Chương 1
Trời mưa mãi. Cái quán giải khát của phố huyện chỉ một mình tôi
ngồi. Cốc cà phê đã hết từ lâu, lớp nước đá tan đọng bên dưới. Góc
này và góc kia, những chiếc bàn bằng đá li- tô nhớp nháp đứng giữa
những chiếc ghế chân sắt, trông lạnh lẽo và thô bỉ. Làn ánh sáng
trắng đục từ ngoài trời hắt vào như một thứ nhựa dính bám lên các đồ
vật, khiến chúng thảm hại hơn. Ở quầy hàng, cô mậu dịch viên quai
mồm ngáp, không buồn che đậy hai hàm răng đã hỏng men. Lát sau, cô
lấy chiếc lược ra, cẩn thận chải lại mớ tóc uốn loăn xoăn, kiểu tóc
thường thấy ở các thị xã xa đường quốc lộ. Một lũ ruồi vo ve lượn từ
bàn này qua bàn khác, va đập vào tủ kính rồi tìm cách lọt vào trong,
mon men bò trên những chồng bánh nướng bánh dẻo đã khô cứng.
Tôi cứ nhìn đồng hồ mãi, muốn điên lên vì cơn mưa rả rích. Thời tiết
này, dễ phải chôn chân ở đây rồi kiếm một chỗ ngủ vạ vật cho qua
đêm, chờ sáng mai mới về được. Tỉnh lỵ Q quê tôi ở bên kia một dòng
sông lớn. Trời mưa này, nhà thuyền nghỉ không chở khách. Dù có hò
rát cổ hay khóc hú lên họ cũng cứ khép cửa, neo thuyền không sang.
Cầu không, phà không, mà phương sách cuối cùng là bơi vượt sông cũng
không thể được vì tôi vốn nhát nước và yếu phổi.
- Mưa thối trời thối đất. Kiểu này đến phải đong thóc phòng đói
thôi…
Cô mậu dịch viên nói bâng quơ. Hai bàn tay mập mạp của cô đập chiếc
lược xuống mặt quầy hàng, rõ là đôi bàn tay của một người đã quen
cày cấy.
Tôi hỏi cô:
- Mưa này hại lúa lắm phải không?
Cô gật đầu đáp:
- Lúa thối mà khoai ven bãi cũng thối luôn. Rồi còn đói vàng mắt.
Tôi nhìn những lớp nước xiên cheo chéo bên ngoài, không hề hứa hẹn
một tia hy vọng nào, vừa lo vừa nản:
- Trời này tôi đành bó tay thôi.
Cô gái gốc quê gật mái đầu tóc quăn, có ý làm dáng:
- Bó tay là cái chắc. Nhưng từ giờ tới chiều còn một chuyến ô tô
nữa, thế nào cũng có khách chờ đò. Anh kết bạn với họ mà thuê nhà
trọ.
Ý nghĩ của cô ta xác thực. Chưa bao giờ tôi phải ngủ qua đêm ở phố
huyện. Nhưng tôi thường nghe mọi người nói rằng muốn ngủ trọ ở đây
ít nhất phải có một, hai người bạn đồng hành. Cái dãy phố ven sông
này giống như cửa gió, nó đón mọi thứ gió của bốn phương trời hội
tụ. Đủ các loại người buôn xuôi bán ngược, những kẻ lỡ độ đường,
những người thất cơ lỡ vận theo đường tỉnh lộ và theo dòng sông mà
ghé độ ở đây một vài đêm, một vài ngày, nghỉ ngơi hoặc toan tính,
nuôi dưỡng những hy vọng hoặc chất chồng thêm những thất vọng cho
quãng đường sắp tới của mình. Những câu chuyện ly kỳ về thân phận
con người thường được truyền đi từ các phòng trọ. Các may mắn và tai
ương cũng thường xảy ra nơi ấy, nhưng tai ương bao giờ cũng nhiều
hơn. Tôi nhớ lại lần lượt những chuyện đã được nghe về phố huyện ven
sông này. Rồi lo âu phấp phỏng, từ phút ấy tôi chỉ ngóng ngóng chờ
xem chuyến xe thứ hai đã tới phố huyện hay chưa?
Chừng như hiểu được tâm trạng tôi, cô mậu dịch viên nói:
- Thế nào cũng có chuyến xe nữa. Mọi hôm nó tới bến lúc ba giờ.
Nhưng trời đất này, có khi phải sập tối.
Ngừng vài giây, cô nói thêm:
- Anh có đói bụng thì mua bánh mà ăn. Ở đây, chẳng - có gì hơn đâu.
Vâng, cám ơn cô.
Tôi đáp rồi bước tới quầy, mua một cặp bánh chưng. Quả tình tôi muốn
chờ ngớt mưa đi tìm một quán bún hoặc phở khả dĩ ăn một bát cho ấm
bụng. Nhưng tình thế này, suy tính ấy đã trở nên sai lạc. Trở lại
chỗ ngồi của mình, tôi bóc bánh ăn. Mỗi chiếc bánh có một cục lá độn
bên trong. Gạo nếp dẻo nhưng nhân lại bằng thứ đậu cua nhạt nhẽo. Cô
bán hàng buồn bỗng cất tiếng hát một điệu chèo. Tiếng mưa rì rào
không ngớt bên ngoài làm nhạc đệm cho khúc hát của cô. Xưa nay, tôi
không thích nghe hát chèo, nhưng tôi biết làn điệu chèo đạt tới đỉnh
cao những cảm xúc của con người. Không một ca khúc mới nào chiếm
lĩnh được miền đất ấy, không ca khúc mới nào có thể gây cho con
người trạng thái hoàn tất và trọn vẹn đến thế khi nó muốn dẫn dắt họ
bước tới vùng hoan lạc khi hay trượt xuống vực sâu của nỗi xót xa.
Những làn điệu thảm khốc của chèo dường như không còn là âm thanh
đơn thuần mà chúng đã trở thành sự huyến dụ vật chất tựa bàn tay lôi
kéo, tựa ánh mắt đắm chìm, tựa tiếng kêu xé ruột đẩy con người tới
cõi tận cùng của đau đớn não nề. Phải chăng vì cơn mưa này, vì tiếng
rì rào bất tận của dòng sông chìm trong màn nước trắng bạc kia, vì
khoảng không gian bao la không còn hạn hẹp bởi các phố xá, tường
vách, không còn chói chang bởi tiếng nhạc disco và ánh sáng đèn thuỷ
ngân, phải chăng cảnh trí thay đổi đã đem lại cho tôi một tâm trạng
mới và một cảm xúc thâm sâu khi tôi nghe tiếng hát chèo sai lạc…
Mải mê với ý nghĩ ấy, tôi chợt giật mình khi hai người khách mới
bước vào quán. Bất thần, tôi liếc đồng hồ:
- Bốn giờ mười lăm phút. Chuyến ô tô thứ hai đã trễ không quá một
tiếng rưỡi.
Hai người khách mới cởi áo mưa, rũ xoàn xoạt một cách tự nhiên, rồi
quẳng chúng lên chiếc bàn trống gần cửa, bước vào tìm chỗ ngồi. Họ
lượn đi lượn lại hai lần, để tìm chiêc bàn sạch nhất:\
- Thôi, ngồi đây.
Người cao gầy, trắng trẻo bảo bạn. Anh kia da bánh mật, thấp đậm,
đôi mắt đen dài. Họ cùng xách thứ cặp giả da, mài đen với những khóa
lớn, khóa nhỏ mạ kền. Chắc chắn đó là thứ hàng của nước ngoài.
- Kiếm vài chiếc bánh chưng chén đã. No bụng rồi muốn nói chuyện
trên trời dưới biển gì cũng xong.
Người cao gầy nói tiếp. Đoạn, anh ta giơ tay vẫy cô mậu dịch viên:
- Đem cho anh vài chiếc bánh ra đây.
- Vâng ạ.
Cô gái to béo đáp rồi cung cúc xách chùm bánh chưng tới đặt trên
bàn. Tôi chưa hết ngạc nhiên anh ta đã lại nói tiếp, cũng với giọng
sai phái như lúc trước:
- Pha ấm chè tráng miệng nhé. Hồi này chè có khá hơn không hay vẫn
thứ chè bồm ngang nhà lúc trước:
- Không đâu ạ…
Cô mậu dịch viên đáp: Em đã mua chè Thái chính cống rồi.
Nói xong, cô hối hả chụp chiếc nón vẫn ném lăn lóc dưới sàn lên đầu,
vượt qua khoảng sân đang rào rào mưa để tới dãy nhà nhỏ phía sau,
chắc hẳn là kho hay và bếp. Vẻ lười nhác thô lậu biến mất, cô gái
xăng xái, tươi tỉnh hẳn lên. Và dường như một nỗi sợ hãi mơ hồ nào
đó chế ngự cô, khiến ánh mắt cô vừa thăm dò lấm lét. Chừng hai phút
sau, cô trở lại với chiếc phích Trung Quốc cũ, được bọc cẩn thận
bằng giẻ vụn. Buông gấu quần xuống, cô lôi trong quầy ra một chiếc
ấm trà nhỏ có lẽ đã mốc thếch từ lâu, rửa đi rửa lại bằng nước mưa
hứng ở mái hiên. Rồi, cô tráng lần nữa bằng nước sôi trong phích, đổ
trà vào pha. Trong lúc đó, hai vị khách bóc bánh ăn. Họ ăn tóp tép,
ngon lành. Khi cô gái bưng đĩa ấm chén tới, bốn chiếc bánh chỉ còn
là một đống lá trên mặt bàn.
- Dọn đi, dọn đi cho anh.
Người cao gầy hất hàm bảo cô mậu dịch. Dáng điệu uy quyền ấy càng
khiến tôi tò mò. Trong lúc tôi đang cố cắt nghĩa mối quan hệ giữa
người khách lạ với cô bán hàng thì chính anh ta đã ngẩng lên nhìn
tôi qua đôi kính cận dày cộp:
- Lại đây, lại đây uống nước cậu.
Cách ăn nói suồng sã khiến tôi ngạc nhiên nhưng vẻ tự tin của anh ta
chinh phục tôi. Dường như bị ảnh hưởng sự phục tùng tôi đi tới ngồi
bên anh ta, trước chén nước trà nghi ngút khói.
Lúc đó, cô mậu dịch viên cất tiếng:
- Anh ấy cũng về Q đấy.
Người đeo kính trắng nhìn chõ vào mặt tôi:
- Cậu dân ở Q à?
Tôi gật đầu:
- Vâng.
Anh ta nhíu mày, lục tìm trí nhớ:
- Quái lạ, sao tôi không biết nhỉ. Hồi nhỏ, cậu học trường nào?
Tỉnh lỵ có ba trường phổ thông cấp I. Nhưng tôi không học ở một
trong số ba trường ấy mà học ở một làng chuyên trồng thuốc lá với
hành tây ngoại thị. Cái làng ấy nổi tiếng về sự trù phú cũng như về
những người đàn bà có biệt tài ứng đối trong giao tiếp. Tôi đáp:
- Trường tôi học ở Ngàn Sơn.
- À, thể nào tôi không nhớ được mặt cậu. Nhưng dẫu sao, chúng ta
cũng là đồng hương. Anh em ta kết bạn được đấy. Tôi là Vũ Sơn, nhà
báo. Còn đây là thi sĩ Thanh Dương. Cậu tên là gì?
- Tôi tên Nam, làm thợ buồng tối.
Tôi đáp, với một chút mặc cảm vì nghề nghiệp của mình chẳng có gì
đặc sắc so với họ. Nhưng Vũ Sơn đã thân mật vỗ vai tôi:
- Nghề ấy là sướng nhất đấy. Mưa không đến mặt nắng không đến đầu.
Giá mà đổi được tôi đổi nghề cho cậu ngay. Thôi, uống nước đi cho
nóng.
Bàn tay anh ta mỏng, mềm. Nhưng tôi thấy nó lạnh như con cá nhơm
nhớp mồ hôi. Đó không chỉ là một cảm thức mơ hồ, mà giống như sự
đoán định. Tuy thế, tôi cũng thầm cảm ơn vẻ hồ hởi của anh ta vì nó
bớt cho tôi rất nhiều lo âu vẩn vơ và nỗi cô đơn. Chúng tôi lặng lẽ
uống chè, hết tuần này tới tuần khác. Khi nước nhạt, Vũ Sơn lại gọi
cô mậu dịch viên pha ấm trà khác. Cô gái vẫn ngồi phía sau quầy
hàng, đon đả phục vụ ngay. Vẻ mặt cô ta ngoan ngoãn như vẻ mặt của
một con cún tới bữa ăn. Tôi đưa mắt nhìn Vũ Sơn dò hỏi, nhưng anh ta
dường như không thèm để ý tới vẻ băn khoăn của tôi. Gỡ kính lau song
lại đeo vào, đầu ngẩng cao nghiêm nghị anh nhìn ra làn mưa trắng
xóa. Những đợt nước rây chéo qua khung trời, lúc thưa lúc mau, không
một phút ngừng. Ánh nắng chiếu qua màn nước lúc đang trưa ánh lên
như bạc giờ đã ngã sang màu tro tím. Hơn năm giờ chiều rồi. Chẳng
mấy chốc trời sẽ tối sập xuống ngay. Lẫn trong tiếng rì rào êm nhẹ
của dòng sông, tôi đã nghe tháy những cơn gió reo qua dãy cột điện
trong các khu vườn quanh phố.
- Có lẽ chúng ta nên đi tìm quán trọ.
Tôi rụt rè đề nghị hai người. Lúc này, nhà thơ Thanh Dương mới lên
tiếng:
- Anh Nam có lý đấy. Đi thôi.
- Ờ, đi.
Vũ Sơn đáp với giọng thờ ơ rồi đứng lên. Chúng tôi trùm áo mưa đi
tới quán trọ gần nhất. Suốt quãng đường, vẻ đăm chiêu trên gương mặt
nhà báo khiến tôi không dám bắt chuyện. Anh ta đang mải nghĩ gì đó,
những nếp nhăn hằn trên trán. Cần cổ gầy guộc vươn ra phía trước.
Những giọt nước mưa bám đầy trên hai má và chảy dọc theo sống mũi
nối nhau rơi xuống cằm.
Chúng tôi lội bùn lép nhép, cố giơ cao gót chân để bùn khỏi bắn lên.
Đi ngược lại phía chúng tôi, một đứa bé dong chiếc xe bò chở gạch.
Chú bé ở trần, mưa chảy thành dòng từ đầu xuống chân. Những món tóc
tơ của nó dính bết vào trán. Nhiều lắm, nó mới được mười hai tuổi.
- Vắt rừ rừ rừ…
Chú bé quất cái dây da đen lên lưng con vật và đưa mắt tò mò nhìn
chúng tôi. Đột nhiên, Vũ Sơn cất tiếng quát:
- Mưa gió thế này còn dong xe đi hử? Bố mẹ mày đâu rồi?
Chú bé đánh xe bò đứng khựng lại, sợ hãi nhìn người đàn ông không
quen biết vừa quát nó một cách vô lý. Mắt anh ta đỏ hoe, giương lên
sau cặp kính. Thằng nhỏ đứng như trời trồng, không nói năng chi. Tôi
ngỡ rằng Vũ Sơn sẽ còn nói tiếp điều gì đấy với đứa trẻ, nhưng anh
ta đã lằm lằm bỏ đi, giẫm những bước chân giận dữ xuống bùn khiến
nhà thơ Thanh Dương lẫn tôi cuống cuồng bước theo và đứa bé nhìn ngơ
ngác. Vượt qua hai ngôi nhà nữa, Vũ Sơn đột ngột cất tiếng:
- Thời tiết chó đẻ.
Chúng tôi cùng im lặng không đáp. Anh ta nói tiếp, với một giọng gộc
lên vì đau đớn:
- Thật khốn nạn cho chúng ta. Trời đất này, con em người ta ngồi
trong cung văn hóa tập múa, gõ đàn hay chơi bóng. Còn con em mình
dong xe bò đi chở gạch kiếm tiền. Cái trái đất ông Bàn cổ nặn ra thì
tròn mà số phận con người lại méo. Các cậu thử nghĩ xem có quốc gia
nào nghèo khổ hơn nước mình hay không.
Cả nhà thơ trầm tư lẫn tôi đều im lặng. Chẳng có gì mới hơn để trả
lời câu hỏi ấy. Nhưng tôi đồng cảm với nỗi cay đắng của Vũ Sơn. Anh
ta vẫn bước đi hối hả, đầu cúi gằm, và từ đôi mắt đỏ hoe những giọt
nước mắt thầm lén chảy qua mi, hòa với nước mưa, chảy dọc theo sống
mũi nhọn.
Chừng dăm phút sau chúng tôi tới quán trọ. Một ngôi nhà rất rộng,
với bốn căn phòng vuông như hình bánh chưng, các bức tường ám khói
ẩm nước; những chiếc giường gỗ cũ kĩ, thô kệch kê đối diện nhau như
giường ở bệnh viện. Cứ hai giường có một bàn nước nhỏ, trên đặt ngọn
đèn dầu hỏa bóng hình trái đào. Một cái lọ thủy tinh khô khốc xưa
kia dùng để cắm hoa, giờ là nơi trú náu cho vài ba con nhậy. Không
có tủ đứng, cũng không có kệ chứa đồ nên khách trọ tùy ý đặt hành lý
của mình ở cuối giường ngủ hoặc trên bàn nước. Chủ trọ là một người
đàn bà to béo, khuôn mặt dài, hai hàm răng thô và khỏe như răng
ngựa. Bà ta sắp cho ba chúng tôi ở phòng với một ông lão người Nùng,
gầy gò, ủ ê. Ông cụ từ miền thượng du sông theo đò dọc xuống đây.
Ngày mai, ông cụ sẽ gửi mua vé ô tô chợ đen để về Hà Nội thăm đứa
con trai độc nhất mổ dạ dày.
Sáu giờ rưỡi, trời tối sập. Mưa càng nặng hạt hơn. Gió từ thượng
nguồn sông đổ về. Tiếng rít lạnh lẽo, thâm chú bao quanh các căn
nhà, vây bọc con người bằng những ảnh hình huyền bí, biến họ trở
thành những đứa bé yếu đuối cần chở che. Vào thời khắc ấy không ai
muốn bước chân ra ngoài. Những cây đèn trái đào được thắn lên trong
các căn phòng. Khách trọ túm tụm tán chuyện hoặc theo hành lang
chung đi tới căn bếp của bà chủ trọ. Ở đây bà chủ bán trứng vịt
luộc, bánh sắn và xôi với giá cắt cổ. Trong ba người, tôi ít tuổi
hơn cả nên tự nguyện xuống bếp, mua đồ ăn đem lên. Chúng tôi vừa ăn
vừa hỏi chuyện ông lão người Nùng.
- Cậu có vợ con chưa?
- Chưa.
- Thế là khỏe xác.
Nhà báo nói to: Tôi một vợ hai con rồi. Cậu Thanh Dương này cũng
thế. Chỉ có điều khác là vợ con tôi ở Q, còn cậu ta lấy được gái Hà
Nội, gia đình ở cả bên ngoại.
Tôi nói:
- Không phải tôi muốn khỏe xác, mà tôi chưa tìm được người cả tôi
lẫn bố mẹ tôi đều ưng thuận.
Vũ Sơn quay lại nhìn tôi như quái vật, rồi anh ta xì bọt qua kẽ
răng:
- Tại sao cậu lại có những ý nghĩ đần độn thế. Cậu muốn bố mẹ cậu và
cậu yêu chung một người à? Vậy thì hoặc là cậu hoặc là ông bà già
của cậu phải mắc chứng liệt thần kinh và không còn làm chủ được ý
nghĩ của bản thân nữa. Liệu cậu có muốn ôm ấp một cô nàng răng đen,
váy lĩnh, tóc bỏ đuôi gà không? Nhưng đó chính là người đẹp lý tưởng
của cố nội, cố ngoại, ông nội, ông ngoại cậu. Người cùng một thế hệ
còn khó dung hòa được các quan niệm sống nừa là người cách biệt nhau
hàng vài chục tuổi…
Nhà báo ngừng lại. Xưa nay, chưa ai nói nặng lời với tôi đến thế
nhưng vẻ chân thành và nồng nhiệt của anh ta khiến tôi không mảy may
tự ái. Vũ Sơn không để ý tới tôi, nói tiếp:
- Nếu còn tự do thì hãy giữ lấy tự do cc mình, được ngày nào hay
ngày ấy. Vợ con là thứ xiềng xích ghê gớm nhất mà đã chui đầu vào
anh chớ hy vọng thoát ra…
Dứt lời, anh ta vớ lấy điếu cày móc ở bàn nước, nạp thuốc châm lửa
rít sòng sọc. Đốm lửa cháy sáng trên nỏ cày rọi vào gương mặt, rõ
những nếp nhăn li ti trên gò má và đuôi mắt. Chợt, anh ta quay lại
chăm chú nhìn tôi:
- Nhưng thôi, vớ được cô nào tử tế thì cưới tắp lự cho xong. Dễ mấy
ai sống được cảnh độc thân trên cõi đời này. Có cha, có mẹ có vợ, có
con còn buồn như trấu cắn nữa là trơ trọi một mình. Cậu tuổi gì nhỉ…
Tuổi Sửu à, vậy thì sang năm cưới vợ là đúng số.
Thanh Dương ngồi bó gối từ lâu, lặng lẽ nhìn ngọn lửa, anh ta thuộc
loại người thầm kín. Tôi cũng không nói gì thêm. Vũ Sơn nhắm đôi mắt
mệt mỏi vài giây rồi lại mở ra, nhìn đăm đăm ô cửa. Bên ngoài lớp
kính cũ kỹ, hoen ố, đêm đen như than. Thi thoảng, một tia chớp mỏng
manh vẽ lên chân trời rạch lửa ngoằn ngoèo, sáng chói. Khoảnh khắc
đó, thấy rõ những hạt mưa thu mài miệt rơi
Chương 2
Tỉnh lỵ Q có tất thảy năm dãy phố. Đa phần là những dãy phố đã được
dựng lên sau thời kỳ tiêu thổ kháng chiến, rồi dần dà người ta sửa
mái, nâng tầng, cải cách dáng nhà hoặc nắn lại khuôn cửa. Tùy theo
túi tiền, tùy theo con mắt thẩm mỹ, tùy theo các cơn hứng khởi của
các khổ chủ mà những ngôi nhà nơi đây được định hình. Không còn một
mớ hổ lốn nào đa tạp hơn kiến trúc ở đây. Từ thứ nhà hiên bức bàn cổ
tới các biệt thự tí xíu, rập khuôn theo kiểu kiến trúc của các biệt
thự tiểu chủ mà ta hay gặp nhan nhản ở Cần Thơ, Thủ Đức, Long An
hoặc Mỹ Tho sau ngày giải phóng. Từ những căn nhà lợp nứa, tường
trét tốc- xi xoàng xĩnh tới những nhà mươi, mười lăm gian, cổng uốn
nặng nề, long chầu phượng múa gắn mảnh thủy tinh hoặc mảnh sứ vỡ
trông lóa mắt. Duy chỉ hè phố là vẫn lát đá trắng như xưa. Giữa các
phiến đá ấy, lún phún từng đám cỏ kim và nơi chân tường, những dây
cỏ leo mềm mại vươn lên những chiếc vòi xanh nõn.
Trong thị xã, đám người trung niên có thể biết rõ lai lịch từng căn
nhà, xây cất năm nào, sửa chữa năm nào, nhờ món lợi tức trời cho
hoặc nhờ từng đồng xu tích cóp… Cũng như thế, dường như người ta
quen biết nhau từ đầu phố tới cuối phố, rồi từ phố nọ sang phố kia.
