Trước khi lên ngôi thiên tử, đạt đến quyền lực tối thượng hầu hết
các triều đại phong kiến đều khởi nghiệp gian nan. Những ông vua đầu
tiên phải tìm cách chinh phục, vỗ yên thiên hạ, làm phai mờ ấn tượng
về triều đại cũ bằng nét rực rỡ, hoành tráng của triều đại mới.
Phong kiến ở châu Á, châu Âu hay châu Phi đều không vượt qua quy
luật này. Tất nhiên trừ một số trường hợp ngoại lệ mà trường hợp
Thái tổ Lý Công Uẩn là ví dụ. Tuy vậy số này vô cùng hiếm hoi.
Ở nước ta, khi khởi nghiệp, nhà Trần một mặt lãnh trách nhiệm đảm
bảo sự hưng vong của đất nước trước dân tộc, mặt khác chấp nhận
tiếng thị phi khi mạnh tay gạt triều Lý đã mục nát sang một bên. Khó
có triều đại nào giành lấy quyền lực kiểm soát đất nước, lập nên
triều đại mới vừa bài bản, kế hoạch vừa quyết liệt, dữ dội như nhà
Trần.
Có điều ấy có lẽ còn vì bối cảnh đất nước khi ấy đã quá bức bách.
Trong nước dân tình ta thán do sự mục nát của hệ thống quan liêu nhà
Lý, sản xuất buôn bán đình đốn. Bên ngoài giặc Nguyên - Mông lăm le
xâm chiếm Đại Việt để rộng đường tràn xuống vùng biển Đông Nam Á.
Không đứng ra thống nhất dân tộc thì sẽ lâm họa diệt vong. Bởi thế
những cái đầu quyết đoán của họ Trần đã bước ra vũ đài chính trị Đại
Việt.
Ngoài việc biết chọn đúng thời điểm giành lấy ngọn cờ lịch sử, có lẽ
cái may của vương triều này còn thuộc về một điểm hết sức quan trọng
- dòng họ này có quá nhiều nhân tài kiệt hiệt và họ đã có quá trình
chuẩn bị hết sức chu đáo, kể cả việc đào tạo để con cháu có đủ trìna độ, năng lực trên mọi lĩnh vực chứ không riêng gì quân sự.
Nói đến chuyện nhà Trần khởi nghiệp là phải nói đến vai trò và công
lao của Thái sư Trần Thủ Độ. Bàn tay quyết đoán đến bạo liệt của ông
đã giúp nội tình đất nước bình ổn tức thời. Người đời sau hay phê
phán ông, đặc biệt nhiều sử gia ghi ông tội "chuyên quyền, lạm sát".
Nhưng nếu đặt trong bối cảnh rối ren của đất nước khi ấy sẽ thấy
Trần Thủ Độ khó lòng làm khác. Bởi trong giai đoạn khởi nghiệp những
quyết định của ông đều là những quyết định có tính chiến lược, cực
kỳ quan trọng, nó đòi hỏi phải sớm đem lại kết quả, không có nhiều
thời gian để chờ vì lửa xâm lăng của ngoại bang đã ham háp vùng biên
giới Đại Việt.
Tiểu thuyết lịch sử Bão táp cung đình của Hoàng Quốc Hải đưà c về
nước Đại Việt của thế kỷ XIII khi những anh thuyền chài bước ra vũ
đài chính trị, bắt đầu gầy dựng sự nghiệp hiển hách cho dòng họ mình
và cho cả dân tộc. Trên bối cảnh lịch sử ấy, mối bung xung trong
quan hệ anh em, thầy trò; những cuộc đấu tranh quyền lực sẽ có cơ
hội bùng nổ đến tận cùng cảm xúc. Những chuyện tình thơ mộng giữa
những người anh em, chị em, thậm chí là cô cháu khiến ta bám vào
trang mạch truyện hấp dẫn từ đầu đến cuối trong niềm say mê.
Cốt truyện, cái giá đỡ lịch sử ít nhiều bạn đọc đã biết. Phần còn
lại là chi tiết truyện, giọng văn và cách dẫn dắt của tác giả sẽ làm
nên sự lôi cuốn của bộ tiểu thuyết. Bởi thế, nói nhiều về một bộ
tiểu thuyết lịch sử là điều sẽ làm nhiều độc giả phiền lòng.
Báo Bình Định đã từng giới thiệu và được bạn đọc nồng nhiệt chia sẻ
tiểu thuyết lịch sử Huyền Trân công chúa. Hy vọng một lần nữa bạn
đọc báo Bình Định sẽ có cảm giác thú vị tương tự với Bão táp cung
đình.
Tựa
Tôi vốn không có ý định viết gì thêm ngoài những gì đã được trình
bày trong sách. Bởi tất cả những ý đồ nghệ thuật, người viết đều bày
xếp trong đó cả. Cho nên khi sách đã in rồi, nếu dở cũng không có
cách gì biện bác để trở thành hay được. Nếu nó quả thực đã xuôi tai
người đọc, hà tất phải dài dòng thêm nữa.
