Tôi viết "Bỉ vỏ"
Năm ấy tôi mười sáu tuổi, hết hạn tù, được tha. Mẹ tôi lên tận nhà
giam tôi, đón tôi. Nhưng chúng tôi không về Nam Định - quê hương của
chúng tôi - mà dắt nhau ra Hải Phòng.
Khi tôi đi tù, đoạn tang cha tôi, mẹ tôi bước đi một bước nữa. Nên
lúc rời bỏ cái tỉnh đã chứng kiến bao nhiêu việc không hay kế tiếp
phá tan gia đình tôi, sự ngậm ngùi của mẹ tôi bắt tôi nghĩ đến lòng
héo hắt của một người đàn bà đã cải giá trước sự khinh bỉ rẻ rúng
của họ hàng nhà chồng và trước sự ghê tởm của mọi người quen biết
đối với con mình, mới một dúm tuổi mà đã trải hết lao này sang lao
khác.
Hôm đó, trời thu trong và sáng. Con tàu chở chúng tôi lướt trên một
dòng sông lặng lẽ giữa những đồng ruộng xanh bát ngát.
Ra Hải Phòng chúng tôi càng khổ sở. Trông vào vài hào làm vốn buôn
trầu cau, mẹ con tôi được bữa sớm mất bữa tối. Lắm phen, luôn mấy
hôm, chỉ một bữa cháo lót lòng.
Bao nhiêu ngày tháng, bị câu thúc thân thể và phải làm những việc
bẩn thỉu, nặng nhọc quá sức mình, tôi tưởng khi thoát khỏi cảnh tù
tội đày ải ấy sẽ sống no ấm...ngờ đâu! Vì thế xác thịt tôi dần suy
nhược; cái ngực thỉnh thoảng đau nhói lên, tôi cảm thấy đời tôi đã
bị rút ngắn đi và một ngày rất gần kia sẽ hết. Chết! Mỗi lần cái chữ
đen tối khủng bố ấy hiện ra, tôi thấy sao mà chung quanh tôi sự vật
gì cũng sáng sủa, tươi đẹp! Hết thảy đều kêu gọi lòng ham sống của
tôi.
Tôi chết đi, mới mười sáu tuổi đầu, sẽ làm cho mẹ tôi đau đớn biết
chừng nào. Và cái phút cuối cùng của một đời sớm tắt ấy, tôi sẽ quằn
quại như ctinhướm non bị hai ngón tay dữ tợn kẹp chặt vừa lúc nó mới
đánh thấy mùi nhị hoa thơm ngát.
Những lúc lo sợ, bối rối, đau đớn quá, trong tâm trí người ta hay
nảy ra những ước muốn khác thường. Tôi, tôi muốn có một cái gì để
mãi mãi an ủi mẹ tôi và để tỏ lòng tôi mến tiếc và thương nhớ những
người và vật đã làm tôi vui thích đến say mê. Nghĩa là tôi phải để
lại một cái gì tinh khiết nhất của hồn và xác tôi cho cõi đời mà tôi
yêu mến.
ý quyết viết tiểu thuyết thụ thai trong trí tưởng tôi mỗi ngày một
mạnh mẽ thêm, lan rộng mãi ra. Khi ăn, khi chơi, khi ngủ...lúc nào
tôi cũng nghĩ đến viết. ở nhà, ngoài đường, trên vỉa hè, ở ghế vườn
hoa, dưới gốc cây, bờ sông bến tàu, đâu đâu cũng là chỗ tôi mơ tưởng
đến viết. Có một xu một trinh nào tôi cũng mua giấy để viết. Không
có tiền mua sách, báo, tôi cố đón đọc những báo hàng ngày ở phòng
đọc báo của một hội ái hữu kia chỉ mở cửa từ 7 giờ đến 9 giờ tối để
xem cách viết của một số nhà văn.
Nhưng, tiền càng ngày càng hiếm, tưởng như không còn bao giờ lọt vào
tay tôi nữa, và trời về tối dạo ấy càng rét dữ dội với những ngọn
gió tê buốt và những trận mưa dầm dài ghê sợ. Mẹ tôi phải đi vào
Vinh(1), cầu cứu một người chị họ tôi, để tôi ở nhà với ông chú
dượng. Trước khi đi, phải vay cho chúng tôi tám ngày gạo và một món
tiền chi tiêu không quá bốn hào để mua củi và thức ăn.
Đã lâu lắm mới sẵn có một thập gạo ở trong nhà ông chú dượng tôi và
tôi bị khiêu khích. Không ngày một bữa nữa. Chúng tôi tin rằng vào
tới Vinh vay mượn được tiền, mẹ tôi thế nào sớm tối chả gửi ra.
Chúng tôi đã thất vọng. Và càng lo sợ, càng khổ sở vì đói. Hơn mười
ngày rồi mà chẳng thấy thư từ gì ở trong đó gửi ra.
Tôi còn nhớ, nhớ rõ ràng lắm, những đêm mưa dầm gió bấc, trong một
căn nhà không đèn lửa gì cả và ran ran tiếng muỗi, trên một cái phản
lung lay, hai thân hình nhọc lả co quắp trong một chiếc chăn rách
mướp, ông chú dượng tôi và tôi không ai nói với ai nửa nhời vì không
đủ sức mà nói và cũng cảm thấy tiếng nói lúc bây giờ chẳng còn ý
nghĩa gì hết, chỉ làm đau tủi thêm hai con người muốn mà chẳng có
việc gì làm để được sống. Sự yên lặng còn là sự đau đớn xót xa đến
cực điểm của chúng tôi trước sự sống của vợ chồng người thuê nhà bên
cạnh.
Người chồng làm thợ quét vôi, hiền lành, thất nghiệp, nghiện rượu.
Người vợ, một người buôn thúng bán mẹt ở các chợ, rất lắm điều. Họ
không còn cha mẹ già nhưng đông con. Chưa đứa nào quá mười ba tuổi
và tinh khôn chút ít để đỡ đần công việc. Bữa có, bữa không, rách
rưới và ốm yếu cũng như chúng tôi. Nhưng vợ chồng người này luôn
luôn cắn cấu, đay nghiến, chửi rủa và đánh đập nhau. Đã mấy lần,
người chồng bị vợ sỉ vả đã uất lên, chực thắt cổ mình và dìm ao mấy
đứa con bé.
Bỗng gần về sáng đêm thứ mười hai, một tiếng người thất thanh gọi
chúng tôi. Chúng tôi bổ choàng dậy. Giời ơi! Mẹ tôi đã về. Mẹ tôi về
với hai sọt hàng trầu vỏ mà ông chú dượng tôi và tôi ưỡn đến gẫy
lưng mới khiêng vào được.
Từ ngày đó bụng tôi không đến nỗi cồn cào quá như trước. Và tôi đã
có tiền mua cả một thếp giấy. Tiền mua giấy đó, mẹ tôi cho tôi những
hôm lãi nhiều. Tôi không cần phải hỏi mẹ tôi cũng đưa. Mẹ tôi không
nỡ trông thấy tôi thẫn thờ trước một ít giấy đã kín chữ.
Mấy truyện ngắn tôi đã viết xong từ lâu, và "Bỉ vỏ", trải bao nhiêu
ngày tháng đã dàn xếp kỹ càng trong đầu óc tôi.
* Thưa mẹ, người mẹ hiền từ của con, thưa các bạn, những bạn đọc yêu
dấu của tôi, "Bỉ vỏ" đã viết xong rồi.
"Bỉ vỏ" đã viết xong trên một cái bàn kê bên khung cửa trông ra vũng
nước đen ngầu bọt của một bãi đất lấp dở dang và một chuồng lợn ngập
ngụa phân tro; "Bỉ vỏ" đã viết xong trong một căn nhà cứ đến chập
tối là vang lên tiếng muỗi và tiếng trẻ khóc; "Bỉ vỏ" đã viết xong
trong một đêm lạnh lẽo âm thầm mà mọi vật như đều rung lên cùng với
lòng thương yêu của một đứa trẻ ham sống dào dạt trong những bụi mưa
thấm thía.
Thưa mẹ, người mẹ hiền từ của con, con xin dâng "Bỉ vỏ" cho mẹ với
cả tấm lòng kính mến trong sạch của con, và xin tặng nó cho các bạn
với tất cả cảm tình đằm thắm tươi sáng của tôi.
Nguyên Hồng Tháng 3-1938
Phần thứ nhất
Chương 1
Bữa cơm chiều nay khác hẳn mọi ngày, buồn bã và uể oải lắm.
Bính ngồi sát bức vách lâu ngày đã nứt nẻ loang lổ, cầm bát cơm đầy
nhưng chẳng buồn và. Thằng Cun, cái Cút, hai đứa em nhỏ của Bính bị
sợ lây, lấm lét nhìn đĩa đậu phụ om tương vàng ánh mỡ, thèm quá mà
không dám gắp. Những tiếng ho khàn khàn của bố chúng và cặp mắt toét
nhoèn cau có của mẹ chúng luôn luôn lườm Bính, làm chúng càng rụt rè
kinh hãi. Chúng càng thêm thương Bính, một người chị hay tươi cười
vỗ về các em những ngày các em bị đánh mắng, bị hắt hủi, bị bắt nhịn
đói vì quá nô đùa và cãi cọ với trẻ con hàng xóm, nhất là những khi
nhà túng thiếu, không còn biết tính toán ra sao, không còn biết chạy
vạy ở đâu.
Rồi chúng ngạc nhiên hơn thấy Bính đã gần nửa tháng nay buồn bã, ít
ăn, ít nói. Tại sao? Vì duyên cớ gì? Những khối óc ngây thơ ấy cố
nghĩ mãi không ra.
Nồi tư cơm mới hết non nửa; sự cảm động lo lắng làm khô cả miệng hai
đứa trẻ; chúng há hốc mồm, mặt đờ đẫn, trông vừa buồn cười vừa
thương hại.
- Kìa chúng mày ngồi nhìn nhau đấy à?
Bác lái Thìn cất giọng khàn khàn nói đoạn đưa cặp mắt gườm gườm nhìn
Bính. Thấy vậy Bính vội vàng và mau cho hết bát cơm; hai đứa trẻ
cũng lập cập ăn. Rồi một phút sau, cả ba đều đứng dậy. Thằng Cun tót
ngay ra cổng, cõng cái Cút lên lưng, lẩm bẩm một mình:
- Bố ác ghê! Chửi mắng chị Bính suốt ngày, chắc lại sắp đánh chị ấy
đấy!
Nó cười, khen cho mình mau trí khôn, biết trước mà chuồn khỏi nhà
chứ không thể nào cũng bị đòn lây như chiều qua. Lúc ấy, Bính cắp rổ
bát ra bờ sông ở ngay sau nhà để rửa. Mặt sông lặng lẽ, sương lam
mịt mùng. Cái lạnh man mác của chiều thu gần tàn Bính cảm thấy rõ
rệt lắm. Nhưng, Bính muốn ở mãi đây dù bị mưa rét cũng cam tâm. Vì
hễ động thấy mặt Bính, bố mẹ Bính không mắng mỏ, thì chìa bỉu, day
dứt, đay nghiến Bính chỉ vì sự lầm lỡ đó.
Bính yên lặng nhìn trời, sông một màu xám ngắt, lòng tê tái và buồn
bã. Bỗng có tiếng gọi Bính xáo xác... Rùng mình, Bính nâng vội rổ
bát, cắp ngang lưng lủi thủi về nhà.
Gần đến cái cổng bằng tre bắt khum chằng chịt những dây bìm điểm hoa
tím, Bính còn ngoái cổ trông. Chua xót, Bính thở dài.
Len lét Bính đi qua chỗ bố nằm rồi vào buồng mình. Buồng tối đen.
Cây đèn hoa kỳ vặn nhỏ đặt trên trạn bát ở cuối buồng, mẹ Bính đã
tắt đi ngay lúc Bính bước chân xuống bếp. Lau lau vội tay vào vạt áo
rách, Bính rón rén đến bên cái chõng tre. Bính vừa lật chiếc tã vải
lên, đàn muỗi bay ran ra như ri, náo động cả gian nhà. Bính cúi
xuống bế con, khe khẽ kêu:
- Giời! Muỗi đói đốt chết con tôi còn gì!
Đứa bé thức giấc khóc oa oa. Tiếng khóc càng to, Bính thêm sợ sệt.
Bính vội vàng vạch vú cho nó bú, không có hàng xóm biết thì bố mẹ
Bính sẽ lại không để Bính yên thân đâu. Muỗi bay mỗi phút một nhiều,
tạt vầm vập vào mặt Bính. Những tiếng vo vo trong cái im lặng mờ tối
của gian buồng hôi hám không mấy khi nổi ánh sáng mặt trời, càng làm
Bính bối rối. Bính thấy mình như một người tù nặng, bị bó buộc mãi
mãi nếu đứa con nhỏ này còn trong tay.
- Con ơi!
Bính ôm ghì lấy đứa con vào ngực, nức nở trong bóng tối. Bính lại
thầm thì khóc. Không thể sao ngồi yên được, Bính đi đi lại lại, và
đã ba hôm nay giọng khàn mất rồi, Bính lại phải rung rung cánh tay
để ru con. Thật Bính có ngờ đâu và cũng không bao giờ dám nghĩ tới
nông nỗi này. Lòng người Bính cứ tưởng như lời người nói. Còn sự phụ
bạc Bính đinh ninh một hạng người ăn học như thế không thể nào có
được! Nhưng đến nay Bính mới rõ cái bề ngoài che đậy sự khốn nạn độc
ác thì đã muộn lắm rồi. Chắc Bính phải đau khổ mãi mãi vì sự lừa dối
đó thôi.
Bính như không đủ sức nhấc nổi chân nữa, bèn ngồi xẹp xuống chõng,
dựa lưng vào bức vách, đầu ngả về một bên, mỏi mệt nhìn bóng tối.
Phút chốc trong tâm tưởng Bính lại hiện ra những hình ảnh không bao
xa.
Mới cách đây gần một năm, nhưng tại nhiều sự khác thường đã xẩy ra,
nên ngày giờ dài và thấm thía thêm. Dạo ấy Bính thường gánh gạo lên
chợ huyện bán, lần nào Bính cũng bắt gặp một người vận quần áo tây,
chải chuốt ngắm trông Bính. Có khi Bính còn nghe thấy tiếng gọi vồn
vã, tiếng chòng ghẹo dịu dàng. Nếu đi một mình, Bính chẳng thẹn mấy,
song vì có các bạn gái cười đùa chế giễu thêm vào khiến Bính hổ thẹn
vô cùng.
Và trong sự hổ thẹn ấy Bính dần dần thấy băn khoăn vẩn vơ. Bính đã
phải nghĩ đến người đàn ông sang trọng và trai trẻ nọ. Lâu nay trai
làng vẫn ghẹo đùa Bính. Họ đã không được Bính để ý mà thỉnh thoảng
còn Bính nói nhẹ cho nữa. Cái thứ vóc người cục kịch, quần áo nâu mồ
hôi rách vá kia Bính thấy thế nào ấy, đối với cái thân hình thanh tú
đầu tóc bóng mượt thơm tho kia. Cả cái tên "quan tham đạc điền" nghe
cũng khác lạ sao. Nó hứa với Bính bao nhiêu sự sung sướng hãnh diện
chứ đâu như những cái tên "nhiệu", "khán", "trương" của những ngôi
thứ tầm thường nhỏ mọn ở thôn quê.
Dần dần Bính yêu người ấy mà Bính thấy có thể gửi gắm cả đời mình.
Bính để người ấy gần gũi Bính luôn. Rồi một ngày kia, một ngày thầm
vụng, Bính buông phó cả thân thể cho y.
Bính vùng đứng ngay dậy, nghiến chặt hai hàm răng, rít lên. Ước vọng
của Bính đã nhào đổ hết. Người tỉnh sang trọng và trẻ trai nọ đã bỏ
Bính đi không một lời an ủi. Y đã bỏ Bính lại với một cái kết quả mà
sự thảm khốc chưa bao giờ Bính thấy đến như thế, cũng như chưa bao
giờ Bính lại tưởng mình sẽ phải chịu đựng như thế. Cả người Bính
rung chuyển. Hai cánh tay rời rạc mỏi rã, Bính đặt đứa con xuống
chõng, lấy vạt áo xua xua muỗi. Không chịu nằm, đứa bé lại khóc thét
lên. Lập tức, từ ngoài cửa liếp lại đưa vào những tiếng rít mắng:
- Con đĩ voi giày kia, mày lại để bố mày khóc rồi. Có mau bắt nó nín
đi không!
Tiếp đến một giọng lanh lảnh cố nói cho nhỏ:
- Đấy, con gái nhớn ông đấy! Đã sung sướng mát lòng mát ruột cho tôi
chưa! Thật là bôi gio chát trấu vào mặt tôi.
Bính rớt nước mắt, phải chùi vội đi, bế con lên, nhè nhẹ đặt vú vào
miệng thằng bé. Cánh tay Bính lại rung rung với những tiếng hát nhỏ
và khàn đặc. Câu hát càng đầm nước mắt nọ của những người đàn bà nhẹ
dạ đã hát mà trước kia khi nghe hát Bính ghê sợ lắm, không ngờ ngày
nay chính Bính lại chịu cái cảnh âm thầm đau đớn trong câu hát ấy:
"Chót đa mang thì phải đèo bòng, Chót bế lên bụng phải bồng lấy
con".
Đứa trẻ vẫn khóc. Tiếng rít lanh lảnh lại cất nhỏ lên:
- Con quỉ cái kia, bố trẻ mày không nín tắp thì mày nhét giẻ vào mồm
nó cho tao.
- Phải đấy! Hay là vái giời rồi bóp mũi nó đem chôn quách nó đi cho
rứt nợ.
Bính rởn cả người, kinh hãi quá sức. Bố mẹ Bính đối với Bính thật
cạn tàu ráo máng và đến mức độ ác hơn là thú dữ. Bính thật hết hy
vọng nuôi con cho đến khi khôn lớn ở cái nhà này cũng như Bính đã
hết hy vọng được gặp mặt bố đứa trẻ xấu số nọ lần thứ hai vậy.
Gian buồng chật hẹp tối tăm thêm. Không khí càng đè nén vì những
tiếng nghẹn ngào. Và Bính chưa hết buồn sợ, những hình ảnh khác đã
đến, khiến Bính càng bối rối.
Dạo ấy Bính còn bé, độ lên chín hay lên mười, Bính theo người lớn ra
đình xem làng ngả vạ một ả đi hoang.
Một ngày tháng năm, đường đá, sân gạch bỏng rẫy chân, thế mà chị
Minh, người bị làng phạt vạ, phải quỳ ở giữa sân đình, nón không có,
bế đứa con mới được mười ngày, cũng đỏ hon hỏn như con Bính hiện
giờ, giữa trời nắng chang chang.
Bính nhớ kỹ lắm: chị Minh mặt mày tái mét, đẫm mồ hôi, răng cắn
chặt. Mõ làng đứng gần chị Minh, sau cái án thư bày la liệt những
giấy má, bút mực, tay cầm cặp roi mây sơn đỏ bịt đồng, ra bộ nghêng
ngang vô cùng. Thỉnh thoảng y hất hàm nhìn chị Minh rồi đột nhiên
lại lấy đầu roi, lật tà áo che mặt đứa bé lên cho mọi người xem
giống ai trong làng.