Tôi rời Q, năm mười hai tuổi, ra Hà Nội làm phụ buồng tối cho ông
chú ruột.
Từ đó, tôi ở lì ngoài thủ đô, họa hoằn mới về quê một hai bữa. Lần
này, bố tôi ốm nặng, chú tôi thuê thợ buồng tối ở một cửa hàng khác,
bảo tôi về Q, chăm sóc phụng dưỡng bố vài tháng. Cũng dịp đó, Vũ Sơn
nghỉ dưỡng bệnh tràn nước phổi, Thanh Dương được ba tháng tự do sáng
tác, không còn bị quản thúc bởi tờ báo của bộ X nữa. Trời đã cho
chúng tôi cơ hội đó để gắn bó, thân thiết với nhau.
Ngay từ hôm đầu tiên, tôi đã chứng kiến cảnh Vũ Sơn, đi giữa các
đường phố kiêu hùng như một gã gà trống độc nhất vô nhị dạo qua
những chuồng gà mái. Ví như thế kể cũng lố, nhưng quả tình tôi đã
phải sửng sốt thán phục khi cả ông chủ tịch thị xã lẫn mấy bà ngồi
bán vé số đều chào anh ta niềm nở, vồn vã như nhau. Ở quán thịt chó
bến ô tô nội tỉnh, ông chủ quán đầu hói, vác bụng lặc lè chạy ra:
- Nhà báo, vào đây đã. Hôm nay tôi có món dồi nướng và nhựa mận ngon
tuyệt vời.
Tới cuối vườn hoa thiếu nhi, một thiếu phụ chải chuốt, mặc áo lụa
thêu vẫy gọi rối rít:
- Vào đây. Hôm nay chị nấu xôi gấc vừng dừa. Chưa bán cho ai đâu.
Thật may, chú nếm trước đã.
Vũ Sơn ngẫm nghĩ vài giây rồi tặc lưỡi:
- Vào.
Anh ta giơ tay ngoắc chúng tôi. Thiếu phụ chủ quán hớn hở đơm xôi
vào chiếc đĩa Giang Tây hoa cúc, cẩn thận ém những hạt xôi đỏ tươi,
nhẫy mỡ cho gọn gàng. Rồi bàn tay héo úa của chị rải những hạt vừng
đã lột vỏ lẫn với những sợi dừa nạo lên trên, khéo léo và say mê như
múa.
- Ăn đi các cậu.
Vũ Sơn ra lệnh rồi cầm đũa trước. Trong khi đó, chủ nhân sửa soạn ấm
chén, pha trà. Mùi chè ướp hoa nhài ngào ngạt bay.
- Thằng Lữ nhà chị dạo này sao?
Vừa ăn, Vũ Sơn vừa buông tiếng hỏi thiếu phụ. Người đàn bà chắc chỉ
chờ có thế, vội vã lấy giọng than vãn:
- Khổ quá chú ơi. Lâu ngày chú không về…
Nhưng chính lúc đó, anh ta giơ tay lên cắt đứt câu chuyện một cách
tàn nhẫn:
- Thôi đã, lúc khác nói chuyện ấy. Giờ tôi phải đưa hai người bạn
đến gặp anh Dự.
Dự là ông chủ tịch xã. Thiếu phụ im bặt. Chị bưng khay trà đặt lên
bàn rồi quay vào nhà trong. Chúng tôi uống trà xong đứng dậy cáo từ.
Thiếu phụ vội vã chạy ra:
- Chào các chú, lúc nào rảnh mời các chú tới chơi.
Chị cười đon đả, nhưng những nếp nhăn hằn sâu hai bên đuôi mắt. Vũ
Sơn gật đầu, dáng điệu của một viên tướng hạ cố tới ăn suất cơm đại
táo với binh sĩ. Chúng tôi đi theo anh, như hai kẻ tháp tùng. Dọc hè
phố, người ta thần thì chỉ trỏ. Không cần thính tai lắm, cũng biết
được họ phẩm bình:
- Nhà báo Vũ Sơn đi với ai thế?
- Thanh Dương, người vẫn có thơ ngâm trong buổi tiếng thơ trên đài.
- Không, Thanh Dương còn lạ gì, cái anh chàng tóc rậm mặc áo trắng
kia.
- Anh, tay ấy thì chưa nghe nói đến…
- Chắc cũng là một nhân vật quan trọng. Anh Vũ Sơn là gì có thời
gian mà chơi với những kẻ tầm xàm…
Đi hết dãy phố đó, tới ngã tư, Vũ Sơn quay lại bảo tôi:
- Cậu thấy đấy, ở Q người ta coi những ai được chơi với tôi là vinh
hạnh. Cậu phải khao chúng tôi vì niềm vinh hạnh ấy.
- Vâng, tôi sẵn lòng khao hai anh - Tôi đáp - Vì nhờ có anh mà đêm
qua tôi yên tâm ngủ. Đó là đêm đầu tiên tôi ngủ xa nhà.
Vũ Sơn cười. Thanh Dương cũng cười theo, đôi mắt đen của nhà thơ này
lúc nào cũng ẩm ướt. Tôi cùng họ vòng trở lại bến ô tô nội tỉnh. Ở
đó, trong quán thịt chó của ông chủ hói, chúng tôi thưởng thức thứ
rượu cuốc lủi cháy cổ với dồi nướng ướp mỡ, thịt luộc ướp giềng,
nhựa mận, móng chó hầm nhừ. Trời mát, những làn gió tung tăng đuổi
đám lá kim phượng trên đường. Đôi khi, một lớp bụi trắng mờ mờ bốc
lên rồi lát sau không gian lại trở nên trong suốt. Tiếng chim từ vòm
cây hoàng lan bên đường vọng sang, lẫn với mùi nước hoa lãng đãng.
Bên ngoài đám người đang say sưa chè chén và la hét quanh những
chiếc bàn nhớp nháp kia là khung trời thu tím. Màu tím mơ hồ như có
bụi phấn rắc trong khí quyển. Và sát những nóc nhà phố xá, vài đám
mây trắng lững thững trôi. Rượu ngà ngà khiến máu tôi rạo rực. Bỗng
dưng, tôi buột miệng kêu:
- Giá mà có một cây đàn. Và ai biết hát…
Thanh Dương đang lau miệng. Anh ta bỏ chiếc khăn xuống, trả lời tôi:
- Điều ước đó thì Vũ Sơn có thể rút từ túi áo của anh ấy ra ngay.
Vũ Sơn gỡ kính xuống lau rồi lại đeo vào theo thói quen, anh bảo chú
bé phụ bếp:
- Đi gọi anh Ngọc Sang cho chú. Nhớ bảo đem theo đàn.
Chú bé vâng một tiếng gọn lỏn rồi chạy vụt đi. Chừng mười phút sau,
nó hổn hển quay lại:
- Có rồi chú Vũ Sơn ạ.
Chú bé chưa dứt lời, một chiếc Vet- spa đã lượn tới đỗ sát cửa quán
cơm. Một chàng trai thấp đậm, tóc dài gần chấm tai bước vào: anh ta
cúi thấp đầu chào khiến những món tóc rũ xuống che kín mặt. Khi
người trai trẻ ngước lên, tôi thấy đôi mắt anh ta rất lớn, luôn mở
rộng và như luôn bị bao phủ bởi một lớp nước trong suốt. Vũ Sơn bảo:
- Bạn tôi nghe tiếng tăm cậu từ Hà Nội. Hôm nay về quê anh ấy muốn
được thưởng thức giọng ca của Ngọc Sang.
Người ca sĩ cười chào tôi lần thứ hai. Còn Thanh Dương, hẳn đã nhiều
lần gặp gỡ. Chàng trai gỡ cặp kính mát, bỏ vào túi áo. Anh ta mặc
một chiếc sơ mi in các khối màu đậm nhạt chồng chéo lên nhau, xen
vào đó là những chấm trắng li ti như những hạt bột sắn bị một bàn
tay vô tình ném tới. Chiếc quần Jin bó sát cặp đùi. Đôi giày da đế
rất cao và thô khiến ta liên tưởng tới hai hột lạc được cắm vào hai
que tăm. Dẫu sao, dáng vẻ bên ngoài của anh ta cũng trung thành với
một ca sĩ tỉnh lỵ.
Vũ Sơn quay sang tôi, nghiêm mặt nói:
- Tôi nói cho cậu rõ, cả đám ca sĩ nổi tiếng ngoài trung ương cũng
chẳng có thằng nào nghệ sĩ như cậu Ngọc Sang này. Đã ba bốn lần
phóng viên đài phát thanh về đây thu giọng hát của cậu ấy. Rồi trong
nháy mắt trở nên êm dịu, âu yếm, anh gật đầu bảo người ca sĩ kia:
- Hát đi mày. Trời đất này mà không được nghe hát thì phí cả tuổi
xuân…
Ngọc Sang lên dây đàn, dạo một khúc nhạc ngắn rồi bắt đầu hát. Giọng
anh ta ấm và khỏe, nhưng trong lối phô diễn tình cảm có cái gì đó
sai lệch và thô nháp, những cảm xúc anh ta đem tới cho người nghe
thường chênh vênh hoặc vượt quá cái ranh giới của sự no đủ, khiến họ
muốn co lại, muốn được đẩy lùi ra, tựa như khi đi xem phim màn ảnh
rộng mà phải ngồi quá gần, hay ngắm một người đàn bà đẹp mà bị soi
vào từng vết mụn ruồi hay từng mụn trứng cá.
…”Hỡi ơi Vê- ra, thành phố mênh mông, làm sao anh tìm được, ôi cặp
mắt đắm say của người tôi yêu…”
Cặp mi rậm của người ca sĩ khép lại, tiếng ngân rung động không
gian, những sợi gân cổ nổi trên cần cổ lực lưỡng. Giây phút ấy, anh
ta không còn hát cho người khác nghe mà hát để thỏa mãn cơn đam mê
của chính mình. Những ngón tay búng trên đàn run rẩy, hai gò má
chàng ca sĩ đỏ rực lên, cặp mắt lút chìm sau lớp nước long lanh của
những cảm hứng khiến anh ta hoàn toàn biệt lập với người nghe, với
cái quán cơm xoàng xĩnh ám khói nơi bến xe, với khoảng không gian
chú sầu nơi tỉnh lỵ. Phải chăng phía sau những âm thanh cuồng nhiệt
kia là tro bụi của rất nhiều hy vọng và thất vọng, là vết xé của một
quãng đời dài đắm chìm trong những huyễn dụ và những ảo tưởng, là
nỗi đau không vùi lấp được của tâm hồn… Tôi nhìn chàng ca sĩ, xót
xa. Là sao những người môi nhờn mỡ đang tóp tép nhai thịt chó kia
hiểu được tâm tình thầm kín của anh ta sau mỗi câu hát.
Lúc đó, Vũ Sơn đột ngột cất tiếng:
- Hay, hay… cậu khá thật. Tôi cam đoan ở tỉnh này, bói không ra một
thằng thứ hai nghệ sĩ được như cậu.
Ngọc Sang ngẩng lên, anh ta chưa hết bàng hoàng bởi chính nỗi đam mê
chế ngự mình. Vũ Sơn đã nói luôn:
- Lại đây, làm chén rượu với chúng tôi.
Xin phép anh - Chàng ca sĩ từ chối - Hôm nay nhà em có giỗ.
Vừa buông bát đũa thì thằng nhỏ ở đây sang gọi.
- Thế hở?
Vũ Sơn nói, giọng ráo hoảnh: Thế thì về nhà nghỉ lúc khác tôi đến
chơi. Ở cái quán thịt chó này khét mù mù.
Tôi sững người. Chàng ca sĩ xoay xoay cây đàn vài vòng rồi sượng
sùng chào chúng tôi, ra về. Thanh Dương bình thản cầm một cọng rau
ngổ, nhấm nháp. Có lẽ anh ta đã quen với lối cư xử của Vũ Sơn. Còn
tôi, không thể chịu được, tôi ném một cái nhìn dữ dội vào mắt nhà
báo. Sau cặp kính trắng, đôi mắt anh ta vẫn mở rộng, trơ như hai hòn
bi:
- Tụi này chỉ biết hát thôi. Nói chuyện với chúng nó chán phè. Nghe
hát xong thì đuổi chúng nó về cho rảnh việc.
Tôi đứng lên, trả tiền chủ quán rồi bước ra đường. Thanh Dương đi
bên tôi. Vũ Sơn đi cuối cùng hai tay đút túi quần, miệng chẩu ra
huýt sáo. Chúng tôi vượt qua một dãy nhà hai tầng, tới công viên
dành cho trẻ nhỏ. Ở đó nhưng bụi cây tử vi đang độ nở hoa… Khắp các
lối đi rải sỏi, cánh hoa tử vi rắc đều như lớp thảm mỏng manh, tươi
thắm. Vài khóm xương rồng xanh xám, gai đen, trông gớm ghiếc mọc ở
cuối khuôn viên.
Tôi chợt nghĩ cơn giận dữ của mình với Vũ Sơn là vô lý. Anh ta là
một con người riêng biệt, ngoài tôi. Để phá vỡ sự im lặng nặng nề,
tôi quay lại hỏi:
- Giờ anh tới chơi nhà ông Dự chứ?
Vũ Sơn thôi không huýt sáo nữa, hỏi lại tôi:
- Đến đấy làm gì?
Tôi đáp:
- Buổi sáng anh đã bảo với bà chủ quán xôi…
Vũ Sơn cất tiếng à à… rồi tủm tỉm cười:
- Bảo bà ta thế chứ đến đấy làm gì… Dương này, hay chúng ta ra bãi
cát làng Mơ đi. Đã lâu lắm rồi tôi chưa trở lại nơi đó.
Thanh Dương quay sang hỏi tôi:
- Anh Nam đã tới làng Mơ bao giờ chưa?
Tôi thú nhận:
- Chưa.
Thi sĩ nói:
- Vậy thì nên đi. Làng ấy đẹp nhất trong toàn tỉnh. Con gái cũng
trắng nhất vùng. Từ đây tới đó chừng ba cây số, chúng mình đi bộ cho
vui. Mấy khi rảnh rỗi thế này. Ở Hà Nội, suốt ngày đêm tôi đánh vật
với bài vở, hết chủ nhiệm lại tới tổng biên tập báo quấy rầy. Bài cứ
đổ lên đổ xuống. Còn anh, chắc anh cũng phải chúi mũi vào buồng tối,
đúng không?
Tôi cười:
- Vâng. Cũng có khi tôi đi chơi nhưng chỉ quanh quẩn vài rạp chiếu
bóng với hai cái hồ.
- Xì…
Vũ Sơn tia bọt qua kẽ răng khinh bỉ: Hồ Hoàn Kiếm so với hồ Ba Mẫu
quê ta chỉ là một vũng nước trâu đầm. Còn Hồ Tây có khá hơn nhưng
trông trơ trẽn như một con bé nhà quê tròn trùng trục lại mặc quần
Jin trắng.
Chúng tôi ra khỏi thị xã, qua một miền cỏ êm đềm để tới hồ Ba Mẫu.
Con hồ rộng, phẳng lì như tấm gương. Bốn chung quanh cỏ lót thảm
nhung xanh. Xa chút nữa, một ngọn núi đứng kiêu hãnh với những dải
mây bao quanh. Nó in bóng xuống mặt hồ, vừa lẻ loi vừa xa vời như để
tự chiêm ngưỡng nỗi cô đơn kì diệu của mình, nỗi cô đơn già hơn đất
đá, sung mãn hơn khí trời, nước nôi, cây cỏ… Mặc dù đã hơn trưa,
những bụi cỏ chưa tan hết sương ánh lên như ngọc trai, Thanh Dương
khẽ đọc một câu thơ của Véc- Len. Rồi chúng tôi im lặng đi vòng qua
con hồ, vượt một khúc ngòi tới bãi cát làng Mơ.
Gọi là bãi, thực ra đó chỉ là một lưỡi cát chạy dọc bờ đê. Phía
trong là bãi cỏ dưới bóng si cổ thụ. Từ bãi cát này, nhìn thấy dòng
sông trước mặt, quay lại, hồ Ba Mẫu ngay kề sau lưng. Bên trái là
những mái ngói xen bóng tre, bóng trúc làng Mơ. Bên phải là con
đường chạy trên sống đê, dẫn về phía tây tỉnh lỵ.
Tôi chưa thấy một cảnh trí phóng khoáng, rực rỡ như vậy bao giờ. Kì
thay, nó lại nằm trên chính mảnh đất chôn nhau cắt rốn của tôi. Mười
hai năm niên thiếu, tôi ốm ông, nhút nhát, không dám rời mẹ nửa bước
chân. Từ nhà tới trường, từ trường về nhà chỉ qua một cánh đông hẹp
mẹ tôi cũng phải đưa đón. Khu vườn xanh om bóng cây của bà ngoại với
lũ chim chích chòe, sáo sậu, những con vành khuyên đỏm dáng, những ả
chim sâu tí hon là một thế giới no đủ cho trí tưởng tượng và mối
tương giao bạn hữu của tôi. Ba bốn ông bình vôi treo lủng lẳng trên
cây vối già, ngôi miếu thờ trong bụi duối, bức tranh ngũ hổ hoen ố
nước mưa và bụi bặm… tất cả đủ thêu dệt nên những huyền thoại của
cõi sống và cõi chết, của kiếp người trên dương thế và nơi lòng đất.
Lần đầu tiên, khung cảnh khoáng đạt, tràn trề sinh khí của thiên
nhiên tràn vào lòng tôi, khơi mở một vùng tươi mói. Tôi chợt thấy
quãng đời trai trẻ đã qua của mình thẫm thê, èo ọt. Những tấm phim
được cắt rời, ném vào chậu thuốc. Những khuôn mặt hiện hình hoặc đen
thẫm hoặc nhờ nhợt. Cây banh trong tay xáo trộn và vớt phim lên như
một cái máy vô tri vô giác. Ngón tay thấm nước bọt đếm những tờ bạc
thù lao cuối tuần. Ly cà phê hoặc tấm vé xem phim cứu chuộc lại thời
gian bị tiêu hủy… Tất cả đã từng là nguồn vui trong quá khứ. Giờ,
chúng héo úa, tẻ nhạt. Trước mắt tôi, dòng sông đang chảy. Những
lượn sóng cuộn xoáy rồi duỗi ra như bắp thịt của một vị thần khổng
lồ. Những đám bọt rác từ thượng nguồn sông đổ về bị sóng đánh tan
tác rồi tụ lại nơi xoáy nước và chìm nghỉm trong vực sâu tàn bạo của
thủy vương. Ngay cả tiếng sóng dào dạt dồi đập vào hai bờ, cũng trào
dâng sức mạnh của sự tăng trưởng và biến cải. Dòng nước ấy, đã mang
trong lòng sâu của nó bao nhiêu hình ảnh kì thú của núi non, rừng
rú, những cánh hoa rực rỡ đã tàn lụi và những đám lá ngàn tuổi giữa
thung sâu, những lưu vật của con người đã ngã xuống trong cuộc tranh
đấu khốc liệt với số phận hoặc những xác thú bị dập vùi trong cơn
tai biến… Mọi huyền bí của dòng phù sa kia là cái tiền đề vĩnh cửu
để tạo nên sự sống mới, luôn non trẻ và quyến rũ, tựa như đám lúa
trên cánh đồng ban mai.
Tôi đắm chìm trong ý nghĩ của mình. Hai người bạn đồng hành im lặng.
Lát sau, Vũ Sơn cất tiếng:
- Cậu cần phải đi, Nam ạ. Làm người đàn ông phải từng trải. Các cụ
đã nói rồi: Làm trai cho đáng nên trai, Non Đông cũng trải non Đoài
cũng qua. Sống đời công tử bọc nhung thì chán lắm.
Mới chỉ cần đến bãi cát này, ngồi ở đây, óc cậu đã vỡ vạc ra bao
nhiêu điều mới mẻ, đúng không nào?…
Tôi không đáp nhưng thầm thán phục con người đó. Anh ta có tư chất
của một ông thầy phù thủy. Không nhìn tôi, Vũ Sơn nói tiếp:
- Rồi hôm nào, tôi sẽ nói cho cậu nghe về…
Vừa lúc ấy, tiếng hét của một người đàn ông khiến chúng tôi giật
mình:
- Đứng lại, con đĩ, đứng lại…
Phía trước anh ta, một người đàn bà trẻ đang chạy về phía bờ sông
như cơn cuồng phong. Họ từ ngôi nhà ở bìa làng chạy ra. Thiếu phụ
nhỏ bé nhưng chắc chắn. Cơ thể chị ta gọn gàng. Mái tóc đen sổ xuống
tận thắt lưng. Chị ta chạy rất nhanh khiến người đàn ông đuổi phía
sau thở hổn hển. Vừa đuổi vừa cất tiếng gào, anh ta giống như con
lợn bị hoạn sổng chuồng - Tao bảo mày đứng lại i i i…
Mặt tái nhợt, tay cầm chiếc chày giã cua, loại chày tiện bằng gỗ
cứng thường dùng ở nông thôn. Đôi mày cau có, vầng trán hẹp trên
sống mũi dồ, món tóc láng dầu dán xuống sọ… trông anh ta vừa hung
bạo vừa hèn nhát. Tôi đứng dậy:
- Tôi xuống đây. Các anh có xuống không?
Vũ Sơn kéo áo tôi lại:
- Cậu đừng anh hùng rơm, kệ xác chúng nó.
Tôi vùng khỏi bàn tay anh rồi chạy xuống lưỡi cát. Thiếu phụ đã vượt
qua đám ruộng ớt, ruộng cà ở bìa làng. Chị bắt đầu leo ngược lên
sườn đê. Người đàn ông còn chạy giữa các luống ớt. Đột nhiên, thiếu
phụ vướng quần ngã. Ở chỗ đó, sườn đê bị lở hõm vào một quãng sâu
nên chị rơi xuống hố và cứ thế lăn trở lại chân đê. Người đàn ông rú
lên, hắn ta đạp ào ào lên các luống ớt, rạch cà, lao tới con mồi vớt
tất cả nỗi sung sướng của loài dã thú. Ước lượng khoảng cách giữa
tôi và hắn, rồi thu toàn bộ sức lực, tôi lao tới người thiếu phụ vào
đúng lúc gã giẫm chân lên bụng chị và giơ chiếc chày. Đầu tôi húc
vào nách hắn, và sức nặng toàn thân tôi đẩy hắn ngã xuống. Cánh tay
cầm chày của hắn đập xuống chân đê, điên rồ, hắn dùng cánh tay kia
đấm vào mặt tôi. Tôi tránh được cú đấm nhưng hắn quào lại rất nhanh
và lần này, ngón tay hắn móc rách đuôi mắt tôi. Cảm giác đau đớn
nhục thể khiến máu tôi sôi thêm. Huy động sức lực và sự tinh khôn
của mình, tôi đá bật cái chày đi, lẩn tránh mọi ngón đòn điên rồ
tuyệt vọng của hắn và đánh hắn không thương tiếc. Hắn chửi tục, cào
cấu, nhổ nước bọt vào mặt tôi, giống như con rắn, vừa phun phì phì
vừa quằn quại lê lết trên mặt đất. Tôi nhìn gã, giáng cho gã những
cú đấm liên tục, chính xác. Lần đầu tiên trong đời tôi lao vào cuộc
ẩu đả với niềm say mê dữ dội đến thế. Tôi cũng không còn nhận thấy
Vũ Sơn và Thanh Dương đã rời chỗ ngồi của họ, xuống can tôi dừng
tay. Khi tôi dừng tay, hắn nằm phơi bụng trên bãi đất, bọt mép sùi
ra lẫn những gợn máu, hai cánh tay nhợt như bụng cá thõng thẹo vắt
lên mái đầu bê bết đất lẫn lá cỏ.