Thế nhưng cứ sau mỗi lần tái bản thì từ các bậc cao niên vào hàng
túc nho, cũng nhưng các bậc thiện trí thức ưu thời mẫn thế, đều
khích lệ tôi nên hé lộ cho độc giả biết, vì sao tôi viết tiểu thuyết
lịch sử. Lại vì sao tôi chọn nhà Trần để viết. Và vì sao tôi không
viết theo lối thông sử, lại cắt ngang lịch sử, chọn những thời điểm
gay cấn nhất để làm nền cho cốt truyện. Và nữa, các độc giả ít tuổi
thì hỏi tôi lấy tài liệu lịch sử ở đâu mà phong phú thế. Tại sao tôi
có thể am hiểu đời sống chính trị xã hội cách đây tới bảy, tám trăm
năm để có thể tạo dựng lên được gương mặt xã hội thời đó. Tại sao
tôi lại biết được cả y phục, ngôn ngữ và phong tục, tập quán thời đó
để mô tả… Với các độc giả trong quân đội, khi đọc “Thăng Long nổi
giận” thì hỏi tôi dựa vào đâu để có thể dựng lại được cả một mặt
trận quy mô như thế. Và với tất cả những mưu mô ác độc của quân thù
cũng được phơi bày. Vân vân và v.v…
Vâng, những câu hỏi tưởng như đơn giản nhưng đó lại là một kho vốn
liếng cho bất cứ một văn nghiệp nào.
Trước khi tường giải, mong bạn đọc hiểu cho: Sức người có hạn, dù
lao động chân tay hay trí óc cũng vậy thôi. Tôi vốn không phải người
giỏi giang uyên bác gì. Chẳng qua chỉ chịu khó học và hỏi, rồi tích
lũy những điều mình đã học đã hỏi được mà cảm thấy có ích vào một
kho chứa, nhưng có thể lấy nó ra dùng bất cứ lúc nào. Vậy là vốn
liếng tôi đều vay mượn của thiên hạ.
Nhiều lúc tôi tự hỏi, phải chăng đây là một duyên nghiệp mà định
mệnh đã ưu ái ban cho. Và những gì thuộc về huyền linh vô thức đều
do định mệnh chi phối, chứ thực quả tôi cũng không có làm gì hơn một
tên “phu chữ”.
Tôi xin được phép không đi vào giải đáp lần lượt từng câu hỏi một,
mà chỉ xin bày tỏ đôi điều. Và tin chắc sẽ không làm hài lòng tất
thảy quý vị độc giả.
Xin thưa, khi đã viết được văn in báo, in sách, thậm chí tới 5 - 6
đầu sách, tôi vẫn chưa dám nghĩ tới việc viết tiểu thuyết lịch sử.
Mặt dù tuổi thơ tôi rất hiếu đọc, đặc biệt là các loại tiểu thuyết
lịch sử của cả trong nước và ngoài nước. Các truyện nôm khuyết danh
tôi không bỏ cuốn nào, và thuộc khá nhiều. Loại truyện danh nhân văn
hóa, hoặc tiểu sử các nhà khoa học cũng nằm trong sưu tập của tôi.
Khi lớn lên, tôi tìm đến các bộ lịch sử như: “Đại Việt thông sử” của
Lê Quý Đôn, “Việt sử tiêu án” của Ngô Thời Sỹ, “Lịch triều hiến
chương” của Phan Huy Chú, “Việt Nam sử lược” của Trần Trọng Kim,
“Đại Việt sử ký toàn thư” của Ngô Sỹ Liên v.v…
Đọc chính sử đối chiếu với các tiểu thuyết lịch sử của các nhà từ
“Hoàng Lê nhất thống chí” của văn phái họ Ngô, tiếp đến các nhà văn
cận hiện đại như Nguyễn Triệu Luật, Ngô Tất Tố, Phan Trần Chúc, Lan
Khai, Trúc Khê Ngô Vân Triện, Đào Trinh Nhất, Nguyễn Huy Tưởng, Trần
Thanh Mại và sau này là Chu Thiên, Nguyên Hồng, Hoàng Yến, Quỳnh Cư,
Thái Vũ, Hoài Anh…
Dường như đây là tất cả các tác giả ít nhiều có viết truyện lịch sử
của nước ta, kể từ “Hoàng Lê nhất thống chí” ra đời từ cuối thế kỷ
18 tới nay. Con số người viết thể loại này thật quá ít ỏi.
Khát vọng của tôi là muốn mở to đôi mắt nhìn vào quá khứ, thấy được
những điều kỳ diệu, và cả những khổ đau xưa cha ông ta đã tạo dựng
và nếm trải. Nhưng quá khứ luôn được phủ bởi một lớp sương khói khi
thì dày đặc đến mịt mờ, khi thì bảng lảng khiến tôi có thể nhận diện
được lịch sử. Và vì vậy, ước vọng của tôi cứ mãi mãi lùi xa.
Có một lần tôi thử làm một nhận xét sau khi đọc hầu như tất cả các
tác phẩm tiểu thuyết lịch sử của các nhà. Tôi giật mình nhận thấy,
tại sao trải qua các triều đại huy hoàng như Lý - Trần - Lê, mà vẫn
chưa có được một bộ tiểu thuyết nào khả dĩ như “Tam quốc”, “Thủy
hử”, “Pi-e đại đế”, “Ba chàng lính ngự lâm”, “Aivanhô” v.v… của các
nước Trung Hoa, Nga, Pháp, Anh.
Và một điều khinh ngạc nữa là các triều đại với các bậc vua giỏi như
Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành… Lý Thái tổ, Lý Thái tông, Lý Thánh
tông… Lê Thái tổ, Lê Thánh tông v.v… mà dường như bóng dáng họ đều
bặt vắng trên văn đàn, hoặc có được nhắc đến thì cũng đóng vai phụ
làm nền cho các danh tướng như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Phạm
Ngũ Lão, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Nguyễn Trãi… lừng lững nổi
lên như những chủ thể duy nhất của các triều đại ấy.