Bà già, đàn ông, con gái, trẻ con lại đổ xô cả đến cái lan can bằng
gạch xây ven sân, nghển cổ nom. Một người trong bọn lớn tiếng nói:
- Cứ cái mũi kia thì nó giống khán Thư tây lai đấy.
Em gái khán Thư thấy anh mình vốn có tính trai lơ bị họ bêu riếu,
liền đáp ngay:
- Này chị nhiêu Khuôn xem kỹ lại nó có giống khán Thư không hay là
giống ông Ba Nhòm nhà ta đấy!
Ba Nhòm là ông nội nhiêu Khuôn ngày xưa tằng tịu với một người đàn
bà góa bị em chồng họ bắt quả tang, phải quỳ lạy người em nọ rồi cởi
truồng về nhà.
Thế là hai người lại om sòm lên và đám đông lại được mẻ cười đùa ầm
ĩ, tròng ghẹo nhau, máy móc những cái mắt, cái tai, cái môi, nét mặt
phảng phất giống đứa bé mà ghép lẫn nhau là bố nó.
Chị Minh chỉ càng cúi gằm mặt xuống. Bọn hương lý chức dịch ngồi
chiếu trong đình lại quát vọng ra.
- Mõ! Các cụ truyền bay bắt nó ngẩng đầu lên chứ!
Mãi khi chè chén no nê xong, một người trong bọn mới khệnh khạng nhè
mồm gọi bố chị Minh ra mà phán rằng:
- Thôi bây giờ con bác Nhiêu đã chót dại mà xưa nay bác là người tử
tế, ăn chịu đóng góp với làng đầy đủ, vậy làng thương tình phạt bác
ba đồng bạc, hai trăm cau tươi, tám chai rượu, lập tức tối hôm nay
bác phải thân đưa đến nhà tôi.
Phó hội sẵn có hiềm khích với bác Nhiêu, thấy tiên chỉ xử vậy, bèn
vung tay lên nói:
- Trình cụ, cụ ngả có bằng ấy thật là nhẹ quá. Tôi xin hội đồng phạt
thêm ba đồng nữa và một nửa lợn vì còn cái khoản gia pháp bất nghiêm
nữa kia.
Lại một hồi bàn tán xôn xao, sau cùng Chánh hội kiêm thứ chỉ ra
trước cái bàn ngoài sân, bệ vệ bảo bố con chị Minh:
- Làng ta từ cổ đến giờ có ai dám bậy bạ như nhà các người, bỗng
ngày nay bị phạm lây một sự xấu xa, thành thử danh giá làng thua kém
các làng bên, vậy tội của bố con chị không phải là không to, nhưng
làng thương tình mà phạt từng này thôi: sáu đồng bạc, hai trăm cau
tươi và tám chai rượu.
Không thấy nói đến nửa lợn, nhất là con lợn này đã đẫy niên, em Phó
hội đương nhằm mua rẻ để thịt bán, Phó hội hậm hực mãi mới thôi.
Phải! Mấy khi được món "bở" như thế để các ông chia tay nhau nhắm
nháp cho sướng miệng, còn sống chết mặc ai. Giấy tờ đóng sẵn dấu lý
trưởng và có cả chữ ký cả hội đồng ký mục kia chỉ dùng để dọa nạt sự
ngu đần khiếp nhược của bố con chị Minh, và cả mấy trăm dân làng dốt
nát.
Xong cái cảnh ê chề ấy, sáng hôm sau Bính lại được xem một cảnh buồn
cười và thê thảm hơn.
Không biết ai xúi bẩy bác Nhiêu để tỏ rằng nhà bác không nuông con
dâu, mà bác nỡ nhẫn tâm cạo trọc đầu chị Minh, bôi vôi trắng hếu, úp
rế lên rồi rong chị đi khắp làng.
Mấy ông già bà lão đã nhảy lên mà khen bác và có một bà cụ già nói
rằng:
- Hình phạt đó chưa lấy gì làm đáng tội lắm, chưa đúng y như lề lối
xưa: cứ theo tục lệ trước kia của các cụ thì chị Minh còn phải lột
trần truồng, đeo mo cau vào mặt.
Luôn hai ngày bị hành hạ, chị Minh đã có lần định thắt cổ chết,
nhưng nhờ mấy chị em bạn nghèo hàng xóm giằng giữ lại và khuyên giải
nên chị lại cắn răng chịu đựng. Ngưỡi chị võ hẳn đi, đứa con cũng
đen rạc vì bêu nắng với mẹ. Như mọi khi, hễ nhắc tới cảnh " gọt gáy
bôi vôi" trên kia, Bính không sao không ngạc nhiên và nhịn được
cười, và muốn tấn tuồng lạ lùng đại loại kiểu ấy diễn lại luôn luôn.
Nhưng nay... Bính gai hết cả da thịt và tâm trí. Bính đau đớn cho
Minh và e ngại cho mình không biết có đủ sức chịu đựng những nỗi bêu
riếu nhục nhã như kia không. Chẳng cần suy nghĩ, Bính dằn giọng nhủ
thầm: Nếu lâm phải bước này Bính đành bỏ cha và mẹ, bỏ hai em, bế
con đi tha hương cầu thực cho xong.
Cái ý định liều lĩnh đó vụt sáng lên với một tia hy vọng. Bính sẽ
gặp Chung, bố đứa trẻ. Chung sẽ nghĩ lại tìm cách nuôi nấng mẹ con
Bính, rồi vợ chồng con cái về ăn ở với nhau.
Thốt nhiên ở gian ngoài đèn vặn to lên. Cánh cửa liếp xịch mở. Bính
vội nhỏm người nhìn qua kẽ vách. Phó lý Thưởng và vợ y bước vào.
Bính cuồng lên muốn chạy trốn. Cảnh ngả vạ đã đến. Song chạy lối
nào? Thông từ buồng Bính ra gian nhà ngoài kia chỉ có mỗi một lối đi
thì vợ chồng phó lý và bố mẹ Bính đã ngồi ngay đấy, một Bính còn chả
ra lọt huống hồ lại đèo thêm con. Bính cố dằn lòng, áp mặt vào bức
vách nghe ngóng.
- Này nhà ông lái, bà lái! Tôi thu xếp xong rồi đấy nhà ông bà có
ưng như thế không? - Vợ phó lý nói.
Bố Bính yên lặng một lát, đoạn gãi tai trả lời:
- Bẩm ông bà nghĩ như thế thì vợ chồng con được đội ơn vô cùng.
Phó lý liền dõng dạc nói một thôi dài:
- Nhà ông bà phải biết, tại vợ chồng tôi thương nhà ông bà hiền
lành, ngoan đạo, lại sắp được Cha xứ cắt lên làm trưởng giáo để
trông coi dạy bảo phần hồn cho trẻ mỏ trong họ. Vậy mà chẳng may nhà
ông bà phải đứa con gái bỗng đâm ra hư đốn như thế nên tôi gỡ giúp
tai tiếng cho, chứ tôi hòng gì mà nhờ đứa bé ấy.
Vợ phó lý ngắt nhời:
- ối giời, nòi nào giống nấy, nó lại bắt chước bố nó chứ gì? Ông ạ,
tôi không nuôi đâu, ông có muốn nuôi thì mướn vú về mà nuôi.
Phó lý bèn đưa mắt cho vợ bảo im. Không phải là y rộng lòng nhân đạo
chẳng tưởng đến sự bội bạc sau này của đứa bé đâu. Không! Y làm việc
này là vì có một người em giai buôn bán giàu có lắm ở trên Hà Nội
cũng hiếm hoi như y. Người nọ thường nhắn phó lý xem ở quê có nhà
nào túng đói thì mua cho y một đứa con giai, càng trứng nước càng
hay. Mấy hôm nay, chợp được cơ hội Bính đã đẻ và đẻ con giai và nhà
đương lo lắng khốn đốn không biết thu xếp ra sao, phó lý đã lên tỉnh
lấy thêm của em năm chục đồng bạc nữa bảo phải mua ngay đứa bé không
Bính cho bà xờ mất.
Thấy phó lý cũng là người làng và họ hàng giàu có lại không phải là
người đi đạo nên bố mẹ Bính càng yên tâm.
Muốn lấy lòng bà phó, bố Bính ngọt ngào thưa một câu bâng quơ:
- Thưa vâng, ông bà ăn ở phúc đức thương người như thế con chắc ông
bà còn là giàu sang vinh hiển.
Phó lý mỉm cười vuốt râu, hất hàm hỏi bố Bính :
- Vậy tôi giúp ông bà mười đồng ông bà bằng lòng chứ?
Mẹ Bính vội nhăn mặt:
- Thằng bé kháu khỉnh lắm, mặt mày sáng sủa, chân tay bụ bẫm xin trả
cho hai mươi đồng để nhà cháu lo lót với mấy cụ trong làng.
Bố Bính gãi tai tiếp lời:
- Thật vợ chồng cháu cảm cái ơn ông bà ông phó lắm chứ không nài xin
hơn thiệt gì đâu.
Phó lý cười không đáp, nhìn hỏi ý kiến vợ. Vợ phó lý ngẩng trông xà
nhà, vuốt dài hai ngón tay quệt quýt trầu rồi lúng búng nói:
- Thôi tôi giúp thêm nhà ông bà ba đồng nữa là mười ba đồng có thuận
thì tối mai bế thằng bé sang nhà tôi mà nhận tiền.
Bính càng nín thở lắng tai nghe. Bính như đứt từng khúc ruột. Giời!
Cái ác tâm của bố mẹ Bính.
Luôn mười hôm ròng gìn giữ giam cầm Bính trong gian buồng này không
cho Bính bế con ra khỏi nửa bước, bố mẹ Bính trước hết sợ hàng xóm
thóc mách, sau sợ Bính bế con đi. Nhưng thôi, từ ngày mai trở đi,
sau khi dứt đi khỏi đứa bé và được hàng chục bạc, bố mẹ Bính sẽ vừa
hết cả lo sợ ngã vạ vừa được món tiền mừng chân Trưởng giáo và ăn
tiêu, sự tính toán ấy thật khôn khéo quá chừng!
Bính lại ôm chặt lấy con, thương xót cho thân phận nó bị dằn hắt và
kèo nhèo mặc cả như một con trâu con lợn. Bính ghê sợ cho bố mẹ Bính
và vợ chồng nhà phó lý kia đang tay cắt đứt tình yêu thương của mẹ
con Bính như một khúc dồi, một miếng phèo vậy. Dù sao Bính cũng
không thể cưỡng lại được. Bính đến phải nuốt nước mắt trao con cho
bố mẹ bán đi thì mới tránh thoát những hình phạt quái ác không biết
của ai, từ đời nào đã đặt ra để trừng trị những đàn bà đẻ hoang, và
Bính mới mong được yên thân với cha mẹ.
Bính mím môi lại, cúi gầm mặt nức nở, kéo dài thêm những ý nghĩ:
"Phải! Bính phải cắn răng mà cho con đi khỏi lúc khốn khó này. Rồi
chờ năm ba bữa nửa tháng, Bính thừa cơ trốn đi hoặc Hải Phòng hoặc
Nam Định, chịu khó làm ăn buôn bán, dành dụm một món tiền. Ba bốn
năm qua... chuyện cũ nhạt dấu vết, Bính sẽ trở về làng chuộc con,
rồi có thể thì nói với cha mẹ và hai em lên tỉnh làm ăn, bỏ hẳn cái
nơi quê hương ác nghiệt kia bao đời nay làm ăn đầu tắt mặt tối mà
không cất mặt mở mày lên được.
Bính tê mê nâng đứa con lên tận mặt, rít miệng vào má nó, vào trán
nó, rồi Bính nhìn ngước lên như để phân trần với bóng tối nỗi đau
đớn trong lòng. Sau đó Bính đăm đắm trông con thiêm thiếp ngủ. Dưới
ánh đèn lù mù ở bên ngoài qua kẽ liếp lọt vào, da dẻ nó hồng hào
biến thành xanh trong xanh bóng; mớ tóc đen láy, lơ phơ trở nên hung
hung mốc mác khô cứng. Vệt chàm dài hơi giống hình con thạch sùng bò
từ một bên trán đến mang tai xám ngắt hẳn đi như một vệt máu. Và cái
vết lẹm trên mí mắt cũng ở bên phải thấy thương như một lốt dao chém
vậy.
Hai hàng nước mắt Bính đã lại ròng ròng trên má lã chã đằm đìa xuống
cả mặt đứa bé.
Chương 2
Hải Phòng.
Lần này là lần đầu tiên Bính bước chân đến một tỉnh ồn ào đông đúc,
khác hẳn chốn quê mùa vắng vẻ.
Bính trốn đi, sau đêm ấy đến này đã được bốn hôm. Bốn hôm dài quá
chừng! Bao nỗi đau buồn luôn luôn nhắc nhở Bính nhớ tới con thơ.
Bây giờ Bính mới hơi quen, quen cái ánh sáng chói lọi của những ngọn
đèn điện. Bính không còn giật mình mỗi khi còi ô tô thét lên. Các
cách đi đứng ăn nói của người hàng phố đối với Bính không đáng ngờ
vực, sợ hãi quá như trước nữa. Bính bớt rụt rè, nhìn thẳng vào những
tủ hàng đồ vật bày la liệt rực rỡ làm Bính hoa cả mắt. Lắm thứ Bính
không thể nhận ra là thứ gì tuy Bính vẫn thường thấy, nay chỉ khác
cái vỏ bọc ngoài bằng giấy bóng màu hay thủy tinh. Bính đờ người
nghĩ mãi trước tá mùi soa lụa gấp trong tờ giấy bóng, trông như
những bông hoa ép khô. Miếng xà phòng bồ dục để trên chiếc hộp giấy
cực kỳ đẹp đẽ, khéo léo, Bính cho là thứ bánh quí lắm mà sau này nếu
Bính có tiền thì thế nào cũng phải mua ăn. Bính vừa ngắm những bông
hoa giả cắm trong lọ pha lê trong vắt, Bính vừa tấm tắc khen thầm
người nào có tài gìn giữ được mãi vẻ tươi tốt đóa hoa đã nở tung như
vậy.
Trong cái phút giây ấy, Bính đặt mình vào một giấc mộng sáng sủa như
gian hàng. Bính đang tê mê ngắm nghía, bỗng giật mình vì thấy gương
mặt mình hốc hác, xanh xao nổi bật trong mảnh gương treo giữa tủ
hàng. Bính vội lấy tấm gương để soi gần cho rõ thì tay đập choang
ngay phải mặt kính. Một người đàn ông trẻ tuổi đứng bên kêu lên và
nhìn Bính:
- Ơ kìa cô này!
Nhưng khi thấy vẻ mặt lo sợ đờ đẫn của Bính, người ấy đưa mắt một
cái rồi phá lên cười. Bính bẽn lẽn rảo bước ra ngay chỗ khác. Bính
rẽ ngoặt về phía tay trái, theo lối xuống Sáu kho.
Bấy giờ trăng thu vừa mới hé ra khỏi dải mây chì tỏa xuống những
chòm cây một làn ánh sáng như hơi sương phảng phất. Đường sá vắng vẻ
ít người qua lại. Hai bên hè lả lướt những cành xoan lăn tăn lá, rào
rào trước gió lạnh thổi từng cơn dài. Bính chợt nghĩ tới ngày mai,
tới một sự sống ở một nơi xa lạ và hiện Bính không còn một đồng một
chữ dính túi.
Món tiền sáu hào chắt bóp ngót nửa năm trời đã dùng để trả tiền ăn
tiền tàu từ Nam ra Phòng mất bốn hào. Còn hai hào thì vừa vặn ăn
uống trong hai hôm nay. Bính hoang mang, cúi gằm mặt trông dải đường
nhựa lấp lánh bóng trăng, nhấc từng bước một.
Bính đi như thế không cần biết rồi sẽ đi tới đâu, miễn cho qua một
đêm. Lúc này Bính bỗng hồi hộp, bối rối lạ thường. Những bụm cọ đen
thẫm, ù ù lộng gió ở vườn hoa sông Lấp gợi trong trí Bính bao nhiêu
hình dung quái gở. Bính tưởng con đường Bính đi tối tăm hoang vắng
như cảnh một bãi tha ma. Những cành xoan xao động là những cành tre
lả ngọn bên những ngôi mộ chơ vơ mới đắp. Những tàu lá cọ to sùm suề
giống những mớ tóc người điên hay thắt cổ.
Bính bật kêu khe khẽ:
- Biết làm sao đêm nay?!!
Bính lại thấy đêm lạnh và dài lắm, một thân gái quê mùa đi bỡ ngỡ
lang thang ở giữa cái tỉnh lắm kẻ lừa lọc, nham hiểm này, gặp những
sự không may là thường. Nếu Bính không khéo gìn giữ, biết đâu đêm
nay chẳng sẽ là cái đêm bắt đầu một cuộc đời khốn nạn nhơ nhuốc khác
mà dù cực nhục chừng nào, Bính cũng phải cắn răng chịu, chứ không
thể quay về quê nhà được. Bính thở dài. Mấy hôm nay tai tiếng chắc
đã đồn đi khắp làng trên làng ngoài. Thế nào họ chẳng bảo lại vì mê
giai, theo giai mà bỏ nhà đi. Cái tiếng theo giai đó là một sự nhơ
nhuốc không sự nhơ nhuốc nào bằng. Vì người ta hiểu rằng: giai là
một đứa xỏ xiên chỉ phá hoại trinh tiết người đàn bà, còn kẻ theo nó
phải là một con đĩ thoã vô cùng. Họ chỉ diếc móc Bính như thế còn là
khá đấy. Không may cho Bính, nếu gặp phải một kẻ không ưa Bính thì
Bính sẽ còn bị buộc hàng ức, vạn tội xấu xa, quá sức tưởng tượng của
hạng người nhân hậu.
Bính đã đi qua Sáu kho. Hôm nay các tàu chạy hết. Trên sông chỉ còn
thấp thoáng mấy ánh lửa leo lét, chập chờn của dăm chiếc thuyền con
đỗ đằng xa.
Thốt nhiên Bính dừng bước, trong một phút Bính tưởng như là bến Sòi
quê Bính. Bính ngẩng đầu bỡ ngỡ nhìn, lắng tai nghe: tiếng đọc kinh
đâu đây nhẹ nhàng vang trước gió lạnh, réo rắt và thấm thía. Những
giọng đều đều và ngâm nga thoáng nhắc trong tâm trí Bính hai mắt lờ
đờ rầu rĩ, hai cánh tay rã rời giang trên cây thánh giá của đức Chúa
Giê-su khi hấp hối. Sự hồi tưởng ấy làm Bình cảm thấy rõ rệt bố mẹ
mình là giả dối. Bính ghê sợ cho sự "nguyện ngắm" hằng ngày chỉ dùng
che mắt thế gian. Phải, chỉ che mắt thế gian thôi! Nay đi xưng tội,
mai đi chịu lễ, sáng sớm nào cũng có mặt ở nhà thờ, đêm nào cũng
thức tới mười một, mười hai giờ để đọc kinh, hỏi để làm gì?