- Thôi, đủ rồi.
Vũ Sơn bảo tôi: Đuôi mắt cậu rách kia kìa, lo về nhà mà rửa kẻo
nhiễm trùng. Vả lại, chúng mình cũng phải chuồn đi thôi, dân làng nó
kéo ra bây giờ là rầy rà to đấy.
Lúc ấyy, người đàn bà cất tiếng:
- Em lạy các anh, các anh đi bây giờ thì em chết.
Hai tay chị chắp lại trước ngực và đôi mắt như lạc đi vì sợ hãi. Tôi
nhìn người đã gây ra cuộc giao chiến đầu tiên trong đời mình. Chị
trạc hai mươi bảy, hai tám. Cũng có thể là ba mươi hoặc hơn nữa
nhưng gương mặt còn tươi mát. Cặp môi nhỏ, tròn đầy, quyến rũ. Cái
mũi hếch xinh xắn nằm giữa hai bầu má tròn, ửng đỏ. Đôi mắt lớn, đen
như than với cái nhìn dường như luôn ngạc nhiên, luôn tìm kiếm. Một
vết thâm lớn ở sát đuôi mắt trái, dấu vết của một cú đấm tàn nhẫn,
khiến cho vẻ đẹp của chị nhuốm nỗi đau đớn khó quên.
- Em lạy các anh…
Chị nhắc lại lần thứ hai, ngước đôi mắt nhìn chúng tôi cầu cứu. Lúc
ấy, một đám đông từ trong làng kéo ra, cả đàn ông lẫn đàn bà cả
thanh niên lẫn con nít. Có người đi tay không, có kẻ cầm hèo cầm
gậy. Họ nói gì đó với nhau, tôi nghe không rõ. Vũ Sơn kéo tôi lại
phía sau lưng anh, Thanh Dương cũng lùi một bước, đứng bên trái tôi,
thì thầm:
- Anh Nam đừng nói gì với họ, để cho anh Sơn ứng đối nhé.
Đám người trong làng đã tiến gần chúng tôi. Trước tiên một bà già
cao gầy, quấn khăn đen, xỉa xói vào mặt thiếu phụ:
- Con trời đánh thánh vật kia, con trốn chúa lộn chồng kia, mày lội
ao chết đuối, mày qua sông đắm đò, mày lên bàn đẻ đẻ ngang đẻ ngược,
trời chu đất triệt, diều tha quạ mổ thứ đàn bà như mày…
Bà ta vỗ tay đen đét, rồi nhảy lên: Lại đây, lại đây, bà xé xác mày
ra, bà móc mắt mày ra cho con ác là nó rỉa…
Một gã đàn ông trạc tứ tuần có lẻ, cao lớn, lòng khòng, vẻ mặt và
màu da nhang nhác như gã đàn ông vừa bị tôi đánh, cau có túm áo bà
già giật lại:
- Thôi đi, bà đừng la quang quác làm gì, để tôi cho nó mấy hèo là
yên chuyện.
Gã nhảy một bước, tới sáp mặt Vũ Sơn. Thiếu phụ đã lùi về phía sau
anh, cũng như tôi, cầu một sự che chở. Lúc đó, Vũ Sơn quắc mắt lên,
nhìn chòng chọc vào mắt gã đàn ông cầm hèo. Mắt anh ta vốn đã lớn,
lại lộ tròng, giờ vằn những tia máu li ti và phát ra những chùm tia
sáng lạnh lùng, nhọn sắc. Gã đàn ông thô kệch kia không chịu nổi
luồng nhỡn quang đó, cụp đôi mi xuống. Vũ Sơn giơ tay chỉ chiếc chày
lăn lóc dưới đám ruộng khô:
- Hãy nhìn kia.
Đám đông lia mắt nhìn theo tay anh, cả gã đàn ông kia cũng vậy.
- Hãy nhìn cho kĩ.
Vũ Sơn nhắc lại lần thứ hai, rồi anh nhếch mép cười nhạt, nụ cười ấy
vừa khinh thị vừa dữ tợn. Nó khiến đám đông rúm lại vì mặc cảm nhục
nhã, cái mặc cảm thường chỉ nhận ra khi giáp mặt với những người
hoàn toàn xa lạ và có một đời sống quá cách biệt, vượt hẳn đời sống
của cá nhân mình.
Vũ Sơn hiểu rằng anh đã khống chế được đám đông, và vẻ mặt anh trở
lại ngạo mạn, kiêu hùng như khi anh đi giữa các phố xá của tỉnh lỵ:
- Luật pháp nào cho phép các người bao che cho gã đàn ông kia cầm
chày đánh vợ. Luật pháp nào cho phép các người hà hiếp đàn bà. Đây
là nước Việt Nam cộng hòa xã hội chủ nghĩa hay nước An- nam của vua
Khải Định? Đây là những năm cuối thế kỉ hai mươi hay đang thế kỉ
mười lăm?… Trả lời tôi đi…
Giọng nói anh vang động, đầy quyền uy và sức thuyết phục. Đám nông
dân đứng im thin thít. Nghe rõ tiếng bầy ong rù rì dưới đám ruộng cà
vọng tới. Vũ Sơn vẫn tiếp tục nhìn chòng chọc vào đám đông, cặp mắt
anh như muốn lột truồng họ ra, phơi bày vẻ trơ tráo và nghèo nàn của
tâm hồn họ, phơi bày bản tính hung bạo chung đụng với sự hèn nhát
bên trong một đời sống bản năng, thiếu hụt nhân cách.
Gã đàn ông bị tôi đánh đã tỉnh lại, chống tay ngồi lên. Gã đưa mắt
tìm kiếm vợ, rồi chìa nắm đấm về phía chị ta:
- Rồi mày biết tay ông, con đĩ.
Anh trai gã ngẩng đầu lên, hằm hè nói theo:
- Con đàn bà ngoại tình, phải đánh. Phép vua thua lệ làng.
Bà già nanh nọc lúc nãy lại chống nạnh, nói xe xé:
- Mày cứ đánh chết con đĩ ấy cho tao. Tội vạ đâu tao chịu.
Gã đàn ông cầm hèo huơ lên, nhưng chân gã vẫn dính chặt xuống mặt
đất. Vũ Sơn khoanh tay nhìn họ. Cứ như thế thời khắc im lặng trôi
qua. Chừng vài phút sau, một người đàn ông nữa từ trong làng hối hả
đi ra. Trông dáng điệu và cách ăn mặc của anh ta, chúng tôi đoán là
bí thư hoặc chủ nhiệm xã. Bước từng bước dài nóng nảy, anh ta vượt
qua những mô đất, những ruộng rau, hai cánh ta vung vẩy. Khi anh ta
vừa tới giữa đám đông, Vũ Sơn cất tiếng hỏi lạnh lẽo:
- Xin lỗi, anh là chủ tịch xã?
Anh chàng chủ tịch giật mình vì sự đoán định chính xác và giọng nói
không hứa hẹn điều gì tốt đẹp, vội vã đáp:
- Vâng, vâng…
Vũ Sơn tiếp:
- Tôi là Vũ Sơn, phóng viên báo X. Tôi được lệnh viết một thiên
phóng sự về tình hình dân chủ và luật pháp trong các tỉnh đồng bằng
Bắc Bộ. Trước tiên là tỉnh Q. Tôi đã làm việc với anh Quang tuần vừa
qua.
Vũ Sơn ngừng lời. Tôi thấy gương mặt chủ tịch xã nhợt nhạt. Những ý
nghĩ luân chuyển qua óc anh ta có thể đọc được rõ ràng. Chắc chắn
anh ta có mối liên hệ nào đó về gia tộc hoặc quyền lợi vật chất với
gã đàn ông vừa đánh vợ. Chắc chắn là lương tâm anh ta không đủ chiến
thắng mối liên quan máu mủ hoặc các cám dỗ vật chất để ngăn cản
những hành động ngoài pháp luật. Nhất là những hành động đó được che
đỡ bằng ngôn án của đám đông, bằng những thiên kiến lưu truyền từ
đời này qua đời khác. Sự xuất hiện bất ngờ của những người lạ mặt
những người có quan hệ với chủ tịch tỉnh - người có quyền lực cao
nhất trong mọi mối giao tiếp, và việc, họ chứng kiến tội ác ngay
trên lãnh địa của mình khiến vị chủ tịch xã hụt hơi. Anh ta quay lại
đám đông, quát:
- Tôi đã nói bao nhiêu lần rồi? Các người cứ làm bậy rồi tội vấy oan
sang kẻ khác. Tất cả về ngay, nếu không tôi sẽ huy động lực lượng
dân quân ra giải quyết.
Rõ ràng đây là thái độ cứng rắn lần đầu tiên của anh ta với gia đình
kẻ hành hung. Ngay trong câu quát tháo đó, đã hàm chứa sự hốt hoảng
và giả trá. Đám đông cúi đầu, lục tục đi về phía làng. Chủ tịch xã
quay lại, nửa mời mọc, nửa năn nỉ:
- Trường hợp này phức tạp lắm. Mời các đồng chí vào ủy ban chơi rồi
tôi sẽ trình bày.
- Tôi bận, không có thời gian.
Vũ Sơn đáp gọn lỏn: Nhưng nếu sự việc này còn xảy ra, tôi sẽ yêu cầu
đích thân chủ tịch Quang xuống đây chứng kiến, để anh ấy không còn
trách móc được chúng tôi trong việc phản ảnh tình hình dân chủ và
thi hành luật pháp ở tỉnh nhà.
Mặt chủ tịch xã trắng bệch ra. Anh ta lắp bắp cái gì đó không nghe
rõ. Vũ Sơn hất tay phác một cử chỉ cắt đứt cuộc đối thoại:
- Thôi, anh về đi.
Nói xong, anh quay lưng bước về phía bãi cát. Chúng tôi đi theo anh;
bỏ lại thiếu phụ với gã chồng hung bạo của chị. Khi tới nơi, chúng
tôi lại ngồi dưới gốc si. Chủ tịch xã đã đi tới bìa làng. Còn người
đàn bà khốn khổ đang dìu chồng trở lại căn nhà sau bụi trúc. Gã đàn
ông bước tập tễnh, nhăn nhó. Vừa đi, hắn vừa làu bàu chửi vợ. Và cứ
mươi bước chân hắn lại đấm chị một quả vào lưng hoặc giật tóc chị
một cái. Người đàn bà nhẫn nhục bước. Không thấy chị ta khóc hoặc
kêu rên một lời.
Tất cả chúng tôi đều chăm chú nhìn họ, Vũ Sơn nhếch môi cười, làu
bàu:
- Đấy cậu xem, cậu nhảy vào như một đấng anh hùng cứu nạn, đến nỗi
rách cả mặt, suýt nữa bị người nhà nó giã làm tương. Vậy mà bây giờ
thì… Có khi đêm nay hai đứa lại hú hí với nhau và mươi tháng nữa một
thằng lỏi con oe oe khóc chào đời… Hi hi hi…
anh ta cất tiếng cười. Nhưng hai dòng lệ đục ngầy lăn xuống má. Vũ
Sơn giả bộ gỡ kính ra lau. Anh ta cúi xuống, chùi nước mắt vào đầu
gối.
Chương 3
Ba chúng tôi đã qua tuần lễ đầu tiên, mài miệt với những chuyến du
lịch ngắn. Các trái núi, các ngôi chùa, các bến sông quanh tỉnh lỵ,
Vũ Sơn đã đưa Thanh Dương và tôi thăm thú hết. Sang tuần thứ hai,
anh tuyên bố đưa chúng tôi tới nhà những người hâm mộ anh. Đám này
khá đông, đủ loại. Từ các chú học trò cấp ba yêu thích văn chương mơ
tưởng một chân phóng viên báo trong tương lai đến các khổ chủ muốn
nhờ cậy Vũ Sơn giúp con cái họ vào một trường đại học, một cơ quan
trung ương kiếm một tấm giấy phép làm nhà hoặc tìm một vị thẩm phán
có đủ năng lực trong vụ kiện chia đồ hương hỏa… Về tất cả những lãnh
vực ấy, ở đâu Vũ Sơn cũng có những người quen thuộc, thân tín, biết
nắm giữ một cách thông thạo những nhu yếu tinh thần và vật chất của
đời sống. Vả chăng, ở tất cả mọi môi trường xã hội, Vũ Sơn đều hiểu
biết, tuy không mấy chính xác, nhưng các kiến thức của anh đủ cho
những con người quen sống biệt lập trong góc đời cỏn con của mình
phải kinh ngạc. Sự thiếu hụt trong bề rộng và chiều sâu của kiến
thức được bù đắp bởi lòng tự tin bẩm sinh của anh. Và lòng tự tin ấy
đôi khi được thánh hóa lên nhờ đức khiêm nhường quen thuộc của cư
dân tỉnh lỵ.
Chiều hôm trước anh đưa chúng tôi tới nhà một ông hiệu trưởng cấp
hai vừa được bổ nhiệm nhờ sự phát hiện và biểu dương của anh trước
Ty giáo dục tỉnh. Con trai ông bắt được một con ba ba lớn trong đầm
Những, nơi chàng trai làm việc. Cậu hì hụi đạp ba mươi cây số về nhà
biếu bố. Ông hiệu trưởng lại đạp xe năm cây số nữa để mời một người
bạn cố tri có biệt tài nấy ba ba tới nấu bữa cỗ đãi chúng tôi. Ông
già này là cán bộ ngân hàng tỉnh đã về hưu, một người tính tình nhẹ
nhõm, thích giao tiếp. Ông tên là Hưu, nhỏ bé, lẹm cằm. Ông mời
chúng tôi tới nhà ông thăm thú cảnh điền viên và ăn cơm thanh đạm
vào trưa hôm sau. Vũ Sơn thay mặt chúng tôi nhận lời, anh nói với
ông bằng một giọng nửa đùa nửa thật:
- Quý bác lắm mới đi đường đột thế này đấy nhé. Còn bao nhiêu nơi
chờ đợi…
- Vâng, quý hóa quá…
Ông già đáp: Đã mấy khi các anh về tới tỉnh nhà…
Hôm sau Thanh Dương đến rủ tôi trước. Rồi sau đó, hai chúng tôi tới
nhà Vũ Sơn. Anh còn đang cuộn tròn trong chăn, đôi mắt đỏ kè ngáy
ngủ:
- Mấy giờ rồi?
Thanh Dương đáp:
- Bảy rưỡi. Dậy được rồi nhà báo trứ danh ạ.
Vũ Sơn ngáp một tràng vài ba cái rồi mới bò trong đống chăn như
chiếc kén tằm chui ra:
- Đêm qua tôi đọc lại Đốt, ba giờ sáng mới tắt đèn đi ngủ.
Chúng tôi chờ anh làm vệ sinh buổi sáng và thay quần áo rồi đạp xe
theo tỉnh lộ, ngược lên phía bắc thị xã. Nhà ông già Hưu ngay ven
đường, một ngôi nhà nửa cổ nửa kim nhưng thuận mắt. Mảnh sân vuông
đặt hai dãy chậu cây cảnh, từ cây trắc bá tới cây trúc kim, từ lan
hoàng diệp tới cúc gấm và hồng Đà Lạt. Có lẽ, bộ sưu tập này là tất
cả niềm say mê và kiêu hãnh của chủ nhân. Tôi đã từng tới nhiều nhà
nuôi trồng cây cảnh, nhưng chưa ở đâu gặp sự chăm chút tới mức phi
lý như ở đây. Những chiếc chậu cổ men xanh được lau bóng như chén
uống trà Tàu trong các gia đình quý phái. Những viên sỏi rải trên
gốc trúc kim hoặc tùng cảnh sạch như mỗi sớm chúng được lượm lên và
lau rửa bằng bọt xà phòng. Ngay cả tới những chậu cây lớn đổ bằng đá
li- tô hồng hoặc nâu cũng lấp lánh như mặt kính. Chẳng chậu cây nào
có một mảy lá úa hoặc viên đất dính. Từ búp lá nõn đầu cành cho tới
những chiếc lá già cuối cùng bám sát gốc cây đều tinh khiết tựa hồ
được chạm từ thứ ngọc xanh sắc màu đậm nhạt khác nhau.
Thanh Dương thốt tiếng trầm trồ:
- Bác có một vườn cảnh lý tưởng. Tìm khắp thành phố Hà Nội cũng khó
mà có những chậu cảnh như ở đây.
Chủ nhân sung sướng mỉm cười, và đáp lại với giọng khiêm nhường:
- Còn thiếu nhiều thứ cây quý lắm anh ạ. Tôi dự tính năm năm nữa mới
đủ chơi.
Vũ Sơn chắp tay đi đi lại lại trong sân, anh ngước nhìn giàn dưa Tây
đang trổ hoa vàng chóe trên đầu, ghé sát tai tôi thì thầm:
- Sáng nay Thanh Dương sẽ đỡ chuyện cho chúng mình. Nào là cây cảnh,
nào nghề nuôi chim, chọi gà, nuôi cá vàng, gây giống vẹt… Cái khoản
ấy tôi với cậu phải chắp tay lạy hắn ta. Trong hình hài của Thanh
Dương có một lão già đích thực.
Quả nhiên, ông già Hưu bám sát lấy Thanh Dương ngay tức khắc. Anh
chàng thi sĩ trầm mặc này thủ thỉ với ông đủ các thứ chuyện về thú
điền viên. Hai người ngồi ngay trên sân, giữa những chậu cây cảnh ma
say mê đối thoại.
Vũ Sơn rủ tôi ra mảnh ao nhỏ sau nhà, nơi có những bụi cây móng ròng
thơm nức trùm lên một cây vối. Anh nói với tôi về Đốt- tôi- ép- ski,
Tôn- stôi, Hê- min- uây… vì tôi ham đọc sách, tôi có thể hiểu được
những khúc mắc, những kiến giải của anh, nhẫn nại nghe anh bày tỏ.
Anh nói lưu loát, cuốn hút, tôi không biết được thời gian trôi qua.
Chợt chủ nhân chạy ra, rối rít xin lỗi và mời chúng tôi vào nhà uống
nước. Hóa ra, ông già Hưu cũng là một người say mê, bồng bột. Bị câu
chuyện bất tận của Thanh Dương hấp dẫn, ông đã quên khuấy cương vị
chủ nhân.
Chúng tôi bước vào nhà, cùng lúc bà vợ và cô con gái duy nhất của
ông đi chợ về. Họ cất tiếng chào, chúng tôi chào lại họ. Bà già cũng
nhỏ bé tươi tắn như chồng, với đôi mắt đen và sâu, cặp môi đều đặn,
chắc chắn bà đã gây sóng gió cho những trái tim trai trẻ thời bà còn
là một thiếu nữ má hồng răng trắng. Nhưng cô gái mới thật là một
nhan sắc lộng lẫy, đầy sức chinh phục. Cô thâu tóm đủ những nét trội
của mẹ nhưng tất cả những nét đó đều được biến cải, nâng cấp lên một
cách đáng kinh ngạc. Nhìn cô, người ta biết chắc chắn cô là kết quả
của cuộc hôn phối giữa hai con người dưới mái nhà ấy, đồng thời
người ta cũng ngờ vực tạo hóa vì nó đã nhào nặn lại một cách uyển
chuyển và khiến cho mọi đường nét, mọi hình khối đạt tới mức hoàn
mỹ. Cả bố và mẹ cô đều thấp bé, nhưng cô lại dong dỏng cao. Tấm thân
thon thả, săn chắc bó trong tấm áo lụa giản dị cổ tròn và chiếc quần
hàng tuýt- xi may theo kiểu Jin ống hẹp. Mắt cô đen, đắm đuối như
mắt bà mẹ nhưng cặp mi dài rậm hơn khiến đôi mắt ấy trở thành những
con sóng đầy ma lực. Sống mũi, cặp môi, những món tóc mai, nốt ruồi
tí xíu bên cằm… Cô khiến cả ba chúng tôi sững sờ. Không tin được ở
góc tỉnh lỵ quê nhà lại có một thiếu nữ đẹp đến thế, mặc dù các
thiếu nữ xinh đẹp nhất Hà Nội chúng tôi đã được ngắm nhìn dăm bảy
lượt, hoặc gần, hoặc xa…
- Mời các anh xơi nước. Chè Thái Nguyên mua cân, bà nhà tôi ướp lấy.
Năm trước, bà ấy ướp hoa ngâu. Năm nay, ướp hoa nhài. Mấy bụi nhài ở
bờ ao cơ man là hoa nở. Giá ở Hà Nội đã có tiền, nhưng ở đây thả cho
lũ ong rờn…
Một gã bán kem rong đi qua, bóp chuông hơi: Tí toe, tí toe… kèm theo
tiếng rao: “Kem cây đặc biệt, ăn mau kẻo sắp hết mùa”. Rồi một cỗ xe
bò lọc cọc đi tới, ông già đánh xe ngồi giữa đống rơm, gà gập ngủ.
Chừng mươi phút nữa, mới có một đám dân buôn hồng, buôn bưởi gánh
hàng về chợ, vừa đi vừa chuyện trò. Khung cảnh đơn điệu của tỉnh lỵ
diễn qua, trong khuôn cửa có hai lần cánh. Sát khuôn cửa ấy, treo
lửng lơ chiếc xích- đông bằng gỗ lát. Trên khuôn đó, thấy những cuốn
sách quen thuộc: một anh hùng thời đại của Léc- mông- tốp. Bác sĩ
Ji- va- gô của Pa- têch- nác. Cha và con của Tuốc- ghê- nhi- ép. Thơ
E- xe- nhin và thơ Pus- kin. Các trường thiên tiểu thuyết của Sô-
lô- khốp. Rồi các tác phẩm của Đốt và tuyển tập. Con đường đau khổ
của A- lếch- xây Tôn- stôi… Chắc chắn đây là tủ sách của người con
gái, một chiếc kẹp tóc nằm bên dưới chiếc lọ nhỏ xíu, cắm độc nhất
bông hồng.
Chúng tôi chưa uống hết tuần trà cô đã xuất hiện, đĩa bánh rán trên
tay:
- Mẹ bảo đem lên cho bố mời khách uống trà.
Cô nói, với dáng vẻ tự tin tuy có đôi chút ngượng ngùng. Ông già Hưu
giới thiệu chúng tôi, lần lượt từng người. Rồi ông quay lại rót nước
tiếp. Cô gái đi xuống bếp, ông nói:
- Con gái tôi tên Hạnh, Thúy Hạnh. Nó đang học đại học y năm thứ
nhất, tôi gặp nạn. Cảnh nhà neo bến, côi cút, bà già tôi đổ bệnh
khùng. Suốt ngày bà ấy khấn vái, ra sân vái trời, vào nhà vái bàn
thờ tổ tiên gia tộc. Cơm nước không chịu nấu, chỉ mua hoa sen ăn.