Chính những điều đó làm tôi trăn trở, nghĩ suy. Thử hỏi không có
Trần Thánh tông, Trần Nhân tông là các bậc vua anh hùng đức độ, giỏi
về triết học, văn chương, tài năng quán thế về chính trị, kinh tế,
quân sự, ngoại giao, đoàn kết hết thẩy mọi tầng lớp người trong nước
để huy động vào việc chống ngoại xâm, thì dễ gì các bậc tể thần như
Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật … làm
nên nghiệp lớn.
Lại như khi giặc Minh sang xâm lược, nhà trí thức lớn Nguyễn Trãi,
sau khi tiễn cha tới ải Nam Quan trở về, còn nằm nghe ngóng tình
hình tại một góc thành Đông Quan, thì Lê Lợi đã phất cờ tụ nghĩa
trên đất Lam Sơn, nhiều phen làm cho quân thù điêu đứng. Và mãi tới
lần thứ hai ra mắt Lê Lợi, Nguyễn Trãi mới dâng “Bình Ngô sách”, mới
nhập cuộc.
Ấy thế mà các tác giả văn học và văn học sử, hầu như chỉ viết về
trận mạc với vai trò của một số vị tướng.
Lại những năm gần đây, khi đánh giá Nguyễn Trãi với thời đại của
ông, các nhà sử học mải tôn vinh ông mà quên khuấy mất vai trò của
Lê Lợi, người anh hùng số một trong công cuộc đánh giặc Minh tàn bạo
- người làm ra lịch sử.
Đành rằng như Trần Hưng Đạo là linh hồn, là trụ cột trong cuộc đánh
thắng quân xâm lược Nguyên - Mông thế kỷ 13, Nguyễn Trãi là linh hồn
của nghĩa quân Lam Sơn trong công cuộc bình định giặc Minh thế kỷ
15.
Ngay cả các bậc đại hùng đại trí ấy, cũng chưa phải là nhân vật duy
nhất, là nhân tố duy nhất quyết định chiều hướng phát triển của lịch
sử.
Một điều nữa làm tôi trăn trở, rằng dân tộc ta có một quá khứ dựng
nước và giữ nước đầy nhọc nhằn và kiêu dũng, không thua kém một dân
tộc nào, nhưng sao thế giới biết đến ta quá ít.
Cũng bởi bộ môn tiểu thuyết lịch sử của ta chậm phát triển. Đến nỗi
thanh thiếu niên của chúng ta rất thông thạo sử Tầu, sử Ấn, sử Hy -
La, sử Anh, sử Pháp v.v… Trong khi đó có sinh viên đại học trả lời
phỏng vấn: “Trương Định là tướng Lương Sơn Bạc”, và một hoa hậu trả
lời các vị nữ anh hùng dân tộc có: “Hai Bà Trưng và Trưng Trắc,
Trưng Nhị”; một thanh niên có bằng tú tài sinh ra và lớn lên tại phố
Lý Đạo Thành mà không biết nhân vật này là ai v.v…
Những sự thật đau lòng ấy cứ dần dần thôi thúc tôi phải viết một cái
gì đây về lịch sử; để cho con cháu hiểu được cội nguồn, tiên tổ. Ấy
vậy mà vẫn chưa dám viết. Bởi tôi thấy sự hiểu biết và đánh giá các
thời kỳ lịch sử, cũng như vai trò của các nhân vật lịch sử trong tôi
chưa chín. Nói cho đúng, trình độ tôi chưa với được.
Mãi tới đầu thập niên tám mươi, tôi thường vào công tác phía Nam. Có
năm tôi lang thang tại Sài Gòn và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long
tới mười tháng. Thấy dân tình có vẻ ngao ngán. Nhiều người bỏ nước
ra đi. Những ca, vè đặt ra để phỉ báng lịch sử nhiều hơn là khích lệ
mọi người phải vượt lên, khiến tôi nhức nhối.
Các bạn tôi ở Sài Gòn, nhất là tôi có người bạn tâm huyết, học với
nhau từ thuở thiếu thời, anh thúc giục tôi, bằng mọi giá phải trở về
với cội nguồn văn hóa dân tộc; phải làm một cái gì đấy thật cụ thể …
Anh bộc bạch với tôi mọi suy tư của anh về thời cuộc, về truyền
thống văn hiến của tổ tiên. Phải nói, anh đã thức dậy trong tôi niềm
say mê trở về với nền văn hóa dân tộc. Vì thế, khi “Bão táp cung
đình” được in, ngay trong đầu tôi đã có lời đề tặng anh.
Tuy vậy, tôi mới chỉ ráo riết chuẩn bị viết thôi chứ chưa dám bắt
tay vào việc.
Duyên may tôi được mời đi dự “Hội thảo về Trần Nhân tông với phái
Thiền Trúc lâm”, tổ chức tại Yên Tử - nơi Trần Nhân tông xuất gia tu
Phật.
Sau hội thảo này, tôi như được tiếp thêm sức mạnh. Tôi đã lờ mờ nhận
ra vai trò của Trần Nhân tông trong lịch sử cũng như trong tôn giáo
Việt Nam, nhất là phái Thiền Trúc Lâm.