Thì cũng như trăm nghìn gia đình chỉ ngoan đạo bề ngoài, gia đình
Bính bao năm được người làng khen là êm ấm đáng làm mẫu mực nhưng
thực chẳng có lấy một chút gì yên vui, thuận hòa, đạo đức bên trong.
Cha mẹ Bính cắn rứt nhau luôn, vì thiếu thốn; chửi mắng hành hạ Bính
luôn vì Bính không như ai giảo hoạt, tinh ranh trong sự cạnh tranh
khách đi đò và buôn bán mua rẻ bán đắt tôm cá của các thuyền chài
lưới quen thuộc. Hơn nữa, Bính không biết mưu tính các cách gian lận
với những khách gửi hàng để lo cho mình có cái bộ cánh mà nhà không
sao sắm sửa được vì ruộng đất cày cấy không có, ngoài mảnh vườn chỉ
được cái rau ăn còn đều trông vào con đò thì phải sinh sống rất khôn
ngoan soay giở đủ mặt. Những điều này đã làm Bính suy nghĩ và đau
lòng.
Bính buồn bã lắc đầu rồi giơ tay làm "dấu" đoạn thầm thì cầu kinh.
"Lạy Cha chúng tôi ở trên giời xin Cha cho chúng tôi hằng ngày dùng
đủ và tha nợ cho chúng tôi như chúng tôi đã tha kẻ có nợ chúng tôi".
...Thì Chúa sẽ ban ơn cho tôi giữ đạo nên ở đời này cho ngày sau
được lên nước thiên đàng vui vẻ đời đời...".
Gió sông càng ù ù, sương càng mù mịt. Bính đọc hết năm chục kinh,
làm "dấu", đoạn khép chặt tà áo vào người rồi rảo bước. Chợt có
tiếng người gọi:
- Cô kia đi đâu?
Bính không dám quay lại trả lời cứ lùi lũi đi nép vào rặng cây bên
đường. Một chiếc xe tay đâm xô lại, chắn lấy lối đi, tiếp đến những
tiếng cười ran:
- "Săn" kỳ được "mẻng" ấy cho tao.
Bính tránh hẳn sang bên kia, gằm mặt xuống xốc lại cái đẫy vải đeo
sau lưng. Một người đàn ông vận quần áo lót kẻ sòng sọc rất chải
chuốt và tóc bóng lộn, ngồi trên xe nom trõ mặt vào mặt Bính, Bính
quay mặt ra chỗ khác. Người ấy kéo vạt áo Bính, ngọt ngào hỏi:
- Cô định tìm ai ở đây?
Bính hoảng hốt chực chạy. Nhưng chung quanh Bính năm chiếc xe đã vây
kín, Bính kêu lên:
- Ô kìa!
Tên ngồi xe nhại lại, cười sặc sụa. Dáng điệu ngây thơ của Bính bảo
rõ với bọn này rằng Bính là một gái quê mới ra tỉnh lần đầu và là
một gái quê xinh đẹp hẳn hoi. Thật vậy, dưới ánh đèn điện, mắt Bính
lấp lánh chớp luôn, đôi má mũm mĩm ửng hồng chúng trông ngon lành
quá.
Một gã kéo xe nhưng tóc mai cũng xén nhọn và để dài như thằng ngồi
xe, mặc áo trắng là cổ bẻ và ngoài khoác áo tây vàng toan giằng lấy
khăn vuông Bính, song hai gã khác ngồi trên xe ngăn lại không cho,
rồi gã vận quần áo lót kẻ sòng sọc mượn cớ nhảy xuống bíu lấy vai
Bính. Bính kêu thất thanh. Thừa cơ hai cái xe chạy đi đón khách dưới
thuyền lên, Bính liền lẩn nhanh ra chỗ khác. Đám xe rãn cả, tản mỗi
nơi một chiếc. Còn Bính, Bính đi ngược lên phố vì Bính nhận thấy nếu
cứ lang thang, bơ vơ ở những chỗ đường vắng thì thế nào cũng còn bị
chòng ghẹo.
Được một quãng có nhà cửa thì lại đến quãng vườn hoang. Những bụi
cây lù mù trước những ngọn đèn điện bóng mờ hiện ra trước mắt Bính
làm trống ngực Bính lại đập thình thịnh. Chợt Bính lạnh toát cả
người, quay đầu nhìn về đằng sau; một bóng người đương rảo gót như
đuổi Bính. Bính đi nhanh hơn. Người theo sau cũng bước gấp, phút
chốc hắn đi sát cạnh Bính và khẽ nói:
- Cô! Cô chậm bước chứ để tôi ngỏ câu chuyện này.
Nhời nói êm đềm khiến Bính bớt sợ, Bính đưa mắt nhìn thì đó là người
ngồi trên xe ban nãy nhưng đã thay quần áo khác, Bính im lặng nhìn
bộ y phục lạ lùng của hắn: cái áo dạ tím bó chẹt lấy lưng, hai ống
quần lướt thướt như bằng lụa thì buông chùng quá gót, cái mũ dạ mới
lạ làm sao, lóng lánh một chiếc tên mạ kềm như dấu hiệu của lính.
Bính chợt nhớ đến cái hạng công tử cũng kiểu ăn mặc như thế này
những ngày hội đầu năm vùng Bính bọn chúng thường kéo về chớt nhả
gái làng. Bính vội quay đi.
Hắn chẳng còn do dự, nắm ngay cánh tay Bính, cặp mắt sáng lên khác
thường.
- Cô đi đâu bây giờ? Đi một mình mà không buồn à?
Bính đáp giọng run run:
- Ông buông cháu ra, cháu van ông!
- Rõ khéo vẽ, ông cháu gì?
- Cháu van ông!
- Van mình chứ lỵ.
Bính thót người lại hết sức giằng tay ra, nhưng hắn đã bá lấy cổ
Bính, hôn vào má Bính đánh chụt một cái.
Đường vắng vẻ quá, gió thổi lào xào trong những bụm cọ lù mù, vành
trăng lại bị mây đen che đi.
Hắn bế xốc Bính lên, mặc Bính giãy giụa the thé van lơn, chạy vào
trong vườn. Bính phải kêu thét lên nhưng gió thổi mạnh đánh bạt cả
tiếng Bính đi.
Trong chớp mắt hắn dằn Bính xuống vệ cỏ.
Bính kêu rít lên, ôm chặt bụng, hai đùi khép chặt, cố nằm sấp xuống
mặt cỏ ướt đầm. Hắn vội luồn tay qua người Bính cố lật ngửa Bính
lên. Bính cũng hết sức chống chọi, song mỗi lúc chân tay mệt mỏi nhừ
giọng khản đặc lại. Bính cố ngước mắt trông chung quanh và ngoài
đường thì không thấy một bóng người. Bính che mặt nghiến chặt hai
hàm răng, nghẹn ngào ấp úng:
- Giê-su cứu chữa con!
Hắn sằng sặc cười, nhại lại, đoạn áp mặt hắn vào mặt Bính mà hôn mà
cắn và thở những hơi thở hồng hộc như một con trâu, con chó lên cơn,
mắt đã đục ngầu và bọt rãi đã sủi.
Bỗng một đoàn xe đạp xăm xăm từ đằng xa tới, đèn xe kéo dài những
vệt sáng rung động trên đường nhựa, có một ngọn soi chõ vào vườn như
tìm tòi. Bính vội gào to:
- Các ông ơi! Cứu tôi với! Cứu tôi với.
Chẳng để Bính kêu thêm, hắn hốt hoảng buông Bính ra rồi chạy thẳng.
Bính choáng váng mừng rỡ, nhặt mau cái đẫy vải lăn trên bãi cỏ chạy
ra đường. Gió thổi mạnh. Mấy người ngồi xe đạp chẳng nghe thấy gì,
song họ đều ngẩng đầu tò mò trông khi Bính trong vườn xô ra. Bính cố
giữ tự nhiên, lẳng lặng rảo bước một lát tới đầu phố. Trống ngực
Bính vẫn đập rộn. Cảnh vật vẫn u ám! Bính len lét đến trước một cái
hiên rộng, ngồi thở. Đồng hồ ở trong nhà vẳng lên mười một tiếng.
Đường sá càng vắng tanh, vắng ngắt. Bính rùng mình. Đêm nay đối với
Bính mới dài và cực nhục làm sao? Còn ê chề, cay đắng hơn cả một năm
lam lũ! Bính nép người bên góc tường, gục mặt vào bàn tay, tê tái
những cảm xúc đau xót sôi nổi trong lòng. Bính càng mỏi mệt, ròng rã
một ngày, Bính đi không mấy lúc nghỉ chân. Đã thế lại vừa phải chống
cự với thằng đểu kia nên hai đầu gối Bính mỏi dừ, bụng cồn cào ngâm
ngẩm đau. Gió đêm như ru, Bính chợp mặt thiu thiu ngủ. Bỗng không
biết từ đâu đưa tới tiếng trẻ con khóc oe oe giống tiếng mèo gào
vang động cả trời khuya.
Bính mở choàng mắt, chợt nhớ đến đứa con thơ chưa đây tháng, tại cha
mẹ Bính cay nghiệt, tại cái tục lệ quái ác mà Bính phải xa nó, xa nó
không biết bao giờ lại được ôm nó trong lòng.
Bính vừa cất tiếng khóc rưng rức thì tiếng khóc kia nín bặt, Bính
vụt nghĩ đến đứa bé kia khóc thế nào chả có người vỗ về ru cho bú,
còn con Bính thân phận con nuôi con mày, giá đêm khát sữa, thì dù có
được chiều chuộng mấy chăng nữa cũng khó mà được bú đêm. ấy là không
kể đến người nuôi dỗ mãi không nín thì thế nào chả phát nó năm bẩy
chiếc phát cho bõ cái bực tức bị thức giấc.
Những sự tưởng tượng ấy rung động cả toàn thân Bính, Bính phải vội
lắc đầu xua đuổi hình ảnh của đứa con ưỡn người há hốc miệng, hiện
ra trước mắt Bính. Bính phải nén chặt ngực cho đỡ tức, một tay Bính
cầm bầu vú rắn đanh và vắt sữa đi vì vú cương lên nhức nhối quá
chừng. Bầu sữa đầy dòng dòng tia xuống nên gạch phủ đất đen, theo
liền với những giọt nước mắt chan hòa.
Chương 3
Bính vẫn tin lời nói của Chung nên sáng nay Bính quả quyết đánh bạo
đến đường Cát dài để hỏi tin tức Chung.
Sự ước mong được gặp mặt chồng, Bính có biết đâu chỉ là ảo vọng đáng
dập tắt hẳn trong lòng với cả tình yêu thương nồng nàn con người bội
bạc kia. Nhưng những lúc Bính oán giận Chung chỉ là lúc Bính quá khổ
sở điêu đứng vì sự thực quanh mình, rồi sau một vài phút, khi tưởng
đến biết đâu vì một lẽ gì đấy Chung không kịp bày tỏ nên mới bỏ Bính
đi.
Bính ngẫm nghĩ, rụt rè một lúc lâu, sau cùng gọi cửa một nhà nọ.
Cánh cửa hé mở, có tiếng người vẳng ra:
- Ai đấy? Cứ vào tự nhiên.
Bính còn đương khép nép thì một người đàn ông trẻ tuổi súng sính
trong bộ quần áo ngủ ở trong nhà bước ra. Bính giật mình vội chào và
hỏi người ấy:
- Thưa ông, đây có ai là ông tham Chung làm Sở đạc điền không?
Người trẻ tuổi đưa mắt nhìn Bính một lượt từ đầu đến chân: cặp mắt
lờ đờ nhưng long lanh, cặp mày không tỉa, chiếc khăn vuông mạng mấy
miếng nhỏ, tấm áo tứ thân, cái quần cạp hồng thắt lưng xanh và một
dáng điệu sợ sệt e thẹn, vạch rõ ra trước mắt người ấy tất cả mọi
cái dại dột của cô gái quê hiền hậu ra tỉnh lần đầu. Hắn tủm tỉm
cười:
- Cô hỏi có việc gì đấy?
Bính run run đáp:
- Thưa ông, cháu có việc trong nhà ra tìm ạ.
Bính chưa nói xong, hắn đã vồn vã mời Bính vào nhà, kéo ghế giục
Bính ngồi. Tức thì một quang cảnh lộng lẫy bầy ra trước mắt Bính.
Nào tủ chè, sập gụ; nào tranh ảnh treo la liệt; nào chậu hoa, đôn
sứ; nào hoành phi câu đối. Bính khấp khởi mừng, bụng bảo dạ:
- Đúng như lời Chung dặn mình. Vậy thật là nhà Chung đây?
Rồi Bính len lét trông xung quanh, tay vẫn xách đẫy quần áo, băn
khoăn mong người trai trẻ trả lời. Bấy giờ bao nhiêu vẻ đẹp hiền hậu
nổi cả lên gương mặt Bính đờ đẫm, lấm tấm vài giọt mồ hôi trán dính
lấy những sợi tóc như tơ. Người trẻ tuổi càng đăm đăm nhìn, Bính
phát ngượng nhưng cố nén hồi hộp thong thả hỏi:
- Thưa ông làm ơn bảo cháu, đây có phải là nhà ông Chung?
Người kia đưa mắt liếc Bính một cái rất tình tứ:
- Phải!
Bính luống cuống nhắc:
- Phải ạ?
- Tôi đã bảo phải thì là phải mà. Nhưng cô hỏi ông Chung có việc gì,
phải bảo qua tôi, tôi mới gọi ông ta tiếp chuyện cô được.
Bính sung sướng tưởng đến vỡ mất trái tim, bật kêu lên:
- Thế mà tôi!...
Bính định nói: "Thế mà tôi nỡ vội giận Chung", nhưng vì ngượng, Bính
phải bỏ dở câu. Thấy cái thái độ lạ lùng ấy, người trẻ tuổi chau mày
hỏi:
- Thế mà tôi.. làm sao hở cô?
Bính quên cả lễ phép, thở hắt mạnh ra một cái, lắc đầu rồi đáp:
- Tý nữa tôi...
Đến tiếng "tôi" Bính lại ngừng, hai khóe mắt ứa nước. Bính phải cố
nén sự nghẹn ngào, nói tiếp:
- Tôi quyết không nghĩ gì đến nữa thì thật là tội nghiệp!
Người trẻ tuổi chống cằm ngồi nghe. Sự ngây thơ của Bính bỗng trở
nên kỳ dị và u uẩn và tình tứ. Người ấy rót nước chè nóng mời Bính
uống, đoạn nghiêm trang nhìn vào mắt Bính nói:
- Ông Chung của tôi chắc hẳn là tình nhân của cô?
Bính đỏ mặt, cúi đầu không đáp. Người trẻ tuổi nhắc lại câu hỏi ban
nãy:
-Vậy cô tìm ông Chung làm gì? Phải bảo qua tôi mới được.
Bính hơi luống cuống, cúi cúi mặt rồi run run đáp:
- Vâng thôi thì cháu xin nói thật: ông Chung là nhà cháu.
- Cô là vợ ông Chung? Vợ ông tham Chung?
- Thưa ông vậy ông chắc là người họ của nhà cháu?
Người ấy lắc đầu, tủm tỉm cười:
- Là bạn thân tôi.
Người trẻ tuổi định nói nữa, Bính đã tiếp lời:
- Là bạn thân của nhà cháu thì cháu mới dám nói các sự thể sau
đây...
Bính mân mê chén nước mới vừa thong thả kể vì sao Bính biết Chung,
vì sao Bính phải bỏ nhà đi. Bính đã chất phác, giọng nói đầy nước
mắt của Bính càng làm sự chất phác đầy đủ hơn và sắc mặt Bính thêm
linh động với những giọt lệ long lanh.
Người trẻ tuổi sung sướng lạ thường, hắn cố tạo một giọng nói thật
thân thiết, hiền từ mà nhủ Bính:
- Thôi cô đừng lo, để tới 12 giờ trưa tôi sẽ dẫn cô lại nhà bác
Chung tôi.
Hắn tươi cười đón lấy câu cảm ơn rất cảm động của Bính, xong quay
đầu gọi:
- Nhỏ!
- Dạ?
Một đứa bé quần áo cũng chải chuốt ở trong nhà chạy ra. Chợt thấy
Bính đứng trước mặt chủ thì nó lấm lét cười, như biết trước một cảnh
ngộ nghĩnh gì sắp xảy ra. Người trẻ tuổi vội đưa mắt. Nó liền khoanh
tay khúm núm thưa:
- Cậu bảo gì con?
Người trẻ tuổi nghiêng mình móc cái ví ở túi quần, lấy một tờ giấy
bạc một đồng dúi vào tay thằng bé và thầm dặn nó.
Được một lúc thằng bé bưng về một khay những thức ăn khói bay nghi
ngút. Nó chưa kịp đặt các món ăn lên bàn, người trẻ tuổi đã lau một
cái thìa và đôi đũa bằng tờ giấy bản con, hai tay để trước mặt Bính,
mời cầm:
- Cô ăn sáng với tôi. Ăn rồi cùng đi. Hôm qua tôi phải thức khuya để
kiểm tra mấy công việc sổ sách nên đói sớm. Cô ăn đi với tôi cho
vui...
Bính ngần ngại. Tuy từ hôm qua đến nay Bính chưa có hột cơm nào vào
bụng, đói như cào, mà không dám cầm đũa. Mãi khi người trẻ tuổi đưa
đũa và thìa vào tận tay Bính và y ăn trước, vừa ăn vừa giục Bính,
Bính mới rụt rè đón lấy bát cháo.
Bính lập cập mãi mới dám múc ăn Bính mới húp có một thìa đầu đã thấy
ấm ran cả ruột, đến thìa thứ hai thì dạ dày Bính đang cồn cào dịu
hẳn đi, Bính tự nhủ:
- Ông này thật tử tế quá!
Bính chưa ăn hết bát cháo, người trẻ tuổi vội sẻ "mần thắn" sang bát
Bính và tất cả sá síu, tim, gan, trứng gà, Bính luống cuống không
biết nói sao, má đỏ ửng lên, mắt đờ đẫn, nhìn người trẻ tuổi. Hắn
tình tứ nhìn lại. Bính cúi mặt xuống. Hắn mỉm cười.
Đồng hồ treo trên tường ngân nga như một khúc đàn rồi buông chín
tiếng, gieo sâu vào không khí phảng phất mùi nước hoa nhài một âm
thanh náo nức. Người trẻ tuổi còn ép Bính ăn thêm mấy chiếc bánh
ngọt mới gọi thằng nhỏ lên dọn bàn và mời Bính lên trên gác rửa mặt.
Bính bâng khuâng theo người ấy, trống ngực Bính đập mạnh hơn. Bính
không thể nào ngăn giữ sự lo lắng, nghi ngại. Chợt người ấy tới đầu
cầu thang, thì dừng lại nhìn Bính, Bính khép nép nói:
- Thưa ông, cháu... cháu... ông làm ơn dẫn cháu.
Người trẻ tuổi cười:
- Làm quái gì cái đó! Thôi cô lại rửa tay đi, chứ không nước nguội
hết.
