạc chuông, hình ảnh miễn phí (ko tin đừng vào)
Chung Thủy Là Hạnh Phúc
 Cẩm nang an toàn sức khỏe Phần 1 LTS: "Cẩm nang an toàn sức khỏe là tập hợp hàng trăm bài báo chọn lọc từ chuyên mục An toàn sức khỏe Báo Sài Gòn giải phóng. Nó mang đến cho bạn kiến thức tổng thể trong việc giữ gìn sức khỏe và phòng chữa bệnh. Sách do Nhà xuất bản Phụ nữ ấn hành". Chương 1: Các bệnh mắt Viêm mí mắt Là tình trạng viêm mạn tính của bờ mi, thường do vi trùng gây ra. Biểu hiện của viêm mí mắt: chắp, lẹo, đỏ mắt tái đi tái lại, khô mắt thứ phát, kích thích mắt mạn tính. Viêm mí mắt có thể gây những biến chứng: nhiễm trùng giác mạc, lông mi mọc lệch (lông xiêu), quặm (cụp mí) do sẹo (sẹo ở bờ mí mắt làm cho mí mắt xoay vào trong). Có thể điều trị viêm mí mắt bằng cách lau mắt hằng ngày, bôi thuốc mỡ kháng sinh tại chỗ. Phương pháp lau chùi mắt: Đắp gạc nóng trên mí mắt trong 5 phút; chùi bờ mí bằng tampon hoặc một khăn mềm nhúng vào xà phòng nhẹ (như xà phòng trẻ em của Johnson). Lặp lại đắp gạc nóng: Trong trường hợp viêm bờ mí nặng, có thể cần phải chùi mí mắt 3 lần/ngày. Màng và mộng thịt ở mắt Màng che ở mắt (từ dân gian thường dùng) thực chất là sẹo của giác mạc - phần tương ứng với lòng đen. Bình thường, giác mạc phải trong suốt thì mắt mới nhìn thấy rõ. Giác mạc trong suốt nhờ được cấu tạo bởi các tế báo đặc biệt. Khi giác mạc bị viêm loét phá hỏng tạo thành sẹo, các tế bào trong suốt được các tế bào sợi (không trong suốt) thay thế. Sẹo đục giác mạc to hay nhỏ, dày hay mỏng là do viêm loét nhiều hay ít. Thị lực của mắt sụt nhiều hay ít là tùy thuộc sẹo đục dày hay mỏng, nằm ở trung tâm hay vòng ngoài của giác mạc. Nếu sẹo dày ở trung tâm là thị lực sụt nhiều, cách điều trị duy nhất là ghép giác mạc. Các bác sĩ sẽ lấy giác mạc của người chết thay vào chỗ sẹo đục. Hiện ở nước ta, việc ghép giác mạc chưa được phát triển lắm. Để phòng ngừa sẹo đục giác mạc, cần phòng ngừa bệnh viêm loét giác mạc. Bệnh này do vi khuẩn, vi nấm gây ra, chúng xâm nhập sau các chấn thương hoặc do các virus. Khi bị chấn thương mắt hoặc bị viêm loét giác mạc, nên đến các cơ sở chuyên khoa mắt để điều trị, không nên tự ý mua thuốc nhỏ. Nếu dùng thuốc có chứa chất corticoid như Dexacol, Neodex, Polydexan, Cebedexacol, Spersadex, Maxitrol, Polydexa, bệnh sẽ nặng hơn. Sẹo giác mạc nằm ở lòng đen, còn mộng thịt là một tổ chức xơ có mạch máu bò lên giác mạc từ lòng trắng. Mộng thịt dễ điều trị hơn sẹo đục nhưng sau khi cắt bỏ, mộng thịt rất hay tái phát dày hơn, to hơn. Chỉ nên cắt bỏ mộng thịt khi nào nó xâm lấn nhiều vào trung tâm giác mạc. Bệnh nhân lớn tuổi thì tỷ lệ tái phát thấp. BS Nguyễn Hữu Châu (Giám đốc Trung tâm Mắt TP HCM) Các bệnh chảy nước mắt Nước mắt được sản xuất đều đặn bởi tuyến lệ nằm ở dưới mí mắt trên. Nước mắt là yếu tố cần thiết bởi vì chúng hình thành nên một lớp phim mỏng bao phủ mặt trước của mắt, nhanh chóng được dẫn lưu khỏi mắt qua một hệ thống ống phức tạp dẫn từ góc trong của các mí mắt vào trong mũi. Hệ thống ống này được gọi là lệ đạo. Bất cứ xúc cảm mạnh hoặc sự kích thích mắt nào cũng có thể gây sản xuất nước mắt quá mức. Sự tắc nghẽn của hệ thống lệ đạo là một nguyên nhân quan trọng gây chảy nước mắt nhiều. Điều này thường có xu hướng xảy ra ở người lớn tuổi và nguyên nhân tắc nghẽn thường được xác định là do những thay đổi của ống lệ mũi. Những trường hợp nặng, chảy nước mắt có thể thành dòng xuống gò má. Nếu tắc nghẽn không được giải quyết, sự ứ đọng nước mắt trong các ống dẫn lệ có thể dẫn đến nhiễm trùng nghiêm trọng với chảy dịch mủ nhầy. Nếu bạn bị nhiễm trùng cấp ở hệ thống lệ đạo, có thể điều trị bằng kháng sinh. Bước tiếp theo là xác định mức độ và vị trí của tắc nghẽn. Có thể đến bệnh viện chuyên khoa để bơm các ống lệ bằng nước muối. làm giảm triệu chứng thoáng qua (thường tái phát sau đó). Phẫu thuật là biện pháp rất cần thiết để điều trị sự tắc nghẽn nghiêm trọng của các ống dẫn lệ, hoặc ở những người bị nhiễm trùng tái phát hệ thống lệ đạo. Ngoài ra, bạn cũng cần chú ý đến chảy nước mắt ở trẻ sơ sinh. Trẻ sơ sinh có thể có một mắt "ướt", thường vào lúc một đến hai tuần tuổi. Thỉnh thoảng có thể chảy dịch nhầy mủ. Nguyên nhân là có một màng làm nghẽn hệ thống dẫn lưu của nước mắt vào mũi. Sự nghẽn tắc này thường tự động giải phóng trong vòng 4 đến 6 tuần sau sinh. Việc xoa nhẹ góc trong của mí mắt có thể thúc đẩy nhanh chóng việc mở tắc nghẽn. Nếu nghẽn tắc còn dai dẳng sau khi đã xoa góc trong và bơm rửa, thông lệ đạo, cần làm phẫu thuật để giải phóng chỗ nghẽn tắc. Bệnh chảy nước mắt có thể do kích thích của mắt hoặc bệnh của hệ thống dẫn lưu. Cần đến khám ở một bác sĩ chuyên khoa mắt, tiến hành một số thử nghiệm đơn giản để chẩn đoán nguyên nhân. (còn tiếp) Phần 2 Bệnh tăng nhãn áp Tăng nhãn áp là một bệnh của mắt, nguyên nhân của 20% ca mù ở Việt Nam. Trong bệnh này, áp lực của các chất dịch trong mắt gia tăng đến mức thần kinh thị giác bị tổn hại. Áp lực tăng do có quá nhiều dịch được tạo ra hoặc do các ống dẫn trong mắt bị tắc nghẽn (bình thường, dịch dẫn lưu ra ngoài con mắt theo đường các mạch máu). Bệnh tăng nhãn áp làm tổn hại thị lực, khi áp lực gia tăng có thể làm co hẹp những mạch máu nuôi dưỡng các sợi thần kinh nhạy cảm ở phía sau mặt. Có 4 loại tăng áp: - Tăng áp góc mở mạn tính: Chiếm tỷ lệ lớn, xảy ra phần lớn ở người già nhưng cũng có thể xảy ra ở lứa tuổi trung niên. Họ hàng của những người bị bệnh tăng nhãn áp có nguy cơ bị mắc bệnh cao hơn do yếu tố di truyền. Bệnh tiến triển chậm chạp và thường không được chú ý trong nhiều tháng hoặc nhiều năm. - Tăng áp góc đóng hay tăng áp cấp: Đây là loại bệnh tăng áp hay gặp nhất ở Việt Nam, thường xảy ra ở lứa tuổi trung niên và người già, đặc biệt là phụ nữ. Nó xảy ra một cách đột ngột, áp lực của mắt tăng rõ rệt. Nếu không điều trị tức thời, mắt sẽ tổn thương suốt đời trong một thời gian rất ngắn. Không giống như bệnh tăng áp mạn tính, bệnh tăng áp cấp thường có những triệu chứng rõ rệt như đau mắt dữ dội, nhìn mờ, đỏ mắt, có những vòng nhiều màu quanh các nguồn sáng và nôn mửa. - Tăng áp bẩm sinh: Loại tăng áp này hiếm, xuất hiện ngay lúc trẻ được sinh ra. Sự giãn lớn của mắt trẻ sơ sinh, chảy nước mắt và sợ ánh sáng một cách bất thường là những triệu chứng của bệnh, cần đến bác sĩ nhãn khoa khám. - Tăng áp thứ phát: Xuất hiện sau viêm mắt, phẫu thuật mắt, có biến chứng chấn thương mắt hoặc đục thủy tinh thể quá chín. Bệnh tăng nhãn áp càng được chẩn đoán sớm thì cơ hội thành công trong việc ngăn ngừa mất thị lực càng lớn. Mặc dù bệnh tăng áp không thể chữa khỏi hoàn toàn nhưng hầu hết các trường hợp có thể kiểm soát được. Việc điều trị tùy thuộc vào hình thái của bệnh, có thể dùng thuốc nhỏ, thuốc uống, phẫu thuật hoặc laser. Thuốc Spersacet gồm Sulfacetamind Sodium và Chloramphénicol, dùng trị viêm mắt trong một thời gian ngắn khoảng 10 ngày. Không nên dùng quá lâu vì tác dụng phụ của Chloramphénicol có thể gây biến chứng, chủ yếu là gây thiếu máu, thiếu sắt bất sản hay các loạn sản khác về máu. Dùng thuốc mỡ Tétracycline 6 tháng liền mà không hết thì không cần dùng thêm nữa. Có thể thay bằng thuốc mỡ Erythromycin. Nếu còn đau mắt hột, có thể dùng Doxycyline 100 mg x 2 lần/ngày trong 3 tuần hoặc nhỏ thuốc loại Sulfamide 4 lần/ngày trong 5 tuần. Thuốc mới nhất hiện nay là Azithromycine, tên thương mại là Zithromax, dùng điều trị đau mắt hột. Hiện nay, cơ quan chống mắt hột quốc tế cũng dùng thuốc Azthromycine để điều trị mắt hột cho các quốc gia ở châu Phi. Để phòng ngừa và chống lây lan bệnh mắt hột, cần giữ vệ sinh môi trường, rửa mặt bằng nước sạch và dùng khăn riêng. Bệnh cườm mắt (đục thủy tinh thể) Bệnh đục thủy tinh thể được dân gian gọi là cườm khô, khác với bệnh tăng nhãn áp được gọi là cườm nước. Mắt của con người cũng giống như một máy hình. Máy hình gồm hai bộ phận chính là ống kính và phim, còn có mắt ống kính là thủy tinh thể, phim là võng mạc. Ở máy hình, khi ống kính bị mốc hay vỡ thì ảnh mờ, còn ở mắt khi thuỷ tinh thể bị đục hay vỡ (do chấn thương) thì người ta nhìn mờ. Bệnh cườm đa số là do tuổi già (90%) vì chuyển hoá trong cơ thể suy yếu. Còn các nguyên nhân khác là bị bệnh trong cơ thể như tiểu đường, viêm nhiễm ở mắt, bị cườm nước, bị chấn thương hoặc các bệnh bẩm sinh gây cườm ở trẻ nhỏ. Một số yếu tố khác cũng gây cườm như thiếu dinh dưỡng, do ảnh hưởng của các tia sáng (như tia cực tím...). Người bệnh thấy mắt bị mờ dần, không đau, không nhức, không đỏ, đi thử kính không thấy kính nào nhìn rõ hơn. Đến lúc mờ nhiều (không còn đọc được các chữ lớn trong sách báo), nhìn vào trong mắt thấy đồng tử đổi màu, có thể màu trắng hoặc đen nâu. Đi khám bệnh, bác sĩ nhãn khoa có thể phát hiện ngay từ khi mới bắt đầu bị cườm. Không có thuốc nào nhỏ vào mắt làm tan cườm như lời đồn đại. Khi đã bị cườm, nhất là lúc cườm đã chín thì cách chữa duy nhất là mổ để lấy cườm rồi đặt thuỷ tinh thể nhân tạo hoặc cho đeo kính. Phần 3 Bệnh tăng nhãn áp (tiếp) Khi nào nên mổ mắt? Tùy theo từng người. Đối với người làm việc bằng mắt nhiều như đọc sách, lái xe..., khi không nhìn được chữ rõ nữa thì nên đi mổ sớm. Còn đối với những người không phải làm việc bằng mắt nhiều thì có thể để muộn hơn. Tuy nhiên, không bao giờ để cườm quá chín tức mắt quá mờ (không thấy được bóng bàn tay trước mắt). Cườm quá chín sẽ gây biến chứng như cườm nước cấp tính gây đau nhức, nhức đầu dữ dội, có thể làm tổn thương thần kinh thị giác. Lúc đó, phải đi mổ gấp mà sau mổ chưa chắc đã nhìn thấy được. Ở nước ta có rất nhiều người bị cườm không chịu đi mổ vì sợ, khi đã có biến chứng thành cườm nước, đau nhức quá, đã mù mới chịu mổ, lúcđó có mổ cũng không cứu vãn nổi, chỉ giải quyết cho khỏi đau nhức mà thôi. Sau khi mổ cườm, muốn nhìn rõ, phải đeo kính hoặc đặt thuỷ tinh thể nhân tạo. Có 3 loại kính: - Kính gọng: Loại kính có độ hội tụ cao khoảng + 10 đến + 12 điốp. - Kính tiếp xúc (kính sát tròng). - Thuỷ tinh thể nhân tạo: Là một thấu kính chỉ nhỏ bằng hạt bắp, rất nhỏ, được đặt ngay vào trong mắt lúc mổ. Dùng kính nào tốt nhất? Tùy trường hợp và điều kiện tài chính của bệnh nhân. Tốt nhất là đặt thuỷ tinh thể nhân tạo vì nó cho hình ảnh trung thực nhất. Hiện nay, ở nước ta, việc đặt thuỷ tinh thể nhân tạo đã rất thông dụng. Mới đây đã có thể mổ bằng phương pháp Phaco, không cần phải khâu, phục hồi nhanh. Thường thì thuỷ tinh thể nhân tạo không gây phản ứng gì cho người bệnh. Nếu không có điều kiện, sau khi mổ có thể đeo kính gọng, nhưng có phiền toái là hình ảnh lớn hơn bình thường. Lúc đầu, bệnh nhân nhìn không quen sẽ rất khó chịu, nhận định khoảng cách không đúng, nhất là xuống cầu thang dễ bị ngã, đôi khi chóng mặt. Ai cũng phải tập luyện đeo kính một thời gian rồi dần dần mới quen, có người phải mất 6 tháng, có người tập hoài mà vẫn không quen được. Kính áp tròng ít ảnh hưởng hơn kính gọng, vì vậy thoải mái hơn, nhưng chỉ dùng cho người trẻ vì cần khéo léo, tay không run và mắt kia còn nhìn được tốt. Còn đối với người già bị cườm cả hai mắt thì rất khó sử dụng vì tay họ đã run, mắt mờ, thao tác không chính xác, dễ bị rớt kính. Ngoài ra, kính áp tròng có thể gây dị ứng, không phải ai cũng thích hợp được. Không phải mổ cườm bao giờ cũng tốt và làm cho mắt có thể thấy