Nghĩ về phương lược hòa bình của Trần Nhân tông đối với Champa, sau
hai cuộc đại thắng giặc Nguyên - Mông 1284 - 1285; 1287 - 1288. Và
mối nhân duyên giữa vua Champa Indrvarman III với công chúa Huyền
Trân con gái út của ngài, sau gần một năm nhà vua qua thăm Chiêm
Thành và điều đình tác hợp. Tôi liền làm một cuộc khảo sát văn hóa -
phong tục Champa dọc theo ven biển miền Trung, bắt đầu từ Huế và kết
thúc ở Bình Thuận. Qua khảo sát điền dã, kết hợp với các nguồn sử
liệu, kể cả huyền thoại, cả những nơi thờ tự hai vị của hai dân tộc
Việt - Chăm; lúc về, tôi viết Huyền Trân công chúa.
Nhà xuất bản Thuận Hóa đón nhận bản thảo rất hào hứng, và đưa ngay
vào Sài Gòn in luôn 50.000 bản. Số lượng sách sau đó hai tháng đã
bán hết. Nhà xuất bản Thuận Hóa đưa về Huế in nối bản 20.000 cuốn
nữa mới có sách đưa ra phía Bắc.
Chính sự tiếp nhận của bạn đọc đối với tiểu thuyết lịch sử, là sự
khích lệ đáng trân trọng khiến tôi lao vào viết tiếp.
Tức là viết cuốn “Bão táp cung đình”. Đây là thời kỳ chuyển chính
quyền từ Lý sang Trần, và nhà Trần đi vào công cuộc hồi sinh đất
nước,để chuẩn bị đối phó với quân Mông Cổ đang tràn sang xâm lược
Trung Hoa, và chúng lâm le tiến vào Đại Việt.
Tôi thường suy ngẫm về vai trò của nhà chiến lược thiên tài Trần Thủ
Độ. Thế nhưng qua sử sách các đời, vẫn coi ông là kẻ tàn bạo, lộng
hành và bất trung. Càng nghiền ngẫm, tôi càng thấy không thể đồng
tình với các nhà sử gia trung đại. Mặt khác, tôi cũng chờ đợi các
nhà lịch sử đương đại phán xét. Nhưng tuyệt nhiên không có một cuộc
hội thảo nào, về vai trò của Trần Thủ Độ với vương nghiệp nhà Trần
(cho tới trước 1993). Còn với các cuốn sử được viết lại thời nay,
tuy không phê phán nặng hơn các sử gia thời trước, song cũng chưa có
một đánh giá khả dĩ về nhân vật lịch sử này.
Tôi nghĩ, Trần Thủ Độ đối với nhà Lý tựa như Mạc Đăng Dung đối với
nhà Lê. Bởi tới thời điểm lịch sử ấy, hai nhà Lý và Lê đều đã suy
đồi tới cực điểm. Song với quan điểm cố chấp, nếu không nói là ngu
trung của các sử gia phong kiến, nên đã coi hai nhân vật lịch sử tầm
cỡ này như là giặc của nhà Lý và nhà Lê.
Với tấm lòng của kẻ hậu thế, nhìn vào quá khứ với thái độ khách
quan, kính cẩn và thận trọng, tôi mạnh dạn viết giai đoạn đầu của
nhà Trần với vai trò chủ chốt của Trần Thủ Độ, mong trả lại sự công
bằng cho nhân vật lịch sử cũng như giai đoạn lịch sử này. Tác phẩm
viết xong từ năm 1988, nhưng mãi năm 1989 mới in được.
Sau khi tác phẩm ra đời, bạn đọc gần xa không những không phản ứng
mà còn đồng tình cổ vũ. Thế là tôi lao vào viết tiếp hai tập “Thăng
Long nổi giận”, nói về cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ
II (1284-1285). Và “Vương Triều sụp đổ”, phản ánh 60 năm suy thoái
rồi sụp đổ của cuối vương triều Trần.
Vậy là tôi đã hoàn thành bộ tiểu thuyết bốn tập về nhà Trần với
2.000 trang in. Đây không phải là bộ tiểu thuyết liên hoàn, bởi như
phần trên đã nói, tôi cắt ngang lịch sử, chọn thời điểm gay cấn nhất
để làm bối cảnh xã hội của truyện. Tuy nhiên, nếu độc giả đọc cả 4
tập theo thứ tự: “Bão táp cung đình” - “Thăng Long nổi giận” -
“Huyền Trân công chúa” - “Vương triều sụp đổ”, sẽ hình dung một cách
có hệ thống về triều đại này.
Và nếu như độc giả không có trọn bộ bốn tập, mà chỉ đọc riêng từng
tập, vẫn nắm được trọn vẹn giai đoạn lịch sử mà tác phẩm phản ánh.
Cũng có bạn hỏi tôi chọn trường phái nào để viết.
Hiện trên thế giới đang tồn tại nhiều trường phái:
- Có trường phái tôn trọng các sự kiện lịch sử như nó đã xảy ra,
trên cơ sở đó hư cấu, cấu trúc để tái tạo lịch sử, dựng lại gương
mặt lịch sử như nó có. Và khi đọc, độc giả có cảm nhận: lịch sử là
như thế. Điển hình cho trường phái này là Alexis Tolstoi nhà văn
Nga, và tác phẩm nổi tiếng của ông là “Pi-e Đại đế”, “Con đường đau
khổ”.