Người trẻ tuổi chỉ cái chậu thau bằng sứ để trước tấm gương to, rút
chiếc khăn mặt bông trắng tinh vắt lên vai Bính, vuốt má Bính, Bính
giật mình, vội lui người lại, kêu khe khẽ:
- Ông!.. Ông!..
- Anh chứ!
Bính tái mét mặt, nghĩ ngay đến cái đêm ghê gớm vừa qua. Bính run
không được:
- Thưa ông sao lại thế?
Mắt hắn sáng lên khác thường, hắn nghiêng đầu ngắm khuôn mặt Bính
nhợt nhạt dưới nếp khăn vuông. Bính lập cập lùi dần về phía cầu
thang. Thấy cửa đã khóa trái Bính nghẹn ngào:
- Cháu van ông làm ơn dẫn cháu lại với nhà cháu.
Hắn cười tít mắt, vỗ ngực đáp:
- Tôi là "nhà cháu" đây, còn phải đi tìm đâu cho tốn công?
- Không! Cháu van ông... ông thương cháu.
Hắn cười sặc sụa át cả tiếng sụt sùi của Bính. Hắn rút ví tiền, đếm
năm đồng đưa vào tay Bính:
- Đây ông làm ơn cho cháu.
Nói đoạn hắn bá lấy vai Bính, hôn mãi vào cặp má trở nên xám ngắt.
Bính toan kêu to lên. Hắn bịt ngay lấy miệng Bính:
- Cô kêu ai bây giờ? Biết điều thì im nghe tôi...
Hắn đã ôm xốc Bính vào lòng, bế đặt lên cái giường tây gần đấy. Cửa
màn tụt ngay xuống. Hắn liền cưỡi lên người, ngực ép ngực, má ép má,
cặp mắt sáng quắc chiếu lên cặp mắt long lanh.
Bính mềm nhũn cả người. Cặp vú cương sữa tưởng sắp vỡ bung.
Bính rùng mình. Bính định nói, định van thì cổ ứ lại.
Bính xanh mắt lên trông gian buồng âm u giữa buổi trưa mùa thu trong
sáng, và ú ớ nói những tiếng nhỏ nhỏ trong cổ họng như một người bị
cơn mê bóp nghẹt:
- Giê su ma... Con chết mất! Lạy chúa con. Không!... Không!...
... Bỗng ngoài cửa đập thình thình. Bính chưa kịp ngồi dậy thì cánh
cửa đã bị đạp tung. Một người đàn bà nhảy xô vào túm chặt ngay đầu
Bính. Người trẻ tuổi cuống quít vớ vội cái áo chạy mất. Bính mặt cắt
không còn hột máu, kêu thất thanh:
- Ông! Ông bỏ tôi à?
Bao nhiêu ghen tức điên cuồng ngụt bốc lên, người đàn bà, mặt đỏ
bừng, dìu luôn đầu Bính vào nách rít lên:
- Này bỏ tôi à!... Này bỏ tôi à!... Này bỏ tôi à!...
Mỗi một tiếng rít lại theo một tiếng gằn nghe ghê hết cả da thịt.
Người đàn bà nghiến răng, quắc mắt, rút guốc phang Bính chẳng từ mặt
mũi, Bính giằng không ra. Người đàn bà to béo khỏe hơn nhiều! Cực
chẳng đã Bính hết van lơn lại khóc lóc. Nhưng người nọ cứ tru tréo
ầm ĩ, sỉa sói vào mặt Bính, vừa rủa sả...
Ván gác dận sầm sầm. Bính khản đặc nói không thành tiếng. Bính khủng
khiếp đau xót vô cùng.
Hàng phố kéo đến xem thoáng chốc đã đông nghịt cả nhà dưới. Mấy
người đàn bà quen vợ gã trẻ tuổi rẽ đám đông lên gác. Theo sau họ,
hai người đội xếp, một người tây và một người ta.
Người đàn bà nọ vẫn gầm thét, đánh đập Bính. Người đội xếp ta vội
chạy lại giằng lấy guốc. Người đội xếp tây kéo Bính dậy. Nhưng Bính
mình mẩy đau dừ, rã rời, quằn quại như con sâu rau bị xéo. Dưới mớ
tóc tả tơi, mắt Bính sưng vù, nổ đom đóm, ràn rụa nước mắt.
Thấy có đội xếp đến can thiệp, mụ vợ người trẻ tuổi bèn quấn vội mớ
tóc rối, sấn đến trước người đội xếp tây, soi sói chỉ mặt Bính nói:
- Thưa ông con này là hàng đĩ lậu ghê gớm lắm, bao nhiêu "a dăng"
cũng phải lòng nó hết. Giờ nó lại quyến rũ đến chồng con. Nó dám ban
ngày ban mặt dẫn xác đến nhà con ngủ với chồng con. Bao nhiêu tiền
lương của chồng con, nó bòn rút hết, nó... nó...
Người đội xếp tây xua tay ra hiệu đừng nói nữa và bảo người đội xếp
ta đỡ Bính dậy, Bính cố gắng kéo lê người lại gần giường nhặt lại
khăn vuông đội, mặt chỉ gằm xuống.
Bính càng gạt, nước mắt càng đầm đìa; Bính tưởng đến đứt ruột mất.
Mấy bà đứng xem đã không tỏ chút thương hại, một người còn mắng như
tát nước vào mặt Bính.
- Thôi, đồ đĩ trăm thằng, nghìn thằng, đồ voi giày ngựa xé, xéo đi,
xéo ngay đi, chẳng các mẹ mày ngượng mặt lắm rồi.
Trẻ con cũng thi nhau cười vang lên và chế nhạo Bính.
Vợ người trẻ tuổi thưa Bính là một gái chuyên mãi dâm không có
"giấy", nên khi lên đến "bóp" chính, viên cẩm truyền giữ Bính lại để
chờ thứ sáu tới, thì đưa Bính sang nhà thương khám xét để rồi bộ
phận "đội con gái" quyết định.
Chương 4
Bính co ro ngồi ở góc tường chờ viên cẩm đòi hỏi.
Mấy người cảnh sát ngồi gần đấy bàn tán xì xào. Một trong bọn nhìn
chõ vào mặt Bính, nói:
- Trông người ngoan thế này ai ngờ lại đi "ăn xu".
Bính đưa mắt ai oán nhìn người ấy. Một người trẻ nhất chạy lại, nâng
ngược cằm Bính lên hỏi:
- Ai dạy cái liếc vừa rồi đấy? Liếc tình quá! Chắc hẳn là "miềng"
của "sừ" Lân đây?
Người khơi mào chuyện liền phát mạnh người trẻ tuổi, lườm nói:
- Có đẹp bằng tiên tôi cũng chẳng thèm. Báu gì cái hạng gái này.
Người trẻ tuổi nửa cợt nửa thật, vuốt má Bính, ngoảnh nói với mọi
người:
- Thôi các ông ấy đều chê cô, vậy tôi nhận với ông cẩm cô là người
nhà tôi, rồi tôi về nhà tôi nhé?
Một loạt cười ran lên. Bính gục đầu vào lòng. Những tê tái cực nhục
lại đến xâu xé tim Bính.
Bỗng cánh cửa kẹt mở. Cả bọn cảnh sát đứng phắt dậy, phưỡn ngực,
hếch miệng, giơ tay chào. Viên cẩm ngồi xuống ghế, châm thuốc lá hút
rồi hất hàm ra lệnh cho Bính lại.
Bính khúm núm, run rẩy, chắp tay đứng trước bàn giấy không dám ngẩng
mặt lên, vì sợ gặp phải cặp mắt hóm hỉnh nhưng nghiêm nghị nọ chăm
chú nhìn. Viên cẩm nhả nốt làn khói thuốc lá, chậm rãi hỏi Bính bằng
tiếng ta:
- Mày đã kiếm tiền mấy năm rồi?
Bính tái mét mặt mãi mới dám cất tiếng thưa:
- Lạy quan lớn thương xét cho con, con chẳng biết kiếm tiền là cái
gì hết.
Viên cẩm mỉm cười:
- Tốt!
- Lạy quan lớn.
- Làm đĩ, tốt!
Bính run rẩy:
- Quả con oan, con bị bắt oan.
Viên cẩm vẫn giữ nụ cười dưới núm ria gật gù hỏi Bính:
- Không làm đĩ thật chứ? Không làm đĩ mà lại có bệnh kín à?
Bính bàng hoàng kinh sợ quá chừng. Sự bực tức như kết thành khối đưa
lên cổ Bính. Bính tái mét mặt chực nói thì viên cẩm đã rút ra một tờ
giấy ghép ở cái cặp trên bàn rành rọt cắt nghĩa cho Bính nghe:
- Quan đốc tờ chứng nhận thị Bính không còn...
Đến đây ông ngừng lại, quay đầu hỏi người đội xếp ngồi phía tay
trái:
- Virginité là gì?
- Bẩm, bẩm là trinh tiết.
Y liền "à" lên một tiếng và gật gật cái đầu: à! à! Trinh... trinh
tiết, và có bệnh lậu!
Bính luống cuống, chết lặng người đi. Bính hiểu rõ vì ai Bính có
bệnh rồi. Chỉ thằng trẻ tuổi đó đổ cho Bính cái bệnh ghê khiếp xấu
xa ấy. Và cái giấy chứng chỉ không biết của ông đốc tờ nào kia thật
giết Bính một cách đau đớn hơn gươm giáo. Bính nức nở, viện hết
tình, hết lẽ cãi chữa, song viên cẩm chỉ lắc đầu. Y còn lạ gì cách
khéo nói và những điệu bộ của gái giang hồ. Y đăm đăm nhìn Bính khóc
lóc thảm thiết.
Nét mặt Bính ngây dại rầu rĩ làm y phải lắc đầu tự nhủ: "Sao xã hội
bây giờ lại lắm gái đi kiếm tiền còn trẻ thế này? Mà hết thảy khi bị
bắt đều có những giọt nước mắt và những điệu bộ rất cảm động, những
ngôi sao màn ảnh chắc đâu đã tự nhiên bằng!".
Y trầm ngâm một lúc rồi cất tiếng:
- Mày ở đâu? Bảo để quan lớn cho nằm chữa ở nhà thương rồi khỏi thì
theo người giải về quê.
Bính lạnh toát cả người. Bính tưởng đến bao nhiêu cay đắng nhục nhã
sắp sửa giày vò Bính nếu Bính bị giải về cái làng cay nghiệt quái ác
lạ thường kia.
Đeo một cái tiếng theo giai, Bính như đã chết đi nửa phần. Nay lại
thêm cái tiếng đĩ thõa thối thây dày da thì Bính thật không đủ sức
chịu đựng được. Bính đến chỉ còn cách tự vẫn thôi. Vậy thà nhịn đói
mặc rét héo hắt chết dần chết mòn ở tỉnh còn hơn về quê hương nương
nhờ bố mẹ, rồi lại chịu thêm bao nỗi đòi đoạn khác.
Bính hoa mắt lên, liền thưa:
- Bẩm con không biết quê quán đâu cả.
Viên cẩm biến nét mặt, nhại Bính với một giọng mai mỉa:
- Bẩm con không biết quê quán đâu cả?
Bính tưởng y hỏi lại mình liền chân thật đáp:
- Vâng ạ!
Viên cẩm cười ồ:
- Thế thì con là đĩ trăm phần trăm rồi còn khóc lóc màu mè gì nữa.
Y vừa dứt tiếng, một người đàn bà đẩy cửa bước vào. Bính ngẩng đầu
nhìn: chính là vợ thằng trẻ tuổi. Người ấy nhanh miệng chào:
- Lạy quan lớn ạ!
Viên cẩm gật đầu, tươi cười hỏi luôn:
- Chị chắc chắn con này làm đĩ chứ?
- Bẩm quan lớn chắc chắn lắm ạ! Chính mắt con trông thấy nó đi với
hàng trăm người.
- Có một trăm người thôi ư? ít quá!
Y vừa nói vừa cười, những nụ cười dưới bộ ria mép rậm và đen càng
thêm tai quái.
Bính uất ức long mắt lên bảo vợ tên trẻ tuổi:
- Chị nói dựng đứng thế mà không sợ chết tươi à?
Mụ nọ sấn đến bên Bính, lấy ngón tay dí vào trán Bính:
- Gớm đồ gái đĩ già mồm. Bà thèm đặt điều cho cái hạng mày bán trôn
nuôi miệng để làm gì?
Nói đoạn mụ nói với viên cẩm rằng mụ có mấy người làm chứng biết tỏ
tường gốc tích của Bính, vậy xin ông cho phép chị ra gọi. Viên cẩm y
lời. Một lúc sau vợ thằng trẻ tuổi dẫn đến một người đàn bà trạc
ngoài ba mươi, nước da ngăm đen, mắt sắc như nước và người khô như
con mắm. Mụ ấy chào viên cẩm xong, đứng lui ra một bên. Viên cẩm gọi
lại hỏi:
- Chị biết con này làm gì? Xưa nay ở đâu?
Mụ đáp rất trơn tru:
- Bẩm quan lớn trước kia nó ở Hà Nội bán rau ở chợ Đồng Xuân, hơn
hai năm nay nó xuống Hải Phòng, con tưởng nó buôn bán tử tế, ai ngờ
lại xoay đi "ăn xu". Nhiều lần con bắt gặp nó đi với nhiều người. Nó
mượn tiếng buôn bán bòn rút thiên hạ cũng lắm tiền. Nhất là chồng
người này mất cho nó có tới bạc trăm và nghe đâu còn bị nó đổ bệnh
cho nữa.
Bính nghe mà cổ nghẹn ứ. Bính chỉ muốn chạy đến tát vào cái mồm cong
cớn ấy mấy cái nhưng thấy vẻ mặt đáng sợ của người tây nọ, Bính phải
cố nén, đứng im.
Chờ người đàn bà làm chứng khai xong, viên cẩm bèn hỏi vợ thằng trẻ
tuổi:
- Bây giờ chị định thưa con này về tội gì?
Mụ nọ vênh váo nhìn Bính rồi nói:
- Thưa quan lớn nó làm đĩ mặt dạn mày dày nên con không muốn lôi
thôi với nó. Con chỉ ước ao quan lớn bỏ nó vào nhà "thổ" trước hết
là nó được miếng ăn mà không khó nhọc, như thế hợp với ý nó, sau cho
nó khỏi đi ngang về tắt, đỡ hại cho chồng con chúng con.
Viên cẩm vui vẻ hất hàm cho hai mụ nọ lui ra, rồi truyền một người
đội xếp ta dẫn Bính sang sở Liêm phóng để lấy căn cước.
Bính bàng hoàng theo người đội xếp ra ngoài. Gạt thầm nước mắt, Bính
xót xa trông các kẻ qua lại rộn rịp và những ô tô bóng loáng vùn vụt
chạy dưới rặng xoan phấp phới những ánh vàng tươi của trời thu trong
ấm. Cùng lúc ấy, vợ thằng trẻ tuổi và mụ làm chứng phởn phơ nhảy lên
xe.
Xe đã chạy xa, cả hai còn ngoái cổ lại nhìn Bính lùi lũi đi, cười
bảo nhau:
- Giờ hồn cho con nào còn mon men trêu vào chồng con các bà.
Chương 5
Hai hôm nay mưa phùn không ngớt, mây trời cứ xám ngắt, nên phố Hạ Lý
càng vắng càng buồn.
Những chõng và những ghế của sáu, bảy hàng nước ở vỉa hè xếp đống cả
lại, nhường chỗ cho tụi trẻ con bán "phá xa", bán bánh ế, cho những
phu xe nghiện ngập nhỡ tầm thuê xe và mấy gã chuyên nghề "ma cô" và
bảo vệ con em của các nhà chứa tụ họp, giở "bất", "đố mười" ra sát
phạt nhau. Tụi khách ở các "siệng" lên và nghỉ việc ở Sáu kho về
cũng cờ bạc. Nhưng không bệ rạc quá như bọn trên kia, bọn y tụm năm
tụm ba trong những hàng vừa bán cà phê, phở, bánh trái, vừa bán cá
mặn, mắm muối, gạo, củi, vừa có cả thợ may, thầy lang, thầy tướng
số.
Lớn bé đều chúi mũi vào những quân bài đỏ, những mẫu gỗ, bóng nhẫy,
và, vẻ mặt đều bừng bừng. Khác hẳn, những kẻ qua đường bước rất gấp,
nhăn mặt nhổ bọt luôn. Vì gió rét thổi mạnh tạt vào mũi họ những mùi
tanh tởm của rác bẩn chất thành đống ở các khoảng đất hoang, ở các
cống rãnh ứ bùn trộn lẫn với mùi hôi hám của suốt hai dãy nhà chật
hẹp nhớp nháp đưa ra mà dân phố đã quen rồi. Hơn nữa, vì họ sợ cái
sinh hoạt tối tăm ở phố "mãi dâm" này.
Bính nhân lúc vắng khách, vào buồng riêng nằm cho đỡ mệt.
Đã hai tháng, sau khi ở nhà "lục xì" ra, Bính được mụ Tài-sế-cấu
nhận đem về nuôi. Mụ đã có bảy con em, Bính là thứ tám, người ta gọi
Bính là Tám Bính. Cái tên kép không thể nào không có được của gái
giang hồ.
Mới có hai tháng thôi, mà Bính coi dài bằng hai năm. Các nỗi đau đớn
trong lòng Bính mỗi ngày một nhiều. Người Bính mỗi ngày một héo hắt,
ốm yếu thêm. Bính không thể tiếp khách được nữa.
Khốn nạn! Khách có ra hồn khách. Người nhiều tiền thì đã đi cô đầu
gái nhảy nên chỉ có rặt những lưu manh thất nghiệp bê tha, rửng mỡ
hay may mắn lắm, ông "bồi", ông bếp, bác "tài", bác "ét" là vào chốn
này.
Được vài ba hào của họ thật mướt mồ hôi trán. Có khi xong xuôi đâu
đấy, họ còn kéo dài giờ ra bằng những câu chuyện đểu cáng xen vào
những cái cấu véo cháy cả đùi non. Họ hành đủ thứ cho đáng món tiền
tiêu mà họ vất vả và đủ cách mánh lới, xoay giở mới kiếm được. Và họ
lấy làm sướng mắt trước sự rã rời nhục nhã của người nhận tiền mà họ
cho rằng chẳng còn biết những gì nữa.
Trong bọn con em của mụ Tài-sế-cấu, Tám Bính thường được họ thưởng
thêm vài hào vì Bính đẹp, ngoan ngoãn, lẳng lặng hằng giờ như súc gỗ
dưới những thân thể nặng gần bằng súc gỗ, chịu đựng mọi sự vày vò,
hành hạ.
Nghĩ đến đấy, Tám Bính rùng mình, đưa cặp mắt ám khói trông gian
buồng chật hẹp, ngăn cách buồng bên bằng những ván gỗ ghép liền đã
mục nát và nhơ nhớp những vệt quệt trầu như máu đọng, có một chiếc
mành sơn trắng chằng chịt mạng nhện ở lối ra vào, và một ngọn đèn
vách lù mù vì thông phong chẳng bao giờ trong sáng ở góc tường.