rõ ràng được ngay. Lúc mới mổ và sau khi mổ có thể có biến chứng như xuất huyết, viêm bồ đào, cườm nước thứ phát, bong võng mạc, viêm nhiễm... Nếu đặt thuỷ tinh thể nhân tạo thì một thời gian cũng dễ bị đục bao sau, làm mắt mờ trở lại, phải dùng laser để đốt. Ngoài ra, mắt sau khi đã mổ cườm và đeo kính nhìn được rõ nhiều hay ít còn tùy thuộc vào tình trạng võng mạc còn tốt hay đã bị bệnh. Nếu võng mạc đã bị bệnh thì mổ cườm chỉ giúp được phần nào thôi, cũng như máy hình đã thay ống kính còn tùy thuộc vào phim tốt hay xấu. Nếu phim đã hư hay hết "đát" thì dù có thay ống kính tốt mấy chăng nữa, hình ảnh cũng mờ thôi. Đục thủy tinh thể và glaucoma Sau khi mổ đục thủy tinh thể, người cao tuổi có thể bị glaucoma. Nguyên nhân có thể do: mắt bị 2 bệnh cùng lúc; hay một bệnh bị trước, một bệnh bị sau; hoặc do mổ thủy tinh thể mà bị glaucoma. Trường hợp đã mổ glaucoma khoảng một năm, sau này người bệnh vẫn có thể bị đục thủy tinh thể (do tuổi già hoặc thứ phát sau mổ glâuom). Khi mắt bị đục thủy tinh thể, ánh sáng đến mắt bị che nên nhìn không được rõ. Vì thế, khi muốn nhìn rõ, người bệnh thường dùng kính lúp để phóng đại hình ảnh; nếu dùng kính cận thì bệnh nhân không thể nhìn rõ hơn hoặc chỉ nhìn rõ được một thời gian. Người bị đục thủy tinh thể có thể tạm dùng thuốc nhỏ mắt Catalin. Tuy nhiên, thuốc này (cũng giống như tất cả các thuốc trị cườm mắt khác) không thể ngăn chặn hoàn toàn bệnh đục thủy tinh thể. Lạm dụng thuốc nhỏ mắt gây đục thủy tinh thể Thủy tinh thể bị đục có thể do nguyên nhân bẩm sinh kết hợp với dị tật, do chấn thương, ảnh hưởng chuyển hoá trong cơ thể. Tuy nhiên, thông thường nhất là do lão suy (từ 50 tuổi trở lên) và do ảnh hưởng của việc lạm dụng thuốc nhỏ mắt chứa corticoid. Một số người trẻ, nhất là phái đẹp, thấy những lọ thuốc mắt nho nhỏ lại rẻ tiền, tưởng nhầm là thuốc rửa mắt nên dùng thường xuyên mỗi ngày trong thời gian dài. Rồi đến một ngày thấy cảnh vật chung quanh mờ đi, khám thì phát hiện bị đục thủy tinh thể. Thuốc mọi người thường dùng tên là Dexamethasone có công thức chứa kháng sinh Chloramphenicol và chất corticoid. Đây là loại thuốc tốt để trị viêm kết mạc nhiễm trùng, viêm loét giác mạc, nhiễm trùng tuyến lệ... Nhưng đây cũng là loại thuốc không nên lạm dụng hoặc dùng sai chỉ định vì có thể gây suy tủy, hội chứng xanh tái ở trẻ sơ sinh, làm tăng nhãn áp ở người mắc bệnh glaucoma, làm tổn hại thần kinh thị giác, làm trầm trọng các bệnh nhiễm virus, vi nấm và nhất là gây đục thủy tinh thể. Thuốc làm chậm quá trình đục thủy tinh thể - Thuốc nhỏ mắt: Dionin 1% với hoạt chất là Ethyl Morphin, những thuốc gia tăng biến dưỡng chống lão hoá mắt chứa các axit amin hay vitamin như ATP, B6, Acid Aspartic, L.Arginin, Acid L.Glutamic... (Catacol P.O.S, Catarstat), tác dụng sự chuyển hoá trên sự xơ cứng thủy tinh thể chứa các muối calci, iod, glycin (Cristopal)... - Thuốc uống chứa các axit amin bổ dưỡng mắt hoặc vitamin để làm chậm quá trình đục tinh thể như Phakan uống, cả ống uống lẫn viên nang trong cùng lúc. - Nội tiết được dùng làm chậm đục thủy tinh thể: Kết hợp tinh chất tuyến cận giáp, buồng trứng, tinh hoàn, Folliculine, mỗi ngày uống một ống hoặc theo chỉ định của bác sĩ. Phần 4 Tăng nhãn áp cấp Tăng nhãn áp cấp (còn gọi là cườm nước, thiên đầu thống, cườm xanh, glaucoma là một bệnh phổ biến ở Việt Nam, có tỷ lệ gây mù loà cao. Đây là một bệnh khẩn cấp trong nhãn khoa, diễn tiến bệnh nhanh chóng, cần phải điều trị kịp thời và đúng cách. Nếu không, các thần kinh mắt bị hủy hoại, thị lực giảm không tái tạo được. Mắt có thể mờ sau 24 giờ và mù hoàn toàn từ 1 đến 7 ngày. Bệnh thường gặp nhiều ở phụ nữ trên 50 tuổi (3/4) thuộc người hay lo lắng, suy nghĩ. Bệnh thường khởi phát sau một đêm mất ngủ hay lo buồn. Biểu hiện đầu tiên là mắt nhức dữ dội, lan dần lên đỉnh đầu, nhức đầu bên mắt bị đau, buồn nôn, mắt nhìn rất mờ, đôi khi thấy các vòng màu. Mắt đỏ, con người nở lớn, ấn vào mắt thấy cứng, đôi khi thấy con ngươi mắt màu xanh. Khi thấy những dấu hiệu trên, nên đưa bệnh nhân đến chuyên khoa mắt điều trị. Không nên tự uống thuốc đau nhức, thuốc chóng nôn hoặc lười đi khám vì sẽ rất có hại cho thị lực sau này. Người trên 50 tuổi nên kiểm tra mắt hàng năm để phát hiện yếu tố nghi gây tăng nhãn áp ở một thể khác, âm thần nhưng nguy hiểm hơn, làm người bệnh mù dần mà không đau nhức. Bệnh tăng nhãn áp có yếu tố di truyền; gia đình có người bị bệnh này phải cẩn thận hơn. Ở người từng bị lên cơn đau nhức một lần đã điều trị khỏi, cần theo dõi thường xuyên để phát hiện sự tiến triển và biến chứng sau mổ. Bệnh này không lây, nhưng nếu đã bị ở một mắt, mắt bên kia cũng có thể bị lên cơn tăng áp bất cứ lúc nào. BS Tô Quang Định Điều trị mắt cận thị Nếu thị lực kém đi, người bệnh cần đến bác sĩ chuyên khoa mắt khám để xác định có bị các tật khúc xạ như cận thị, loạn thị, viễn thị không. Nếu có thì cần đeo kính điều chỉnh thị lực. Ngoài ra, thị lực yếu còn có thể do nhiều nguyên nhân khác và phải được điều trị bằng thuốc. Thuốc Difrarel E và vitamin E giúp tăng cường dinh dưỡng và tuần hoàn máu ở võng mạc nên thường được bác sĩ cho dùng khi mắt cận thị và một số bệnh khác. Để bảo vệ tốt thị lực, chúng ta cần ăn uống đầy đủ các chất dinh dưỡng, nhất là các loại trái cây chứa nhiều carotène, thường có màu vàng cam như cà rốt, đu đủ, cà chua... Lưu ý khi học hành, đọc sách hoặc phải làm việc bằng mắt một cách chăm chú, cần phải có đủ ánh sáng. Kỹ thuật điều trị mắt bằng Lasik Trong phẫu thuật cận thị, ngoài các phương pháp thường làm như rạch giác mạc hình nan hoa, phẫu thuật Laser excimer, hiện