- Lại có trường phái không coi trọng sự thật lịch sử. Mà lịch sử chỉ
là một cái cớ, để từ đó người nghệ sĩ biểu đạt cái mà mình cần phải
biểu đạt. Điển hình cho trường phái này là Alexandre Dumas (cha) với
tác phẩm “Les trois mousquetaires” (Ba chàng lính ngự lâm). Ông đã
từng tuyên bố: “Qu’est ce que l’histoire? C’est un clou, auquel
j’accroche mes tableaux” (Lịch sử là gì? Đó là một cái đinh, ở đó
tôi treo móc những bức tranh của tôi).
- Và một trường phái khác cũng khá phổ biến, tức là dựa vào sự thật
lịch sử, truyền thuyết lịch sử nhưng viết theo nhãn quan chính trị
chính thống của thời đại tác giả. Tác phẩm được xem như có 40% sự
thật và 60% hư cấu. Đó là trường hợp tiểu thuyết “Tam quốc chí” của
La Quán Trung, được Mao Tôn Cương nhuận sắc theo cùng quan điểm.
- Một trường phái khác là dựa vào các sự thật lịch sử, sự kiện lịch
sử rồi làm biến dạng nó đi một cách tự nhiên chủ nghĩa. Các nhân vật
được đẩy lên hàng thần thánh hoặc tụt xuống hàng ma quái, yêu
nghiệt. Và để cho hấp dẫn, các nhân vật được “chưởng hóa”. Loại tiểu
thuyết này có tên là dã sử. Các tiểu thuyết đường rừng của nhà văn
Lan Khai thuộc loại đó.
Ở Trung Quốc tiểu thuyết dã sử khá phát triển ví như “Phong Thần”,
“Bí mật mả Tào Tháo”, “Mả Khổng Minh”, và hàng loạt tiểu thuyết
“Chinh đông”, “Chinh tây” v.v…
- Còn một loại nữa, tuy không đủ sức trở thành trường phái nhưng đã
thấy xuất hiện ở nước ta.
Đó là thể loại “Kể chuyện lịch sử”. Trong đó tác giả kể về các nhân
vật và các chiến công của họ. Loại truyện này thường từ 30 trang tới
100 trang hoặc 200 trang, gồm nhiều mẩu ghép lại. Về dung lượng cũng
như sức dựng truyện, dựng nhân vật chưa đạt tới trình độ tiểu
thuyết. Và nó cũng không phát triển được.
Hiện nay loại hình hồi ký và tiểu thuyết lịch sử đang phát triển
mạnh trên thế giới, nhất là phương Tây. Như nước Anh chẳng hạn, năm
1993 đã có hơn 1.200 đầu sách văn học viết về lịch sử được xuất bản.
Riêng thi hào Byron có 300 đầu sách viết về ông.
Nước láng giềng của ta như Trung Quốc, đang ào ạt dựng phim theo
tiểu thuyết lịch sử, và hàng loạt các hồi ký của các nhân vật tai
mắt của thời đại, đã ra mắt công chúng.
Nhân dân có quyền được thông tin, kể cả thông tin về lịch sử. Đáng
tiếc, về mặt này chúng ta làm được quá ít.
Còn một số câu hỏi mang tính bếp núc của nghề văn, như làm thế nào
để biết phong tục, tập quán, y phục, ngôn ngữ… thời Trần. Đây là một
vấn đề không nhỏ, mang tính nghề nghiệp khá lý thú. Tôi sẽ trình bày
vào một dịp khác, mong bạn đọc lượng thứ.
Nhân đây, xin được tỏ lòng biết ơn, nếu như được các bậc cao minh
chỉ giáo cho tác giả những điều còn thiếu sót, hoặc lầm lẫn trong
khi viết.
Tác giả chịu ơn độc giả nhiều lắm.
Song càng viết, càng cảm thấy thiếu. Vậy xin mượn lời của một nhà
thơ trữ tình nổi tiếng để kết thúc bài tựa này:
“Ai rằng vương nghiệp lung lay
Ta thành kính ngược thời gian hoài niệm”.
Hoàng Quốc Hải
Giảng Võ ngày Thân
Tháng Dần năm Đinh Sửu
(7-3-1997)
Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền...!!!
Last edited by Bé Múp; 24-02-2007 at 03:36 PM..
Bé Múp
Xem hồ sơ
Gởi tin nhắn tới Bé Múp
Tìm bài gởi bởi Bé Múp
(#2)
Bé Múp
Thành viên Bài gởi: 1,416
Gia nhập: Sep 2006
Trả lời: Bão táp cung đình - Tiểu thuyết lịch sử của Hoàng Quốc Hải
- 22-02-2007, 07:10 PM
CHƯƠNG I:
Cờ cắm la liệt khắp Hoàng Thành và phố xá. Những lá cờ ngũ hành và
cờ phướn màu sắc rực rỡ, không có gió, cứ rũ xuống, nép vào thân cột
như những hàng cờ tang. Thăng Long vào hội! Hội mừng đức vua đăng
quang(1). Một ngày hội buồn tẻ chưa từng thấy trong lịch sử hội hè
của đất đế đô. Phường phố văng ngắt không một bóng người qua lại.
Chỉ thỉnh thoảng có một toán lính tứ sương(2) vác dáo đi tuần lặng
lẽ như những bóng ma. Rồi cứ chừng một khắc canh, lại có một đội kỵ
binh phi nước đại vút qua đường, làm cuộn lên một lớp bụi mịt mờ, và
ném vào cái không khí u tịch của kinh thành những tiếng vó ngựa khua
đục đục đều đều, như có hàng trăm chiếc chày gõ nhịp trên sàn gỗ.