Gian buồng tối tăm đó với tấm phản thấp lè tè sực mùi gỗ mọt và mùi
chăn gối, màn chiếu hôi hám ấy sẽ ám ảnh mãi mãi đời các gái giang
hồ. Và tất cả những đồ vật không hề thay đổi dù cũ nát chừng nào
trong nhưng gian buồng nọ như có một sức mạnh lôi giữ người làm đĩ
không cho trở về sự sống sáng sủa nữa. Nó làm u ám tâm trí người ta,
và, khi cái tươi sáng bình tĩnh của tinh thần đã mất thì người ta
còn đâu ý muốn vượt mình lên?
Bính đau xót úp mặt xuống cái gối bông vuông. Gương mặt Bính trong
bóng tối lẫn với màu vải hoen ố mồ hôi vàng. Bính thở lừ khừ. Phải,
Bính mệt và ốm lắm rồi.
Dưới cái làn không khí bao giờ cũng nặng nề khí đất ẩm ướt và chăn
chiếu bẩn thỉu, không yếu đau là một sự lạ chưa từng thấy. Huống chi
Bính lại lấy ngày làm đêm, đêm làm ngày, và ăn uống kham khổ hết
sức, bữa nào không vài miếng đậu phụ om, đĩa rau muống luộc thì lại
cá vụn kho, dưa muối xổi, cà giầm tương, hỏi còn sức nào để chiều
theo lòng ham muốn vô chừng của các khách mua vui.
Mãi đến hôm kia, sau sáu mươi đêm ròng rã ít khi chợp mắt, Bính
chẳng còn thể ăn uống gì được, người lúc nào cũng hâm hấp như sốt và
gầy rộc hẳn đi. Thấy Bính thế bất đắc dĩ mụ Tài-sế-cấu phải cho Bính
nghỉ ngơi dăm ba buổi.
Song đêm qua, Bính còn phải thức đến ba giờ đêm để tiếp chuyện một
ông cai xe cho ông khỏi phật lòng vì xưa nay ông vẫn lui tới nhà này
và có tiếng là "sộp" hơn cả.
... Bính tê mê chua xót rồi chợp mắt thiu thiu ngủ. Tâm trí Bính lạc
vào một cảnh mộng rất khủng khiếp. Một hôm Bính ho ra máu, cách ít
lâu, thuốc thang không có, Bính kiệt quá rồi chết. Bính cũng nằm
trong gian buồng này, dưới ánh sáng ngọn đèn vách tù mù và cái không
khí hôi hám này, cũng gối đầu trên cái gối vàng mồ hôi, và cũng
không ai ngồi bên mình hết. Mụ Tài-sế-cẩu bỏ Bính đi, không đả động
gì đến việc ma chay. Mỗi ngày thây một rữa ra, mãi khi bốc hơi thối
và nhung nhúc ròi bọ, hàng xóm mới biết. Người ta vội thuê vài người
phu chợ đùm Bính trong chiếc chăn cũ rồi đem đi chôn.
Tấm áo quan bằng gỗ mỏng đu đi đu lại, cọ vào chiếc thùng treo lủng
lẳng ở đầu đòn ống làm thành những tiếng kẽo kẹt thay cho tiếng khóc
viếng.
Bấy giờ bố mẹ Bính đang tíu tít đong bán ở nhà quê. Hai em Bính và
đứa con thơ thản nhiên không hay biết. Còn người chồng bội bạc kia
thì đương vui thú với ai chẳng bợn nghĩ tới người vợ đọa đày.
Cái chết của Bính thật giống hệt cái chết của hạng người ăn mày khốn
cùng không thân thích chết đường chết chợ...
Bỗng, qua khe ván, gió rét lùa vào buồng, đánh tan giấc mộng. Bính
mở choàng mắt ướt đẫm. Bính trở lại với sự hiện tại. Nhưng nó chẳng
kém vẻ thảm khốc, trái lại càng làm Bính đau đớn ghê sợ hơn. Bính
cực lòng khóc nức nở, Bính chán nản vô cùng. Bính hết hy vọng, hết
cả mọi hy vọng.
Sực nhớ đến chai dấm mua ban sáng để chế với nước mắm chấm rau dần,
Bính bưng mặt, ngẫm nghĩ, đoạn lắc đầu nức nở khóc vừa mon men lại
đằng mặt hòm gần cuối giường lục tìm cóng thuốc phiện hôm qua người
cai xe hút bỏ lại trên bàn đèn.
Chợt mành mành vén lên, Hai Liên bước vào cười gọi Bính :
- Chị Tám Bính làm gì đấy? Buồn định tìm thuốc để hút phải không.
Tốt! Em tiêm cho nhé!
Bính hốt hoảng quay lại, tay hất phải chụp đèn, phao dầu lạc đổ vũng
cả mặt hòm. Hai Liên vội trèo lên giường, kéo Bính vào lòng hỏi:
- Kìa sao mà mặt chị nhợt nhạt thế kia?
Bính rũ người ra không đáp. Hai Liên hỏi dồn:
- Hay chị cảm đấy? Chết! Thế mà không gọi, định vớ vẩn tìm cái gì ở
bàn đèn ấy?
Bính càng nức nở rồi bật nói lên:
- Em chỉ muốn chết thôi!
- Chị muốn chết?!
Bính mím môi lại nhìn Liên, nức mãi lên. Hai Liên ái ngại, ngắm nét
mặt buồn rầu xanh xám của Tám Bính và cái thân hình gầy rạc đi, ngực
kẹp lép, chân tay khẳng khiu, thì nghĩ ra ngay được nguyên nhân.
Đồng thời cả một quãng đoạn trường chua xót mà Liên đã trải qua hiện
ra rất rõ trong trí nhớ Liên. Hai Liên chạnh lòng nhẹ vuốt mái tóc
Bính:
- Em thương chị quá!
Bính thổn thức:
- Em biết lắm! Trong nhà này chỉ có chị là thương em, còn ai cũng
ghen ghét em, xúi giục mụ Tài-sế-cấu bắt em ngày đêm tiếp khách. Họ
coi em như một kẻ đã cướp mất miếng ăn, manh áo sự sung sướng của
họ, mà nào em có thế và có bao giờ muốn thế đâu?!
Dứt lời Bính gục chằm mặt xuống đùi Hai Liên, nước mắt nóng đẫm cả
một mảng quần Hai Liên. Hai Liên nắm chặt lấy tay Bính, ủ vào ngực
khẽ nói:
- Đàn bà với nhau đấy!
Bính nuốt ừng ực sự nghẹn ngào:
- Mà sao trong cùng cảnh khổ lại như chỉ chực ăn thịt lẫn nhau?
Hai Liên lắc đầu, giọng nói lại cao hơn:
- Thôi! Chị nghĩ đến những điều ấy làm gì cho nẫu ruột! Đừng buồn
nữa chị ạ. Chị mà tự tử chỉ thiệt thân thôi. Bố mẹ anh em ai biết
đấy là đâu! Mồ mả mình ai thăm viếng? Chị nên gắng gượng ăn uống cho
lại người rồi năm bảy tháng, một năm quen dần đi, cái cảnh bán trôn
nuôi miệng này sẽ không đến nỗi khó chịu lắm đâu.
Bính xanh mắt:
- Quen được cơ à, chị?
Hai Liên cười nhạt:
- Hẳn chứ lại, nếu không sao có người ở với đời.
Dứt câu ấy, Hai Liên thẫn thờ nâng cằm Bính lên:
- Vậy em đố chị năm nay em bao nhiêu tuổi và đã ở đây bao nhiêu lâu?
- Chị ngoài ba mươi là cùng, còn cái ở đây bao nhiêu lâu thì em xin
chịu!
Hai Liên lại mỉm cười:
- Bà chị tôi muốn tôi già như thế ư? Tôi hơn chị có bốn tuổi mà chị
năm nay hai mươi phải không?
Hai Liên mặc Bính trừng trừng nhìn mình thong thả nói tiếp:
- Đấy chị xem, em khổ biết là chừng nào, có lẽ hơn chị nhiều lắm,
nhưng em vẫn cố gắng chịu. Mới có ba năm thôi, em sa vào chốn này mà
em già hẳn đi. Trước kia em cũng đã có định tự tử vì nhục nhã quá,
song, khi nghĩ đời mình, cái nghề này có gì là xấu, mình cũng phải
vã mồ hôi rơi nước mắt để kiếm miếng ăn cơ mà.
Hai Liên ngừng lại một giây, chấm những giọt nước mắt ứa ra ròng
ròng xuống gò má:
- Vả lại thiên hạ còn chán vạn người cơ cực điêu đứng hơn ta, mà họ
vẫn mong có ngày mở mày mở mặt; ta được như thế này cũng chưa đến
nỗi nào vậy ta không được hủy cái thân ta đi.
Hai Liên muốn nói nữa thì Bính hổn hển ngắt lời:
- Nhưng cứ ở đây cho đến ngày trọn đời sao?
Hai Liên ái ngại; cau mày ngẫm nghĩ một lát rồi bảo Bính:
- Chị muốn rời bỏ chốn này lắm phải không? Thôi được, chị chịu khó
nấn ná ít lâu nữa để em thuốc thang cho, khi nào thật khỏe mạnh em
sẽ đánh mối giúp chị một người có thể xé giấy(1) lấy chị, hoặc em sẽ
giúp chị _________________________ 1. Tờ giấy này có tên tuổi quê
quán, và cả hình ảnh cả điểm chỉ của người làm đĩ, giấy đó có hai
bản sao, một ở sở cẩm chính, một ở tay chủ chứa. Ai muốn lấy người
đàn bà đó phải đưa tiền cho chủ chứa để họ rút bản sao trong tay họ,
và dẫn lên cẩm rút bản sao ở sở cẩm ra.
số tiền để chị tự xé giấy mà ra khỏi cái nơi sầu khổ nhục nhã này.
Bính ứa nước mắt, run rẩy hỏi Hai Liên:
- Nhưng sao chị không xé giấy cho chị?
Hai Liên cười nhạt đáp:
- Em không cần, ở đây quen rồi!
- Chị thích ở đây?
- Phải, chị ạ!
Bính ngạc nhiên hết sức, không hiểu Liên có thực tình giúp mình hay
chỉ nói lấy lòng trong chốc lát. Vì có đời nào một người đàn bà lại
chịu mãi được cái cảnh bán trôn nuôi miệng này.
ý nghĩ ngờ vực ấy lộ hẳn trên nét mặt Bính, Liên cảm thấy ngay liền
bảo Bính:
- Em không lừa dối chị đâu tuy em thường "khấu bộp" mọi người để lấy
tiền. Chị tính một người hiền lành nhu mì, lại cũng là đàn bà chung
một số phận khốn nạn với em, em làm thế sao đang tâm!
Bính vội hỏi:
- Nhưng tiền nào mà chị sẵn thế? Và chị không muốn xa lánh nơi này
để lấy chồng rồi sinh nở mà nhờ chồng con sao?
Nỗi cay đắng bất tuyệt vì câu hỏi chất phác ấy phút chốc bừng cả lên
trong lòng Hai Liên. Liên bùi ngùi trông Bính, đôi mắt càng long
lanh:
- Em chỉ nhờ thiên hạ thôi.
- Mãi được ư?
- Hẳn chứ, cho đến khi hai tay buông xuôi!
Bính toan hỏi, Hai Liên đã nói luôn:
- Em chẳng cần gì con cái cả vì như em còn hòng gì sinh nở được nữa.
Còn chồng hễ ai có tiền bước vào nhà này là chồng. Em chỉ yêu tiền,
yêu người có tiền thôi! Em sống là sống được ngày nào hay ngày nấy,
đâu như chị đã có một đứa con trai tuy chị phải xa nó và chị lại còn
có thể sinh nở, còn có thể có cái sung sướng với cảnh xum họp bầu
bạn chồng con.
Hai Liên và Tám Bính đều im lặng, mỗi người một cảm giác tê mê và
đau xót.
Hai Liên tuyệt vọng, nhìn thấy tất cả mọi cái trống trải cằn cỗi của
đời mình. Trái lại, Tám Bính lại hy vọng. May ra Bính sẽ thoát cảnh
này và trở về với con làm ăn xum họp. Bàn tay Bính nóng ran lên giữa
bàn tay Hai Liên giá ngắt, run bần bật. Bính ngây ngất trong lòng.
Hai mắt Bính chói rực dưới cặp mắt Hai Liên lờ đờ như theo tìm một
ngày tươi sáng đã qua.
Chương 6
Tối nay các tay "anh chị" họp đủ mặt ở nhà Năm Sài Gòn.
Người mặc quần lĩnh, áo nhiễu tây trắng cổ bẻ, đi săng đan bốn quai,
là Tư-lập-lơ, trùm chạy vỏ(1) trong chợ Sắt. Anh chàng béo nục, bụng
hở trễ ra, gương mặt vàng ệch, hai cánh tóc vắt qua vành tai và tóc
mai dài chấm cằm gọi là để theo một mốt "phi-lô-dốp" là Sáu gáo
đồng, cầm đầu các kẻ chuyên môn dắt díu những "cơm thầy cơm cô" ở
vườn hoa Đưa người. Anh chàng gầy, lông mày lưỡi mác, môi đỏ chót,
ngồi bên Tư-lập-lơ là Ba Bay mà khắp tỉnh Hải Phòng không một sòng
bạc không kiềng mặt bởi cái đức tính liều thục mạng và mở bát bửa.
Còn hai anh đang lim dim mắt và thỉnh thoảng lại ngáp dài là Chín
Hiếc và Mười Khai cùng một nghề nghiệp với Tư-lập-lơ. Hai chàng
nghiện oặt này đứng cai quản các cánh ăn cắp suốt dọc bến tàu, suốt
phố khách, phố đầu cầu và những phố đông đúc khác.
Hà Nội thủ đô xứ Bắc Kỳ, một thành phố đầy rẫy sự ăn chơi xa xỉ, đã
tạo ra một số gái mãi dâm nhà nghề không thể đếm xiết, thì Hải
Phòng, một hải cảng sầm uất bực nhất của Đông Dương, một thành phố
công nghệ mở mang, với hơn ba mươi nghìn dân lao động bần cùng ở các
tỉnh dồn về, cũng có một đặc điểm là sản xuất được một số "anh chị"
gian ác, liều lĩnh không biết là bao nhiêu.
Cùng Năm Sài Gòn, năm tướng trên kia làm đại biểu cho tụi "anh chị"
càng ngày càng nhiều, càng hung tợn của đất đồng chua nước mặn nọ.
Nhả xong khói thuốc phiện, Tư-lập-lơ nhìn thẳng lên trần nhà, nghĩ
tới phiên chợ ngày mai thể nào chả có vài món tiền mà các "tiểu yêu"
của hắn sẽ "hiếc"(1) hay _________________________ 1. Hiếc: lần lưng
móc túi "khai"(1) được. Gối đầu lên đùi hắn, Năm Sài Gòn lơ mơ nhìn
khoảng không. Chàng này lúc nào cũng thế, nét mặt không bao giờ mất
vẻ điềm tĩnh tự nhiên. Cứ trông lốt dao chém sâu lõm từ trán xuống
mang tai, người ta cũng đủ hiểu rõ Năm không còn sợ hãi những cái
người ta kinh khiếp.
Sáu gáo đồng tiêm xong điếu thuốc, nâng giọc tẩu vào tận miệng Năm
Sài Gòn mời đi mời lại. Nhưng Năm không buồn nhấc môi. Hình như bữa
nay Năm chán thuốc phiện mà mơ tưởng một sự say sưa nào khác lạ hơn.
Ba Bay liền đón lấy, xin phép Năm. Hắn rụt hẳn cổ lại, hai vai gầy
so lên quá mang tai, lấy gân cổ kéo một hơi dài vo.. vo... vo...
Tiếng vo... vo... đều đều vang trong ba gian nhà lá rộng rãi và cao
ráo, có cả tủ đứng, sập quang dầu, giá gương, đỉnh đồng và tranh
tàu. Nó khác hẳn những gian nhà lụp xụp ẩm nhớp, mái thì dột nát,
phải che đậy bằng chiếu, bằng vải bao, bức vách thì lở vữa, ám khói,
đầy mạng nhện, giường phản thì thấp hẹp bề bộn quần áo chăn chiếu,
hôi hám rách rưới, những gian nhà cùng ở xóm này của những gia đình
làm ăn vất vả, túng thiếu, họ là những thợ thuyền, phu phen buôn
thúng bán mẹt và thất nghiệp không thể nào mon men lên trên phố đành
phải chui rút ở cái vùng Chợ con, muỗi, bọ và ao đầm ngập rác này.
Đợi Ba Bay hút xong, Chín Hiếc giục Sáu gáo đồng tiêm cho hắn một
điếu to để hắn lấy hơi hiến anh em một chuyện rất lý thú. Chuyện
thuật sau đây:
1. Khai: Vắt túi xẻo đẫy.
"Tối hôm kia, hồi mười giờ, một tiểu yêu của Chín về báo với hắn có
một người đàn bà ở tàu chạy Hồng Gai lên, bế một đứa con nhỏ tuổi.
Hai mẹ con chị này sang lắm: mẹ vận quần lĩnh, áo nhiễu tây nâu, con
mặc quần lụa hồng, áo gấm lam, đeo vòng khánh vàng và khóa xích bạc.
Nó hết sức theo dõi nhưng không làm sao đến gần được vì "bỉ"(1) này
"hắc"(2) lắm. Nó còn khoe với hắn cái "thắt đớm"(3) của chị ta phồng
lên một nấc, chắc chắn là nấc bạc giấy. Lúc bấy giờ người đàn bà
đương lò mò tìm nhà quen ở đường Lạc Viên.
"Hắn tức tốc đi luôn, một lúc thì đuổi kịp người đàn bà. Sương đã
xuống, trời tối mờ. Hắn không rõ mặt người ấy. Mãi sau nhờ ánh đèn
điện đằng xa, hắn mới nhận thấy đôi mắt rất sắc trên gương mặt trái
xoan lóng lánh đôi hoa tai vàng. Đường thật là vắng vẻ. Một chiếc xe
tay đi khỏi thì không còn một bóng người khác. Chín Hiếc vội rút dao
ra, nhảy xổ lại bóp cổ dìm người đàn bà xuống đường. Thằng tiểu yêu
theo sau bế ngay đứa bé chạy ra lối ao than. Người đàn bà không kịp
kêu lên một tiếng, Chín đã cắt đứt ruột tượng. Sờ lên đôi hoa tai,
hắn không tháo mà nghiến răng dứt nốt. Hắn lẳn gói bạc vào túi áo
trong đoạn lần khắp người đàn bà. Nhưng không thấy tiền nong gì nữa,
hắn bèn rút thắt lưng, trói nghiến chân tay người ấy lại và lấy mùi
soa nhét đầy miệng. Trong chớp mắt Chín đã đặt người ấy còng queo
trong khu vườn hoang bên đường. Hắn
1. Bỉ: đàn bà con gái.
2. Hắc: cẩn thẩn khôn ngoan.
3. Thắt đớm: thắt lưng.
nói đến đây cả bọn nhao nhao lên hỏi:
- Có " tễ bứu"(1) không?
- Bao nhiêu "thạnh"(2).