nay, thế giới đang phổ biến một loại phẫu thuật mới là phẫu thuật Lasik. Sau phẫu thuật, thị lực có thể đạt 9/10 hoặc 10/10; một số trường hợp viễn hoặc loạn thị thì cần đeo kính ± 1 Ds (Điốp) để đạt thị lực tối đa. Kỹ thuật Lasik là bước nâng cao của kỹ thuật Laser excimer. Laser excimer là loại Laser đẩy, phát ra trong tia cực tím có bước sóng rất ngắn (193 nano meters) nhưng đủ mạnh để cắt giác mạc, làm cho các mảnh vụn giác mạc bốc hơi và cho phép tránh các tác dụng của nhiệt và động. Tuổi tốt nhất để thực hiện kỹ thuật này là từ 18 đến 26, thị lực mắt phải từ -5 độ đến -15độ. Nếu cận từ -5 độ đến -12 độ thì phẫu thuật cho kết quả khả quan; sau một tháng thị lực mắt có thể đạt 9/19 hoặc 10/10. Còn cận từ -12 độ đến -15 độ thì phải sau từ 6 đến 12 tháng mới đánh giá được kết quả. Kỹ thuật Lasik (Laser in situ Keratomileusis) dùng Laser excimer phẫu thuật phía ngoài hủy bỏ biểu mô giác mạc; có thể đưa sâu xuống cắt một phần của giác mạc hình thấu kính (hơi lõm). Sau đó, phần giác mạc cắt ra sẽ được đặt lại vị trí cũ. Khi phẫu thuật, bệnh nhân phải nằm yên trên ghế tựa hoặc bàn phẫu thuật, sau khi sát trùng mắt và nhỏ thuốc tê (Tetracain 1%) vài phút, bác sĩ sẽ đặt vành mi cố định mi mắt ở trạng thái mở rồi tiến hành phẫu thuật. Điều cần lưu ý là trong lúc phẫu thuật, bệnh nhân phải nhìn vào một điểm cố định. Sau phẫu thuật, bác sĩ cho bệnh nhân nhỏ thuốc kháng sinh và dùng thuốc kháng viêm không steroide trong một tuần. Kỹ thuật Lasik tránh được cảm giác đau nhức sau phẫu thuật ở giác mạc; nhưng cũng có một tỷ lệ nhỏ, khoảng 5%, gặp biến chứng. Bệnh nhân có thể bị loạn thị do nắp giác mạc bị nhăn hoặc bị đặt lệch, hay có biểu mô xâm lấn dưới vạt... nên nhìn thấy có vòng màu hoặc thấy mờ mờ như có màn sương... Sau khi phẫu thuật, bệnh nhân cần lưu ý: để việc tái tạo biểu mô mắt không bị chậm lại và nắp giác mạc không bị lệch, cần tránh dụi mắt trong những ngày đầu. Nếu lỡ dụi mắt hoặc có sự cố xảy ra, cần đến bác sĩ khám để đặt nắp giác mạc vào đúng vị trí và khâu lại. Trường hợp biểu mô xâm nhập mặt trong nắp giác mạc, các mối chỉ khâu không thật khít hoặc khi có cảm giác lạ, cần đến bác sĩ khám lại để có thể sớm can thiệp và tránh các tai biến. Phần 5 Điều chỉnh lé Đa số các trường hợp lé (dù ở trẻ em hay người lớn) không bao giờ tự khỏi nếu không được điều trị, ngoại trừ hai trường hợp sau: - Tình trạng giả lé do nếp bẹt mí hoặc do khuôn mặt có dạng đặc biệt, nhìn giống lé. - Lé tạm thời do liệt thần kinh điều khiển cơ hoặc cơ vận nhãn sau sang chấn hoặc do nhiễm virus. Trường hợp này thường xảy ra sau một chấn thương đầu hoặc sau một đợt cảm cúm, kéo dài không quá 6 tháng. Nếu sau 6 tháng vẫn tồn tại thì phải điều trị, mắt mới ngay trở lại. Tình trạng lé mắt trong một thời gian dài (trên 2 năm) có thể dẫn tới các tổn thương chức năng mắt trầm trọng: nhược thị ở mắt lé (thường xuyên nhìn mờ hơn mắt kia), mất thị giác hai mắt. Ở trẻ nhỏ, các chức năng này chỉ có thể hồi phục nhờ tập luyện. Người trên 15 tuổi nếu đã mất các chức năng này thì không thể hồi phục được, chỉ có thể phẫu thuật thẩm mỹ chỉnh lại mắt lé mà thôi. Điều trị lé trên nguyên tắc có 5 bước: 1. Điều chỉnh kính ở các bệnh nhân lé có kèm tật khúc xạ để đạt được thị lực cao nhất, giúp quá trình điều trị lé trở nên dễ dàng hơn. 2. Tập để khắc phục nhược thị nếu có mắt bị nhược thị. 3. Tập hồi phục thị giác hai mắt nếu chức năng này yếu hoặc đã mất. 4. Các bài tập cơ giúp làm mạnh cơ yếu hoặc làm giãn cơ cường. 5. Phẫu thuật chỉnh cơ nếu bệnh chưa hết với các phương pháp trên. Đối với người trên 15 tuổi, chỉ điều trị với các bước 1 - 4 - 5. Không có kính điều chỉnh lé, chỉ có kính điều chỉnh tật khúc xạ đi kèm với lé. Lưu ý khi mang kính sát tròng Những người bị các tật về mắt nếu đeo kính thông thường sẽ gặp nhiều bất tiện khi làm việc, hoạt động thể thao. Nếu là phái nữ, cặp kính quá dày và to sẽ ít nhiều ảnh hưởng đến thẩm mỹ. Vì vậy, kính sát tròng (hay còn gọi là kính tiếp xúc - contactlens) có thể cải thiện được những bất tiện trên. Tuy nhiên, khi sử dụng kính sát tròng, cần lưu ý những điểm sau: 1. Khi nào thì được sử dụng kính sát tròng? Người muốn sử dụng kính sát tròng phải được bác sĩ chuyên khoa chẩn đoán để xác định chính xác việc sử dụng kính sát tròng có thật cần thiết không, độ kính bao nhiêu thì vừa, đồng thời khảo sát độ cong, đường kính của tròng... Độ cong của kính rất quan trọng. Kính có độ cong lớn sẽ dễ làm cho người mang khó chịu, đỏ mắt; kính có độ cong nhỏ sẽ dễ bị tuột, rơi. 2. Sử dụng loại kính sát tròng nào? Nên sử dụng loại mềm vì dễ tạo sự tiếp xúc giữa giác mạc và mí mắt. Hơn nữa, loại kính sát tròng mềm có tính ẩm cao giúp cho mắt dễ thích ứng. 3. Ưu điểm của kính sát tròng Khi đeo kính sát tròng, mắt sẽ không cảm thấy khó chịu vì khoảng cách giữa mắt và tròng kính gần như không có. Sử dụng kính sát tròng sẽ thấy được những hình ảnh trung thực hơn so với kính thường. 