Trong hoàng thành, quân thánh dực(3) đứng ken dầy bốn cổng đông -
tây -nam - bắc; gươm dáo tuốt trần.
Nội điện đèn lồng, bạch lạp thi nhau tỏa sáng giữa ban ngày. Một tờ
chiếu vẽ rồng và mây ngũ sắc trải rộng trên mặt án thư phía hữu ngai
vàng, có đóng dấu ấn nhà vua.
Trống đăng văn vừa dứt. Quan hàn lâm phụng chỉ(4) cùng với quan hành
khiển(5), mặc áo đại trào màu tía biếc kính cẩn nâng tờ chiếu lên.
Và quan hàn lâm thị độc(6) bước lên bảy bước, nhìn vào tờ chiếu đọc.
Đây là chiếu sách lập Chiêu Thánh, thứ nữ của nhà vua làm hoàng tử,
và nhận ngôi báu cha truyền.
Giọng quan hàn lâm thị độc xướng lên với vẻ xúc động. Nhất là ở cái
đoạn: “Ta vì đức bạc, không sinh đặng hoàng nam, lại chẳng may mang
trọng bệnh. Mệnh ta sớm tối chưa biết thế nào. Nay ta trao ngôi báu
cho Chiêu Thánh, mong các khanh hết lòng giúp rập… ”.
Bá quan nhìn lên chiếc ngai vàng bỏ trống, ai nấy lòng đau như cắt.
Dứt lời tuyên đọc, một chiếc kiệu rồng tiến vào, hạ ngay xuống cạnh
ngai vàng. Nữ hoàng xúng xính trong bộ triều phục dài rộng quá khổ.
Các quan hộ giá tả hữu cúi xuống nâng phẩm phục cho vua nhỏ, và bế
nhà vua đặt lên ngai vàng. Đúng lúc nhà vua lắc lắc cái đầu, kêu
“Rặm quá!”. Chiếc mũ miện đảo nghiêng rồi rơi bịch xuống thềm điện.
Trời tháng mười se se lạnh mà trán nhà vua lấm tấm mồ hôi.
Yên vị xong, quan thừa chỉ(7) bèn dâng nhà vua tôn hiệu: “Thiên
chương hữu đạo”. Triều đình im phăng phắc. Các đại thần đưa mắt rụt
rè nhìn về phía điện tiền chỉ huy sứ(8) Trần Thủ Độ. Quan điện tiền
vươn mình khỏi chiếc thái sư ỷ, đốc kiếm chạm vào tay ghế lạch cạch
khiến các quan xanh cả mắt.
Chiêu Hoàng nhấp nhổm trên ngai vàng tỏ vẻ khó chịu, vì chiếc mũ đội
đầu vừa nặng, vừa rộng trống trếnh, và bộ triều phục thùng thình,
khiến nhà vua có cảm giác như bị vướng bẫy. Bỗng có tiếng nói nhỏ từ
bức trướng phía sau ngai: “Nữ chúa ngồi yên!”
Hệt như một đứa trẻ không thuộc bài, sau khi được nhắc, Chiêu Hoàng
ngồi lại ngay ngắn, hai chân co lên, đầu gối bằng bặn, cánh tay
khuỳnh ra, hai bàn tay với các ngón tay đan khít vào nhau. Giữa lòng
bàn tay kẹp một kim hốt. Chiếc hốt vàng mà nữ chúa kẹp trong lòng
tay kia, thường là để nhà vua ghi vào đó, những việc cần bàn bạc
hoặc phán quyết, mỗi khi thiết triều. Nhưng với Chiêu Hoàng, nó chỉ
là một thứ đồ chơi xấu xí.
Quan điện tiền nhìn về phía quan thái phó Phùng Tá Chu. Phùng Tá Chu
bèn đứng bật dậy, hướng về phía ngai vàng vái ba vái rồi phủ phục
xuống thềm điện:
- Muôn tâu thánh thượng, tôn hiệu quốc triều ta mà quan thừa chỉ vừa
dâng, thần thấy rất hợp, chẳng hay tôn ý của bệ hạ thế nào? - Ngẩng
nhìn nữ chúa, thấy nhà vua dường như không để ý gì đến việc triều
thần đang bàn luận, Phùng Tá Chu nói tiếp: - Theo thiển ý của hạ
thần, để tỏ lòng hiếu kính với thượng hoàng, triều đình ta cứ dùng
tôn hiệu Kiến Gia của tiền triều cho hết năm.
Lui về chỗ ngồi, quan thái phó thầm nghĩ: “Quan thừa chỉ đúng là một
người văn học thâm viễn. Chỉ riêng việc ông dâng tôn hiệu, cũng đủ
nói lên cái tâm và cái chí của ông: Thiên chương hữu đạo - Rõ là ông
muốn chấn hưng nhà Lý. Muốn Chiêu Hoàng nữ chúa phải theo đúng con
đường của vua mở nghiệp. Quả thật, nối tiếp mấy triều gần đây đã đi
trệch con đường chính rồi. Cao tôn vô đạo sa vào mê lộ. Ham xây cất
cung điện, đền đài, đình tạ, vắt kiệt sức dân. Thường năm mất mùa.
Dân phiêu bạt đi kiếm ăn, chết đói, chết rét chật đường chật quán.