Cháu Hạnh bỏ học về nhà chăm mẹ. Năm sau, vận hạn qua đi, tôi xin về
hưu vui thú cảnh gia đình. Mẹ cháu hoàn toàn khỏi bệnh, chúng tôi
giục cháu đi học tiếp nhưng nó không chịu đi nữa. Bây giờ, suốt ngày
nó ngồi đọc sách. Ngoài thời giờ đọc sách, nó nhận hàng về may. Nhờ
trời, chúng tôi sống không đến nỗi nào. Nhưng thấy con bé cứ quanh
quẩn ở nhà, chán chường mọi thứ mà tôi buồn quá. Cái tai nạn không
chỉ làm tổn thương mình tôi, con gái tôi trẻ mỏ thế, làm sao tôi tạo
lại cho nó được nguồn vui và lòng tin bây giờ?…
Cái cằm nhỏ của ông run lên. Lát sau, cơn xúc động trôi qua, ông lại
vui vẻ nói tới cách trồng cây cảnh, cách chiết hồng Thúy Kiều và gây
các loại phong lan quý, cách tỉa tùng và trúc vào những thời tiết
khác nhau. Thanh Dương tiếp chuyện ông, Vũ Sơn và tôi bó gối ngồi
nghe.
Đồng hồ điểm mười hai tiếng, cô gái bưng mâm cơm lên, đặt giữa phản:
- Mời bố và các anh xơi cơm.
Nói xong, cô xách phích nước xuống sân. Ông già Hưu bê vò rượu, mở
nùi lá chuối khô, rót vào chiếc thẫu thủy tinh. Từ miệng vò sành,
chảy ra thứ rượu màu đỏ sẫm. Khi rượu tới ngang lưng thẫu, một con
rắn thò cái đầu cứng đơ khỏi miệng vò. Ông già dừng tay, thận trọng
dựng vò rượu lên, dùng lá chuối chùi rồi nút chặt lại. Xong, ông lấy
chiếc phễu thủy tinh nhỏ xíu từ tủ chè ra, rót rượu ở thẫu vào chai.
Từ chai, ông mới lại rót ra từng chiếc chén sứ nhỏ, nhỉnh hơn chén
trà hạt mít đôi chút, mời rượu chúng tôi:
- Không mấy khi tôi gặp được các anh…
Ông già nói: Ở đây buồn lắm, vài ba tháng mấy thằng bạn cố tri mới
lọc cọc đạp xe tới gặp nhau một lần. Lúc gặp đã vậy, lúc rủi không
gặp lại đạp xe về chán nẫu cả ruột. Mà mỗi lúc mỗi già, nhìn con
đường nắng lóa, mắt cứ như mờ đi, cẳng chân tê cứng lại, lâu dần rồi
ai nấy cũng chỉ quanh quẩn với xó nhà của mình. Cái tuổi già nó mau
tồi tệ lắm các anh ạ. Kìa, các anh lên đũa đi. Bà nhà tôi với cháu
Hạnh ăn dưới bếp. Ở đây không có lệ đàn bà, con gái ngồi nhắm rượu
với đàn ông.
Trên chiếc mâm đồng bóng loáng, đĩa xào còn bốc khói nghi ngút, nem
rán cũng nóng nhưng các món quay, món hầm đã nguội. Rõ ràng những
người đàn bà trong nhà ít làm cơm đãi khách và cũng không có năng
khiếu về mặt này. Tuy nhiên, mọi món ăn cũng như các thứ vật dụng
đều tinh tươm, sạch sẽ, khiến ta yên tâm. Ông già uống rượu, hai gò
má hồng lên, cặp mắt long lanh trong cơn ngây ngất của những cảm xúc
bị dồn nén quá lâu đã đến giây phút muốn giãi bày. Chúng tôi đáp
chuyện ông, nhẹ nhàng dò chừng nỗi ưu uất của một tâm hồn nhạy cảm
và nồng nhiệt. Cuối bữa ăn, ông gạt đôi đũa sang một bên, rồi kể cho
chúng tôi nghe cái tai nạn lớn nhất trong đời ông. Ông phụ trách
ngân hàng, một cơ quan quan trọng bậc nhất tỉnh này. Vốn người trung
thực, đặt nhiệt tâm vào công việc, ông không biết cương vị của ông
được các cán bộ dưới quyền mình thèm khát. Luôn luôn bận rộn, luôn
luôn bị lôi kéo bởi các cuộc họp cấp tỉnh. Ông không thường xuyên
kiểm tra lại hành vi những người dưới quyền, những người này đã từng
có quan hệ tình cảm khăng khít với ông, đã từng được ông giúp đỡ khi
gặp sóng gió. Với niềm tin thơ ngây ở sự thẳng thắn và tấm lòng nhân
hậu của bản thân, ông không thăm dò được những tăm tối. Ông không đo
đếm được các mưu kế hiểm độc, ông không đủ từng trải để hình dung
được sự đê tiện của con người. Và như thế, ông rơi vào trận đồ bát
quái của các dục vọng âm hiểm. Ông, người có quyền lực cao nhất cơ
quan, người chịu trách nhiệm trước chữ ký của mình đã buộc phải lãnh
án tù bởi sự tham nhũng của những kẻ dưới quyền. Cố nhiên, phó giám
đốc ngân hàng, người chủ mưu bày đặt và điều khiển trận tấn công âm
thầm trong ba năm dài đã thế chân ông. Y đã đạt được cái cao vọng y
hằng thèm khát. Một chiếc xe sang trọng có người lái mở sẵn cửa chờ
đợi, những tiệc tùng liên miên nơi này và nơi khác, ưu thế chính trị
và tài chính cho cả đám con cháu, họ hàng nội ngoại nhờ cậy, chút
danh vọng để đặt lên bàn thờ gia tộc ngày giỗ tết… Ông vào tù, bà vợ
mắc chứng tâm thần, và con gái ông bỏ học…
Ông chớp mắt để tránh cho một giọt lệ khỏi lăn ra, kết thúc câu
chuyện bằng câu hỏi ai oán:
- Bây giờ mọi chuyện qua rồi. Tôi có thể vui thú với những chậu cảnh
của tôi hơn mọi vui thú ở cõi đời. Bí thư tỉnh đã về tận đây mời tôi
ra làm việc, tôi từ chối. Một bông hồng Thúy Kiều nở với tôi quan
trọng hơn việc tiếp chuyện các vị cán bộ tỉnh ủy… Nhưng còn con
Hạnh, tôi không muốn nó sống mãi trong tâm trạng này. Nó còn trẻ
quá, và tôi không thể…
Vũ Sơn đặt một bàn tay lên vai ông:
- Bác cứ yên tâm. Trăng tới rằm trăng tròn, hoa tới thì hoa nở. Đã
là kiếp con người, ai cũng trải qua những khoảnh khắc bi lụy, đau
thương. Nhưng nỗi đau nào cũng sẽ qua. Cô ấy sẽ trở lại bình ổn, khi
yêu.
Ông già lắc đầu:
- Trong vòng hai năm nay, dễ có tới non hai chục đám hỏi. Con trai
ông đại tá Thinh, con trai ông trung tá Tú ở tỉnh đội, con trai bà
giáo Giang hiện làm ở Viện khoa học xã hội Hà Nội…
- Thôi, thôi…
Vũ Sơn cắt đứt cái danh sách dài dằng dặc của ông: Tình yêu không
phải cái thứ hỏi han ấy. Rồi bác cứ nghiệm xem… Cháu bảo đảm với bác
rằng cô Hạnh sẽ vui vẻ, trẻ trung như trước. Chắc chắn sẽ có ngày
đó. Và chúng cháu tới đây mở vò rượu rắn của bác ra…
Chúng tôi cáo từ. Chủ nhân đi theo dặn đi dặn lại:
- Ôi, chào các anh. Nhớ quay lại thăm chúng tôi đấy nhé. Thật quý
hóa quá…
Khi tới cổng, tôi chợt nhớ rằng chưa xuống bếp chào bà chủ với cô
con gái. Tôi ghé tai Vũ Sơn thì thầm:
- Cả anh, cả Thanh Dương, cả tôi đều đoảng vị. Làm sao bây giờ?
Anh nháy mắt:
- Thôi kệ, còn tới chơi lần khác.
Nhưng lúc đó, Hạnh đi ra, đem rổ chanh tặng chúng tôi, nói là chanh
vườn nhà. Chúng tôi lên xe, cô còn đứng ngó theo.
- Con bé đẹp quá. Vũ Sơn nói: Của này mà sang Hà Nội đắt chồng như
tôm tươi. Đủ loại mũ cao áo dài tới xếp hàng chầu chực. Vậy mà ở đây
quanh ra quẩn vào thở than với dăm chậu cây cảnh. Nay mai, lấy một
anh chồng lèn quèn nữa là xong đời. Các cụ nói đúng thật:
Tiếâc thay cây quế giữa rừng
Thơm tho ai biết, ngát lừng ai hay…
Thanh Dương không nói, cắm cúi đạp xe. Nhưng đôi mắt đen ẩm ướt của
anh ta ẩn giấu vẻ bồn chồn.
Trong tuần lễ, chúng tôi còn tới chơi vài nhà quen thuộc của Vũ Sơn.
Thanh Dương vốn ít nói, giờ đây càng lơ đãng hơn trong các cuộc giao
tiếp. Dường như chàng thi sĩ luôn đuổi theo các ý tưởng riêng, phiêu
diêu trong cái thế giới ấy cho tới khi câu hỏi hay một cái vỗ vai
đột ngột kéo anh về thực tại. Đôi lần, trước vẻ sững sờ, hốt hoảng,
Vũ Sơn giương đôi mắt hầu tròn xoe lên, nhìn bạn chòng chọc. Nhưng
rồi anh ta không nói gì mà chỉ lẳng lặng quay đi. Tới buổi tối thứ
hai tuần lễ sau đó Vũ Sơn hẹn đưa chúng tôi đến dự đám chơi tổ tôm
của ông chú vợ anh:
- Tôi với các cậu ù ù cạc cạc biết gì tổ tôm với tổ tép. Nhưng sống
ở đời cái gì cũng nên để mắt ngó qua. Vả lại, rã đám tổ tôm bà thím
tôi sẽ nấu một nồi cháo gà và một nồi chè đậu xanh đãi khách.
Tối hôm đó, đúng bảy rưỡi chúng tôi đã có mặt ở nhà ông chú Vũ Sơn.
Khoảng non một chục ông già, bà lão đã tề tựu ở đấy. Người phì phèo
hút thuốc, kẻ tóp tép ăn khế đường hoặc kẹo bột. Vẻ mặt ai nấy hí
hửng như trẻ con được quà. Hóa ra, người già cũng ham chơi hệt như
con nít - Tôi thầm nghĩ và để tâm quan sát từng người một - Quả
nhiên, tới lúc chủ nhà dọn chỗ, xếp bàn tổ tôm, họ cũng hồi hộp, nao
nức dường như cuộc chơi quyết định quãng đời còn lại của mình. Người
này, kẻ khác đôi co, kiện tụng đòi được ngồi chung chiếu với những
người ưa thích hoặc chắc chắn không đủ khả năng tiêu diệt mình một
cách tàn bạo. Ông chú Vũ Sơn là người từng trải lịch lãm, chỉ trong
vài ba phút ông đã dàn hòa được mọi mối mâu thuẫn, làm cho tất cả
hài lòng với nụ cười hóm hỉnh và những câu đùa nhẹ nhàng. Khoảng tám
giờ kém năm, cuộc chơi bắt đầu. Bắt chước Vũ Sơn, tôi cũng ngồi rìa
một đám. Nhưng chỉ mươi phút sau, biết mình không thể hiểu được tôi
đành đứng lên. Thanh Dương không còn trong phòng, anh ta đã chuồn
trước tôi. Chỉ một mình Vũ Sơn hòa nhập vào đám đánh bài say mê,
sung sướng. Tôi mở cửa, lững thững đi dọc phố. Trời đêm, hơi thu se
lạnh. Chân trời trong ngần đọng trên các dãy núi, tựa lớp nước nhuốm
phẩm lam. Vài ngôi sao hiếm hoi nhưng sáng rực, bắn tóe ra từng chùm
tia bạc. Những vòm kim phượng, ẩm ướt và run rẩy, khẽ thở than vì
tình yêu muộn màng với mùa thu đã tàn úa trước thời khắc biệt ly.
Tôi bước chậm rãi, không nghĩ ngợi gì. Đột nhiên, tôi thấy phố đã
hết, phía trước là cánh đồng mờ mờ dưới ánh sao. Cách tôi hai bước
chân, một bụi cây tử vi khum khum như cánh diều. Và sau bụi tử vi
ấy, nhô lên hai mái đầu của một cặp tình nhân.
- Thật dơ dáng.
Tôi thầm rủa mình vì rời vào tình thế trớ trêu. Chỉ cần tôi bước
thêm một bước hay xoay lưng đi trở lại, cặp tình nhân kia sẽ nhận ra
tôi. Họ vừa rời nhau ra sau một cái hôn dài. Tôi nghe người con gái
thở dồn dập, nói:
- Em sợ quá.
Người con trai khẽ cất tiếng cười, đáp lại:
- Không có gì đáng sợ trên đời…
Ngập ngừng vài giây, anh ta nói thêm: Trừ tình yêu.
Tôi nhận ra giọng Thanh Dương, như cái máy tôi lẳng lặng ngồi xuống,
cố gắng không gây nên một tiếng động nhỏ. Sau đó, người con gái lại
cất tiếng, và tôi biết cô chính là Thúy Hạnh, thiếu nữ xinh đẹp đã
đứng sau cánh cổng nhìn theo chúng tôi trong buổi chia tay hôm
trước. Giọng cô bồn chồn, day dứt:
- Khi ngồi bên anh, cảm giác sợ hãi không còn. Nhưng khi chỉ có một
mình, nỗi ân hận làm em đau đớn. Em sợ từng cái nhìn của mẹ, hay một
câu hỏi vô tình của bố, hoặc chuyện kể về một mối tình vụng trộm nào
đó… Và nỗi tủi hổ bám riết lấy em, như chiếc móc sắt cắm vào da
thịt, không thể gỡ.
- Anh hiểu những ý nghĩ của em.
Thanh Dương ngắt lời cô gái. Giọng nói của anh cũng giống như đôi
mắt ẩm ướt của anh, thì thầm, lôi cuốn:
- Tình yêu luôn vô tội, trước đất trời cũng như trước con người. Bởi
vì tình yêu không phải là sản vật được tạo nên do ý muốn của chúng
ta, mà do tạo hóa. Trước khi gặp em, anh đâu biết mình còn có thể bị
lay động, bị mê muội trước một người con gái. Nghề của anh, em biết
rồi đấy, luôn luôn gặp những thiếu nữ trẻ trung, xinh đẹp, ăn mặc
diêm dúa và biết đủ cách ăn chơi. Trong các cuộc họp báo, trong các
cuộc đọc thơ, trong các cuộc du lịch dài và ngắn… cơ man nào là cơ
hội, cơ man những khuôn mặt đàn bà… Nhưng anh đã nhìn tất cả bọn họ
như những con rối bằng cao su, những con búp bê nhồi mùn cưa hoặc
vải vụn… Vợ anh, người đàn bà đê tiện, độc ác ấy đã khiến anh ghê sợ
và thù ghét toàn bộ thế giới đàn bà. Anh cảm thấy sau những gương
mặt tô son trát phấn ấy là bộ mặt thật của họ, bệnh hoạn và nhàu
nát. Họ sẽ gào lên: Tiền đâu? Lấy gì cho tôi mua giày dép, áo lông,
lấy gì cho tôi đặt bánh kẹo sinh nhật, lấy gì cho tôi thuê người mắc
công- tơ riêng và chữa lại máy nước. Họ sẽ nhiếc móc anh đủ điều nếu
anh không thỏa mãn nhu cầu ấy hoặc sẽ hành hạ anh em thân thích của
anh, một khi đụng chạm đến quyền lợi mà họ cho là bất khả xâm phạm.
Cuộc sống địa ngục đã xây đắp cho anh một thành lũy chắc chắn, mọi
sự công phá của đàn bà đều vô hại. Thế mà giờ đây, tất cả đã tan
tành. Không, anh không muốn thế. Bàn tay của thượng đế dẫn dắt anh
tới với em. Nếu có lỗi lầm, lỗi lầm ấy thuộc về thượng đế, cả anh và
cả em đều không dự phần trong chuyện đó.
- Nhưng xã hội sẽ lên án. Và trước tiên, gia đình em đau khổ. Không
thể giải thích cho bố mẹ em hiểu được chuyện này. Các cụ không tha
thứ, không bao giờ tha thứ.
- Em đã hòa đồng đời sống của em vào nỗi đau khổ của bố mẹ em. Rõ
ràng, đó là một hy sinh lớn lao mà những kẻ tầm thường không làm
nổi. Bố mẹ em sẽ tha thứ cho em tất cả, vì lòng hiếu dễ ấy… Vả
chăng, nếu các cụ không tha thứ được, em cũng phải tự quyết định
cuộc sống của mình.
Thúy Hạnh thở dài:
- Em sợ lắm.
- Đừng sợ. Cuộc đời này cũng giống như những cái mặt hổ phù, nhìn
phía trước thì hung tợn, lật phía sau lên chỉ là mấy lớp giấy bồi.
Anh đã nói với em, không có gì đáng sợ trên thế gian, trừ tình yêu.
Tình yêu hủy diệt con người hơn bom đạn, bệnh tật, đói khổ. Tình yêu
cũng cho con người khả năng chiến thắng hơn bất cứ sức mạnh nào
khác. Thanh Dương ngừng lời. Tôi tưởng tượng đôi mắt đa tình của anh
ta đang khép lại trong bóng tối. Vài giây sau, anh ta khẽ cất tiếng
cười:
- Thật trớ trêu. Chỉ cách đây một tuần, khi chưa biết em, cuộc sống
của anh bình ổn. Vậy mà sau lúc gặp em, tất cả đổi thay, tất cả quay
cuồng. Như một thân cây bị bão nhổ bật rễ, anh không còn đứng vững
nữa. Anh đã mất toàn bộ khả năng tự điều khiển. Suốt những ngày vừa
qua, anh mừng hay tủi, vui hay buồn, nhìn cõi đời tươi sáng hay chú
tối, hy vọng hay tuyệt vọng… tất cả tùy thuộc vào em.
Cô gái im lặng. Tôi tin chắc cô đang đắm chìm trong cảm giác thần
thánh của tình yêu. Một giây đi qua. Rồi mái đầu Thanh Dương cúi
xuống. Lợi dụng cái hôn dài của cặp tình nhân, tôi rón rén đứng lên,
quay trở lại thị xã.
Đám tổ tôm vừa kết thúc. Mọi người còn đang hoan hỉ bình phẩm về các
ván bài. Bà chủ nhà bưng nồi cháo gà với hai chồng bát chiết yêu ra.
Tay áo xắn tới khuỷu, bà thận trọng múc cháo vào từng bát, rắc thịt
gà xé, lá chanh, hành tươi thái nhỏ và hạt tiêu nhanh thoăn thoắt
như một bà bán cháo thực thụ. Những bát cháo nóng được sắp vào hai
chiếc mâm đồng cỡ lớn, đặt lên chiếu. Ông chủ xoa tay:
- Xin mời các bác.
Vũ Sơn đã ngồi chồm hỗm trong một góc chiếu, ngẩng lên bảo tôi.
- Ngồi vào đi cậu.
Rồi, đưa cặp mắt tròn xoe liếc qua gian phòng, anh hỏi:
- Thanh Dương đâu?
Tôi ngồi xuống, bưng cháo lên ăn vài thìa rồi mới thủng thẳng đáp:
- Chắc là đi dạo phố. Anh ấy thuộc phố xá ở đây hơn tôi.
Vũ Sơn vẫn nhìn chòng chọc vào mặt tôi, văng tục:
- Dạo mát cái con khỉ. Chỉ những thằng điên mới lang thang một mình
lúc này.
Tôi chưa kịp đáp, anh ta đã quay sang ông già to béo ngồi bên cạnh,
nói lem lém:
- Bác ù ván cuối cùng non quá. Không ai dại gì ù vào lúc đó…
Bác chủ nhà đi tới các mâm, nhẩm đếm số khách ăn, cất tiếng:
- Anh Sơn này, còn anh Thanh Dương chưa thấy về. Thím bắc lại nồi
cháo lên bếp than nhá?
Vũ Sơn đáp gọn lỏn:
- Kệ nó thím ạ. Cứ vét hết cho mọi người ăn.
Tới chầu thứ hai, chè đỗ xanh đường cát cũng không thấy nhà thơ xuất
hiện. Chúng tôi ăn xong còn ngồi chơi với hai ông bà chủ tới quá nửa
đêm mới trở về. Vũ Sơn đạp xe chầm chậm bênt, cái bóng dài nghêu in
xuống đường. Lúc đó, tôi mới thấy vai anh gầy và so như vai người
nghiện.
- Tại sao cậu im lặng mãi thế Nam?
Đột nhiên, anh cất tiếng hỏi.
Tôi nói:
- Thế anh muốn tôi nói gì?
Vũ Sơn không trả lời. Lúc ấy, đã gần tới nhà anh. Cả hai chúng tôi
cùng lặng lẽ đạp xe đến tận cái cổng hẹp và có mái như cổng tam
quan. Anh nhảy xuống, nói:
- Sáng mai đến tôi đấy nhé.
Chương 4
Hôm sau, khoảng tám giờ sáng tôi thức dậy. Hai mẹ con tôi nấu xôi ăn
còn bố tôi ăn cháo thịt. Từ hôm tôi về, ông cụ khỏe hẳn ra. Ngày vài
lần cụ nhắc tôi lấy vợ. Cụ cố ăn hết hai bữa cháo với một bữa cơm để
giữ được chân cứng đá mềm tới ngày bế cháu đích tôn. Biết tôi đến
chơi nhà Vũ Sơn, cụ bảo:
- Anh ấy là người danh giá nhất tỉnh này. Mày chơi với kẻ hèn bố
cũng không cấm, nhưng chơi với người sang như thế thì tự khắc sáng
mắt ra.
Vũ Sơn đã thức dậy, khoác chăn ngồi chồm hổm trên giường. Tôi bước
vào, ngồi xuống chiếc ghế mây tự pha chè uống, và hỏi:
- Bà xã của anh đi làm rồi?
Vũ Sơn đáp:
- Đi rồi.
Hai mắt anh đỏ dọc, đầy gỉ, chưa kịp rửa. Tôi nói:
- Anh rửa mặt đi.
Vũ Sơn không trả lời, ngồi thừ ra. Lúc ấy, vợ anh dắt xe đạp đi vào
cổng. Chiếc xe của chị choáng lộn, râu tôm bật tanh tách. Đồ phụ
tùng toàn của ngoại. Trông dáng điệu, tôi biết người đàn bà hoàn
toàn mãn nguyện vì chiếc xe đạp mới lắp và bộ đồ đắt tiền đang mặc
cũng vừa may. Chị chào tôi, đi lại thu vén vài thứ đồ vặt rồi bảo
chồng:
- Trưa nay em không về đâu, anh liệu mà cho lũ trẻ ăn cơm.
Vũ Sơn đáp:
- Biết rồi, cô đi đi.
Rồi ngay sau đó, anh quay sang tôi:
- Cậu có thấy thứ mào gà tiên ở nhà ông Hưu bữa trước kì lạ không.
Giá nó thuần một màu vàng lòng trứng hay màu tím đen thì quý quá.
Màu đỏ thường rồi, người ta thích loại hồng màu xanh, cúc màu đen và
thược dược màu tím vi- ô- lét…
Vợ anh vừa dắt xe ra khỏi ngõ, bài diễn văn về hoa tức khắc dừng
lại. Tôi chưa hỏi, anh đã giải thích.
Tôi với vợ tôi vừa cãi nhau suốt đêm qua. Tôi buồn lắm nhưng thấy cô
ta quay về, phải nói tào lao với cậu cho vui. Đàn bà là quái vật. Nó
biết rằng nó làm khổ được mình thì cứ thế, nó hành cho đến lúc chết.