Chín Hiếc so vai cười nhếnh một cái rồi móc ở túi ra 12 tờ giấy bạc
một đồng và 10 tờ giấy 5 đồng. Hắn đưa mắt trông một lượt, thong thả
nói:
- Trước hết tôi biếu anh Năm "trách chợm"(3), còn mỗi anh "kẹo
thạnh"(4).
Năm Sài Gòn cười nhạt:
- Thôi tôi không cần tiêu lắm, còn chú đương túng thì cứ giữ "trách
chợm" này mà tiêu.
Chín Hiếc trầm ngâm, mắt hắn vừa thoáng gặp cặp mắt long sòng sọc
của Năm.
Hắn vội nói:
- Anh không cần nhưng em muốn anh cứ cầm lấy và đây em đưa thêm
"chợm gập"(5) nữa để anh xe pháo.
Tư-lập-lơ lấm lét chờ Năm nhận nhời mới hất hàm hỏi Chín:
- Thế "khánh vọt"(6) với "không bẹt"(7) đâu?
Chín Hiếc vội cười đáp:
- ấy tôi suýt quên thằng "vỏ lỏi" (8) bế đứa bé ra ao
1. Tễ bướu: nhiều tiền.
2. Thạch: đồng.
3. Tránh chợm: một chục.
4. Kẹo thạnh: năm đồng.
5. Chợm gập: mười lăm đồng 6. Vọt: vàng.
7. Không bẹt: khóa vòng bạc.
8. Vỏ lỏi: ăn cắp còn nhỏ tuổi.
than chực tháo khánh và vòng xích thì có bốn "so quéo"(1) ở trong ấy
đi ra bắt gặp nó, nó hoảng hốt vội vứt đứa bé xuống một cái hố rồi
chạy mất. Một lúc sau tôi và nó đến thì người đã đến xem đông kín cả
đường. Lại thấy cả bóng "cớm chùng" và "cớm tẩy"(2), tôi phải bấm nó
rồi cả hai "ngũ đị"(3) thẳng.
Ba Bay liền nhíu đôi mày lưỡi mác nhè nhè hỏi Hiếc:
- Bỉ ấy có "te"(4) không?
- Te thì mày làm gì?
- Rõ phí của!
Cả bọn cười vang lên. Năm Sài Gòn cũng cười, nhưng nụ cười ở trên
cặp môi xám và dày của hắn có một ý nghĩa khác. Hắn khen thầm Chín
Hiếc ra đời chơi kém hắn hàng mười năm mà đã can trường rồi đấy...
Khói thuốc phiện chập chờn bay, Năm Sài Gòn mơ màng theo làn khói
nhẹ nhàng và thơm lừng cuộn lên nóc nhà rồi tản rộng ra. Qua một cái
màn mong manh vương vấn trước mắt, Năm thấy rung động như có người
thật trong những bức tranh nền đỏ cảnh nước Tầu loạn lạc về đời Tam
Quốc và đời Đường, treo trên vách quét vôi trắng kẻ chữ xanh hẳn
hoi.
Những tấm hình đàn bà trần truồng treo hai bên tủ
1. So quéo: So: thằng, quéo: không thuộc
về cánh ăn cắp. Tiếng quéo còn dùng để chỉ những kẻ ngù ngờ đần độn.
2. Cớm chùng, cớm tẩy: Cớm: tiếng chỉ chung mật thám và đội xếp. Cớm
chùng: mật thám. Cớm cộc: đội xếp. Mật thám tây, đội xếp tây: Cớm
tây.
3. Ngũ đị: chạy trốn.
4. Te: đẹp cũng nổi rõ thêm. Cả hai lưỡi dao gài ở đầu giường tây
buông màn, diềm nhiễu óng ánh, cũng sáng loáng lên. Năm vơ vẫn nghĩ
đến cái tuổi ba mươi hai của mình, cái cảnh đời không vợ con, không
anh em, cha mẹ. Năm nghĩ tới sự sống du đãng hết ngày ấy sang tháng
khác.
Mới ba mươi hai tuổi mà án tích Năm kê chật một tờ giấy trong sở
liêm phóng. Non hai phần ba đời Năm đã bị cảnh tù tội cướp mất. Năm
đã đi đày Côn Lôn 7 năm, ở Khám lớn Sài Gòn, ở Hỏa lò Hà Nội 2
năm... Năm còn từng làm cai trại(1) trong đề lao Hải Phòng, Nam
Định, Hải Dương, Thái Bình, hơn 4 năm. Cuộc đời Năm trải qua những
phen nguy hiểm đã dầy dạn như những lốt dao chém trên mặt, trên lưng
và khắp hai cánh tay Năm.
Giá người khác thì bị chết tự bao giờ, nhưng hình như số mệnh muốn
Năm sống mãi sự sống gian ác, tàn bạo này nên cho Năm một sức khỏe
lạ thường, thêm một sự gan góc ít ai bì kịp.
Tất cả đều phiện phò say sưa. Tiếng gãi đùi sồn sột. Tiếng gẩy ghét
móng tay kêu tanh tách. Thuốc phiện và bữa rượu ban chiều đương như
lửa hun đốt trong người bọn Năm Sài Gòn.
Chín Hiếc khơi mào lè nhè bảo Mười Khai thu xếp cất bàn đèn để còn
sang Hạ Lý "quấy" một đêm.
Sáu cái xe đã kề tận cửa, sáu tấm xác thịt ngứa ngáy nằm duỗi dài
trên xe. Thoáng chốc xóm Chợ Con - sào 1.
Cai trại: người tù quỷ quyệt sừng sẹo cắt lên trông coi nhưng tội
nhân khác. Nơi nào có cai trại thì là nơi đầy đọa, làm khổ tội nhân
hết sức.
huyệt của dân "chạy vỏ" và "anh chị" - lúc nhúc dưới ánh sáng đèn
điện vàng mờ bị trại lính khố xanh che khuất. Xe qua phố Đầu Cầu,
qua phố Ba Ty, khỏi cầu Hạ Lý thì dừng lại.
Tức thì ở trong nhà mụ Tài-sế-cấu để xô ra một lũ gái, vú vê và quần
áo phong phanh, rồi trai nào gái ấy nhún nhảy đi vào.
Thật đủ thứ tiếng ồn ào: tiếng cười chen tiếng nói, tiếng hát lẫn
tiếng bông đùa, pha thêm tiếng xuýt xoa, chửi rủa và tiếng khóc mà
người khóc mắt ráo hoảnh. Hai Liên bá vai Năm Sài Gòn dìu hắn vào
buồng Tám Bính. Y chẹn cửa ngoài xong liền ôm ngay Chín Hiếc ẩy vào
buồng mình. Sáu cánh cửa sập lại cùng một loạt. Người ta bắt đầu
thấy những giọng rền rĩ.
Tám Bính nghỉ đã nửa tháng nhưng vẫn còn mệt. Vì có lời Hai Liên dặn
hễ Năm Sài Gòn đến thì nên liệu cách tiếp đãi, chuyện trò cho đằm
thắm, nếu hắn vừa lòng thì trong túi có bao nhiêu hắn cũng dốc ra
hết. Và Hai Liên còn bảo kín Bính rằng Năm Sài Gòn phải lòng Bính
đấy.
Tám Bính ngồi dựa lưng vào tấm ván ngăn buồng bên, tay đặt lên ngực
Năm. Năm nắm lấy tay Bính vuốt ve, có lúc đưa lên miệng hôn rất âu
yếm.
Gối đầu trên đùi Tám Bính, Năm Sài Gòn đăm đăm ngắm nghía nhận thấy
vẻ mặt Bính vẫn buồn bã và hốc hác, Năm bèn gạn hỏi:
- Bính vẫn còn ốm chứ?
Tám Bính không đáp, chỉ lắc đầu thở dài rồi cúi xuống lờ đờ nhìn
Năm.
- Vậy mụ Tài không cho Bính tiền lấy thuốc sao?
Bính yên lặng một lúc nữa mới đáp:
- Anh trông đây này, đã ba tháng nay em vẫn chỉ có cái quần trắng
của chị Hai cho, vẫn cái áo cánh mạng vai cũng lại của chị ấy cho
nốt, đến manh quần tấm áo mặc cho sạch sẽ tươm tất có thể mới đắt
khách, mụ còn tiếc rỏ máu mắt không chịu cho vay tiền may, vậy anh
tính em trông hòng gì xin được tiền thuốc tiền men.
- Thế tiền Bính tiếp khách, Bính để làm gì?
Bính như không cất được tiếng lên:
- Nào em có bao giờ để dành được! Vả lại có tiền đâu mà để dành.
Tiếp khách xong, họ vừa bước chân ra khỏi buồng, mụ đã nắn ngay túi
em khám xét, bóp nặn, chỉ để cho tối nào nhiều lắm mới được một hào.
Mụ bảo những nào dạo này nhà ế khách, ăn uống lại tốn hơn, nào em là
gái mới nhận về phải lễ hàng chục cho cẩm đội con gái, nên mụ vay nợ
chưa biết đến bao giờ mới giả được. Vì thế lắm khi nhà hết trầu cau,
chị Hai Liên lại phải đưa tiền để em mua cho em và cả u già ăn.
Đến đây, Bính phải cố cầm nước mắt, nói tiếp:
- Cơ cực hơn đến tiền đi "phiên"(1) không có cũng lại phải để chị
Hai Liên ứng cho.
- Sao Bính lại chịu khổ đến thế hở? - Năm Sài Gòn cau mày hỏi.
Tám Bính vẫn dẽ dàng:
- Nhưng mà nào có ai thương em đâu. Trong nhà này, trừ chị Hai, còn
chị Ba nhớn, Ba con, chị Tư Thìn, chị Năm Thìn, chị Sáu Huyền, chị
Bảy Thanh... hết thảy đều ghen ghét, tức tối, chăm chăm nhìn xem ai
cho em 1. Tiền đi khám bệnh một tuần lễ
hai kỳ tự người đi nộp lấy.
đồng nào là hót ngay với mụ Tài, tức thì mụ lại tra hỏi khám xét,
lại bóp nặn cho ra tiền mới thôi. Thỉnh thoảng em có than thân và
chị Hai có bênh em thì mụ lại nhắc đến khi em ở "Líp phăng xe"(1)
rồi mụ lại kể ơn kể huệ lại kêu ca "nào nhà ăn uống tốn kém, nào
khách khứa ế ẩm" nên em lại chỉ đành cắn răng mà chịu.
Năm cau mày thêm:
- Sao Bính không trốn đi hay ra ngoài kiếm tiền thêm để tiêu. Tội gì
mà chịu khổ ải như thế?
Bính nghẹn ngào nói:
- Em ra khỏi nhà một bước cũng chả được, nữa là trốn đi: Mụ Tài để ý
tới em luôn và giao hẳn em cho các chị ấy coi giữ. Mà em có lúc nào
rỗi đâu để ra ngoài kiếm thêm? Gái mới, tiếp nguyên khách ở nhà cũng
đủ nhược người, huống chi còn khách khứa riêng thì đến... vào săng
mất.
Bính nức nở, quay hẳn mặt đi, tránh nhìn ngọn đèn dầu tù mù trong
gian buồng âm u mà mỗi lúc Bính để ý tới thì lại thấy nó như là ma
quỷ cứ giữ diệt Bính lại với cái đời làm đĩ càng ngày càng nhơ nhớp
không thể đoạn tuyệt được.
Dưới hai vai run rẩy của Bính, Năm Sài Gòn bỗng thấy tâm trí lạnh và
mềm hẳn đi. Năm càng đăm đăm nhìn cái gương mặt xanh xao buồn thảm
của Bính, trong lòng Năm càng rào rạt. Thật là một sự lạ, một sự lạ
kỳ diệu trong cái đời du thủ du thực của Năm là còn biết thương,
nhất là còn biết yêu! Phải! Năm Sài Gòn có thương yêu ai bao giờ đâu
vì hắn không được một 1. Dispensaire: nơi
giữ và chữa bệnh cho các gái mãi dâm.
ai thương yêu tới. Bố mẹ hắn chết ngay khi hắn mới lọt lòng. Hắn
không có anh em thân thích nào hết. Bé đi làm con mày con nuôi hết
cửa này đến cửa khác. Lớn lên một chút thì trốn đi ăn đi ở. Rồi lang
thang đầu đường cuối chợ, rửa bát, bổ củi, gánh nước, đội than,
chẳng làm ở đâu lâu cả vì công việc thất thường, tính nết lại ngang
ngạnh, ham chơi... Sự sống cô độc và bê tha ấy đã biến đổi rất mau
sớm tâm hồn Năm nên khô khan tàn ác.
Năm nắm chặt bàn tay Bính, ấp nữa vào ngực mình. Thoáng phút giây,
chợt nghĩ đến đời mình trơ trọi, Năm cảm thấy cần phải có gia đình,
cần phải lấy Bính, người đàn bà đã làm êm đẹp đến nỗi mắt Năm xưa
nay không biết cái êm đẹp là thế nào và làm Năm phải yêu dấu.
Năm hồi hộp, không thể giữ được, bật tiếng hỏi:
- Tôi không có cha mẹ, anh em thân thích nào cả, vậy Bính có thuận
tôi nói với mụ Tài cưới Bính không?
Bính chẳng còn do dự, chẳng cần suy xét Năm là hạng người gì, đời
làm vợ Năm rồi sẽ ra sao, chớp chớp mắt, đáp:
- Em thì rắp tâm lắm, nhưng còn anh chả biết có thực bụng với em
không?
- Sao lại không thực! Mà em thực bằng lòng chứ?
Bính không đáp bằng tiếng nói mà chỉ càng siết chặt lấy tay Năm rồi
thần mặt ra nhìn Năm.
Chợt ngọn đèn lù mù nhảy lên nhảy xuống, nhoi lên một tý ánh sáng
vàng đục rồi vụt tắt. Gian buồng thêm lạnh lẽo, âm u, không khí càng
nặng nề đè nén. Cảnh giấc mơ khủng khiếp hôm xưa lờ mờ bỗng lại hiện
ra giữa khoảng tối tăm: một người đàn bà trơ trọi ở nơi bán trôn
nuôi miệng... một xác chết thối rữa trên chiếc giường mọt gẫy... một
cỗ áo quan mỏng mảnh đu đi đu lại dưới chiếc đòn gánh chạy cót két
ra một bãi tha ma. Bính rùng mình vội bưng lấy mặt, nghẹn ngào, lay
người Năm:
- Anh Năm!... Anh có thực bụng với em không?...
Chương 7
Tám Bính ra khỏi nhà mụ Tài-sế-cấu đã được một tuần lễ. Được thuốc
thang và ăn uống tẩm bổ. Bính tưởng chừng bệnh tình mỗi ngày một bớt
đi. Nhưng quái lạ, Bính càng ngày càng gầy yếu và mệt mỏi, tuy tâm
trí tỉnh táo hơn trước nhiều. Thì ra sự vui sướng chỉ có thể chữa
cho tinh thần Bính khỏi buồn rầu, đau đớn thôi, còn cái thân thể rã
rời kia đã bao nhiêu đêm liên miên dùng làm "đồ chơi" cho mọi hạng
người, còn cần phải tỉnh dưỡng và chữa thuốc lâu nữa mới mong lành
mạnh được.
Năm Sài Gòn băn khoăn lắm. Năm biết vợ thế nên không để vợ mó tay
vào việc gì. Hai bữa cơm, Năm trông nom rất tươm tất. Năm thuê hẳn
một người vú già để còn chăm Bính khi Năm đi vắng. Bính mừng thầm
gặp được một người chồng chẳng đẹp mắt nào, nhưng biết thương yêu vợ
thế là quý.
Một buổi trưa mùa xuân, mưa phùn rào tạt vào búi găng quây lấy góc
vườn. Bính hơi nghển cổ cũng trông thấy rõ cả một cảnh vật ướt át
trong mưa bụi. Cách dậu găng độ vài bước, một khu vườn nhỏ cỏ mọc
đầy, lao xao mỗi lần gió thổi giật trên mặt cỏ xanh um vài đống rác
nổi ụn lên. Quanh đó, mấy con gà giò tranh nhau bới. Có con cố gắng
nhảy len phía trên nhưng vì đuối sức ngã nhào đi, nằm tênh hênh, lộ
hẳn hai bên lườn vàng nẫn thịt.
Chợt nghĩ đến một đêm khuya đón khách vừa đói vừa mệt cách đây chừng
hai tháng, Hai Liên đem ở cao lâu về cho mình một bát cháo gà nóng,
mà Bính ăn chưa bao giờ thấy ngon đến như thế, Bính lên tiếng gọi
người vú già.
Một người đàn bà thấp bé, quần áo lôi thôi ở dưới bếp chạy lên:
- Cô gọi gì con?
- U có biết nấu cháo gà không? Biết, nhà nào có con gà mới mua đấy,
u đun nước làm thịt nấu cho tôi bát cháo.
Người vú già đờ mắt ra, rồi như tìm thấy một điều gì quan trọng, y
thấp giọng nói:
- Thưa cô, cô không ăn được.
- Tại sao?
- Cụ lang dặn phải kiêng ạ!
Bính gắt:
- U biết tôi ốm thế nào mà bảo cụ lang bắt tôi phải kiêng?
Vú già lặng ngắt, cố tìm một tiếng thanh thú để chỉ cái bệnh của
Bính đương ở thời kỳ nặng nhất, nhưng nghĩ mãi không ra. Vú ấp úng:
- Bệnh bệnh... tôi chỉ biết cụ lang bảo cô phải kiêng thôi...
Bính toan gắt lên hỏi thì vẻ mặt lo lắng một cách khờ khạo của người
vú già làm Bính nhận ra ngay cái ý rụt rè kia. Bính thở dài, rồi run
run bảo vú xuống bếp sắc thuốc. Chờ y đi khỏi, Bính cúi mặt xuống
gối khóc nức nở.
Cái bệnh tàn hại mà thằng trẻ tuổi khốn nạn đổ cho Bính tưởng đã dứt
nọc ngay sau hai tháng Bính nằm chữa ở nhà thương, ngờ đâu vẫn còn
dây dưa đến tận bây giờ! Nó làm Bính biết bao ê chề đau đớn. Bính
muốn gượng dậy để đi đi lại lại cho khuây khỏa, song cửa mình vẫn
còn sưng lên, hai ống chân mỏi nhừ vì xương đầu gối như sắp bong ra.
Đến bữa Bính trông thức ăn ngon lành rõ muốn ăn nhưng khi vừa nhai
khỏi miệng, hơi chua lợ đã đưa ngay lên đầy cổ, nôn không được. Chắc
bệnh Bính càng ngày càng nặng lắm.
Bính đau xót, chán nản... Bính lại thương nhớ đến con thơ. Và nghĩ
đến Hai Liên tuyệt vọng vì không thể sinh nở được nên đành ở cho đến
ngày trọn đời nơi nhơ nhớp, Bính lại càng tê tái vì nỗi mẹ con phải
lìa bỏ nhau mà Bính thấy dù sao cảnh Bính bệnh tật khổ não ghê khiếp
thế nào cũng không thấm với cảnh đen tối mênh mông của một người đàn
bà không thể nào có cái hạnh phúc được làm mẹ.