Nhà vua thì suốt đêm yến tiệc. Tai thích nghe nhạc Chàm ảo não. Mắt
thích ngắm những lầu cao, cao mãi. Cung nữ từng bầy, vẫn không thôi
tuyển lựa. Cha nào con nấy, hèn gì Huệ tôn chẳng đi vào con đường
ngu tối. Triều chính đổ nát. Đời suy. Đạo mờ. Con giết cha. Bầy tôi
lập bè lập đảng chống lại vua. Giặc giã nổi khắp nơi. Ra khỏi kinh
thành mười dặm đã là đất giặc. Cơ nghiệp nhà Lý thập phần nghiêng
ngả.
Khó lắm! Khó lắm!…”
Lá màn phía sau ngai vàng lại lay động. Nữ chúa Chiêu Hoàng như giật
thột, đứng phắt lên ngai, cầm chiếc hốt huơ lên rồi phất tay áo
thụng, miệng lắp bắp chưa nói được thành lời.
Triều thần đang còn ngơ ngác, thì quan điện súy đô áp nha thống
chế(9) chạy xộc vào thềm điện, tay cầm tấm hỏa bài của tốp lính viễn
thám, vừa chạy theo đường ngựa trạm báo về. Quan điện súy xá Trần
Thủ Độ một xá rồi dâng tấm hỏa bài.
Quan điện chỉ huy sứ sức lực cường tráng, quắc mắt nhìn vào tấm hỏa
bài, chữ viết to như quả trứng ngỗng. Ngài lẩm nhẩm đọc: TẶC ĐÁO BỒ
ĐỀ(10).
Một vài vị tò mò liếc nhìn tấm hỏa bài. Trần Thủ Độ liền xoay mặt có
chữ úp xuống rồi nói lớn: “Các quan không về phủ đệ còn ở đây làm
gì?”. Bá quan vội tản ra. Còn nữ chúa được các quan cận thị thự lục
cục(11)đỡ vào hậu điện.
Quan điện tiền chỉ huy sứ, sắc mặt không hề thay đổi, ông sai lấy
ngựa và tự mình ra chỉ huy việc cản giặc.
(Còn nữa)
===============================================
(1). Đăng quang: Lễ lên ngôi vua.
(2). Tứ sương: Quân canh gác bốn cửa thành
(3). Quân thánh dực: Quân trực tiếp bảo vệ nhà vua mỗi khi xa giá ra
ngoài cung.
(4).Phụng chỉ: chức quan văn chuyên thảo các văn bản cho vua như
chiếu, chế, cáo, sắc…
(5).Hành khiển: chức quan văn đứng đầu hành khiển ty. Chức này đứng
thứ hai sau tể tướng. Theo chế độ cũ của nhà Lý chỉ cho các trung
gian (quan hoạn) giữ chức này.
(6).Hàn lâm thị độc: chứa quan văn phụ trách việc tuyên cáo các sắc
chỉ, lệnh… của vua ban.
(7).Thừa chỉ: Chức quan văn ở Hàn lâm viện.
(8). Điện tiền chỉ huy sứ: Chức quan võ chỉ huy các sắc lính bảo vệ
vua và kinh thành, cùng đội quân trực thuộc triều đình.
(9).Chức quan chỉ huy bảo vệ kinh thành đứng sau điện tiền chỉ huy
sứ.
(10). Chữ Hán có nghĩa là: Giặc đến Bồ Đề.
(11). Chức quan hầu cận nội điện.
Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền...!!!
Last edited by Bé Múp; 24-02-2007 at 03:41 PM..
Bé Múp
Xem hồ sơ
Gởi tin nhắn tới Bé Múp
Tìm bài gởi bởi Bé Múp
(#3)
Bé Múp
Thành viên Bài gởi: 1,416
Gia nhập: Sep 2006
Trả lời: Bão táp cung đình - Tiểu thuyết lịch sử của Hoàng Quốc Hải
- 22-02-2007, 08:28 PM
Chương II
Từ bữa Trần Thủ Độ ép phải kí vào chiếu nhường ngôi cho tới nay, Huệ
tôn thấy trong người vẫn tỉnh. Chính vì tỉnh táo suy nghĩ, nên nhà
vua càng không thể nào hiểu được tại sao người ta cứ bắt ngài phải
nhường ngôi cho Chiêu Thánh? Tội nghiệp, con bé mới bảy, tám tuổi,
còn chưa biết hỉ mũi đã phải làm vua. Ngài đã nói tới bã bọt mép,
rằng phải có truyền ngôi cho con gái, thà bắt con Thuận Thiên,
trưởng nữ của nhà vua còn hơn. Nó vừa có sức vóc, vừa nhiều tuổi
hơn; vả lại nó cũng võ vẽ đọc được dăm ba chữ, chứ con Chiêu Thánh
đã học hành gì đâu. Hoặc giả ngài cũng tỏ ý muốn truyền ngôi cho một
người cháu họ, không những người ta không thuận, mà nghe đâu họ đã
đem thằng bé đi biệt tích. Chắc hẳn chúng nó trầm hà thằng bé mất
rồi. Trời, thế là ta đã giết cháu ta! Cái mặt cảm u uất cứ bám riết
lấy tâm trí nhà vua, khiến ngài thấy đầu óc nặng nề quá. Để bớt phần
bức bối, nhà vua cố gượng dậy đi dạo trong khuôn viên. Và cũng thử
xem Trần Thủ Độ có phái tay chân đến rình mò? Nhìn khắp bốn bề đều
vắng lặng, Huệ tôn liền ghé vào bụi tầm xuân, thổ lộ những điều mà