Với một người đàn ông thực sự, kẻ thù lớn nhất là hai thứ này: sự
ngu dốt và vợ con của anh ta.
Tôi ngẫm nghĩ đôi chút, rồi tìm cách an ủi:
- Vợ chồng nào mà chẳng có lúc cãi nhau. Tôi thấy chị ấy cũng lành.
- Cậu dốt lắm…
Vũ Sơn đột nhiên quát lên, trán nhăn hẳn lại: Thế nào là lành? Sao
còn ít tuổi mà cậu có những ý tưởng già nua, cằn cỗi như vậy? Sự ngu
đần tiêu diệt nhân loại thê thảm hơn mọi tội sát nhân ta thấy hằng
ngày bằng mắt thịt. Một tên đao phủ chém rụng năm bảy cái đầu dễ bị
người đời căm ghét hơn một gã thầy mo đưa từng bộ lạc vào chỗ chết
bằng những lời huyễn dụ. Cái phép so sánh giản đơn thế mà ai cũng bỏ
qua. Tôi căm ghét sự ngu đần, nhất là khi nó kèm theo quá nhiều dục
vọng…
Anh hất chăn khỏi vai, quơ chân tìm dép. Tôi lại uống trà. Hai đứa
con trai anh dắt nhau vào nhà, giương mắt nhìn tôi rồi gọi:
- Bố ơi, bố…
Vũ Sơn từ sân đáp vóng lên:
- Xuống bếp tao bảo…
Tôi nghe anh dặn đứa con lớn rằng cơm ủ trong giành tích, thức ăn đã
bày sẵn trong mâm với bát thìa, buổi trưa chỉ việc mở lồng bàn lên
mà ăn.
Thằng bé hỏi:
- Thế bố đi đâu?
- Đi đâu là việc của tao, cấm hỏi.
Ông bố gắt, bước lên nhà. Mái đầu vừa nhúng nước của anh nhỏ tong
tong. Vũ Sơn cởi sơ mi, lau tóc rồi ném nó lên sợi dây thép chăng
ngoài hồi. Thân hình anh khẳng khiu, ngực lép dẹt. Vừa mặc quần áo,
anh vừa nói:
- Lòng tham với sự ngu đần cùng sống trong một người sẽ biến thành
thứ quả ung thối. Nhưng khi nó được đặt trong quan hệ vợ chồng, cha
con, bè bạn thì nó sẽ làm ung thối các mối giao kết ấy. Tôi có thể
nói trắng ra cho cậu biết điều này…
nhưng tới đó, anh đột nhiên dừng lại:
- Xe đạp cậu đâu, ta đi đi thôi.
Chúng tôi dong xe ra phố, đạp đi. Thấy Vũ Sơn ở trong tâm trạng ấy,
tôi im lặng. Dọc đường, anh dừng lại chào chủ tịch Dự, đồn phó công
an huyện, bà Thoa, chủ nhiệm hợp tác xã thêu ren, một ông thiếu
tướng về hưu to béo. Khi tới gần khuôn viên, chúng tôi rẽ vào nhà
thiếu phụ bán xôi gấc hôm trước. Hôm nay, chị đem xôi vò chè đường
đãi chúng tôi. Vũ Sơn ăn xong, bảo thiếu phụ gọi đứa con trai của
chị lên. Anh mắng chú bé một trận nên thân vì đủ thứ tội hư hỏng,
lêu lổng, phá tán tiền bạc của cải gia đình… Chú bé cúi gằm mặt
trước con người được dân cư cả thị xã kính nể. Trước lúc đi, Vũ Sơn
ghé tai thiếu phụ, nói nhỏ:
- Phải nghiêm thế cho nó sợ. Nhưng chị yên trí, tôi sẽ nói với anh
Dự cho.
Người đàn bà mừng rỡ:
- Vâng, may mắn cho tôi quá, trăm sự nhờ cậy chú.
- Đừng có mừng vội - Anh ngắt lời chị một cách thô lỗ - Tôi chỉ giúp
lần này nữa thôi. Chị không nghiêm với nó, hỏng lần nữa tôi sẽ tống
vào trại cải tạo.
- Vân, vâng…
Người mẹ tội nghiệp đáp: Tôi nhớ lời chú bữa trước rồi. Chờ cho cuộc
trao đổi giữa hai người chấm dứt, tôi hỏi Vũ Sơn:
- Anh định đưa tôi đi đâu bây giờ?
Vũ Sơn hất tay:
- Đi, cứ đi đi đã.
Tôi đành lặng lẽ đạp xe theo anh, ngạc nhiên vì chính sự cả nể của
mình. Chúng tôi tới một ngôi nhà khá lớn gần chợ. Cánh cửa khép hờ,
Vũ Sơn đẩy tung ra:
- Bố có nhà không đấy?
Một ông già ngồi hút thuốc trên tràn kỉ ngẩng lên:
- Bố có nhà, con về bao giờ mà không thấy đến?
Vũ Sơn bảo tôi ngồi xuống tràng kỉ, giới thiệu:
- Đây là Nam, bạn con.
Sau đó, anh mới trả lời ông bố vợ:
- Về hai tuần, nhưng bận liên miên, không lúc nào xuống hầu cụ được.
Ông già niềm nở hỏi chuyện tôi. Hóa ra ông cụ cùng trong hội chơi
chim với bố tôi hàng chục năm nay. Xong, ông quay ra hỏi Vũ Sơn về
công việc, về sức khỏe của anh, sốt sắng, ưu ái.
- Bây giờ hai anh em ngồi chơi, bố ra chợ gọi mẹ về nấu cơm trưa.
Nhà có con cá quả sống trong chum rồi, bảo bà cụ mua cái chân giò về
luộc nhắm rượu.
Vũ Sơn giơ tay xua;
- Thôi bố ơi, đừng cơm cháo gì nữa. Con đang có chuyện buồn nẫu ruột
đây…
Ông già ngồi lại xuống tràng kỉ, thu hai tay lên đùi:
- Có chuyện gì?
- Có, có…
Vũ Sơn gật đầu lia lịa:
- Có chuyện về cô gái yêu của cụ đây…
Ông già không hỏi thêm, nhưng vẻ mặt hiện lên nỗi lo lắng. Cậu con
rể ông kể:
- Bữa trước con xuống viết bài cho nhà máy gạch M. Cậu giám đốc vốn
là bạn học cũ thời phổ thông. Nó xuất cái hóa đơn năm vạn gạch giá
rẻ. Con đã bảo cô ấy chỉ dùng ba vạn thôi, còn hai van để cho cô
Cúc, em vợ cậu giám đốc lấy. Dặn đứt lưỡi rồi, nhưng cô ấy tham quá,
cô ấy bán sạch năm vạn lấy tiền bỏ túi. Cô em vợ cậu bạn con lên xe
gạch thấy bãi đất trống lẳng lặng bỏ về, không thèm nói nửa lời. Cụ
co hiểu như thế nghĩa là gì không?… Người ta khinh, khinh bằng rác
cái giống coi đồng xu to như bánh xe bò. Trời đất ơi, con bé Cúc ấy,
tuổi ít hơn, trình độ văn hóa thấp hơn, mà nó xử sự cao thượng như
vậy. Còn con gái cụ thì… Thế gian đã có câu rồi: Đi buôn có bạn, đi
bán có thuyền… Cô ấy làm thế này là bôi gio trát trấu vào mặt con.
Làm sao con dám ngẩng lên nhìn anh em, bè bạn? Làm sao con còn dám
vác cặp tới nơi này nơi kia mà viết lách?… Một đồn mười, mười đồn
trăm, ở cái tỉnh nhỏ như vạt áo này chuyện gì thiên hạ không biết?…
Thôi, con chịu rồi, con gái cụ đem trả cụ, cụ gọi cô ấy về mà nuôi…
Vũ Sơn ngừng lời, mặt đỏ phừng phừng, bọt sùi cả ra mép. Ông bố vợ
anh ngồi thẫn thờ, hai ngón tay bất giác xoa vào nhau như đang vê
mồi thuốc lào. Trông vẻ mặt ông cụ tội nghiệp quá, khiến tôi bỗng
ngượng lây. Tôi đứng dậy, đi lòng vòng quanh nhà, xem mấy bức tranh
gà lợn. Chợt, tôi thấy tấm ảnh chụp một vị lãnh tụ nhà nước. Vị lãnh
tụ đang đi, tay chỉ về phía trước, dáng điệu hối hả. Khung cảnh xung
quanh cho ta rõ đó là một công trường. Sát bên tay trái ông là Vũ
Sơn, tay phải và phía sau là cả một đám đông những chuyên viên, thư
ký, cán bộ hướng dẫn tham quan, người tháp tùng, bảo vệ… Có lẽ, đây
là ngày đáng ghi nhớ nhất trong cuộc đời phóng viên của Vũ Sơn, anh
ta đã cố gắng lưu giữ lại niềm vinh hạnh đó. Bức ảnh được phóng to,
lồng khung kính, treo nơi trang trọng nhất của căn nhà. Bên dưới,
sát lề ảnh, ghi dòng chữ:
Tặng bố mẹ và các em. Kí: Vũ Sơn.
Tôi trở lại chỗ ngồi, tự rót nước uống cho không khí thân mật. Ông
bố vợ Vũ Sơn bảo tôi:
- Cháu Nam ở lại ăn cơm với hai bác cho vui. Rồi có chuyện gì ta bàn
tính sau.
Tôi chưa kịp trả lời, Vũ Sơn đã gạt phắt đi.
- Thôi thôi, chẳng bụng dạ nào mà cơm cháo nữa. Vả lại, đã có chỗ
mời chúng con trưa nay rồi.
Nói xong, anh rít thêm điếu thuốc lào rồi đứng dậy ra về. Tôi chào
ông lão tội nghiệp, đi theo anh. Khi chúng tôi đã đạp xe tới ngã tư,
thấy vẻ mặt Vũ Sơn dịu đi, tôi mới hỏi:
- Bây giờ đi ăn cỗ ở đâu?
Vũ Sơn đáp:
- Cỗ bàn gi. Tôi phải chơi võ ấy cho họ sợ. Ông bà cụ tốt nhưng con
gái họ thì tôi ngán tới tận mang tai… Đi với tới đừng lo đói, a… vào
đây.
Nhà của Thanh Dương đứng kề một hiệu may lớn. Ngôi nhà hai tầng xinh
xắn, tuy kiểu kiến trúc có hơi cổ. Bố mẹ Thanh Dương trước có đại lý
nước mắm nhưng mười năm trở lại đây đã dẹp hàng mắm muối để mở quầy
bán sách. Một tấm biển tôn sơn vàng nhạt, kẻ dòng chữ đen treo phía
trước:
Hiệu sách Hoa Mai
Bán và cho thuê các loại sách.
Không hiểu một hiệu sách ở tỉnh lỵ lời lãi hàng tháng bao nhiêu
nhưng gia cảnh nhà Thanh Dương khang trang lắm. Có thể, bố mẹ anh
còn giữ được vốn liếng cũ và biết cách bắt nó sinh sản, cũng có thể
vì họ đã quen nếp sống phong lưu. Lúc chúng tôi đến, hai ông bà đang
ngồi gật gù uống trà sen, ông vừa đọc vừa bình Kiều, bà ngồi nghe
chăm chú và ngưỡng mộ như một khán giả lý tưởng. Vũ Sơn đã quen, anh
bước sồng sộc vào, cất tiếng hỏi:
- Thanh Dương đâu hai bác?
Ông bà cụ cùng ngẩng lên chào chúng tôi rồi đáp:
- Em nó đi từ sáng, bảo tới chỗ hai anh.
Vũ Sơn đáp ngay:
- Cháu với Nam có việc đột xuất phải đi từ năm giờ sáng. Chắc không
gặp chúng cháu nó lại rẽ vào nhà Ngọc Sang đàn hát rồi. Dạo này
thằng Sang có mấy cô bạn khá lắm.
Đoạn, anh ngồi xuống ghế, uống một lúc ba chén trà. Bà mẹ Thanh
Dương đứng lên:
- Sáng nhà mới đồ xôi đỗ, ông ấy lại nấu cả chè hạt sen mời các anh
xơi.
- Thôi thôi…
Vũ Sơn kêu to, xua tay lia lịa như đuổi một nỗi ám ảnh khủng khiếp
nào đó: Từ sáng đến giờ chúng cháu đã phải ăn đủ thứ xôi chè rồi.
Nào là xôi gấc, xôi đỗ, xôi trắng thịt quay. Nào là chè đỗ đen, chè
đường, chè bà cốt… giờ bác có xôi ngọc chè vàng cháu cũng chịu. Chỉ
thèm một bát bún thôi…
Bà già đon đả:
- Vậy tôi chạy quàng ra chợ mua bún với lòng về nhé.
Vũ Sơn đưa mắt nháy tôi, đáp:
- Thôi, bún lòng làm gì cho tốn. Bác cứ kiếm con cá quả kha khá vào,
làm món bún cá quả rau cải là nhất. Cháu đã đi đủ nơi, sơn hào hải
vị đủ thứ nhưng chỉ mê độc nhất món bún cá quê mình.
Bà lão sắm sắn vào trong nhà thay áo, cắp rổ đi chợ. Vũ Sơn kéo tôi
ngồi nghe ông cụ bình thơ Kiều. Quả là anh có nghệ thuật tung hứng,
và cái nghệ thuật ấy chỉ những thằng ma lanh, quen tiếp xúc với đủ
loại người như tôi mới nhận ra. Những ngày làm việc trong phòng giao
dịch ghi biên lai và trả ảnh đã dạy tôi cách đón bắt ý nghĩ thật của
con người, cách lọc chúng khỏi những ngôn từ giả trá, mềm mỏng, cách
lôi chúng từ dưới đáy sâu của những đối thoại vòng vèo, chằng chịt…
Ông già nghiêng đầu, lên giọng đọc một câu thơ mới, rồi gõ ngón tay
khô khỏng xuống khay nước, cất tiếng:
- Anh có nhận với tôi rằng chẳng còn ai theo được Nguyễn Du không?
Cụ ấy không còn là thi nhân mà đã vượt lên bậc thánh. Thời đại của
các anh bây giờ nhảm nhí, chẳng còn thơ phú nữa, chỉ có trò ghép chữ
ba lăng nhăng. Thời chúng tôi, mấy gã thầy đồ gàn, không manh áo che
thân cũng đủ tài bịa ra hàng tá văn chương thứ ấy. Hồi trai trẻ thơ
Là mác- tin, thơ Véc- len, thơ Bô- đờ- le tôi đọc chán chê rồi,
thích thì có thích nhưng vẫn thấy nó là loại thứ hai. Kiểu như ta
uống chè búp ướp sen rồi mà phải uống chè bồm gói…
- Phải phải, bác nói chí phải…
Vũ Sơn tiếp lời: Hội nghị thơ toàn quốc năm ngoái cháu đã phát biểu
ý kiến rồi: Nền thơ đang lâm nguy, đang cần phải nuôi dưỡng và chữa
chạy. Đám thi sĩ trẻ bây giờ làm thơ như đàn bà thái rau cải vậy, họ
có để tâm nghiền ngẫm nghề nghiệp đâu. Cứ nghe thấy tên một nhà thơ
châu Âu là họ cuồng lên. Biết đâu rằng ngay cả Răm- bô, Prê- ve, A-
pô- li- ne cũng đều là cát bụi trước cụ Nguyễn Du nhà mình.
Ông già lim dim mắt, nhìn Vũ Sơn trìu mến:
- Tôi không ngờ ở tuổi anh mà đã biết được điều ấy. Cái thằng Dương
nhà này không có nổi một phần ba trí óc tinh khôn, tỉnh táo như anh.
Vũ Sơn cười:
- Không, nó tinh khôn gấp ba lần cháu.
Ông già lắc đầu:
- Tinh khôn nỗi gì?
Vũ Sơn đưa mắt nhìn tôi rất nhanh, rồi đáp:
- Nó lại để cho bác thấy sự tinh khôn thì hỏng chuyện… Vừa lúc ấy bà
già đi chợ về, giơ con cá khoe:
- Ông xem, con cá gần hai cân cơ đấy. Đám thợ câu quăng vừa đưa dưới
hồ lên.
Ông già bảo:
- Ngon đấy, bà nấu cẩn thận cho các anh ấy ăn.
Khoảng nửa giờ sau chúng tôi được thết một bữa bún ngon lành. Nói
không ngoa, tìm cả mùa đông ở Hà Nội cũng không có một hàng bún nào
ngon như thế. Sau bữa ăn, ông bố Thanh Dương đưa cuốn an- bom cho
tôi xem. Tình cờ, tôi lại lật đúng bức ảnh chụp vị lãnh tụ nhà nước
đi cùng với nhóm người tháp tùng và các nhà báo, trong đó có Vũ Sơn.
Bên dưới, là dòng chữ đề:
Tặng hai bác và Thanh Dương.
Chữ ký kéo loằng ngoằng như những sợi bún rối. Tôi lật qua các tấm
ảnh, gấp cuốn sổ lại, uống nửa chén trà rồi cáo từ.
Tối hôm ấy, bố tôi ngồi nói chuyện với đám khách từ quê lên. Họ đem
theo nào tay nải gạo, lồng gà, buồng chuối lỉnh kỉnh. Tuy là họ
hàng, tôi chẳng biết ai. Bố tôi phải giới thiệu lai lịch của từng
người, mối liên quan nội ngoại người tôi phải chào là bá, người tôi
phải xưng là anh…
Sau khi thủ tục đã hoàn tất rồi, cụ sung sướng bảo với đám người
trong gia tộc:
- Thằng cháu Nam nhà tôi chịu khó đọc sách lắm. Mọi việc trên đời nó
đều thông tỏ. Đúng là cha mẹ sinh con trời sinh tính, vợ chồng tôi
cả đời có cầm đến quyển sách đâu. Dạo này, cháu nó chơi với nhà báo
Vũ Sơn, các anh các chị biết chứ, anh ấy là cố vấn đặc biệt của lãnh
tụ nhà nước, cả tỉnh này nể vì…
Chương 6
Dù sao, đời sống và các nhu cầu của nó vẫn có một uy lực ghê gớm. Vũ
Sơn thường ca cẩm với tôi về những chuyến đi công cán, nghĩa là đi
viết bài cho một cơ sở nào đó, không phải chỉ đơn thuần vì mục tiêu
nghề nghiệp mà chủ yếu là vì các phúc lợi vật chất. Tuy nhiên, một
buổi chiều tôi tới rủ anh lên sân vận động xem đá bóng, thấy anh bò
trên bàn làm việc, đưa bút lia lịa. Dăm bảy trang đã viết rồi nằm la
liệt dưới chân bàn. Còn những trang đợi viêt kêu sột soạt dưới khuỷu
tay nhà báo. Thấy tôi, anh ngước mắt lên:
- Chờ tôi, cậu chịu khó chờ tôi một lát nhé. Chỉ vài chục dòng nữa
là xong cái của nợ này.
Nói đoạn, anh kéo tờ giấy đặc kín chữ roạt một tiếng, ném xuống chân
bàn. Sau đó, lấy tờ giấy trắng khác, viết tiếp.
Tôi ngồi xuống chiếc ghế mây có tựa, vật quen thuộc nhất từ ngày tôi
biết anh. Tìm ấm chén, phích nước và hộp trà, tôi pha nước uống.
Chừng mươi phút nữa, Vũ Sơn viết xong bài báo. Anh lượm những trang
giấy ngổn ngang dưới chân lên, sắp xếp theo thứ tự, nhét vào chiếc
cặp da để đầu giường rồi đứng dậy, vươn vai, vặn lưng răng rắc.
Đứa con trai lớn từ cửa lò dò đi vào, tay xách chiếc hăng- gô:
- Này bố, phở của bố đây.
Nó nói, rồi đặt hăng- gô phở lên bàn làm việc. Ngoài cổng, một cái
đầu trọc lốc ló vào:
- Mau lên, mày còn nợ ông sáu viên.
Thằng con lớn của nhà báo quay lại:
- Rồi tao sẽ giả, chở ở đấy.
Dứt lời, không kịp nhìn ông bố, nó chui tọt vào buồng, lục lọi gì đó
trong bóng tối khá lâu. Lát sau, nó chạy vụt qua mặt chúng tôi, một
tay túm chặt vạt áo trước. Vũ Sơn xuống bếp, lấy lên chiếc thìa chan
canh. Ngồi chồm hỗm trên giường, anh kéo hăng- gô phở vào lòng, xúc
ăn:
- Cuộc đời thật sự như thế đấy cậu Nam ạ. Mọi ngày, khi tôi viết
những bài báo quan trọng về vấn đề này hoặc vấn đề kia của đất nước,
đăng ở những tờ báo tiếng tăm nhất thì vợ tôi kệ xác: Mày viết hở?
đói hở? vào nồi lục cơm nguội mà ăn. Chẳng có thịt cá gì đâu, cà
đấy, trám ngâm nước mắm đấy, cứ thế mà giã. Đôi khi, nồi cơm trẻ con
không đậy kĩ, chuột nhắt nhảy vào vọc chán chê… Vậy mà hôm nay tôi
viết bài báo cho một nhà máy cấp tỉnh, đăng ở tờ báo của tỉnh thì nó
phục vụ tôi đầy đủ thế: Nào cháo trứng, nào cà phê sữa, nào phở tái
lăn… Chả là vì sau khi đăng bài báo này thế nào người ta cũng cho
tôi mua rẻ vài chục mét kính. Bán cho đám dân buôn mới phất đang
hăng máu làm nhà, cơi gác, có ngay món tiền nặng bỏ hầu bao. Đàn bà
ngửi mùi tiền thính lắm cậu ạ, nhiều khi còn thính hơn chó trinh sát
của công an…
Dứt lời, Vũ Sơn cười giàn giụa. Anh đứng lên, bỏ chiếc hăng- gô vào
một góc nhà rồi ngồi uống trà với tới. Uống hết tuần trà thứ hai,
anh đứng lên:
- Ta đi chơi một lát cho nhẹ đầu. Ở nhà mãi xương cốt rục hết. Nhưng
đừng xem đá bóng. Hai cái đội này đá như mèo gãi ghẻ.
Chúng tôi dắt xe tới cổng, gặp một người đàn ông trạc bốn mươi tuổi
đi ngược lại. Bộ điệu ông ta hớt hải, lo âu, thấy Vũ Sơn, ông ta
mừng rỡ kêu:
- Đây rồi, đây rồi… Tôi tìm anh ba bốn hôm nay, lần nào tới cũng chỉ
gặp chị ấy với lũ trẻ ở nhà… Thật là may, đúng sớm ngày tôi bước
chân phải ra khỏi cửa.
Nhà báo giới thiệu tôi với người đàn ông kia, ông ta là phóng viên
báo tỉnh. Sau đó, anh hỏi:
- Có bài báo làm gì mà cậu cứ phải chạy nhặng lên?