Vì, dù nghèo khổ đến như bác Gái bờ đê ở làng Bính mà có đứa con để
ôm ấp, bế ẵm thì nỗi trơ trọi cơ cực sẽ bớt đi nhiều. Suốt ngày mò
cua bắt ốc, làm thuê cấy mướn đầu tắt mặt tối, rồi về chui rúc dưới
một túp lều giữa cánh đồng, bác Gái bờ đê không bao giờ lộ vẻ buồn
rầu trên gương mặt đen xạm. Như người khác cùng tuổi hai ba, hai bốn
ấy mà gặp phải cảnh góa bụa, sống lần hồi, đói rét họ đã kêu ca, oán
trách số phận, nhưng đây bác Gái bờ đê vui vẻ như thường. Cứ trông
khi bác ta giơ đứa con nhỏ lên quá đầu, rồi ôm ghì nó vào ngực, rồi
hôn hít nó, rồi cắn véo và mắng yêu nó, thì Bính thấy trên đời như
chỉ có mình hai mẹ con bác ta. Giờ Bính cũng chỉ ao ước được như bác
Gái thôi, và trên đời này cũng chỉ cái hạnh phúc ấy là có thể xóa
hẳn những kỷ niệm tàn bạo mà "tham" Chung, thằng trẻ tuổi, con mụ
đàn bà đanh đá, sở Cẩm, nhà Lục xì, mụ Tài-sế-cấu, những ngày đằng
đẳng rã rượi ngủ không ngủ được, đêm đến, hôm đắt cũng như ế, cứ
phải thức đến hai ba giờ để tiếp khách... bao nhiêu xót xa ê chề đã
khắc từng ly từng li trong trí nhớ Bính. Tất cả những ngày tối tăm
kia sẽ mất hết dấu vết trước sự sáng láng tốt tươi của một cảnh đời
mẹ con sum họp vui vẻ.
Một luồng gió lạnh tung chiếc màn che cửa ùa vào nhà. Bính rùng
mình, lờ đờ nhìn khu vườn một giờ một mờ mịt trong những lớp mưa xám
ngắt. Bính vẫn không sao quên được bệnh tình trầm trọng và cái chết
như đang lảng vảng ở đâu đây.
Năm Sài Gòn bỗng đẩy cánh cửa bước vào. Năm vội đến bên giường Bính:
- Thế nào, người mình đã dễ chịu nhiều chưa?
Bính lắc đầu:
- Em vẫn mệt lắm!
Năm chau mày:
- Sao lại thế? Ông lang bốc thuốc thế nào?
- Có lẽ em chết mất.
Năm gạt ngay đi:
- Mình chỉ nghĩ vẩn vơ thôi! Thế nào rồi cũng phải khỏi. Thứ thuốc
nào hay mà đắt bao nhiêu anh cũng mua cho, hoặc có ông lang nào giỏi
mà xa đến đâu anh cũng mời. Mình cứ vững lòng ở anh.
Bính âu yếm nhìn Năm lúc lâu vừa nắm lấy tay Năm. Sau đó Bính giục
Năm ăn cơm kẻo muộn.
Vú già bưng mâm lên, đặt ở giữa giường. Năm Sài Gòn liền đỡ Bính
ngồi dựa lưng vào chiếc chăn bông để sát mặt tường.
Năm xới cơm cho Bính trước, đoạn chỉ từng đĩa thức ăn:
- Đây là thịt nạc làm ruốc, đây giò lụa chả thìa của hàng bác Cao
trên chợ Sắt, đĩa xá xíu này là xá xíu anh mới mua ở hiệu Mỹ Hương
phố hàng Cháo về. Canh thịt thì nhà nấu với hoa hiên.
Năm chan canh cho Bính xong liền húp hai thìa gật đầu:
- Ngọt quá! U già đã ở cho khách cao lâu có khác! Kìa mình ăn đi, có
chịu ăn mới chóng khỏe chứ!
Năm gắp cho Bính từng miếng một, khoanh giò, miếng thịt nào trước
khi bỏ vào bát Bính, Năm cũng giơ lên xem. Còn Bính bát cơm xẻ đi xẻ
lại mãi mà không hết. Nhà cơm nước xong, một ông lang đi xe đến. Năm
thân ra mở cửa và đón ông vào tận giường Bính.
Chương 8
Một trưa dân "chạy vỏ" tụ họp ở nhà Năm Sài Gòn.
Vẫn ngọn đèn dầu lạc búp măng sáng trong giữa cái khay Nhật Bản viền
chỉ vàng, vẫn chiếc giọc tẩu dài hơn một thước ta bịt bạc và chiếc
tẩu đầu hổ ngậm nửa quả cam lên nước mun đen bóng, nhưng trên giường
và ở các ghế chung quanh, ta thấy thêm nhiều nhân vật mới lạ.
Chín Hiếc, Mười Khai dắt theo một người hom hem mắt sếch, luôn nhấp
nháy tên gọi là Tư nhấp nháy. Sau lưng Tư-lập-lơ, ba anh vốn chuyên
môn "khai"(1), "mõi"(2) ở chợ Đồng xuân Hà Nội mà Tư mới chiêu tập
xuống Cảng để thêm vây cánh hoành hành khắp chợ Sắt, chợ Con và chợ
Lạc Viên. Ba gã này đều mảnh khảnh, mắt nhìn đều nhanh như chớp,
lông mày đều rậm, đuôi nhọn và sếch, cũng quần đen chùng rộng ống,
áo cánh trắng cổ bẻ, và cái tên kép cũng chỉ khác nhau chữ đầu thôi:
Hai Con, Ba Con, Tư Con.
1. Khai: cắt, xẻo.
2. Mõi: móc, rút.
Còn anh chàng Ba Bay lúc nào cũng "đi" có một mình vì không có ai dù
là dân "anh chị" dám đánh đu với hắn. Đời thuở nào trong túi không
xu nhỏ nhưng hễ "hồ lỳ"(1) cất mồm "thừa"(2) hàng bạc trăm. Ba Bay
ta cũng thò tay mở bát liền. Được thì lấy, thua thì hắn thủng thẳng
rút dao giắt ở bên đùi ra gạt nợ. Đã lắm phen gặp phải "hồ lỳ" và
con bạc sừng sẹo, hai bên xô xát nhau, nhưng rút cục cái liều thụt
mạng của Ba vẫn chiếm phần thắng. Người cuối cùng trong bọn là một
gã trẻ tuổi ngồi ở góc tường gần Sáu gáo đồng, đương nghển cổ trừng
trừng nhìn vào mặt Năm Sài Gòn. ý chừng hắn thèm cái hân hạnh được
mặt đầy những lốt dao chém và cái đời "anh chị" độc nhất của Năm hay
sao nên mắt hắn cứ long lên. Hắn mới cắt máu ăn thề dạo tháncớước,
và nhận cái danh hiệu "Ba trâu lăn" của anh em tặng.
Bỗng tất cả im lặng, Chín Hiếc đương chực kéo một hơi thuốc lào cũng
phải buông xe điếu xuống chiếu nghe Tư-lập-lơ nói:
- Anh em ơi! Nguy đến nơi rồi!
Năm Sài Gòn mỉm cười:
- Nguy ra sao?
Giọng nói khinh thường ấy không đủ dẹp được sự lo lắng của
Tư-lập-lơ, hắn thong thả bảo Năm:
- Anh không lo, nhưng chúng tôi lo, bây giờ "cớm"(3) nó "trõm"(4)
ghê lắm.
1. Hồ lỳ: người tính toán tiền ở chiếu bạc.
2. Thừa: gọi khách đánh.
3. Cớm: mật thám, đội xếp.
4. Trõm: rình mò truy nã.
Ba trâu lăn, Ba Bay nhao nhao lên hỏi:
- Trõm ai, trõm ai?
Tư-lập-lơ lắc đầu tránh Chín Hiếc:
- Chỉ tại mày thôi, trêu ngay vào cái của "hóc búa" ấy rồi để khó
khăn cho anh em.
Chín Hiếc chực cãi, Tư-lập-lơ đã nói át đi.
- Người đàn bà mất ti-l ấy là vợ một cớm chùng(1) ở Hồng Gai mới đổi
về đây, không biết "tiểu yêu" của mày làm ăn ra sao để đến nỗi thằng
bé rơi xuống hố, đập cả sống mũi, vào nhà thương được năm hôm thì
chết.
Không một vẻ cảm động trên mười mấy khuôn mặt đen xạm, Năm Sài Gòn
chậm rãi nói:
- Nó chết thì bố mẹ nó chôn, việc gì mình phải lo.
Ba trâu lăn và Ba Bay đồng thanh:
- Đúng đấy!
Tư-lập-lơ mặt đỏ bừng, muốn đá thốc cho hai thằng này mấy cái, nhưng
có Năm ngồi đấy, hắn phải cố nuốt sự uất ức.
- Các anh thì việc gì, bình chân như vại, chỉ khổ riêng cho cánh
chúng tôi thôi. Hai tháng nay tôi không được một xu nhỏ. Tôi bãi hẳn
các "tiểu yêu" vì chung quanh và trong chợ lúc nào cũng có mật thám,
phụ mật thám, đội xếp đi lại. May mà tháng trước tôi nhờ người nói
lót lão đội Lễ nửa tá sâm banh và hai trăm trứng gà ngày cưới vợ bé
của lão, chứ không "cớm"(2) và "phụ cớm"(3) nể gì mà không "tôm"(4)
tôi.
1. Cớm chùng: mật thám.
2. Cớm: mật thám, đội xếp.
3. Phụ cớm: phụ mật thám.
4. Tôm: bắt.
Tư-lập-lơ ngừng lại một giây, uống chén chè tàu tự rót đoạn nói luôn:
- Mà anh Năm ạ, chúng lại rục rịch bắt hết những "yêu"(1) quen mặt ở
phố Khách, phố Đầu Cầu, phố Ba Ty, những cánh chơi ở ngõ Trần Đông,
Lạc Viên và An Dương, những sòng bạc ở Cấm và ở Vẻn, và cấm hẳn
những cơm thầy, cơm cô tụ họp ở vườn hoa Đưa người. Nếu như thế này
anh em mình đến phải kéo cánh lên Hà Nội hay về Nam, chứ ở đây thì
tù dắt nút mất.
Năm Sài Gòn hất hàm:
- Ai bảo chú chạy đồ lễ cho "cớm". Sao chú hèn thế?
Tư-lập-lơ chưa kịp đáp. Chín Hiếc nhìn Tư-lập-lơ càu nhàu:
- Mấy tháng này khó dễ là bởi tại đâu chứ nào phải tại tao mà mày
gieo cho nhiều điều tiếng thế?
Ba Bay xen nhời:
- Trách Chín Hiếc làm gì? Tao đây trần như dộng mà vẫn phải cắn răng
chịu nữa là.
Sáu gáo đồng chêm vào:
- Cả tôi cũng "kện" sạch "bướu"(2) mà cũng đành phải bó tay!
Chớp chớp mắt, Tư-lập-lơ trông mọi người; vẫn dẽ dàng nói:
- Thế này mới lại khổ chứ, mới quái ác chứ! Tháng trước đây trong đề
lao Hải Phòng ở "trại áo đen"(3) có _________________________ 1.
Yêu: kẻ cắp lâu năm, sành sỏi và can án nhiều lần. Còn có hạng "yêu
tạ". Hạng này đã trải qua nhiều lần tù nữa, nhiều lần đâm chém người
nữa.
2. Kện sạch bướu: hết cả tiền.
3. Trại áo đen: trại giam những người chưa thành án.
một "so phụ cớm" bị giam vì làm tiền một người. Cai trại ấy vốn dòng
dõi "yêu đạo" liền nhắn ngay người đi làm "cỏ vê" kiếm cho mấy thẻ
hương để hành tội so phụ cớm kia. Các anh có biết hắn hành bằng cách
gì không?
Để mấy người ngơ ngác, Tư-lập-lơ nhăn mặt cười, tự trả lời:
- Một sự hành hạ chắc chưa từng thấy ở thế gian này, các anh ạ. Cai
trại hắn chờ một tối thứ bảy các cửa khóa đâu đấy, liền thắp ba nén
hương cắm lên nắp thùng phân nằm cuối trại, và sai một "tiểu yêu"
giải chiếu, một tiểu yêu lôi người "so phụ cớm" đến. Hắn bắt, "so"
nọ lạy cái bàn thờ ấy ba lạy. Lạy đoạn, hắn bắt quỳ thẳng lên rồi
dõng dạc đọc từng tội một của "so" cho cả hàng trại nghe: nào vì
"so" vụ mất trộm đồ thờ ở đền Cấm vỡ lở, nào vì "so" cánh "chạy"
trong làng Vẻn bị bắt không còn sót một mống, thằng nào thằng ấy bị
"xăng-tan" dừ tử, nào vì "so" ba sòng sóc đĩa của dân "yêu" bẹp tai
ở Lạc Viên và hai sòng trạc sếch ở phố Khách bị phá. Cai trại kể tội
xong, một "yêu" khác nhảy xuống chiếu đóng vai Chánh án bệ vệ tuyên
án. Tên "phụ cớm" này phải nói to lên nhận từng tội của mình, phải
quỳ lạy thùng phân thêm ba lạy nữa, rồi phải tự xúc lấy một bát phân
mà ăn cho mọi người xem, nếu không "tòa" chỉ sai phí một người chịu
15 ngày sà lim, cùm hai chân, ăn cơm nhạt để đền vào cái mạng người
dám trái lệnh tòa. "So phụ cớm" run không được, mặt tái mét, đánh
nhắm mắt nuốt.. cho cả trại tù reo vỗ tay cười. Việc ấy lọt ra ngoài
nên ngày nay dân "cớm" quyết bắt kỳ hết dân "yêu vỏ".
Tư-lập-lơ kể xong, Năm Sài Gòn cười váng lên. Năm chợt nhớ lại năm
xưa trong hỏa lò Hà Nội và trong khám lớn Sài Gòn, Năm cũng sai trả
thù hai "phụ cớm" như thế. Tiếng cười của Năm chưa dứt, những giọng
cười ròn rã khác thi nhau ran lên.
- Hả! Hả! Phụ mẫu ạ!
- ít quá! Bắt nó ăn ít quá. "Thâm bo" (1) cũng còn là nhẹ tội.
Một gã đứng phắt lên:
- Vì còn thiếu vài chai rượu "bia" nữa.
Lại một dịp cười ran lên với những tiếng đập bàn, đập chiếu làm rung
chuyển cả nhà. Chợt Tám Bính đẩy cửa bước vào. Năm Sài Gòn liền hất
hàm giới thiệu với mọi người:
- Nhà tôi đấy các chú ạ!
Ba trâu lăn trố mắt nhìn. Hắn cố nhớ xem đã gặp Bính lần nào chưa mà
trông Bính quen quá.
- Chị trước ở nhà mụ Tài-sế-cấu phải không anh Năm?
Năm Sài Gòn cười, gật đầu. Ba trâu lăn hỏi luôn:
- Anh cưới về đã bao lâu mà chị đã bưng trống thế kia?
Năm sung sướng:
- Bét dịp(2) rồi.
Thấy hàng chục cặp mắt tinh quái nhìn trõ vào mặt mình, hai má Bính
nóng lên, Bính vội đi vào buồng. Tuy ngả lưng xuống giường, nhưng
Bính vẫn lắng tai nghe bên ngoài chuyện trò và bàn tán.
Ba Con nắm tay Chín Hiếc hỏi:
_________________________ 1. Thâm bo: ba bát 2. Bét dịp: tám tháng -
Vậy làm khó dễ cho anh em vì cả anh vào trong đề lao, anh nghĩ sao
bây giờ ?
Chín Hiếc quắc mắt lườm:
- Anh lôi thôi quá! "Cớm" canh gác riết thế này mình cứ "làm tiền"
mới can trường chứ. Tôi thật lấy làm lạ: lúc chia năm chia bảy,
chẳng ai trách tôi, mà ngày nay xảy ra cơ sự này, các anh lại trút
cả lên đầu tôi thì còn giời đất nào nữa!
Ba trâu lăn về hùn với Chín:
- Bất quá chúng ta nghỉ "chơi" độ dăm tháng cho đỡ nhọc xác, vậy
càng hay. Có một tý thế mà cũng rối beng cả lên, chả trông anh Năm,
nước đến chân vẫn cứ như thường.
Một người đáp:
- Anh Năm khác!.. Chúng mình khác!..
Ba trâu lăn cười mũi:
- Anh Năm khác; các anh khác, vì các anh sợ bị bắt, sợ chết chứ gì !
Tức thì Ba Bay phanh ngực nói to:
- Như tôi đây gầy còm thế này cũng có thể chịu nổi vài nhát dao
chém,vài trận đòn "xăng tan", vài tháng tù, huống chi các anh béo
khỏe như vâm ấy mà sợ thì lạ thật!
Tư-lập-lơ hừ một tiếng:
- Mình để cho người ta chém tức là mình kém, mình chém người ta rồi
ngồi tù mới giỏi chứ, và mình sả cả "cớm" mới can trường hơn. Nội
bọn ta đây, tôi dám hỏi rằng ai là tay chơi, ai can trường, quyết
bênh vực anh em mà thì cho "cớm" vài nhát nào?
Năm Sài Gòn nóng sôi ngươi lên, nghiến răng, nắm chặt bàn tay đập
mạnh một cái xuống giường, làm rung chuyển cả chân niễng:
- Chú muốn thịt ai?
- Đội "cớm" Minh, "cớm chùng" Hiếu và các thằng xếp Bảy mề đay anh
lạ gì còn phải hỏi (?!).
Năm đã đỏ tía mắt lên, vùng dậy rút lưỡi dao sáng loáng cài trên
đình màn xuống, xăm xăm chực đi. Bính chạy xổ ra, run cầm cập, ôm
chặt lấy Năm, ríu lưỡi kêu:
- Đừng hung tợn thế!.. Em van mình! Đừng hung tợn thế!.. Em van
mình!... Em van mình!...
Năm gỡ tay Bính, mắt sáng quắc, long lên, miệng sùi bọt mép:
- Mặc tôi ! Mặc tôi !
- Em lạy mình đấy ! Thương em chứ !
Năm toan gạt Bính ra bên nhưng Bính nằm lăn ra đất và giữ lấy ống
quần Năm khóc nức nở. Năm vội cúi xuống, ẵm bổng Bính đặt lên
giường, thì Bính vòng hai tay qua nách, túm chặt lấy áo Năm:
- Em lạy mình! Đừng hung tợn thế! Em van mình! Mình thương em! Giời
ơi!..
Mấy giọt nước mắt của Bính qua lần lụa mỏng thấm vào da thịt Năm Sài
Gòn. Một cảm giác ghê lạ chuyển khắp người Năm khi bụng Bính ép vào
lưng Năm. Hắn ngoái cổ trông lại. Mắt long lanh vừa gặp mắt Bính
chan hòa, Năm Sài Gòn cực chẳng đã thở hồng hộc ngồi xuống giường:
- ừ, thì mình cứ buông tôi ra - Để mình đi à ?
- Không, tôi không đi đâu, mình đừng sợ.