4. Nên thận trọng khi ngủ và bơi lội Khi tắm biển có thể sử dụng contactlens loại dẻo, đường kính tròng lớn để lớp giác mạc và mi mắt được nâng đỡ và che chở tốt. Tuy nhiên, các hồ bơi thường có nhiều fluor và vi khuẩn có thể gây viêm kết mạc nếu khi bơi bạn vẫn sử dụng contactlens. Khi ngủ vẫn có thể đeo kính sát tròng. Tuy vậy, lúc ngủ nên tháo ra vì giác mạc trong đêm thường giảm khả năng hấp thụ ôxy. 5. Vài điều cần chú ý - Rửa sạch kính trước khi cho vào mắt, rửa tay trước khi sử dụng kính. - Khi đeo kính sát tròng, tuyệt đối không phun keo xịt tóc. Nếu cần, phải nhắm mắt lại cho đến khi xịt xong. - Không sử dụng contactlens ngay sau khi dùng thuốc nhỏ mắt. DS Duy Cường Phần 6 Chương 2: Bệnh tai mũi họng Điếc và giảm thính lực Tiếng ồn đối với tai: - Quá trình phát triển nhanh chóng các ngành công nghiệp, giao thông, vận tải, đô thị hoá... làm cho tiếng ồn ngày càng lớn, ảnh hưởng tới sức nghe và gây bệnh điếc nghề nghiệp do tiếng ồn. Tiếng ồn cũng là trong những tác nhân gây ô nhiễm mà từ trước đến nay ít người chú ý hoặc chú ý nhưng không có hướng giải quyết triệt để. - Ô nhiễm tiếng ồn là sự tồn tại các loại âm thanh khiến người nghe cảm thấy khó chịu. Tiếng ồn gây mất ngủ, stress, ảnh hưởng tới tim mạch, giảm tuổi thọ, tăng huyết áp, nghễnh ngãng, điếc. - Tiếng ồn phổ biến hiện nay thường phát ra từ các máy móc công nghiệp, các phương tiện giao thông vận tải (xe hơi, xe lửa, máy bay), hộp gây ồn (cassette, tivi, máy đĩa)... Đơn vị đo tiếng ồn là décibel (dB). Ví dụ: tiếng xe chạy trên đường phố 70-90 dB, tiếng búa máy 90 dB, tiếng xe lửa 90-95 dB, máy bay phản lực cất cánh 130 dB... Theo qui định của Hiệp hội Chống tiếng ồn quốc tế (AICB) thì tiếng ồn cho phép trong sản xuất là 95 dB ±5, ở Việt Nam là 85 dB. - Mức ảnh hưởng của tiếng ồn còn phụ thuộc vào cường độ, thời gian tiếp xúc và độ nhạy cảm của cơ thể. Tai có chức năng nghe và thăng bằng, dễ bị ảnh hưởng bởi tiếng ồn xung quanh, nhất là người trên 40 tuổi. Khi tiếng ồn đạt 100 dB, phải chịu đựng thường xuyên thì một phần của tế bào có tiêm mao trong tai bị phá hủy, mê lộ tổn thương không có khả năng hồi phục. Tai gặp âm thanh quá cao có nguy cơ thủng màng nhĩ, sai các khớp, lâu dài có thể điếc. Lúc đầu tiếp xúc với tiếng ồn, ta chỉ thấy ù tai, sức nghe và khả năng phân biệt tiếng động giảm. Ra khỏi nơi ồn thì hết. Nhưng nếu cứ kéo dài như vậy, tai sẽ nghe kém dần rồi điếc. Thời gian tiếp xúc với tiếng ồn tới khi bị điếc nghề nghiệp là 3-6 tháng. Gọi là điếc nghề nghiệp khi thính lực ở tai nghe rõ nhất giảm 35 dB, đó là điếc tiếp âm đối xứng. Các loại điếc và giảm thính lực Tai gồm có tai ngoài, tai giữa và tai trong. Tai ngoài có nhiệm vụ khuếch đại và hướng âm thanh vào màng nhĩ. Tai giữa gồm màng nhĩ và 3 xương nhỏ có nhiệm vụ truyền âm thanh từ môi trường không khí vào môi trường nước của tai trong. Tai trong có các tế bào thần kinh thính giác biến đổi sóng âm thanh cơ học thành những xung động điện thần kinh, truyền theo dây thần kinh thính giác về não. Các bệnh lý ở tai ngoài và tai giữa có thể ảnh hưởng đến cơ chế dẫn truyền âm thanh, đấy là loại điếc và giảm thính lực dẫn truyền. Các bệnh lý ở tai trong trở đi có thể ảnh hưởng đến phần thần kinh nhận cảm âm thanh, đấy là loại điếc và giảm thính lực tiếp nhận, hay còn gọi là điếc và giảm thính lực thần kinh. Ngoài ra còn có loại điếc và giảm thính lực hỗn hợp có bệnh lý ở cả hai loại trên. Điếc và giảm thính lực dẫn truyền nói chung có thể phẫu thuật. Đó là các phẫu thuật can thiệp vào cơ chế dẫn truyền cơ học của âm thanh ở tai ngoài hay tai giữa. Điếc và giảm thính lực tiếp nhận nói chung không thể phẫu thuật để điều trị, thuốc men cũng tác dụng hạn chế. Dẫu sao trường hợp điếc hoàn toàn cả hai tai cũng còn hy vọng ở việc cấy ốc tai. Và trong đại đa số các trường hợp, máy trợ thính có thể hữu ích. Lão thính là gì? Là dần dần nghe kém khi tuổi ngày một cao; khoảng 30% người hơn 65 tuổi và 50% người hơn 75 tuổi bị nghe kém. Thường họ nghe kém nhiều ở các âm cao như giọng phụ nữ hoặc trẻ con, tiếng chim kêu, chuông điện thoại; còn những âm trầm như là giọng nam, động cơ xe... thì lại nghe được. Thường bệnh nhân nghe kém cả 2 tai, bệnh đến một cách từ từ nên họ không biết là mình nghe kém. Triệu chứng của lão thính: Âm thanh dường như không rõ, trầm đi, gây nên nghe kém và không hiểu lời nói. Người bệnh thường than phiền người khác nói líu ríu, nghe nhưng không hiểu người khác nói gì, đặc biệt là ở chỗ ồn. Bệnh nhân nghe của giọng nam giới rõ hơn giọng nữ giới, có thể kèm theo ù tai. Nguyên nhân của lão thính: Lão thính là điếc tiếp nhận, do hư hỏng những tế bào lông ở tai trong. Rất nhiều nguyên nhân như: - Tiếng ồn lặp đi lặp lại lâu ngày; - Kém máu nuôi dưỡng tai trong do bệnh tim, cao huyết áp, bệnh mạch máu, tiểu đường; - Một số thuốc như sspirine và kháng sinh. - Do di truyền, do tuổi già... Phần 7 Làm gì để có sức nghe tốt? Những tổn thương của các tế bào lông do tiếng ồn gây nên có thể phòng ngừa được bằng cách tránh tiếng ồn. Trước hết, cần nhận thức được rằng những âm thanh cường độ lớn có thể gây tổn hại cho tai trong để tránh và làm giảm tiếng ồn hằng ngày ở nơi làm việc cũng như ở nhà. Cần thực hiện những biện pháp bảo vệ tai khi làm việc ở môi trường nhiều tiếng ồn, có thể đeo máy trợ thính. Cũng cần giảm bớt tiếng ồn trong nhà, nói chuyện khi nhìn thấy mặt nhau, nói chậm, rõ, nhưng không la lớn, khi cần lặp lại thì nói cách khác... Khi giao tiếp với người điếc và giảm thính lực, cần làm gì? Đây là các mẹo khi giao tiếp với người điếc và giảm thính lực, bạn có thể hướng dẫn người khác khi trong gia đình họ có người điếc và giảm thính lực: - Nhìn mặt người điếc và giảm thính lực khi nói chuyện để họ có thể thấy mặt của bạn. - Tắt máy nghe nhạc, radio, T.V khi nói chuyện. - Không nói khi đang nhai, không lấy tay che miệng; - Nói hơi lớn hơn bình thường, nhưng không được hét to; nói chậm rãi. - Khi lặp lại thì dùng câu đơn giản, ngắn. - Ở nơi đông người như nhà hàng, chọn chỗ ngồi xa đám đông và ít ồn nhất. Vai trò của tiếng ồn trong điếc và giảm thính lực Khoảng 10% dân số bị điếc và giảm thính lực do nhiều nguyên nhân; trong đó, tiếng ồn có thể là nguyên nhân của khoảng 50% các trường hợp. Tiếng súng nổ, bom nổ gần