Cái người đàn ông bị anh gọi là cậu, nhăn nhó:
- Khổ quá, anh Mai Hồng thúc tôi đêm ngày, sợ lỡ bài cho số báo sắp
tới. Chúng tôi biết anh bận trăm thứ việc, mỗi lần anh quan tâm tới
tờ báo tỉnh nhà, chúng tôi quý hóa lắm…
Vũ Sơn gật đầu:
- May cho cậu thật đấy… Cả tuần nay tôi bận. Chậm một phút nữa tôi
với Nam cũng đi rồi…
Ông phóng viên báo tỉnh gật đầu lia lịa:
- Vâng, thật là may, thật là may…
Vũ Sơn quay vào nhà lấy bài báo vừa viết đưa cho ông ta. Vị phóng
viên cúi chào mấy lượt rồi đạp xe đi. Chúng tôi cũng đạp xe sau anh
ta vì cùng chung một lối phố. Tới ngã tư, nhà báo tỉnh rẽ sang trái
còn chúng tôi đi ngược lên phía bắc. Ở đó, có một ngôi chùa vô danh
nhưng khá đẹp. Chùa đứng trên đồi, các lối đi vòng theo đường xoắn
ốc, được vây bọc bởi những hàng giậu cúc tần, và dọc theo bức tường
xanh rờn diệp lục, từng đoạn một, ónh ánh những đám dây tơ hồng
trường cửu. Ba chúng tôi đã lên đây chơi vài lần, nhưng từ ngày
Thanh Dương chìm đắm vào cuộc tình với cô Hạnh, tới hôm nay Vũ Sơn
mới rủ tôi quay lại vãn cảnh chùa.
Ngày thường, nơi đây vắng và yên tĩnh. Không một bóng người qua lại,
không tiếng nói chỉ có các điệu hót của lũ chim vườn lúc tấu lên đơn
lẻ, lúc hòa điệu giữa không gian lặng tờ, trong như pha lê.
Chúng tôi bước qua cổng tam quan, qua mảnh sân đầy lá dại và những
cánh hoa trắng. Hai viền cỏ lan chi chạy theo hàng gạch viền răng
cưa trổ hoa tím. Từ trong sân chùa, một con chó ta, giống bất cứ con
cún nào vẫn gặp ở làng quê chạy ra sủa ăng ẳng. Không thấy sư thầy,
cũng không thấy chú tiểu mọi ngày giữ chó. Tuy nhiên, con cún đã
nhận ra chúng tôi, những vị khách quen từng mang đồ ăn chay lên đây
thưởng ngoạn cảnh chùa. Nó không cắn nữa mà im lặng ngoe nguẩy đuôi,
lũn cũn chạy theo chúng tôi ra chiều âu yếm. Vũ Sơn dắt tôi qua chùa
chính, nơi bàn thờ đang ngút hương, một chồng oản với năm nải quả
đặt trên đài gỗ sơn son, hai lọ huệ chưa tàn hết. Anh bảo:
- Xuống dưới kia chơi, ở đây tôi lại thèm ăn oản.
Anh vốn có tính tự nhiên. Đến bất cứ nơi nào, dù quen hay lạ, anh
cũng mau chóng làm chủ tình thế và sục sạo như chủ nhân chính cống.
Anh dắt tôi đi qua gian nhà trống giành cho khách thập phương trú
chân những ngày hội ngày lễ. Rồi vượt lên mấy bậc tam cấp, chúng tôi
bước vào sau chùa. Chùa này, ngoài bàn thờ các vị Kim cương còn một
dãy nhà bức bàn kiểu cổ giành cho sư sãi, xưa kia là nơi gác những
nong tằm hồi ruộng đất nhà chùa còn rộng rãi, đủ thuê người trồng
dâu, hái dâu và quay tơ ươm kén. Giờ, các cánh cửa đóng im ỉm mốc
thếch như những tấm da trăn khổng lồ.
Chợt, chúng tôi nghe thấy tiếng người thở hổn hển, rồi những tiếng
thì thầm rất khẽ vọng ra. Sau đó, tất cả tắt đi một cách đột ngột,
Vũ Sơn cất tiếng nói rất to:
- Cậu xem kìa, gốc cây ngọc lan bị mối đùn bằng đống rấm. Cái cây
này chết đến nơi rồi. Tôi phải nói với sư thầy chặt đi mới được.
Anh bấm tay tôi, kéo tôi đi dọc hành lang, cố tình lê dép sền sệt.
Tới đầu hồi, anh nói tiếp:
- Xuống vườn mà chơi, ở đây nhiều me đất lắm. Trước khi về nhớ xin
nhà chùa một nắm cho bà cụ nấu canh chua…
Chúng tôi bước xuống vườn, tiếp tục cuộc đối thoại ồn ĩ về số phận
của các cây đào, cây ổi, các cây hoa hoàng lan và ngọc lan, các bụi
ngâu và nhài… Một vài phút sau, sư thầy đi ra, mời chúng tôi vào
uống trà. Dù Vũ Sơn khỏa lấp bầu không khí ngượng ngùng đó bằng
những câu chuyện vui vẻ, liên hồi như bắn súng liên thanh, tôi vẫn
thấy thương hại kẻ tu hành khốn khổ. Ông ta mới trạc ngoài ba mươi,
ba bẩy, ba tám là cùng. Những bắp thịt trên cần cổ, trên vai rắn rỏi
và hai gò má căng phồng, chưa một nếp nhăn. Chúng tôi uống nhạt ấm
trà, nói chuyện với nhà sư về tình hình thế giới lẫn cách chọn cà
chua rồi cáo từ. Lúc qua sân trước, tôi thấy dáng mũm mĩm của một
người đàn bà trong gian bếp tối. Bà ta quay lưng lại phía sân, đang
cắt vật gì đó màu trắng, hình như là đậu phụ.
Đường xoắn ốc leo đồi, cả lúc lên và lúc xuống đều phải dắt bộ. Đang
đi, chúng tôi gặp chú tiểu vác bó củi cành, mặt mũi nhem nhuốc mồ
hôi. Chú cất tiếng chào chúng tôi, rồi lại cắm cúi leo dốc. Hai vạt
áo nâu giắt vào thắt lưng, đôi giày treo toòng teng bên sườn, Vũ Sơn
nói:
- Đôi khi, người ta đi hết cuộc sống của mình một cách mù lòa, hệt
như những con ngựa bị thắng cương, hai bên mắt là hai mảnh lá đề che
chắn. Vì vũ trụ chỉ còn hiện lên trước mắt những con ngựa ấy như một
khe hở nhỏ hẹp, nên chúng cứ theo con đường đã vạch mà đi, không hề
biết rằng mặt đất còn có núi non, sông hồ, những đồng cỏ và những bờ
bãi. Những con ngựa không có khả năng tự tháo dỡ hai mảnh lá đề che
mắt chúng. Còn con người, tại sao họ lại tự tiêu diệt quyền năng ấy.
Gã thầy tu kia có thể đẻ với người đàn bà gã yêu một lũ con, công
khai yêu đương mụ trước thế gian này. Nhưng gã đã chọn một kiếp
sống… mà không, có thể không phải gã chọn, những tình cảnh trớ trêu
nào đó đã đưa đẩy gã tới cảnh sống bất đắc dĩ, và gã không đủ sáng
suốt tháo gỡ… Này Nam, tôi không muốn nhìn thấy ai đó đi hết cuộc
đời mình mù lòa như những con ngựa bị che hai bên mắt, cho dù hai
cái lá đề ấy là sự ngu đần lười nhác, là ách thống trị của danh vọng
hay tình yêu…
Chương 7
Những cơn mưa thu đã chấm dứt từ lâu. Mặt đất khô. Còn các cánh
ruộng lô nhô từng đám đất cày vỡ.
Có một thằng cháu dưới quê đem biếu bố tôi hai cặp chim cun cút. Cụ
bảo nấu cháo hành răm cho cả nhà cùng ăn. Vì mẹ tôi không phải là
người nội trợ sành sỏi, nên bố tôi gọi một người láng giềng vốn sành
ăn sang nấu giùm. Cháo vừa chín, cụ bà dỗi cắp rổ ngoay ngoảy đi
chợ. Chỉ còn ba người đàn ông ngồi uống rượu suông rồi ăn cháo. Ông
láng giềng đã sống hết thời thơ ấu ở làng quê, kể cho bố con tôi
nghe đủ thứ chuyện về đời sống thôn xã, những mối tình thảm thiết và
oan ức chỉ có được ở giữa các lũy tre. Những câu chuyện ấy làm tôi
nhớ tới thiếu phụ má hồng. Cô ta như một lời kêu gọi, thúc hối, như
một nỗi ăn năn vô lý ám ảnh tâm hồn tôi. Tôi đạp xe đến nhà Vũ Sơn,
rủ anh vào làng Mơ. Anh đáp:
- Được, tôi cũng đang định rủ cậu vào đó chơi. Chỉ còn hơn tuần nữa
chúng ta phải ra Hà Nội. Tôi sẽ đem chuyện này kể cho mấy thằng bạn
tôi nghe. Đời thế mà chúng nó cứ viết mãi những chuyện tình ngớ
ngẩn, nhạt phèo.
Chúng tôi đi chừng một giờ thì tới làng. Một đám trẻ đang chơi đáo
dưới rặng táo. Vũ Sơn hỏi:
- Nhà bác Lương thợ may ở đâu, chúng mày?
Cái giọng oai vệ, trịch thượng của anh khiến lũ trẻ sợ ngay tức
khắc. Một thằng bé tách khỏi bọn:
- Lối này, để cháu dẫn bác đi.
Rồi nó lon ton chạy trước chúng tôi. Tới ngã tư, nó đứng lại, giơ
tay chỉ về phía trái:
- Cuối đường này bác ạ, cái nhà mái bằng cao nhất ấy. Trước cửa có
tấm biển hiệu may Hoa Lan.
Vũ Sơn giơ tay xoa đầu thằng bé:
- Được rồi, mày như thế là ngoan. Lúc nào rảnh, đưa tao về thăm bố
mẹ, nghe chưa?
- Vâng ạ.
Đứa bé đáp rồi co cẳng chạy thục mạng về đám đáo.
Chúng tôi đi tiếp con đường, qua nhiều ngôi nhà vừa xây cất xong
hoặc còn ngổn ngang gạch ngói, tre pheo, chờ ngày làm. Cuối cùng,
một ngôi nhà đồ sộ án ngữ lối đi, trương tấm biển: Hiệu may Hoa Lan.
Nhà một tầng, xây trên móng cao thước rưỡi. Mái bằng đổ rất dày, có
lan can bao quanh, có ô- văng rộng che hàng hiên phía trước. Hai cây
cột vuộng nặng nề đối xứng nhau qua cửa ra vào, hai ô cửa sổ cũng
đối xứng một cách buồn tẻ như thế. Tất cả đều được làm bằng vật liệu
tuyệt vời. Dù là gỗ khuôn cửa hay thứ vôi quét tường, hay những hàng
chấn song thẳng tắp bằng loại thép mười tám ly. Phía sau ngôi nhà ấy
là ba gian nhà ngói, thấp hơn, chắc được dùng chứa đồ, và làm bếp.
Sân rộng, lát gạch vuông. Giếng xây và nhà tắm đứng riêng một góc,
với những bụi trúc vàng vây bọc. Toàn bộ khu nhà tựa như một pháo
đài. Người thiếu phụ có làn da màu ngà đã tự xây nên để khuôn định
cuộc đời chị. Nhưng số mệnh nằm ngoài những toan tính ấy, như dòng
sông cuồng loạn, xóa bỏ dòng chảy cũ, phá tung những bờ đất che chắn
để lao tới một bình nguyên phóng khoáng và man dại.
Vũ Sơn đập vào vai tôi:
- Thôi, ngắm gì nữa.
Nói thế, nhưng anh còn ngước lên nhìn toàn bộ khu nhà lần cuối, tặc
lưỡi:
- Cô ả gớm thật. Đàn bà một tay xây nên cái cơ ngơi khang trang đến
thế này… Nhắc xe đạp lên bậc tam cấp, anh dặn tôi:
- Cậu cứ im, để tôi đối thoại với thằng cha ấy nhé. Chắc chắn giờ
này chỉ có nó ở nhà.
Vũ Sơn không gõ cửa, mà gọi oang oang, kiểu như người ta gọi nhau ở
nông thôn:
- Này, có khách nhé.
Chẳng có tiếng đáp. Chúng tôi ghé đầu nhìn qua ô cửa sổ: Gã đàn ông
bữa trước đang nằm ngủ, đầu ngoẹo về một bên. Chiếc bàn máy phủ tấm
vải sơn đầy bụi. Trên tường, treo cây phất trần lông gà cũng bẩn
thỉu như thế. Nền nhà lát gạch men nhưng không được quét dọn, loang
lổ các vết mực dây, nước chè đổ lẫn cả nước cốt trầu. Hai quyển vở
bị xé dở với cuốn sách học vở lòng nằm lăn lóc bên lọ mực, một cái
kẹo chảy dính trên nền gạch, lũ ruồi và kiến bu quanh…
- Thằng này ngủ như chết - Vũ Sơn bảo tôi - Chắc nó say.
- Đoạn, được đập cửa ầm ầm:
- Này, có khách, có khách…
Gã đàn ông vừa ngồi dậy, đưa cặp mắt bạc trắng nhìn quanh rồi lại lờ
đờ khép mi lại.
Vũ Sơn tiếp tục đập cửa, gọi to hơn:
- Này, dậy đi, có khách đến…
Lương tỉnh ngủ, hắn lê người ra mép giường, xỏ chân vào đôi dép da
đã cắt quai hậu, ra mở cửa. Chúng tôi bước vào, Vũ Sơn kéo tôi ngồi
xuống ghế, với vẻ chủ động trời phú, anh nhìn xói vào bộ mặt nhợt
nhạt của gã đàn ông:
- Anh biết chúng tôi là ai rồi chứ?…
Vài tích tắc trôi qua.
- Chúng tôi đã chứng kiến toàn bộ những hành vi phạm pháp của anh.
Với cương vị khách quan của một nhà báo, tôi đủ quyền tố cáo anh
trước cơ quan pháp luật. Tuy nhiên, muốn đánh giá sự việc thật công
bằng, tôi đã tìm tới đây trực tiếp gặp anh, và nghe những khúc mắc
của riêng anh…
Lương đã ngồi xuống chiếc ghế đối diện với tôi. Gã không muốn nhìn
thẳng vào mặt Vũ Sơn. Có lẽ, bởi tinh lực ở đôi mắt anh quá mạnh. Gã
ngồi đó, đần dại, những sợi ria nhuôm nhoan bẩn thỉu trên môi chốc
lại đụng đậy. Mười ngón tay dài, khum khum, cáu ghét đặt trên đầu
gối. Phải chăng gã đang suy tính, so lọc những câu nói, hay gã đang
chìm vào cơn mộng mị của trí não, cái trạng thái con người không thể
nghĩ được bất cứ điều gì, mọi cảm xúc và xét đoán hòa trộng vào nhau
như một thứ bùn âm u kết dính…
Vũ Sơn chấm dứt khoảnh khắc im lặng ấy bằng câu hỏi rành rẽ nhưng ôn
hòa hơn:
- Vợ anh ngoại tình lâu chưa?
- Ba năm… a… ba năm hai tháng… rưỡi…
Gã đáp chậm chạp, vừa đáp vừa tính.
Vũ Sơn hỏi tiếp:
- Theo anh, nguyên nhân chính là gì?
Gã sầm mặt, đáp gọn lỏn:
- Nó là con đĩ.
Vũ Sơn gật đầu:
- Tôi biết, có những người đàn bà lẳng lơ từ tuổi dậy thì cho đến
lúc sức tàn, lực kiệt. Đàn ông nào họ cũng yêu được, nói đúng hơn,
ai họ cũng chung đụng được. Thứ đàn bà ấy là quái nhân mắc bệnh hạch
phong tình. Liệu vợ anh có thuộc cái số ít ỏi ấy không?
Lương lẩm nhẩm:
- Nó là con…
Rồi gã im bặt. Đôi mắt đờ đẫn vì nát rượu chợt lóe lên một nỗi buồn
tủi, một thoáng nhớ nhung. Có lẽ, những hình ảnh nào đó từ trong hồi
ức khiến tâm cơ gã run rẩy và gã không còn đủ thù hận để vu khống,
để hạ nhục người đàn bà đã chiếm lĩnh trái tim mình.
Vũ Sơn nói:
- Tôi tin chắc vợ anh không phải loại người ấy. Nếu đúng thế, cô ấy
đã hư hỏng từ rất lâu trước khi gặp anh chàng thiếu úy này.
Gã đàn ông không đáp, nhưng vẻ mặt trở lại ù lì, hai bên thái dương
xanh tím nhuốm đầy uất khí.
Vũ Sơn tiếp tục:
- Anh có nghe những lời xúc xiểm của gia đình chửi rủa cô ấy không?
Gã ngẩng lên, đưa mắt nhìn anh:
- Đàn ông, ai không chửi vợ. Việc đó can gì tới chuyện ngoại tình?
Nếu tức chồng mà cắp áo theo trai như nó thì nước này phải có dăm,
bảy triệu.
Vũ Sơn hỏi tiếp:
- Tôi thấy cửa hiệu may chẳng có tấm vải nào của khách. Máy may bọc
kĩ thế kia, cả tháng trời anh may được mấy cái áo?
- Chẳng cái nào hết - Gã đáp, hằn học - Tội gì tôi làm?
Tôi bắt con đĩ ngựa phải lo…
Gã dừng lại, nghiền ngẫm, rồi rên rỉ: Thế mà nó cứ tớn lên. Đồ quái
vật, trơ như đồng, lì như đá…
Ánh mắt gã cay độc, ghen tuông. Tôi hình dung tới khuôn mặt trẻ
trung của người đàn bà, làn da tươi thắm như tấm gương phản ánh tuổi
trẻ và sức sống, hai bầu má mịn màng óng ánh lông tơ, đôi mắt vừa
tinh khôn vừa ngây dại…
- Con khốn kiếp…
Bã lầm bầm nói tiếp: Tôi dần cho tợn thế mà nó cứ tươi ngoay ngoáy
như cá vớt dưới ao. Người ta bảo nó có bùa…
Mặt gã u ám, hai dồ lông mày nhô trên vầng trán hẹp, đầy nếp nhăn.
Tôi biết rằng gã yêu vợ bằng tình yêu tối tăm của loài vật. Khi biết
vợ ngoại tình, gã đã tìm hết cách tàn phá cả sức khỏe lẫn thể xác cô
ta, muốn biến người đàn bà đó thành mảnh tã rách, một tấm giẻ vô
dụng chỉ để chùi chân trong nhà. Nhưng sinh lực mạnh mẽ của thiếu
phụ đã vượt qua mọi chà sát tàn bạo của thù hận, ghen tuông. Dường
như trời bắt cô gánh chịu nỗi bất hạnh thì trời cũng bù lại cho cô
một nhan sắc bền vững, tựa như nó chứa một sức mạnh huyền bí vượt
lên mọi thống khổ và đầy ải, một sinh lực tiềm tàng trường cửu, một
cái lõi gỗ lim ẩn dưới dáng vẻ của đóa hoa…
Vũ Sơn vẫn giữ vẻ mặt bình thản, anh đưa mắt thăm dò gương mặt
Lương, hỏi tiếp:
- Anh còn yêu cô ấy không?
Gã đáp:
- Yêu gì con khốn nạn ấy?
Vũ Sơn nói:
- Vậy, tốt nhất là anh ly hôn với cô ta. Còn tiếp tục sống chung,
hai người còn xô xát. Với kiểu hành hung vô nhân đạo như anh trước
đây, chắc chắn anh sẽ ngồi tù.
Lương mím môi lại, trợn mắt bạc phếch:
- Vậy ra các ông khuyên tôi thế đấy?… Các ông muốn phá nát cửa nhà
tôi ra. Ba đứa con tôi, ai nuôi, ai lo quần lo áo, lo học hành. Với
lại, còn…
Gã nghẹn họng, không nói được nữa. Khoảng lõm giữa hai tràng lông
mày lộn xộn và nhờ nhợt của gã nổi lên một vệt thâm như tụ máu. Mười
ngón tay bẩn co quắp lại trên đầu gối trong khi gã thở hồng hộc lên
từng hồi, mùi rượu phả vào mặt tôi.
Vũ Sơn cười nhạt:
- Nếu anh còn muốn sống với cô ta, anh buộc phải chấp nhận sự sẻ
chia tình cảm. Tôi muốn nói trắng ra rằng anh không được quyền ghen
khi vợ anh ngủ với chàng thiếu úy kia… Cậu ta đẹp trai lắm phải
không? lại trẻ nữa? và chắc cậu ta chiều chuộng vợ anh. Mà đàn bà
vốn chỉ yêu những người biết chiều họ… Vả chăng, nếu tôi có là cô ấy
tôi cũng không thể chung tình với một người đàn ông ăn bám lại còn
muốn làm ông tướng trong nhà. Người đàn bà có thể hy sinh cả cuộc
đời để nuôi chồng khi chồng gặp hoạn nạn trở thành tàn phế. Nhưng họ
không thể chịu đựng được thứ người đủ cả mắt mũi, tay chân mà suốt
ngày chỉ lê la cuộc rượu này với ván bài khác. Rượu uống như sáo tắm
mà công việc không muốn đụng tới ngón tay. Thời nào cũng thế thôi,
thứ người vô dụng như vậy không có đất chứa…
Vũ Sơn nói thủng thẳng, âm điệu đều đặn, tựa hồ anh vừa nói vừa nhấm
nháp từng câu. Gã đàn ông trắng nhợt như giấy ngâm cả đến những sợi
ria của gã cũng như bạc ra, và đôi mắt biến hết tròng. Những ngón
tay gã run rẩy bíu chặt lấy đầu gối, tìm nơi bấu víu.
Trước khi về, nhà báo còn nhắc lại lời đe dọa, với vẻ lạnh lùng,
giễu cợt:
- Trong hai thứ anh phải chọn lấy một: Hoặc ly hôn với cô ta hoặc
ngồi tù. Còn con đường thứ ba chắc không thể có được với anh, anh là
loại người không biết suy ngẫm và tự kiềm chế.
Lương đứng lên, dường như gã muốn nhảy vào xé xác Vũ Sơn, nhưng bản
năng tự bảo vệ của một con thú trước kẻ thù mạnh hơn kìm giữ gã lại.
Chương 8
Đã ba bốn lần chúng tôi đi chơi về, đứa con trai lớn của Vũ Sơn mách
rằng có một ông già tới tìm anh. Lần này, khi hai chúng tôi đạp xe
từ làng Mơ về, đứa bé chạy ra tận cổng:
- Bố ơi, cái ông mọi bữa đang chờ bố đấy.
Chúng tôi dắt xe vào sân, thấy ông già Hưu ngồi chờ trên bậc cửa, mũ
sụp xuống che hết nửa khuông mặt. Thấy chúng tôi về, ông đứng lên,
lật mũ chào. Mới có hai tháng trời, mặt ông tọp hẳn đi, quắt queo
như quả trám héo. Vũ Sơn đi đến đầu hồi, thò tay vào lỗ hổng vợ
chồng anh thường quy ước cất khóa, lấy chìa mở cửa. Vẻ mặt anh đăm
chiêu, nghiêm nghị. Anh đi lại lặng lẽ, lấy nước pha trà cũng lặng
lẽ, khác thói quen mọi ngày. Không ai nói với ai một lời, nhưng
chúng tôi đều cảm thấy trước tai họa đang lừ lừ đi tới. Vẻ mặt ông
già đau khổ quá, đôi mắt linh lợi đục hẳn đi, vằn những tia máu đỏ.
Ông đau khổ và ngượng nghịu nữa, không dám nhìn thẳng vào chúng tôi.