Năm vừa ngừng nói, Ba trâu lăn tiến đến giằng lấy dao:
- Thôi anh Năm ở nhà cho tôi mượn con "đoàn"(1) này để tôi thay anh
sả chúng cho.
Hơn mười con mắt sáng ngời đổ dồn vào Ba. Riêng Tám Bính kinh ngạc.
... Đêm khuya rồi, Bính muốn chợp mắt ngủ, song không được. Tâm trí
Bính cứ phải liên miên nghĩ tới những sự xảy ra ban ngày mà Bính
thấy có thể lại làm tan nát cả đời Bính và đẩy Bính vào một quãng
đời lại khốn nạn vô cùng. Khắp xóm Chợ con đều im lặng trong khoảng
đêm thu sao thưa. Thỉnh thoảng vài tiếng rao hàng uể oải của người
bán bánh cuốn nóng phào lên rồi khi tiếng rao im lìm, không khí lại
vắng vẻ nặng nề hơn.
Bính đưa mắt trông ra ngoài đường. Dưới cột đèn ở trước nhà Bính,
một người xe gác càng xe lên bệ xi măng, dựa lưng vào hòm xe ngủ li
bì. Cách đấy vài bước, một người ăn mày nằm co quắp trên chiếc chiếu
rách mướp. Bính chỉ nhận ra là một người, không ra là đàn ông hay
đàn bà, và cái đống thịt ấy đương ngủ say hay còn trằn trọc trong
bóng tối của những nỗi đói rét khổ sở. Cách đấy không xa, trên mặt
đường lù lù những đống rác bẩn. Mấy con chuột rúc rích kéo nhau đến
sục sạo tìm thức ăn.
Bính rợn cả người. Không khi nào vùng quê Bính lại có một cảnh vật
thê thảm như thế! Cũng vắng lặng, cũng tối tăm, nhưng cái vắng lặng
tối tăm khoáng đãng khác hẳn cái vắng lặng lù mù bẩn thỉu này. Bính
liền so sánh cảnh ở nhà mụ Tài ván gỗ ám khói, ánh đèn
_________________________ 1. Đoàn: dao to dao nhỏ: Bút lù mù, phản
mọt, chiếu giải không bao giờ khô ráo ngay ngắn, gối vàng mồ hôi với
cảnh anh phu xe ngồi rũ rượi, người ăn mày co rúm ở xó hè ri ri
tiếng, muỗi và đống rác cao ngất này, Bính thấy đều tanh tởm, nhơ
nhớp như nhau. Thì ra từ khi đi khỏi chốn quê hương đồng ruộng bát
ngát đến giờ chẳng lúc nào Bính không ghê sợ vì cảnh vật chung quanh
mình. Bất giác, Bính quay nhìn Năm Sài Gòn nằm ngủ bên cạnh. Nhờ ánh
đèn vặn to, Bính nhận rõ từng nét mặt Năm. Năm đen cháy, cằm bạnh,
xạm râu, hai mắt sếch, mé trên mắt bên phải vẹt hẳn một nửa lông mày
dưới vết dao chém sâu hõm. Trên má Năm, trên trán Năm, mấy cái sẹo
nữa chằng chịt như những vết rạn của chiếc vại sành. Cứ khuôn mặt ấy
mà người khác đoán thì Năm sẽ mất hết tính người, Bính lắc đầu, thở
dài... Bính ngạc nhiên cho cách đối đãi lạ lùng của Năm đã săn sóc
Bính từng miếng cơm, từng hớp thuốc, suốt mấy tháng ròng, Bính nằm
liệt giường liệt chiếu. Nhất là mấy tháng nay Bính có mang, Năm càng
nàng nhắc chiều chuộng. Năm mời hết thầy lang nọ đến thầy lang kia,
tốn kém đã nhiều mà cứ luôn luôn hỏi Bính: "Mình nghe trong người
thế nào? Ăn uống có biết ngon không?"
Trước kia Bính đinh ninh rằng Bính chỉ là một người chịu ơn Năm
thôi, nhưng bây giờ Bính mới rõ Bính là hoàn toàn vợ Năm, yêu thương
Năm thấm thía. Tuy thế Bính vẫn lo sợ cho sự sống của Năm.
Nhất là mấy hôm nay sự thực càng mở to mắt Bính ra: Năm càng không
phải là một người có thể Bính khuyên nhủ dần dần trở về làm ăn lương
thiện. Năm đứng đầu hẳn những du côn anh chị nhất.
Năm làm trùm cả ăn cắp. Năm là một hạng người mà hết thảy mọi người
tử tế xa lánh, ghê sợ.
Bính đau xót quá! Lúc Bính kiếm được miếng ăn thì thân thể bị giày
vò. Lúc gặp bước an nhàn thì lương tâm bị cắn rứt vì mình sung sướng
mà người khác thiệt thòi, khổ sở. Nhưng Bính có thể bỏ nhà mụ
Tài-sế-cấu theo Năm, chứ bỏ Năm để đi tìm cảnh vui tươi khác, Bính
thật không sao có can đảm. Tấm lòng tốt chan chứa yêu thương của Năm
sẽ giữ nàng ở với Năm cho tới ngày trọn đời.
Bính nghẹn ngào quay mặt đi, không dám nhìn Năm nữa. Bính bối rối và
tưởng đến sau khi sinh nở mẹ tròn con vuông, đứa bé một ngày một
khôn lớn, cả hai mẹ con vẫn đều nuôi nấng bởi những của phi nghĩa mà
ngưòi bị thiệt hại nguyền rủa thâu đêm suốt sáng kẻ chiếm đoạt, Bính
càng choáng váng. Bính cúi chằm xuống gối. Trong tâm trí Bính lại
hiện ra nhiều hình ảnh quái gở. Gió thổi ào ào bỗng vẳng lên những
tiếng kêu ca oán trách, rủa sả, Bính vội lắc đầu xua đuổi. Nhưng
những tiếng kêu rên rõ ràng hơn, day dứt từng miếng thịt Bính ra.
- Giê su! Lạy Chúa con!..
Cánh cửa ngoài sịch động. Bính hoảng hốt thêm, tưởng có ai sắp đến
bắt mình, Bính run rẩy vội nắm lấy tay Năm, chực lay gọi thì Năm đã
cất tiếng cười, cười sặc sụa, cười đổ hồi. Hắn đương mơ màng vùng
vẫy trong một giấc mơ đỏ rực, hai tay hoa hai lưỡi dao nhọn đẫm máu
người.
Chương 9
Mấy hôm nay vắng mặt Năm Sài Gòn ở nhà. Bính không biết chồng đi
đâu, ở đâu để đi tìm, và Bính cũng không ngờ chồng đã bị bắt đương ủ
rũ trong đề lao Hải Phòng.
Tin Năm Sài Gòn "nhỡ" (1) làm nôn nao cả dân "chạy" Hải Phòng như
cái tin Ba trâu lăn chém sả vai một người mật thám và vụ cướp đường
cách đây tám tháng vẫn chưa tìm ra thủ phạm.
ở trong một ngõ hẻm trước "vườn hoa Đưa người" mấy đứa trẻ xúm lại
chung quanh Chín Hiếc. Một thằng đội chiếc mũ dạ bẹp dúm hếch lên
tận đỉnh đầu và một thằng đương xóc xách mấy đồng xu trong túi quần
thâm cạp trắng, nhăn nhở xoa xoa cằm Chín Hiếc hỏi:
- Anh Chín! Ai bắt anh Năm đấy?
Chín nghiêm mặt không đáp. Hắn đương phải nghĩ những cách đối phó
với các "cớm" thì một thằng bé ít tuổi nhất mặc bộ quần áo bằng vải
nội hóa kẻ dòng dọc đen và xanh, ghé ngay miệng vào tai Chín:
- Hừ! Làm phách ghê! Ai bắt anh Năm, và Ba trâu lăn trốn ở đâu, phải
nói mau, không đây chỉ nghiến một cái thì tai "đi tây" béng nào.
- Chín Hiếc hắt bắn nó đi "Nhờn với chúng mày đấy! Ông lại bớp cho
mỗi đưa một cái bây giờ!".
Chín nói đoạn, Mười Khai dẫn Ba Bay, Tư-lập-lơ,
1. Nhỡ: bị tù.
Ba Con, Hai Con, và Tư con đến giục chàng cùng lại nhà Năm để báo
tin cho Tám Bính biết. Chín Hiếc ngần ngại bảo mọi người:
- ý tôi muốn chúng ta đừng lại vì chắc bây giờ "cớm chùng" đương
"trõm" riết nhà Năm, nếu lại thế nào cũng lôi thôi.
Tư-lập-lơ cười:
- Thế thì mày tệ lắm, tao chắc mày sợ chị Năm "khấu bó"(1) tiền nong
nên mày gàn chúng tao chứ gì?
Ba Bay tiếp lời:
- Mà Chín ạ, mày nói thế không sợ còn có lúc gặp anh Năm sao? Tao
bảo thật, nếu khi anh ấy ra, có đứa nào "đẩy cây" anh ấy câu chuyện
này thì mày sẽ hết làm anh, hết sống cũng nên. Vả lại anh ấy đối đãi
với anh em như bát nước đầy, thằng nào "đét"(2) thì lại nhà anh ấy
"mổ chạc" (3) hàng tháng, thằng nào tù anh ấy mua quà bánh và cả
"ken nếp"(4) cậy cục gửi vào, tao thiết tưởng nếu không vì mày anh
ấy chẳng việc gì cả. Ăn ở như mày thật quá ma bùn.
Một lúc sau, cả bọn cùng kéo nhau xuống Chợ con. Bính đương nằm rũ
trên giường, chợt thấy cửa mở vội chạy ra, suýt nữa xô phải Ba Bay:
- Kìa chú Ba! Kìa các chú!
- Chào chị!
Bính chực xách ấm ra hàng lấy nước uống nhưng Ba
1. Khấu bó: nhờ vả.
2. Đét: không ăn cắp được, túng bấn.
3. Mổ chạo: ăn nhờ.
4. Ken nếp: thuốc phiện Bay ngăn lại:
- Thôi chị mặc chúng tôi, và chị ngồi xuống ghế đây, tôi cho chị
biết cái tin này.
- Chị ạ, anh Năm bị nhỡ rồi.
Bính tái mặt, ríu lưỡi nhắc:
- Nhà tôi bị...tù?
- Vâng! Từ hôm kia kia!
Bính run không được, phải bíu lấy cột giường mới đứng vững.
- Chị đừng lo, chả chóng thì chày, anh ấy sẽ ra.
- Nhưng nhà tôi bị bắt vì việc gì cơ?
Ba Bay đưa mắt nhìn Chín Hiếc rồi trả lời:
- Anh bị bắt tình nghi về vụ Ao than...
- Nhưng không việc gì đâu chị ạ.
- Chết tôi rồi!
- Không, chị cứ vững tâm. Anh không lấy tiền, không đâm người, và
đàn em nó nhận hết, dự thẩm xét xong thế nào cũng tha ra.
Tư-lập-lơ tiếp lời Ba Bay:
- Chị cứ yên tâm. Anh chỉ bị giam vài tháng là cùng.
Bính nức nở, dứt xé hết vạt áo. Tư-lập-lơ cau mày:
- Không lâu đâu, như một giấc ngủ ngày thôi. Chị đừng lo lắng quá!
Chúng tôi không bao giờ để chị thiếu thốn đâu. Chúng tôi cắt nhau
thu tiền "bồi" (1) cho chị như khi anh Năm ở nhà vậy.
Hắn lấy ra ba tờ giấy bạc một đồng đưa vào tay Bính, hất hàm hỏi
Mười Khai:
- Còn tiền "bồi" của mày đâu?
1. Tiền bồi: tiền ăn cắp của bọn ăn cắp
trích nộp đàn anh.
Mười Khai nhanh nhẹn đặt trên bàn hai đồng bạc hào.
Bính ngạc nhiên, ngước mắt hỏi Tư-lập-lơ và Mười Khai:
- Tiền này của nhà tôi gửi cho tôi?
Tư-lập-lơ cười đáp:
- Chị thật thà quá! Đấy là tiền tôi bắt những "vỏ lỏi"(1) nộp khi
chúng làm được tiền đấy.
Bính còn ngờ ngợ nhưng chợt hiểu ra nghĩa những tiếng trên kia bèn
vội vàng đưa giả:
- Không, cám ơn anh em, tôi không túng đâu, anh em cầm lấy mà tiêu.
Dứt lời Bính lại bưng mặt khóc. Mọi người bấm nhau đứng dậy về. Còn
món tiền năm đồng Tư-lập-lơ xếp cẩn thận để trên giường, và, khi gần
ra khỏi cửa, Tư còn ngoái lại dặn với Bính đến thứ tư này Tư sẽ mượn
người làm giấy xin phép cho Bính đưa quà vào thăm Năm.
Chúng đi khỏi, tuy biết mở cửa toang, nhưng Bính chẳng cần đứng dậy
khép lại. Bính nằm rũ trên giường, choáng váng nghĩ đến những sự
nguy khốn sẽ còn xảy ra cho Năm và cho mình. Chỉ vài ba tháng nữa
thôi, Bính sẽ đẻ mà Năm vẫn bị giam cầm lúc đó Bính biết xử trí ra
sao? Và bây giờ Bính biết chạy chọt kêu cầu ai để gỡ nạn cho Năm?
Bính không thể nương nhờ tụi bạn của chồng được. Tiền của chúng,
Bính ghê rợn như lưỡi gươm sắc vấy máu, Bính không bao giờ dám nhìn,
không bao giờ dám cầm.
Tâm trí Bính đã tơi bời như mớ bông trước cơn gió lốc. Bính chợt nhớ
tới tình cảnh sinh đẻ ở quê hương cách đây mới hơn một năm.
1. Vỏ lỏi: ăn cắp bé con.
Trong một đêm cuối tháng tối mịt, Bính phải vịn vai mẹ, theo một con
đường hẹp quanh co ven ruộng ngập nước. Bụng dưới Bính đau quặn tựa
hồ bị ai cầm lấy ruột soắn chặt. Chân tay Bính rã rời. Mắt hoa lên.
Tai ù hẳn đi. Đầu nặng trĩu. Bính đành ngồi xếp xuống bờ cỏ ướt,
ngất đi. Đến lúc tỉnh dậy, đưa mắt nhìn chung quanh thì Bính không
thể nhận ra đây là nhà nào trong làng. Trời như một cửa hang sâu
thẳm. Gian buồng Bính nằm không có lấy một vệt sáng đèn.
Mẹ Bính ngồi bên lẩm bẩm những câu nói nhỏ, với một người lạ mặt.
Hình như hai bên hơi nặng tiếng với nhau, mặc cả với nhau, Bính còn
nhớ rõ:
- Nếu những ba đồng thì tôi bỏ "nó" lại cho bà.
Người kia cười nhạt:
- Càng hay, tôi chỉ đem "nó" trình làng bà sẽ biết.
- Tôi thách đấy.
- Không thế thì chả cần thách tôi cũng trình làng.
Trong bóng tối lạnh lẽo và khó thở, Bính như thấy cặp mắt long lên
của nhà mụ đỡ đưa nhìn mẹ Bính và Bính. Rồi vài phút sau, tiếng khóc
oe oe ở nhà dưới đưa lên, Bính sực nhớ mình đã đẻ. Bính muốn xem mặt
con mà không dám. Hàng giờ sau, mẹ Bính mới bế đứa bé ném phịch vào
lòng Bính vừa thúc giục:
- Bế bố mày về đi thôi.
Câu nói đay nghiến ấy không đủ lấn được nỗi vui mừng của Bính. Bính
đặt tay lên cái mẩu thịt thây lẩy ở giữa hai bắp đùi đứa bé kêu khẽ:
- ồ con giai!
Mẹ Bính nghiến răng:
- Thôi con đĩ! Con giai hay con gái, bố mẹ mày cũng chỉ là phải chịu
cái nợ. Chỉ bêu riếu cho bà!
Chẳng để Bính uống kịp hụm nước cho đỡ khát, mẹ Bính lôi Bính dậy,
kéo ra ngoài sân.
Nhưng lần này Bính đi quãng đường khác, quanh theo rặng tre cao vút
rào rào gần bờ sông. Bính ôm chặt con vào ngực, bước từng bước. Hai
chân Bính chỉ chực khuỵu xuống, người Bính rét run không được. Bính
phải cắn chặt răng lại. Mẹ Bính hậm hực đi kèm bên, thỉnh thoảng lại
gờm gờm trông vào mặt con Bính làm Bính sởn cả thịt. Tới khi sắp đến
nhà, mẹ Bính ghé tận tai Bính dằn từng tiếng nói:
- Thôi con đã giả xong cái nghĩa với "mẹ", lo liệu cho "mẹ" được mẹ
tròn con vuông. Giờ "mẹ" phải giữ cho bố trẻ "mẹ" be bé cái mồm
không có lại trách "con" đấy.
Nghĩ tới đây Bính thở dài:
- Lần này ta đẻ nhưng rồi có được ôm con nuôi không?
Bính gượng ngồi dậy, chực với ấm nước rót uống thì thấy ngay ba tờ
giấy bạc và hai đồng bạc hào trên bàn. Bính lắc đầu:- Chết thì chết,
cũng không động đến những tiền này.
Như mê man, Bính vùng bước xuống đất, kiễng chân hạ những quần áo
trên mắc xem có cái nào còn mới không. Thấy toàn là bằng vải đã cũ,
Bính lại trèo lên giường mở tung nắp hòm lục tìm. Một chiếc thắt
lưng lụa, một cặp áo the, một chiếc quần nái mới tinh. Bính vuốt
thắt lưng thật phẳng, rũ sạch bột long não ở các nếp cặp áo the đi,
và lấy bàn tay là bốn năm lượt hai ống quần nái. Đoạn, Bính thừ
người ra, lờ đờ nhìn.
ánh nắng vàng tươi và trong suốt của một ngày thu ấm đương lùa vào
đầy nhà. Mắt Bính vụt như hoa lên với bao nhiêu hình ảnh hiển hiện.
Dưới bóng cụm chuối xanh phấp phới, gần con đường nhỏ lượn giữa thửa
ruộng dưới trời lơ biếc ở đằng xa, Bính thấy từ từ nổi lên một bóng
dáng nhẹ nhõm, da dẻ hồng hào, tươi cười, hớn hở, và một chiếc đòn
gánh dẻo đang nhún nhảy nhịp cùng những bước chân thoăn thoắt, những
cánh tay mềm mại vung tà áo nâu ra trước gió. Đó là hình ảnh của
Bính, người con gái chất phác chỉ biết có đua đòi các chị em đi các
chợ xa gần, cái hình ảnh tươi thắm cách đây không bao xa..
Một tia hy vọng bỗng thoáng chiếu vào tâm trí Bính như làn chớp vụt
xé vùng trời mờ tối. Bằng sự lần hồi buôn bán tần tảo ở các chợ xa
rồi đây Bính sẽ nuôi được đứa con sắp đẻ, sẽ nuôi Năm để Năm khỏi
làm điều gian ác, dần dà Bính trở về quê chuộc đứa con đầu lòng đày
ải kia, và giúp đỡ cha mẹ gây dựng cho hai em.
Bính thẫn thờ. Nắng chói vào mặt Bính mà Bính không biết.