tai, còi báo động gần tai có thể gây ra điếc. Tiếng ồn công nghiệp trên 85 dB tiếp xúc lâu có thể gây điếc. Trong đời sống hằng ngày với đủ loại tiếng ồn của xe cộ, máy móc, các phương tiện giải trí, ca nhạc... chúng ta cần nhận thức được rằng bất kỳ loại tiếng ồn nào cũng có thể gây ra điếc và giảm thính lực khi chúng ta tiếp xúc với chúng đủ lâu. Có thể nào bị điếc khi nghe tiếng động lớn chỉ 1 lần? Có. Những tiếng động rất lớn như súng, bom nổ gần tai, còi báo động gần tai có thể gây điếc, mặc dầu không phải luôn luôn. Mức ồn nào có thể gây tổn thương vĩnh viễn ở tai? Trên 85 dB. Tổn thương phụ thuộc vào độ lớn của tiếng ồn và thời gian tiếp xúc với tiếng ồn đó mỗi ngày. Các dấu hiệu báo động? Ở nơi nào mà bạn phải hét để nói chuyện là mức tiếng ồn ở đó có thể gây tổn thương tai. Tiếng o o trong tai (ù tai) xuất hiện sau khi tiếp xúc với tiếng ồn và kéo dài hàng giờ là dấu hiệu báo động. Khi một người nói rằng nghe tiếng đàn ông rõ hơn tiếng phụ nữ là đã có giảm nghe ở các tần số cao. Làm thế nào để bảo vệ sức nghe? Tránh tiếng ồn, nếu không tránh được thì phải có những dụng cụ bảo vệ. Ở trong môi trường nào mà nói chuyện khó nghe thì chúng ta biết rằng trong môi trường đó, tiếng ồn đã đủ lớn để có thể gây tổn thương tai. Nên ở xen kẽ nơi ồn ào và nơi yên lặng để cho tai nghỉ ngơi. Hạn chế khoảng thời gian tiếp xúc tiếng ồn. Nếu phải tiếp xúc với tiếng ồn đều đặn, cần kiểm tra thính lực đồ âm đơn ít nhất mỗi năm 1 lần. Người bị điếc và giảm thính lực có bị cô độc? Điếc và giảm thính lực là mất mát lớn, nhiều người bệnh có những phản ứng tiêu cực, hoang mang lo sợ. Đó là những phản ứng tự nhiên, gia đình và bạn bè khi hiểu rõ sẽ làm thuyên giảm những phản ứng tâm lý đó. Âm thanh nền trong môi trường tạo nên một cảm giác rằng mình đang sống. Khi không nghe những tiếng động này (tiếng rì rầm của xe cộ, tiếng nói chuyện, tiếng nước chảy, tiếng radio...), người ta có cảm giác chết chóc, và xuất hiện trầm cảm. Những lúc họp mặt bạn bè, các đám tiệc, người bệnh bị căng thẳng, không theo kịp những mẩu đối thoại nên dần tự rút lui khỏi những hoạt động xã hội, tự cô lập mình. Điếc ảnh hưởng thế nào đến gia đình? Các loại điếc và giảm thính lực gây nghe kém, đồng thời cũng gây khó khăn trong việc hiểu lời nói. Nếu người thân cứ cố gắng nói to lên và lặp đi lặp lại nhiều lần thì dễ tạo sự bực mình, căng thẳng. Sự hiểu nhầm lời nói có thể làm các thành viên khác trong gia đình không muốn nói chuyện nữa, và người điếc bị cô độc. Sự hiểu biết và hợp tác của tất cả các thành viên trong gia đình có thể thay đổi mọi việc tốt hơn: - Làm cho người điếc và giảm thính lực chú ý đến bạn trước khi bắt đầu nói để họ lắng nghe bạn. - Không nên nói từ phòng khác. - Làm giảm những tiếng động trong nhà (tivi, radio, vòi nước chảy). - Nếu cần lặp lại thì nên nói câu đơn giản và khác đi thì sẽ dễ hiểu hơn. Phần 8 Thủng màng nhĩ Màng nhĩ là một màng nằm cuối ống tai ngoài, phân chia tai ngoài và tai giữa. Màng nhĩ rung động khi có sóng âm truyền từ ống tai vào và sự rung động này được truyền vào tai trong để biến đổi thành điện thế ốc tai, theo các dây thần kinh thính giác lên não. Phần căng của màng nhĩ bao gồm lớp biểu mô, tổ chức xơ và niêm mạc. Kết cấu đó nhiều khi bị thủng vì một tác động vật lý hoặc bệnh lý. Nguyên nhân: - Vật nhọn đâm vào (chấn thương trực tiếp): Thường là bất cẩn lúc lấy ráy tai, để dụng cụ đâm vào màng nhĩ. - Chấn thương gián tiếp (có áp lực quá mạnh tác động lên màng nhĩ). Trường hợp này xảy ra khi bị người khác tát tai quá mạnh, khi chấn thương bom mìn hay lặn quá sâu. - Viêm nhiễm từ vùng mũi họng theo vòi Eustache lên hòm nhĩ, gây tụ dịch, tụ mủ trong hòm nhĩ và làm thủng nhĩ từ trong ra (trường hợp viêm tai giữa). Dấu hiệu nhận biết: Đau nhói trong tai, ù tai, chảy máu tai, chóng mặt và điếc. Nếu chỉ rách màng nhĩ đơn thuần thì điếc nhẹ, nếu tổn thương sâu đến tai trong thì điếc nặng hơn. Nếu thủng nhĩ do viêm tai giữa cấp thì trước đó sẽ có triệu chứng sốt nóng, đau nhức trong tai, ù tai, nghe kém. Khi màng nhĩ thủng, mủ thoát ra được ra ngoài ống tai thì các triệu chứng trên giảm đi. Trường hợp thủng nhĩ do viêm tai giữa thanh dịch thì triệu chứng không rõ ràng và diễn biến phức tạp hơn. Biến chứng: Thủng màng nhĩ có nhiễm trùng lâu ngày sẽ gây viêm xương chủm và đưa đến những biến chứng nặng hơn do ổ viêm lan toả vào các vùng lân cận (viêm màng não, áp xe não, viêm xoang tĩnh mạch bên, liệt mặt...). Điều trị: Nếu lỗ thủng màng nhĩ có đường kính dưới 3 mm và ở trung tâm thì có thể vá đơn giản bằng một mảnh giấy mỏng hoặc vỏ tỏi, mục đích là để phần màng nhĩ quanh lỗ thủng có điểm tựa để tạo sẹo bít lỗ thủng. Trường hợp thủng màng nhĩ lâu ngày bị nhiễm trùng thì phải điều trị như viêm tai giữa. Nếu nỗ thủng màng nhĩ lớn và có viêm nhiễm nhiều thì phải làm sạch hòm nhĩ, xương chủm và vá lại màng nhĩ bằng cân cơ thái dương (dùng màng cơ thái dương để vá). Các phẫu thuật này hiện được thực hiện phổ biến tại Trung tâm Tai mũi họng TP Hồ Chí Minh và tại các khoa tai mũi họng của các bệnh viện khác. Để phòng ngừa thủng màng nhĩ, phải cảnh giác khi ngoáy những vật nhọn vào tai. Tích cực điều trị các bệnh về mũi họng vì nó có thể gây viêm tai giữa mủ và làm thủng màng nhĩ, ảnh hưởng đến sức nghe và có thể dẫn đến những biến chứng nguy hiểm đến tính mạng. Viêm tai giữa cấp trẻ em Viêm tai giữa cấp ở trẻ em là một bệnh thường gặp. Tuy là bệnh cấp, nhưng dễ điều trị. Dùng thuốc đúng cách trong 10 ngày là bệnh có thể khỏi. Triệu chứng: Bệnh thường gặp ở trẻ nhỏ từ 18 tháng đến 3 tuổi. Trước đó, trẻ có bị sổ mũi, nghẹt