Chính tôi, tôi cũng có tâm trạng ấy, tôi tránh không nhìn vào mắt
ông cụ. Chúng tôi uống nước, nói những câu xã giao ngượng ngập chẳng
ăn nhập với ý nghĩ của mình, rồi lại uống nước tiếp. Sau cùng, Vũ
Sơn khơi chuyện trước, cũng với giọng nói vừa tự tin vừa suồng sã:
- Bác tới chơi hay có việc gì nào?… Thôi, cháu biết cái tổ con chuồn
chuồn ở đâu rồi, khỏi phải vòng vèo quanh co gì hết. Chính cháu với
cậu Nam cũng đã mấy lần bắt gặp anh chị ngồi tình tự với nhau…
Chưa một ai có biệt tài tháo gỡ những tình huống trớ trêu như Vũ
Sơn. Vẻ cảm thông có đôi phần bả lả của anh đã xóa những mặc cảm cho
ông già. Ông bất giác cất tiếng thở phào:
- Tôi khổ tâm quá, tôi không thể nào…
Vũ Sơn lắc đầu, cao giọng lên:
- Ôi dào, các cụ chỉ nghĩ vớ vẩn. Làm gì mà phải khổ tâm?…
Tôi thấy anh thay đổi hoàn toàn chiến thuật. Vừa nói lem lém anh vừa
nạp thuốc lào, rít sòng sọc, nhả khói hoặc vỗ vai ông già Hưu, uy
hiếp ông bởi vẻ tự tin mãnh liệt mà ngoài anh không ai có được:
- Chẳng làm gì phải khổ hết. Hoa tới thì hoa nở, gái tới thì khắc
tìm tới thằng đàn ông. Lẽ ra phải mừng rằng cô Hạnh đã sống thuận ý
trời. Rồi bác sẽ thấy con gái bác tươi tắn, khỏe mạnh, xinh đẹp.
Người xưa đã có câu: Gái phải hơi trai như thài lài gặp cứt chó.
Chẳng lẽ cô ấy cứ quanh quẩn ra vào với mấy chậu cây cảnh thì bác
sung sướng hay sao?… Đừng lo nghĩ nữa, lo như thế là gàn dở… Không
có ai đẻ con ra lại muốn nó sống kiếp tu hành hoặc trở nên thứ người
u sầu, ủ dột như cái bóng. Không có bậc cha mẹ nào lại không ao ước
đêm ngày cho con cái được hạnh phúc. Bây giờ, chắc chắn cô Hạnh đang
hạnh phúc, tại sao bác không mừng. Mỗi giây phút được mãn nguyện còn
đáng sống hơn mười năm vô vị, buồn tẻ. Bác đã chắc gì những nỗi lo
toan của bác có giá trị thực? Trong khi con gái bác đặt giá trị thực
của cuộc đời cô ấy vào anh chàng thi sĩ. Điều đáng tiếc nhất cho con
người là họ cứ mài miệt lo toan, mặc dù những hao tổn tâm sức của
họ, những thời khắc ưu tư, thở vắn than dài của họ chẳng có mảy may
tác động nào tới thực tế. Khi cô ấy đã yêu, dù bác có đau thắt ruột
bác, cô ấy vẫn cứ yêu. Lúc bác nằm bóp đầu thì đôi tình nhân vẫn hôn
nhau ở những nơi bác không kiểm soát được… Thôi, cụ già ơi, tốt nhất
là trở về ghép thêm vài chậu hồng Thúy Kiều hoặc gây thêm vài bụi
trúc cảnh nữa, lúc nào mỏi thì gọi bà lão vào mà uống trà. Cháu đã
đi nhiều nơi, nhưng ít gặp gia cảnh nào trời ban cho sự trù phú ấm
êm như ở nhà bác. Thế mà không biết tận hưởng thú vui…
- Vâng, tôi hiểu…
Sau cùng, ông già Hưu cũng ngắt được lời giảng minh dằng dặc của Vũ
Sơn:
- Tôi biết cháu tìm được người yêu là nó rời bỏ nỗi buồn ám ảnh mấy
năm nay. Nhưng phải là một tình yêu chính đáng. Đằng này, anh Dương
có vợ con, đã…
- Ôi dào, cháu hiểu rồi…
Vũ Sơn cướp lại diễn đàn một cách nhanh chóng:
- Coi như cô ấy hồ đồ tí chút. Yêu nhầm thì khuyên bảo nó thôi đi mà
yêu đứa khác. Có dại mới có khôn. Bây giờ đâu phải thời các cụ mà bố
mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Tự lực chọn thì phải có kinh nghiệm mới
chọn lựa được chính xác. Muốn có kinh nghiệm tất phải yêu. Chẳng có
quyển sách nào dạy con người đủ mọi đối sách với tình yêu cả. Chính
vì thế mà đời sống mới quý hơn những đống lý thuyết mà các nhà thông
thái đông tây kim cổ nào sao chép, nào viết lách, lưu lại cho tới
ngày nay. Cứ cho là Thanh Dương có vợ con thật, ai đã chắc gì cậu ta
thương yêu vợ?… Nếu thế, quyền yêu người khác là đương nhiên và hợp
lẽ trời. Chỉ có điều, cậu ta đã nhảy qua vạch vôi của pháp luật. Bởi
vì, nếu chán ghét vợ anh hãy bỏ cô ta rồi hãy kiếm tìm người đàn bà
khác… Nhưng bác sống đến lúc bạc tóc bác thừa hiểu cuộc đời nhiều
khúc mắc hơn ta nghĩ. Có tình cảnh mà chỉ sống trong đó, mới hiểu
được thực chất các mối quan hệ và những phi lý chế ngự con người…
Đằng nào, cô Hạnh cũng sẽ lấy chồng. Nếu quả tình Dương không yêu
vợ, sẽ có một thời gian cho anh ta thu xếp ổn thỏa rồi anh chị lấy
nhau. Nếu không, cứ coi như cô Hạnh vấp một chút vì tính hồ đồ,
nhưng cô ấy sẽ nhảy qua cái hố ấy và trưởng thành lên. Chẳng có bài
học nào khiến con người khôn ngoan hơn chính nỗi cay đắng họ phải
chịu… Cháu đã nói cạn lý rồi đấy, bác hãy tỉnh ra, đừng buồn. Mọi sự
rồi sẽ tốt đẹp thôi. Tất cả sẽ tốt đẹp, nhưng chớ nôn nóng… Phải có
thời gian…
Hết tràng diễn giải, Vũ Sơn kéo ông già lại phía mình, vỗ về như ta
vỗ về, phủ dụ một đứa bé. Rồi anh rót nước mới, đưa tận tay ông:
- Uống đi bác, uống đi cho nóng.
Ông già Hưu uống nước, ngập ngừng định nói thêm điều gì đó, nhưng
sau rốt ông cáo từ chúng tôi ra về. Tôi dắt xe cho ông ra tận đường
phố. Lúc quay vào, tôi thấy Vũ Sơn đứng giữa nhà, hai tay buông
thõng, mệt mỏi. Những nếp nhăn li ti hiện trên hai gò má, trên thái
dương. Anh hạ giọng, thì thầm:
- Thằng đê tiện. Nó phá cuộc đời con gái người ta…
Chương 9
Rồi một ngày, cơn gió bấc đầu tiên thổi tới. Đã lập đông. Tôi chợt
nhớ phố phường Hà Nội, tiếng xào xạc của những vòm lá giữa ồn ào đô
thị, làn bụi mờ dọc các đại lộ đông người xe qua lại và mùi hoa sữa
ma quái như bùa mê. Ở tỉnh lỵ Q, từng đoàn thuyền cặp bến, chở hạt
dẻ lẫn trám muộn cho những kẻ buôn hàng lâm sản vét nốt về miền
xuôi. Lẫn vào các bao hạt dẻ và trám đã có những sọt măng khô, măng
nứa, măng giang, măng le nhiều hơn là măng lưỡi lợn. Mẹ tôi mua trữ
vài cân. Bố tôi đã bình phục hoàn toàn, ngày nào cũng đòi tôi ngồi
tiếp dăm bảy ván cờ và nói chuyện thời sự. Ông cụ cứ tưởng đâu rằng
hễ cứ ở thủ đô Hà Nội thì một cậu thợ in tráng phim quèn như tôi
cũng biết đủ chuyện bàn tròn bàn vuông giữa Goóc- ba- chốp và Ri-
gân. May sao, tôi vốn thích đọc. Sát hợp tác ảnh của ông chú tôi là
nhà một bà vụ trưởng tuy đã già nhưng tính tình còn đỏm dáng. Bà này
có thú chơi ảnh. Đi nước nào bà cũng chụp hàng chục cuộn phim. Khắp
nhà bà, ảnh treo la liệt như một cuộc triển lãm nhiếp ảnh tự tạo. Cứ
lâu lâu, bà lại hạ các khung kính xuống, bóc lớp ảnh cũ đi và thay
vào đó lớp ảnh mới. Tháng nào tôi cũng nhận rửa phim, tráng phim, in
ảnh cho bà. Nhờ thế, tôi sang nhà bà, thường xuyên đọc bản tin của
thông tấn xã. Cái kho tư liệu tưởng như vô bổ ấy lúc này rất hữu
ích.
Mỗi hôm tôi kể cho bố tôi nghe một ít, lần lượt theo trình tự của
trí nhớ. Ông cụ nghe tất cả những tin tức ấy hau háu như trẻ con
ngóng quà.
- Trời cho thằng cháu tôi cái dạ sáng như thần đồng. Từ hạt cát đến
cái cây, từ chuyện đấu đá nhau bên Tàu đến chuyện bầu cử tổng thống
ở nước Mỹ, không có gì lọt khỏi đầu nó.
Lúc nào tôi vắng nhà, cụ khoe với bè bạn, xóm giềng như thế. Khi tôi
ở nhà, cụ xăng xái bày đủ trò nấu xôi, nấu cháo, làm nem, làm chả
cho tôi ăn. Tôi yêu và thương cụ nhưng phải nghĩ tới ngày rời tỉnh
lỵ Q trở lại Hà Nội. Vũ Sơn cũng bảo với tôi rằng anh đã tiêm hết số
thuốc kháng sinh lẫn thuốc bổ đem theo. Thời gian rong chơi ở quê đủ
rồi, quay về Thủ đô là hợp lý. Thanh Dương không nói gì. Anh ta đang
rơi vào mê lộ của tình yêu, không sức mạnh nào kéo nổi. Vả lại, đã
lâu nay, chỉ tôi và Vũ Sơn đi chơi với nhau. Có gặp chúng tôi, Thanh
Dương cũng tìm đủ cớ thoái thác hoặc lẩn trốn. Một lần, Vũ Sơn bảo
tôi:
- Thằng ấy bây giờ ăn cháo lú. Nói với nó làm gì cho mỏi miệng.
Nhưng thế nào tôi cũng sẽ cho nó một trận ra trò. Anh bảo tôi thư
thả cho anh thu xếp vài việc vặt trong nhà rồi chúng tôi sẽ rời Q,
kệ cho Thanh Dương đi sau.
Hò hẹn xong, tôi về quê thăm đám bà con nội ngoại theo yêu cầu của
bố mẹ tôi. Lúc trở về thị xã, hai chiếc túi da của tôi nặng trĩu
những đỗ lạc, nếp, vừng, cả kê nấu chè lẫn mấy nải chuối đang dấm.
Tôi chọn mỗi thứ một ít, đem sang cho Vũ Sơn. Lúc ấy khoảng ba giờ
chiều, trời khá lạnh nhưng anh cởi trần giẫm bì bọp dưới hố. Chiếc
kính cận gọng giả đồi mồi tụt xuống tận chóp mũi. Anh bảo tôi:
- Phải trát cho mẹ con nó cái vách chuồng lợn. Dạo này cô ta quen bà
trưởng cửa hàng lương thực, mua được cám rẻ đâm ra xây mộng nuôi lợn
làm giàu.
Tôi bảo:
- Tôi giúp anh một tay nhé.
Anh gạt phắt đi:
- Thôi khỏi, tôi trót đèo bòng cái của nợ vợ con thì tôi phải chịu
trời hành. Cậu can cớ gì mà ghé vai vào. Lên nhà uống nước chờ tôi.
Nửa tiếng nữa là xong.
Tôi xách chuối với mấy thứ lỉnh kỉnh vào nhà rồi tìm cuốn Tam quốc
chí đọc lại. Lát sau thấy vợ Vũ Sơn dắt xe vào sân, dựng xe rồi chạy
ra đường, khệ nệ lôi vào hai chiếc rọ tre đựng lợn con. Một con còn
sống hếch mõm lên kêu. Con kia đã chết cứng, duỗi bốn cái cẳng chân
hồng nhợt chỉ lớn hơn chiếc đũa cả chút xíu. Đang hì hục nhào vữa,
Vũ Sơn ngẩng lên:
- Lợn ở đâu thế?
Vợ anh không trả lời, chị ngồi xuống khúc gỗ gần đấy.
Vũ Sơn nhắc lại:
- Lợn ở đâu?
Người đàn bà vẫn im lặng. Vẻ mặt chị nửa như hằn học, nửa như giận
dỗi ai đó và cả hai thứ trạng thái ấy núp sau sự ù lì. Vũ Sơn sẵng
giọng:
- Cô lịch sự với tôi một chút chứ, tôi đã hỏi lợn ở đâu?
Có lẽ, lúc áy mắt anh quắc lên dữ tợn sau tròng kính và người đàn bà
bắt đầu sợ hãi. Chị đáp:
- Hợp tác xã Miễu Sơn.
Tôi thấy Vũ Sơn ném nắm vữa trong tay xuống hố nhảy phắt lên sân,
anh cười nhạt một cách đáng sợ:
- Tôi biết mà, của thằng cha Hải phải không?
Vợ anh im lặng. Vũ Sơn bước lên vài bước chân, đứng trước mặt chị
ta, cái lưng dài lom khom cúi xuống, và giọng nói bỗng trở nên thì
thào ghê rợn:
- Hứa với nó là nhà em sẽ viết bài cho hợp tác xã chăn nuôi Chiến
Thắng của anh, đúng không?… Anh cho em xin đôi lợn giống đúng
không?… Rồi trước Tết, nó sẽ cho người mang biếu cô một con sáu chục
cân vừa đủ xuất chuồng, với danh nghĩa là lợn thanh lý, đúng không?…
Trông cái mặt cô, tôi đã đoán ra những trò đê tiện đó? Cô có biết
thằng cha đó đã tham ô bao nhiêu tiền không? Cô có biết nó đã hiếp
bao nhiêu đàn bà, con gái không? Cô có biết rằng những người lương
thiện trong tỉnh này đang công phẫn vì sự bao che của ông chú ruột
nó, phó chủ tịch tỉnh… Bây giờ, cô buộc tôi phải viết bài ca ngợi
phẩm hạnh tài năng của nó, để giữ lại cho nó cái ghế đã bị cưa đứt
ba chân?…
Vợ anh cúi mặt xuống. Có lẽ chị ta đã cảm thấy lờ mờ những tai họa
phía sau việc làm vụ lợi của mình. Cũng có lẽ, chị ngửi thấy trước
cơn giông tố sẽ ập đến mái nhà này bằng vào gương mặt tái mét của
người chồng, bằng vào đôi tay run rẩy của anh, bằng vào giọng nói
ghê rợn như hàm chứa nỗi đau khổ và xa xót đã chồng chất qua nhiều
năm tháng. Tuy thế, chị cũng không biểu lộ một cử chỉ nào để ghìm
giữ hoặc xoa dịu cơn giông tố ấy. Chị vốn luôn luôn có vẻ mặt ù lì.
Tôi thấy những hơi thở dồn dập của anh vọng vào tận trong nhà, nơi
tôi ngồi… Tôi thấy vệt bùn vữa bám trên tay anh run rẩy theo cơn run
rẩy toàn thân. Thời khắc trôi qua nặng nề, rồi bất chợt Vũ Sơn gầm
lên:
- Mang lợn đi trả.
Người đàn bà ngồi im.
- Tôi bảo cô mang lợn đi trả.
Vũ Sơn dằn từng tiếng một, đầu anh cúi thấp hơn nữa, sát vào bộ mặt
vô cảm của chị vợ. Chị ta ngẩng lên, nhìn chồng và đứng dậy, lúng
búng:
- Nhưng chết một con rồi.
Vũ Sơn đáp:
- Chết thì đền.
Đoạn, anh chạy xộc vào nhà. Vẫn cứ đôi tay lấm lem bùn vữa thế, anh
thọc vào tất cả túi áo, túi quần treo trên mắc, móc toàn bộ số tiền
có trong đó, từ đồng bạc trăm tới tờ hào lẻ. Ném cả mớ tiền ấy trước
mặt vợ, anh quát:
- Cầm lấy, cầm lấy và đi ngay cho khuất mắt tôi.
Người đàn bà cúi xuống lượm đống tiền, làu bàu gì đó trong miệng
nhưng không dám nói to. Rồi chị ta buộc hai cái rọ lợn lên xe, dắt
khỏi cổng.
Vũ Sơn ngồi phịch xuống bậc thềm. Anh thở hộc lên từng hồi một, tấm
lưng dẹt phập phồng, lấm tấm vệt bùn bám. Tôi bỏ cuốn Tam quốc, ra
ngồi bên anh, lặng lẽ. Hồi lâu, anh hất mớ tóc trước trán lên và nói
với tôi bằng một giọng chậm rãi:
- Phẩm hạnh của chúng ta, lương tâm nghề nghiệp của chúng ta, những
ước vọng của chúng ta sẽ hư nát, sẽ thối rữa dần dà khi ta trói buộc
số phận với một con đàn bà nào đó. Thoạt tiên, ta yêu nó vì gương
mặt nó đẹp hay giọng nói nó vui tai, vì cái vẻ đần độn ma ta lầm
tưởng là sự hiền thục hay thói ích kỉ mà ta ngỡ là sự căn cơ, ngăn
nắp. Sau rồi, nó nắm lấy tóc ta mà lôi theo những ham muốn không
cùng. Mỗi con đàn bà là một cái thùng không đáy rót vào đó bao nhiêu
cũng chẳng đầy… Này Nam, tôi khuyên cậu nếu cậu muốn sống một cuộc
sống có ý nghĩa toàn vẹn, chớ có bao giờ lấy vợ.
Khóe môi Vũ Sơn run run, tái nhợt. Tôi cảm thấy như trong mỗi lời
nói, ứa r một giọt lệ nóng và đục. Để khỏa lấp trạng thái ấy, tôi
lắc đầu cười:
- Tôi chẳng dại. Tôi chỉ làm nghề tráng phim, in ảnh loèn quèn,
không ước vọng gì lớn. Tôi phải lấy vợ thôi, tôi sợ cô đơn lắm, nhà
báo ạ…
Chương 10
Càng già, người ta càng yếu đuối, dễ mủi lòng, dễ giận dỗi như trẻ
con. Thấy tôi săm sắn thu xếp quần áo, mẹ tôi khóc sùi sụt, bảo bố
tôi:
- Giờ anh ấy như chim ra giàng rồi, anh ấy bay nhảy, chẳng đoái hoài
gì tới hai nắm xương khô ở đây.
Bố tôi tán đồng ngay ý nghĩ đó và nói rằng tôi không còn giữ được
gốc rễ, không yêu thương thờ phụng đất tổ tiên, rằng tỉnh lỵ Q mới
là nơi toàn thể gia tộc chúng tôi gửi xương, gửi cốt, muôn ngàn kiếp
chứ không phải Hà Nội. Cãi lý với người già là việc điên khùng mà
tôi đã sớm rút ra bài học từ đám bạn học cùng tuổi. Tôi treo áo quần
lên mắc, hứa sẽ ở lại Q nửa tháng nữa. Khi bố mẹ tôi yên tâm rồi,
tôi đến nhà Vũ Sơn thông báo và khuyên anh đi trước nếu cần đi.
Vũ Sơn đang nằm, thò cổ khỏi chăn đáp:
- Ừ ừ… để tôi xem đã…
Hẳn anh đang nghĩ tới đoạn đường ô tô bụi bặm và những bến phà:
- Quê với quán, cách rách sông đò, không nghĩ thì thôi, nghĩ thêm
chán ngắt. Giờ còn cứng xương, săn thịt, đi lại chưa ngại. Mai sau
gối chùng, chân mỏi, cứ lọm cọm từ đây ra đến Hà Nội cũng đủ hết
hơi…
Anh làu bàu, trước khi vớ chiếc điếu cày, nạp một mồi rõ to rít lên
sòng sọc. Chúng tôi nhìn qua sân thấy đứa con trai lớn của anh đang
vật nhau với một thằng bé khác. Cu cậu cố sức giằng lấy hòn bi trong
tay đối thủ. Tôi định chạy ra can, Vũ Sơn gạt đi:
- Kệ nó. Được nó ăn, thua nó chịu. Đời công bằng, không ai che đỡ
nổi cho ai.
Trong một phút sơ hở, thằng bé kia vùng chạy, tay vẫn nắm chặt hòn
bi. Đứa con trai Vũ Sơn cắm đầu đuổi theo vẻ quyết liệt và cả hai
đứa mất hút sau cánh cổng. Chúng tôi nhìn ra đường, nơi thi thoảng
gió tung lên một đám bụi, xe và người qua lại thưa thớt, chậm chạp,
đúng với âm điệu muôn đời tỉnh lỵ. Ở đây, khó có cái gì khuấy được
bầu không khí yên ả ngái ngủ này, một thứ không gian gợi cho ta
những cảm xúc mờ nhạt, khó nhận biết, một chút nhớ nhung xa vắng,
một chút bân khuâng khi hồi ức trở về, một chút khát khao khi tiếng
còi tàu vọng từ nhà ga nào đó tới, cả một chút day dứt, bực dọc mà
chẳng hiểu nguyên cớ ở đâu…
Chừng như hiểu những ý nghĩ của tôi, Vũ Sơn nói:
- Ở đây lâu ngày, người tinh khôn mấy cũng hóa đần. Cuộc sống này
không buộc người ta phải giao tiếp, phải cọ xát với các tình huống,
phải phản ứng trước những…
Tới đó, tiếng máy ầm ĩ vọng đến cắt lời anh. Một chiếc mô- tô ba
bánh lao vào, đổ sát cánh cổng và một chiến sĩ công an trẻ nhảy
xuống. Anh ta gỡ mũ, chạy qua sân:
- Anh Sơn, anh Sơn ơi…
Vũ Sơn vẫn ngồi xổm trên giường, vai khoác chăn, đáp:
- Vào đây uống nước đã Khánh. Đi đâu mà vội thế chú mày?
Khánh bảo:
- Đi đi anh. Có một vụ tự vẫn vừa xảy ra. Tổ thằng Thăng đã xuống
theo dõi, lập biên bản. Em nhớ tới anh nên vòng xe lại đây. Khẩn
trương lên, kẻo xuống tới nơi, họ xóa hiện trường rồi thì hết
chuyện.
Nhanh như sóc, Vũ Sơn hất chăn khỏi vai, nhảy xuống giường mặc quần
áo. Vừa cài khuy, anh vừa hỏi:
- Cả bạn tôi đi, được không?
Khánh gật đầu:
- Vâng, xin mời anh.
Vũ Sơn nhảy lên xe, kéo tôi theo. Lúc này, anh hoàn toàn là một
phóng viên thiện nghệ.
Khánh nổ máy, cua ra đường phố. Chiếc xe của anh vọt lên thả đám vọt
lên thả đám khói về phía sau. Chừng tám cây số ngược lên phía bắc,
đến ngã ba, nơi con đường chia hai nhánh, Khánh rẽ sang tay trái. Từ
đây, xe chạy dọc theo sống đê, có đoạn bằng phẳng, có đoạn gồ ghề,
tốc độ chậm lại. Tuy thế, cũng chỉ mười lăm phút sau, Khánh đã tắt
máy, khóa xe dưới một gốc bàng đứng chơ vơ trên gò đất giữa ruộng.