mũi, ho thoáng qua. Chính bệnh viêm mũi họng này đã đưa vi khuẩn vào tai giữa qua một đường tự nhiên, đó là vòi nhĩ. 1-2 ngày sau khi vi khuẩn đã vào, tai giữa bị viêm cấp, em bé sốt 38-39 độ C. Có em bị động kinh hoặc rối loạn tiêu hoá, nôn, trớ, tiêu chảy. Ngoài ra, tai bị nhức rất nhiều, đến nỗi em bé chỉ khóc mà thôi. Nhiều em bé quá nhỏ, không chỉ được nơi nhức, nên gia đình không biết được nguyên nhân khóc kéo dài của bé. Ngoài hai triệu chứng trên, còn một triệu chứng nữa rất khó phát hiện ở bệnh nhân nhỏ, đó là nghe kém và tai bị viêm. Phát hiện một em bé nghe kém không phải dễ vì bé có thể nghe tai bên kia bù trừ. Nếu không điều trị hoặc điều trị không đúng cách, mủ phát triển nhiều trong tai giữa, gây thủng nhĩ, tai chảy mủ ra ngoài. Mủ màu vàng, có khi đặc, có khi lỏng, không hôi. Khi mủ ứ trong tai tuôn được ra ngoài, triệu chứng nhức và sốt giảm hẳn, trẻ nghe kém nhiều hơn, nhưng rất khó phát hiện. Tuy triệu chứng (nhức tai và sốt) có giảm nhưng màng nhĩ lại thủng, vi khuẩn từ ngoài có thể tự do vào hòm nhĩ và viêm tai giữa cấp dần chuyển thành viêm tai giữa mạn. Vài năm sau, bệnh chuyển thành viêm tai xương chũm và có thể gây biến chứng nội sọ nguy hiểm. Điều này quan trọng là nhận biết được bệnh viêm tai giữa cấp còn trong thời kỳ chưa thủng nhĩ và điều trị tích cực, bệnh sẽ khỏi hẳn. Định bệnh viêm tai giữa cấp ở trẻ nhỏ không phải dễ. Khi em bé khóc vô cứ, chứng tỏ em bị đau nhức nhiều ở một vùng nào đó trong cơ thể. Ở trẻ nhỏ thường có hai nơi bị đau nhức nhiều, đó là đau bụng và đau tai. Trong bệnh này, nếu sờ vào bụng, em bé không khóc ré thêm thì triệu chứng đau bụng bị loại. Ta lắc nhẹ vành tai em bé, vành tai bên nào bị lắc làm cho em bé khóc ré hay khóc ngất thêm thì chứng tỏ tai bên đó bị nhức. Nhức tai có kèm theo sốt là em bé bị viêm tai giữa cấp. Điều trị tương đối dễ một khi đã định được bệnh. Giảm sốt bằng cách cho em bé uống acetaminophen nước. Điều quan trọng là phải diệt khuẩn ở tai giữa. Thuốc thường dùng ở đây là thuốc phối hợp giữa amoxycillin và clavulanic acid (Augmentin, Ciblor...) Phải điều trị kháng sinh ít nhất 10 ngày. Bệnh có thể khỏi. Tuy là bệnh cấp nhưng viêm tai giữa có thể phòng ngừa được. Trước nhất là phải giữ mũi họng cho sạch, năng tắm rửa, rửa tay thường xuyên, nhất là trước bữa ăn. Nên ăn nhiều chất bổ dưỡng để em bé có sức đề kháng. Mỗi khi em bé ho, sổ mũi thì phải điều trị ngay, đừng để chuyển sang viêm tai giữa cấp. Một khi phát hiện bệnh viêm tai giữa cấp, nên đi điều trị chuyên khoa ngay để có cách xử trí đúng và tránh được viêm tai giữa mạn, viêm tai xương chũm sau này. Phần 9 Bệnh viêm tai giữa mạn Viêm tai giữa mạn, còn gọi là chảy mủ tai, là bệnh tương đối phổ biến ở trẻ em. Đây là một bệnh dai dẳng, mủ tai chảy khi bớt, khi không và kéo dài nhiều năm liền. Nếu để lâu không điều trị, bệnh trở thành viêm tai xương chũm, có biến chứng nguy hiểm (bệnh nhân có khả năng tử vong). Bệnh viêm tai giữa mạn lúc nào cũng bắt đầu từ viêm tai giữa cấp. Bệnh nhân bị sốt cao, nhức tai và nghe kém. Nếu điều trị đúng cách, bệnh sẽ khỏi trong vòng vài ngày. Nếu không điều trị đúng cách, bệnh sẽ chuyển sang viêm tai giữa mạn. Tai bắt đầu chảy mủ. Mủ có thể chảy liên tục hay từng đợt. Nếu điều trị với kháng sinh, nhỏ tai, bệnh có thể khỏi trong vòng một thời gian dài, nhưng sau đó lại tái phát. Nước chảy ra ban đầu là dịch đục không hôi. Đây là thời kỳ chỉ viêm tai giữa mạn đơn thuần mà thôi. Một thời gian sau, nước chảy ra là mủ, có mùi hôi. Đây là thời kỳ viêm tai giữa đã lan dần vào trong và gây viêm tai xương chũm. Cuối cùng, nước chảy ra là mủ có mùi thối khẳm như mùi cóc chết. Đây là thời kỳ tai có chứa một khối mềm, gọi là Cholestéatome. Chính khối này to dần và gây chiến chứng chết người. Những biến chứng do khối này gây nên thường là áp xe đại não, viêm xoang tĩnh mạch bên và viêm màng não. Giữa tình trạng bệnh thông thường và tình trạng biến chứng có giai đoạn chuyển tiếp, còn gọi là "hội chứng hồi viêm". Lúc đầu, bệnh nhân vẫn sinh hoạt như thường, tai chảy mủ khi nhiều khi ít. Đột nhiên bệnh nhân sốt cao 38- 39 độ C, tai bệnh nhức nhiều hơn, nghe kém hơn, mủ trong tai có khi chảy ra rất nhiều, có khi bị kẹt lại không chảy ra được. Hội chứng hồi viêm này là triệu chứng chỉ điểm, báo trước trong vòng 12 hoặc 24 giờ sau là có biến chứng nguy hiểm. Nếu can thiệp vào thời điểm này tránh được tử vong cho bệnh nhân. Trong trường hợp gia đình không biết để đưa đi điều trị sớm, biến chứng tất yếu sẽ xảy ra. Mỗi biến chứng đều có một triệu chứng chính: - Trong biến chứng áp xe đại não, bệnh nhân bị động kinh toàn thân, hoặc động kinh một phần cơ thể, và yếu chi bên đối diện của tai bệnh. - Trong biến chứng áp xe tiểu não, bệnh nhân bị chóng mặt, đứng không vững, nhất là bệnh nhân đứng chụm chân, nhắm mắt. - Trong biến chứng viêm xoang tĩnh mạch bên, bệnh nhân bị rét run, sốt cao 40-41 độ C. Triệu chứng này xuất hiện nhiều lần trong ngày. - Trong biến chứng viêm màng não, cổ bệnh nhân bị cứng, bệnh nhân không thể nào cúi đầu xuống cho cằm chạm ngực được. Một khi biến chứng xảy ra, nếu không điều trị kịp thời, bệnh nhân bị tử vong trong vài ngày sau đó. Người bị chảy mủ tai cần phải được chăm sóc chu đáo. Phải đi khám định kỳ để giảm sự phát triển của bệnh. Trong trường hợp dịch tai chảy ra là mủ không hôi, bệnh chưa có khả năng gây biến chứng. Tuy nhiên, phải điều trị tích cực. Trong trường hợp dịch chảy ra là mủ có thối khẳm, phải đưa bệnh nhân đến bệnh viện chụp X-quang, đánh giá tình trạng xương chũm. Bệnh nhân có thể được mổ sớm, lấy khối mềm ra và tránh được biến