Anh dẫn chúng tôi lội qua khúc đồng hẹp, leo lên bờ đê. Tới đó đi
xuôi xuống chừng non trăm mét, nơi khóm thuyền neo cụm lại, một đám
đông tụ tập sát mí nước. Thấp thoáng mấy bộ đồng phục cảnh sát trong
đám người lố nhố. Khánh giơ tay chỉ:
- Tổ của Thăng đang còn làm việc.
Vũ Sơn và tôi không hỏi gì thêm, hối hả bước. Vũ Sơn cao hơn cả,
chân anh sải như chân cò. Tôi và Khánh phải vừa đi vừa chạy mới theo
kịp anh. Tới nơi, Khánh rẽ đám đông đi trước, Vũ Sơn và tôi bám lưng
anh. Khi đã lọt giữa vòng người, chúng tôi dừng lại: Trên nền cỏ
ướt, xác người thiếu phụ có nước da ngà còn tươi rói. Tôi nhắm mắt
lại. Khi cơn choáng váng qua, tôi cố gắng tự trấn tĩnh để nhìn gương
mặt hứa hẹn biết bao yêu đương dịu ngọt giờ nằm phơi dưới ánh trời.
Hai bầu má mịn màng tưởng chừng sắp lay động, xoáy xuống một lũm
đồng tiền và phô nụ cười rực rỡ. Những món tóc đen nhánh của chị bết
trên trán, rơi thành từng món trên đám cỏ ven sông. Cặp mi khép lại
nhưng dường như chính lúc ấy nó khơi mở cho cuộc đời một thế giới bí
ẩn và sống động. Một tay người đàn bà vắt trên ngực, tay kia thủ dọc
theo sườn. Lúc tự vẫn chị đang mặc bộ quần áo trong nhà, chưa kịp
thay. Một chiếc quần lụa mỏng và tấm áo cộc tay. Tất cả dán vào da
thịt thiếu phụ, nửa như che dấu lại nửa như phô phang tấm thân thon
thả, tràn trề sinh lực. Tiếng ai đó thì thào:
- Lúc đó, tôi đang vo gạo nấu cơm trên thuyền. Tôi tưởng chị ta tắm
vì chị ta còn bơi một hồi nhanh như con rái nước. Tôi lãng đi, lúi
húi nhóm lửa. Rồi bỗng dưng, tôi thấy nóng ruột. Tôi bỏ nồi cơm lên
bếp chạy ra mũi thuyền, thấy bong bóng sủi từ đáy nước lên…
Mắt mời đi, tôi không nghe được những lời khai tiếp của các nhân
chứng với tổ công an đang hành sự. Người đàn bà ấy nằm trước mắt
tôi, như đang ngủ, như sắp nhỏm dậy mỉm cười. Ánh mắt ngỡ ngàng và
cầu khẩn, cặp môi như trái chín, vẻ cam chịu xé lòng… Chị hiện lên
trong tôi, sống động và gần gũi, trong buổi trưa tràn trề nắng, bên
những vườn cà vườn ớt xanh thắm, bên dòng nước sủi bọt… Tôi bỗng
thấy lạnh, thấy cô đơn. Tôi chìm trong cảm giác đó mãi, cho tới lúc
một người đàn ông xô gạt đám đông, nhảy bổ vào. Anh ta ôm thiếu phụ,
bỏ mặc mọi lời ngăn cản. Ngay tức khắc, tôi hiểu đó là chàng thiếu
úy giải ngũ, tính tò mò khiến tôi tĩnh trí lại. Tôi lùi về phía sau,
ngắm nghía. Anh ta cũng trạc tuổi tôi, nhưng rắn rỏi hơn. Da ngăm
đen, ngực nở. Tấm thân cân đối tràn đầy sinh lực. Mái tóc rất đẹp
với những gợn sóng quăn tự nhiên. Anh úp mặt xuống xác người đàn bà,
những thớ thịt trên vai và lưng rung chuyển. Người đàn ông đang cố
ghìm giữ nỗi đau đớn. Ngay cả tiếng nức nở của anh cũng chỉ là một
tia lửa vụt khỏi miệng hỏa diệm sơn đang sôi sục dưới lòng sâu.
- Tôi đã giết vợ tôi…
Luồn một cánh ta, nâng vai thiếu phụ lên, anh ta lẩm bẩm:
- Hồng ơi, chính anh đã giết em… Sao anh ngu dại vậy? Anh đâu có ngờ
vực em, nhưng anh nặng lời để em phải trạnh lòng, anh muốn em cương
quyết chấm dứt cảnh sống ngang trái này đi. Anh muốn chúng ta hạnh
phúc… Trí óc anh ngắn ngủi, anh không hiểu rằng một lời cay độc của
anh cũng làm em đau đớn hơn trăm trận đòn thù của kẻ kia… Anh đã
giết em…
Toàn thân anh ta rung lên dồn dập, trong một cơn nấc kéo dài. Ghì
xiết xác thiếu phụ như muốn níu kéo lại sự sống hạnh phúc, người đàn
ông cất tiếng cao hơn, hối hả, thống thiết:
- Này, Hồng… Em có nghe anh nói không? Nghe anh nói đã…
Đừng đi đâu nữa, chờ ở đây. Anh về lấy thuyền đưa em sang bên sông…
Tôi bảo Vũ Sơn:
- Cho tôi về. Tôi muốn về.
Vũ Sơn lẳng lặng kéo áo Khánh. Anh công an lách khỏi đám đông, đưa
chúng tôi ra. Ngược bờ đê, chúng tôi lội qua đồng, tới gốc bàng để
chiếc xe mô- tô của Khánh. Anh công an bảo Vũ Sơn:
- Con gái làng Mơ đẹp nhất tỉnh mà cũng đa đoan nhất tỉnh. Cách đây
bốn năm cũng đã có một cô trầm mình ở khúc sông này, hồi đó anh có ở
nhà không?
Vũ Sơn đáp:
- Dạo đó tôi đang dự cuộc họp do hội nhà báo quốc tế tổ chức. Lúc
về, tôi có nghe.
Chúng tôi lên xe trở về thị xã.
Đêm ấy, tôi không ngủ được. Trăng đầy sân, làm những chiếc thau nhôm
sáng như bạc. Các bức tường gấp khúc, đổ bóng xuống. Ngoài đường,
rặng cây du trắng xóa như phủ bột vôi. Không gian trở nên mênh mông
xa lạ, từ dãy phố hẹp tới những ngọn đèn trên cây cột sắt cổ lỗ, từ
chóp nhà thờ sau ngọn đồi phía Tây tới khoảng sân lầm bụi, nơi đám
người bán quà rong cho khách quá giang ngồi túm tụm đánh cờ… Dường
như chúng đã tách khỏi cuộc đời bình ổn nơi tỉnh lỵ, tựa ruột một
trái cây tách khỏi lớp vỏ bao bọc, lơ lửng giữa những gợn gió vô
hình của tai ương, chìm nổi giữa những con sóng bạo liệt, tối tăm
nơi dục vọng con người. Một lần nữa, cảm giác đơn côi tràn ngập
trong tôi, tôi bỗng muốn thu nhỏ lại, trở thành đứa trẻ lên ba, ngồi
giữa lòng mẹ. Từng phút một, tôi nghe tiếng dòng sông gào réo, những
đám bọt xoay tròn trên mặt sóng, chiếc thuyền trôi dọc bờ nước chở
người đàn bà đi, cái lúm đồng tiền xoáy sâu bên bầu má ửng hồng của
chị và đôi mắt đen nửa khép nửa mở mời gọi con người. Tại sao cuộc
ra đi của chị lại gieo vào tâm hồn tôi nỗi đau quặn thắt, nỗi lo âu
giằng xé khôn nguôi… Tại sao?… Trái tim trai tráng của tôi không thể
giải đáp, nhưng tôi biết chắc chắn một nhu cầu đang thúc ép: Phải
rời bỏ Q ngay.
Qua một đêm thức trắng, sớm hôm sau tôi thu xếp áo quần, nói với bố
mẹ rằng tôi phải ra đi nội nhật ngày hôm đó. Xong xuôi, tôi lên báo
với Vũ Sơn. Anh bảo:
- Tôi cũng đi với cậu luôn. Nhưng trong ngày hôm nay thì chưa thể
xoay được vé. Để sáng mai…
Chiều hôm ấy, tôi nằm ngủ mê mệt trong buồng. Khoảng gần sầm tối,
tiếng người nói chuyện rì rầm khiến tôi thức giấc. Lắng nghe, hóa ra
tiếng Vũ Sơn. Anh kể cho bố tôi nghe mấy người quen thuộc trong thị
xã đang nhờ anh làm giúp những công việc trọng đại, vậy mà anh rất
bận, luôn luôn thiếu hụt thời gian. Bố tôi hỏi cặn kẽ từng trường
hợp một, với lời phẩm bình nhiệt tâm, lý thú. Cứ sau mỗi chuyện, ông
lại nhắc cái điệp khúc:
- Anh là người rộng rãi, quý hóa quá. Các cụ nói rồi: Gieo ơn cho
người là để phúc cho con cháu, nhưng anh cũng phải dè chừng, nhân
gian bây giờ nhố nhăng lắm, không cẩn tắc thì làm ơn mắc oán như
chơi.
Vũ Sơn đáp:
- Vâng, bác dạy chí phải, cháu vẫn phải đề cao cảnh giác luôn luôn.
Lòng dạ con người thời nay nó rối như trận đồ bát quái…
Chút nữa tôi bật tiếng cười. Giọng điệu của Vũ Sơn sao mà tương đắc
tương đồng với cụ già làm vậy. Tôi chưa gặp người nào ở lứa tuổi
chúng tôi có được cái khẩu khí như anh. Hai người còn hể hả đối
thoại thêm một lát nữa. Rồi, Vũ Sơn nói:
- Kỳ này cháu phải đi xa.
Bố tôi hỏi:
- Đi đâu?
Anh đáp:
- Chắc là xa hơn các kỳ đi trước.
Giọng bố tôi đầy hào hứng, tò mò:
- Anh lại đi họp báo quốc tế hay sao?
Vũ Sơn đáp:
- Không, kỳ này cháu cắp cặp hầu các cụ.
Bố tôi hỏi:
- Anh theo phái đoài của nhà nước hay của Đảng?
Đáp:
- Đi đợt này là phái đoàn của nhà nước bác ạ. Việc đại sự đấy. Người
như cháu mà chỉ được cắp cặp theo hầu thôi.
Im lặng vài giây. Rồi Vũ Sơn nói tiếp:
- Cháu phải mượn bác bộ com- plê với chiếc mũ lông. Đi mùa này rét
lắm, tuyết dày đến mắt cá chân. Bộ com- plê của cháu vừa mỏng vừa
nhạt màu, trông không đứng đắn. Đi họp theo hội này hội kia tha hồ
ăn mặc nhí nhố, chứ đã cắp cặp cho các cụ thì phải ăn mặc cho
nghiêm.
- Đúng rồi.
Bố tôi tán đồng: Y phục tương xứng kỳ đức, các cụ dạy chẳng bỏ đi
câu nào, anh ạ…
Tôi nghe ông già lê dép, rồi tiếng chìa khóa lách cách mở tủ. Những
âm thanh nhè nhẹ khác, tiếng gói giấy sột soạt và sau đó, giọng Vũ
Sơn:
- Cháu cảm ơn bác, bộ quần áo này thật xứng đáng tham dự vào một dịp
công cán trọng đại như thế.
Anh chào bố tôi ra về với giọng hỉ hả. Cụ tiễn anh cũng với giọng hỉ
hả như thế. Khoảng bảy giờ tối, mẹ tôi gọi tôi dậy ăn cơm. Có lẽ do
vẻ mặt quá thất thường của tôi, hai cụ không thắc mắc thêm một lời
về việc tôi quyết định ra đi đột ngột thế. Cơm xong, tôi lững thững
đi dọc phố, chỉ với một mong muốn duy nhất là những hình ảnh liên
tục bên ngoài sẽ làm tôi quên cái chết của thiếu phụ. Trên đường,
tôi chợt thấy Vũ Sơn từ nhà chủ tịch Dự đi ra, trông anh quá sang
trọng và bạnh chọe trong bộ com- plê ông bố tôi vừa cho mượn. Theo
sau anh, cậu ca sĩ Ngọc Sang dắt chiếc Vet- spa, điệu bộ vừa uy
nghiêm vừa suồng sã của một cán bộ quản lý với người phù tá cho
mình. Sau đó, anh leo lên xe ngồi. Và chàng ca sĩ Ngọc Sang lái Vet-
spa điệu như một tài tử đua mô tô, chở Vũ Sơn đi. Cuộc diễu hành ấy
diễn ra trước ánh mắt thèm muốn của cư dân tỉnh lỵ.
Chương 11
Chúng tôi về Hà Nội được ba tuần. Nhịp sống bình thường lôi cuốn con
người nhanh hơn họ tưởng tượng. Ngay khi tôi trở lại hợp tác, tay
thợ in tráng phim hợp đồng thanh toán công xá chuồn ngay. Anh ta để
lại một đống phim sai tiêu chuẩn chưa tráng, hoàn toàn là những cuốn
phim quá thời hạn sử dụng hoặc chụp sai sáng. Lại một túi phim khác,
ghi dòng chữ: Gấp rút, cho công nhân xuất khẩu lao động”. Và túi thứ
ba là của những nhân vật đặc biệt quan trọng với sinh mệnh và sự
phồn thịnh của hợp tác nhiếp ảnh nên cũng phải chú ý ưu tiên… Tôi
vùi đầu vào việc. Từ hôm chia tay, Vũ Sơn cũng biến mất. Anh phải
chuẩn bị cho chuyến đi trọng đại tháp tùng vị lãnh tụ nhà nước. Tôi
trù tính một tháng nữa tới chơi nhà anh. Lúc đó, chắc anh đã trở về.
Qua ba tuần làm việc căng thẳng, sớm chủ nhật tôi cạo râu thay quần
áo định bụng tới quán điểm tâm ăn rồi cùng anh bạn đồng nghiệp lớn
tuổi đến nhà một cô bé ở Hàng Nón - kháu mà lại hiền như thỏ - anh
đã nói với tôi như vậy. Vừa cạo râu xong, chợt có tiếng gõ cửa.
Tưởng người bạn đồng nghiệp, tôi nói vọng ra:
- Cứ vào!
nhưng tiếng gõ cửa lặp lại, khẩn thiết hơn. Tôi bỏ chiếc bàn cạo máy
xuống. Lây khăn lau cằm rồi đi ra mở cửa. Người khách lạ là Thúy
Hạnh. Cô làm tôi sửng sốt vì sự thay đổi. Trước đây vài tháng, từ
tấm áo lụa cổ tròn tới chiếc quần nhại kiểu Jin đều toát lên vẻ nhã
nhặn, khiêm nhường. Giờ, cô bận chiếc quần Jin nhung bó chặt cặp
đùi, tấm áo sợi in những vòng tròn sặc sỡ và dòng chữ thách thức:
Hãy yêu tôi đi! bằng tiếng Anh. Thêm vào đó, mái tóc uốn loăn xoăn
như chùm lông đuôi của một con chích chòe bị xén tỉa khiến gương mặt
cô ngổ ngáo lạ kỳ. Cô nhìn tôi chằm chằm, rồi cười:
- Anh Nam không nhận ra em phải không?
Tôi vội đáp:
- Nhận ra chứ. Mời cô Hạnh vào chơi.
Tôi kéo ghế mời cô gái ngồi, pha nước mới, tìm chiếc đĩa bày ít bánh
ngọt có sẵn. Xong xuôi, tôi ngồi đối diện với cô trong trạng thái
nửa tò mò, nửa nôn nóng vì việc riêng lở dở. Hạnh không uống nước,
cô vào chuyện luôn:
- Anh Thanh Dương có để địa chỉ của anh cho em.
Tôi gật đầu:
- Vâng, tôi đã ghi địa chỉ cho Dương từ buổi tối ở quán trọ, ngày
chúng tôi gặp và quen nhau.
Hạnh gật đầu:
- Vâng, anh ấy cũng kể cho em biết. Và anh ấy nói rằng: Ở đất Hà Nội
này, anh ấy chỉ tin anh đủ khoan dung để giúp đỡ… và cảm thông cho
chuyện riêng của chúng em.
Tôi lặng im, không biết nói thế nào cho phải. Cô gái ngập ngừng giây
lát rồi nói tiếp:
- Anh biết rằng em không thể tìm gặp anh Dương ở tại nhà anh ấy.
Nhưng chúng em cũng không thể gặp nhau. Anh hãy nhắn giùm anh Dương
rằng tám giờ sáng mai, em chờ anh ấy ở cuối đường Bà Triệu…
Hạnh nói những lời đó với vẻ quả quyết, không chút mặc cảm tội lỗi,
không chút ngượng ngùng. Mắt cô sáng long lanh, ánh lên thứ ánh sáng
quyết liệt của những võ sĩ ra đấu trường, hoặc giành vòng nguyệt quế
trở về, hoặc lãnh một cái chết tàn khốc. Hạnh rút từ chiếc túi xách
tay một gói giấy báo to:
- Em nhờ anh trao cho anh Dương gói này. Đây là bộ đồng phục mùa thu
để anh ấy dùng vào những lúc hội họp hoặc tới các giảng đường nói
chuyện. Em sẽ đan cho anh ấy một chiếc áo len dài tay kiểu mới để
anh ấy mặc trong những ngày không quá rét, khi nào xong em nhờ anh
chuyển giúp.
Tôi cười:
- Tôi sẵn lòng chuyển giúp Hạnh, nhưng chỉ e vợ anh Dương nghi ngờ.
Một gã thợ tráng phim quèn như tôi làm sao đủ tiền và đủ rộng lòng
để tặng bạn cả bộ com- plê lẫn áo săng- đay?
Hạnh cũng cười:
- Có thế em mới nhờ anh. Thắng hay bại là ở tài thuyết phục của anh.
Tôi hỏi tiếp:
- Cả hai người định đi tới cùng hay sao?
Cô trả lời, đầy vẻ xác quyết:
- Chúng em sẽ đi tới hôn nhân. Mặc dù sẽ co một khoảng thời gian khá
dài để anh Dương thu xếp việc gia đình và trong khoảng thời gian ấy,
người đau khổ hơn cả là em. Nhưng em sẽ chịu đựng, và em tin rằng em
sẽ chịu được.
Tôi hỏi:
- Còn hai bác?
Hạnh đáp:
- Bố mẹ em gần như từ bỏ em. Nhưng em đã quyết. Giờ đây, giá ông bà
em ở dưới mồ ngồi bật dậy ngăn cản, em cũng không đổi thay ý định.
Tôi nhìn cô ngại ngần buông câu hỏi chót:
- Liệu rằng… cô có tin rằng…
Hạnh mỉm cười, nụ cười của tuổi trẻ si cuồng, nhạo báng cả thần linh
lẫn quỷ sứ. Và cô đáp lời tôi, giọng chậm rãi:
- Anh Dương yêu em… Em tin rằng không có một tình yêu nào mãnh liệt
được hơn thế…
Mắt cô rực lên nguồn sáng của hạnh phúc. Và tôi biết, giờ đây, cô
sẵn sàng nhảy vào lửa, sẵn sàng nuốt thủy tinh hay làm trò gì đó
tương tự như thế để chứng tỏ rằng tình yêu của cô là mối tình siêu
nhiên, vĩnh hằng.
Tối hôm ấy, tôi mang bộ quần áo tới nhà Thanh Dương. Thi sĩ đang
bưng cám đổ vào máng cho đàn gà công nghiệp. Cả lũ gà béo ục ịch ở
trong chuồng, thò mỏ qua kẻ hở mổ rào rào. Thanh Dương ra hiệu bảo
tôi im lặng vì vợ anh đang ngồi rửa chén bát gần đó. Anh cao giọng
khoe với tôi:
- Tôi mát tay nuôi gà lắm anh Nam ạ. Cả phố này, không gà nhà nào
tăng cân và đẻ đều như nhà tôi.
Nói xong, anh rửa tay, lay tay. Rồi chúng tôi vào nhà. Đó là một căn
hộ khép kín ở tầng dưới cùng của tòa nhà ba tầng. Nhà gồm hai gian,
ngăn bởi tấm vải che khá dày. Vợ chồng Thanh Dương với hai đứa con ở
gian ngoài, phía trong là mẹ vợ với hai cô em gái quá lứa chưa
chồng. Mỗi gian rộng ước chừng hai chục thước vuông. Hai chiếc
giường, một bộ bàn ghế bé tí xíu, một chiếc tủ đựng quần áo trên đặt
máy thu hình, một chiếc tủ thấp vừa làm nơi đựng lặt vặt vừa là trạn
thức ăn… Ngần ấy thứ đồ vật được dồn lại trong diện tích hạn hẹp đó.
Hai đứa con trai của Thanh Dương trông sạch sẽ, bảnh bao đang bò lổm
ngổm trên giường học bài. Chúng cất tiếng chào tôi khẽ khàng như nói
thầm vậy. Thoạt tiên, tôi ngạc nhiên. Sau tôi nghe tiếng ho của bà
cụ từ sau tấm màn vọng ra mới biết trong ngôi nhà này người ta buộc
phải tuân thủ một kỷ luật nghiêm ngặt về thanh âm đến như thế. Thanh
Dương pha trà mời tôi, nói năng cũng với giọng thì thào hệt như hai
đứa con. Được vài câu trao đổi xã giao, vợ anh mang chồng bát mới
rửa vào nhà. Chúng tôi chào nhau. Người đàn bà bảo chồng:
- Anh ra rửa nồi nấu cám gà rồi hãy vào nói chuyện.
Thi sĩ ngẩng lên nói:
- Đang dở tay sao em không rửa luôn đi?
Vợ anh đáp, giọng tỉnh khô:
- Việc ai người nấy làm.
Thanh Dương càu nhàu, nhưng anh cũng phải sẽ sàng xin lỗi tôi rồi ra
ngoài sân. Lát sau, anh đem chiếc nồi đã được rửa sạch, treo vào
trong góc bếp rồi trở lại tiếp tôi. Trong khoảng thời gian ấy, người
đàn bà vớ tấm áo đang móc dở trên mắc xuống móc thoăn thoắt. Những
ngón tay nhỏ và dài của chị như múa trên mặt vải. Hai cánh tay chị
cũng thuôn thả. Duy chỉ gương mặt mỏng nhiều tàn nhang là gợi nên
cảm giác cằn lụi, cay độc. Sau vài phút chuyện trò, tôi trao gói
quần áo cho Dương, đưa mắt nháy anh ra ngoài. Tôi vừa cất tiếng chào
vợ anh, Dương đã lẻn ra sân ngay, hệt như một tên tử tù được ra khỏi
ngục thất. Khi chúng tôi ra tới đường, chắc chắn rằng mọi lời nói
được đảm bảo an toàn, tôi hỏi:
- Chỉ vì yêu anh mà Hạnh ra Hà Nội sống hay sao?
Dương đáp:
- Vâng, cô ấy trở lại học y. Cô ấy cũng đem cả chiếc máy may sang
đây để kiếm sống trong thời gian học đại học.
Tôi hỏi:
- Trong khoảng thời gian ấy anh sẽ thu xếp việc gia đình?
Thanh Dương thở dài và thay vì trả lời, anh cúi ưng thuận.
Tôi nói tiếp:
- Khi nào Hạnh ra trường các vị sẽ cưới nhau?
Thanh Dương liếc nhìn tôi, đôi mắt ẩm ướt sập xuống:
- Vân, đó là mong ước.