chứng. Trong trường hợp hội chứng hồi viêm xuất hiện, phải đưa bệnh nhân đến bệnh viện và mổ cấp cứu. Không được chần chừ một giây phút nào. Càng kéo dài thời gian, tử vong do biến chứng càng gần kề. Tại bệnh viện, gặp trường hợp có hội chứng hồi viêm này, bệnh nhân được mổ cấp cứu để tránh biến chứng nguy hiểm. Trong trường hợp trễ, đã xuất hiện các triệu chứng của biến chứng, phải tức tốc đưa bệnh nhân đến bệnh viện ngay để xin mổ tối cấp. Chậm trễ trong tình trạng này, bệnh nhân sẽ bị tử vong. Bệnh viêm tai giữa mạn là bệnh thường bị coi là nhẹ. Tuy nhiên, diễn tiến bên trong phức tạp và có thể gây tử vong cho bệnh nhân. Phần 10 Cấy ốc tai chữa điếc Ốc tai điện tử thay thế ốc tai thật nên nó có một vai trò rất quan trọng trong toàn bộ quá trình nghe. Ốc tai điện tử sẽ chuyển âm thanh thành tín hiệu điện, những tín hiệu này sẽ kích thích các sợi thần kinh tai trong, giúp người điếc nghe được âm thanh và lời nói. Cấy ốc tai là một thành tựu lớn của y học, giúp cho người điếc nặng và sâu có thể nghe được. Kỹ thuật này được thực hiện trên thế giới cách đây 20 năm, đến nay đã có hàng chục ngàn người được cấy và sau đấy đã nghe rất tốt. Ở Việt Nam, kỹ thuật này chỉ mới được thực hiện khoảng vài năm nay do giá tiền ốc tai điện tử khá đắt. Nếu thực hiện ở nước ngoài thì chi phí cho một lần cấy ốc tai lên đến 30.000 USD. Đó là chưa kể chi phí cho những lần khám định kỳ để kiểm tra hiệu chỉnh máy và luyện nghe nói. Khi các tế bào lông trong tai bị hư hại hoặc mất đi một phần, tai sẽ nghe kém. Người bệnh nên chọn đeo loại máy nghe thích hợp. Khi toàn bộ tế bào lông bị mất hoặc hư hại, tai sẽ điếc; thường thì các sợi thần kinh thính giác còn nguyên, không hư hại gì nhưng lại không nhận được các tín hiệu xung điện. Không phải trường hợp điếc nào cũng cần cấy điện ốc tai để nghe lại bình thường. Nếu dây thần kinh thính giác còn nguyên hoặc hư hại ít thì mới có thể cấy điện ốc tai. Các đối tượng có thể cấy ốc tai được là người lớn hoặc trẻ em sinh ra đã điếc hoặc điếc sau khi sinh (phải là điếc ốc tai, từng sử dụng máy nghe mà không có kết quả). Còn người điếc sử dụng máy nghe có hiệu quả; người điếc sâu quá lâu, dây thần kinh thính giác chưa từng được kích thích; người điếc mà nguyên nhân không phải do ốc tai hoặc dây thần kinh thính giác bị hư hay không có, người không đủ sức khỏe chịu đựng cuộc phẫu thuật... không phù hợp với cấy ốc tai. Các loại ốc tai điện tử Có 2 loại ốc tai điện tử chính: ốc tai điện tử đơn kênh và ốc tai điện tử đa kênh. Ốc tai điện tử đơn kênh rẻ hơn, chỉ khoảng 5.000 - 6.000 USD nhưng chỉ nhận biết được âm thanh. Muốn giao tiếp, người sử dụng phải kết hợp nhìn hình miệng. Ốc tai điện tử đa kênh đắt hơn, giá 17.000 - 25.000 USD tùy loại vì có thiết kế cực nhạy với độ trầm bổng của âm thanh, như ốc tai người thật. Người bệnh sẽ nghe được và khi giao tiếp, không cần kết hợp nhìn hình miệng của người đối diện. Hiệu quả cấy điện ốc tai Hiệu quả khác nhau đối với mỗi người, nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như thời gian điếc, số tế bào thần kinh thính giác còn sót lại và sự nhanh nhạy của từng người. Thời gian bị điếc càng ngắn thì kết quả càng tốt; người bị điếc đột ngột được cấy ốc tai trong vòng một tháng sau điếc thì có thể nghe và giao tiếp gần như thời gian trước khi bị điếc. Trẻ điếc từ trong bụng mẹ được cấy ốc tai khoảng 2 - 3 tuổi là tốt nhất; so với những trẻ khác, các cháu có thể phát triển ngôn ngữ gần như bình thường. Với ốc tai điện tử đa kênh đời mới 24 điện cực, người bệnh sẽ nghe được các âm thanh hằng ngày xung quanh mình; đặc biệt là các âm thanh của giao thông như còi xe, còi báo động, nhờ đó tránh được tai nạn. Với thời gian, người được cấy ốc tai sẽ hiểu được lời nói không cần nhìn miệng, giọng nói sẽ được tự chỉnh ngày một đúng hơn và nhờ thế giao tiếp sẽ tốt hơn. Đặc biệt với hai loại ốc tai điện tử Combi 40+, người được cấy có thể nghe và hiểu trong môi trường ồn, một số người đạt hiệu quả tốt có thể nói chuyện qua điện thoại. Đoán bệnh qua nước mũi Bình thường nước mũi không màu, trong suốt và hơi nhầy. Khi nước mũi quá nhiều hoặc có màu sắc, tính chất, trạng thái không bình thường, chúng ta cần lưu ý để chẩn đoán và điều trị bệnh sớm. Sau đây là một số cách phân biệt bệnh qua nước mũi: - Nước mũi loãng, trong suốt, như nước trong: Thường thấy khi cảm cúm, phong hàn hoặc viêm mũi cấp tính, viêm mũi do dị ứng. Nếu cảm cúm, phong hàn thì niêm mạc mũi, amiđan và vách sau họng bị xung huyết (nhìn thấy đỏ). Nếu viêm mũi thì niêm mạc mũi trắng nhợt, phù, màu xám xanh. Sau phẫu thuật nếu có nước mũi trong nhỏ giọt đều và nhanh, cần đến bác sĩ ngoại khoa thần kinh khám và điều trị. - Nước mũi màu vàng thỉnh thoảng chảy ra ở một bên mũi: Do nhọt bọc ở hàm trên chảy ra. - Nước mũi mủ vàng: Thường gặp khi cảm cúm phong nhiệt, viêm mũi mãn tính; ở trẻ em còn có thể do dị vật nằm trong mũi lâu ngày. Nước mũi không nhiều nhưng sệt dính, khó xì (hỉ) ra. - Nước mũi hôi, màu vàng lục hoặc có vảy mũi: Gặp ở dạng viêm mũi do teo héo (cổ họng thường khô khốc, ngạt mũi, khứu giác giảm, kèm theo đau đầu và chảy máu mũi). - Nước mũi nhầy, màu trắng: Thường thấy ở viêm mũi mạn tính. - Nước mũi như bã đậu trắng, có mùi hôi kỳ lạ: Thường thấy ở bệnh viêm mũi do chất casein. - Nước mũi có máu: Do chấn thương mũi, phẫu thuật, viêm nhiễm do dị vật hoặc mắc bệnh toàn thân như cao huyết áp, xơ cứng động mạch... Đây cũng có thể là triệu chứng thời kỳ đầu của bệnh ung thư họng mũi. - Nước mũi có màu đen: Do hít phải các chất bụi màu đen, thường gặp ở công nhân mỏ than, công nhân đúc.