bấy lâu ngài mang nặng như kết thành một khối ở trong ruột, trong
gan. Nhà vua thì thầm: “Ôi cái bụi tầm xuân này. Ta chỉ có tin mày
mới không phản ta thôi. Thân xác ta sao thống khổ thế này. Chẳng
biết vận số cát hung ra sao mà cái năm Đinh sửu (1217), cái năm ta
mới có hăm mươi ba tuổi đầu, đã mắc phải chứng loạn tâm. Mặc dù tới
nay ta đã bình phục, nhưng chú cháu nhà Trần Lý nó cứ phao ngôn rằng
ta đã mất trí. Ngay cả con mụ vợ ta nó cũng không tin rằng ta đã dứt
bệnh. Cha con chú cháu nó giam hãm ta suốt ngày trong cung cấm. Cận
thần tâm phúc của ta, nó đầy, nó đổi đi viễn sứ. Nô tì tin cẩn của
ta, phần thì nó giết, phần nó bắt đi khẩn đất miền biên viễn. Chúng
nó chặt hết chân tay, tai mắt của ta. Ta thật chẳng khác gì Hán Hiến
đế bị Tào Tháo lộng hành, áp chế. Nhưng Hiến đế còn hơn ta nhiều
lắm. Bởi ông ta còn có bầy tôi tâm phúc, nghĩ suy về sự nghiệp của
nhà Hán, và cũng đôi ba lần khởi sự, tuy việc chẳng thành … Còn nhà
Lý ta, từ khi Thái tổ được quần thần khuông phò lên ngôi, kế tiếp
nhiều đời đã làm cho dân giàu nước mạnh. Mặt Bắc, nhà Tống phải nể
phục, không dám càn dỡ. Mặt Nam thì Chân Lạp, Chiêm Thành phải sợ
oai nạp cống. Các quan trong triều ngoài nội, nối đời ăn lộc nhà Lý,
mà sao không có được lấy một người tâm phúc với ta. Chẳng lẻ tất cả
bọn họ đều là phường giá áo túi cơm, úy tử tham sinh? Chẳng lẽ tất
cả đều về hùa với chú cháu thằng thuyền chài(1) để hãm hại cha con
ta, mưu toan soán đoạt?…”. Huệ tôn xúc động, nước mắt chảy ròng ròng
trên hai gò má hơi cao. Thân xác héo khô gầy guộc, mặt mũi hốc hác,
râu tóc bơ phờ, nom Huệ tôn không ai có thể ngờ đó lại là một trang
nam nhi ba chục tuổi. Chẳng bù với Trần Thủ Độ, ông ta chỉ hơn nhà
vua có một tuổi, mà sao sinh lực tràn trề, uy dũng tỏ ra hơn đời
nhiều lắm. Chính nhà vua cũng có ý như né tránh ông ta.
Lấy chéo áo lau khô khuôn mặt khắc khổ, hai tay chống gối toan đứng
lên, bỗng từ phía bên kia bụi tầm xuân có tiếng sột soạt rồi có
người từ đó bước ra, nhà vua hoa mắt, chân tay bủn rủn không thể nào
lê nổi bước chân. Bỗng người đó tới trước nhà vua sụp lạy:
- Muôn tâu bệ hạ, con đã nghe hết mọi điều mà bệ hạ nói với bụi tầm
xuân.
Không nén được giận dữ, Huệ tôn thu toàn lực vụt đứng lên, ngài rút
chiếc dép giơ thẳng cánh ném vào giữa mặt ả thị tì, và mắng:
- Đồ nghiệt súc! Ta căm ghét lũ ngươi. Ở đâu các người cũng rình
rập, nghe ngóng. Ngươi cút xéo đi mà tâu với cha con chú cháu thằng
thuyền chài!
Cũng may mà thị nữ đã né đầu tránh được. Nàng loay hoay tìm lại
chiếc dép đưa cho nhà vua, và khép nép nói:
- Tâu bệ hạ, kẻ tôi đòi này chỉ mong có dịp được bệ hạ sai khiến,
chứ không có tâm địa nào hại bệ hạ.
Nhà vua có phần bình tâm, ngài hỏi:
- Vậy chứ kẻ nào sai mi đến đây do thám?
- Trình bệ hạ, chẳng hay bệ hạ có nhớ quan thừa chỉ?
- A, lũ ngươi giảo quyệt. Thằng thuyền chài sai ngươi đến đây để dụ
ta vào bẫy hả? - Nhà vua chồm dậy giơ bàn tay yếu ớt của mình lên
định tát vào mặt thị nữ. Bàn tay ấy lại từ từ buông thõng xuống. Nhà
vua thở dài ảo nảo, tuồng như tất cả ý chí và sức lực của ngài đều
trút qua hơi thở.
Thị nữ không cầm được nước mắt. Nàng cũng bối rối, chỉ sợ có ai
trông thấy cảnh này, thì vua tôi khó mà toàn vẹn. Chợt lóe trong óc
nàng một điều gì đấy, khiến nàng hoạt bát hẳn lên. Nàng tiến lên nửa
bước, ghé sát tai nhà vua nói:
- Quan thừa chỉ dặn con, nếu có cơ hội, bệ hạ nên sớm dứt bỏ chốn
cung cấm thâm nghiêm này. Xin bệ hạ hãy tỏ ra thối chí, xuất gia tại
một ngôi chùa nào đó trong kinh thành. Các bầy tôi trung thành với
bệ hạ, vẫn đang chờ thánh chỉ để mưu việc lớn.
Nói xong, thị nữ bèn dâng lên Lý Huệ tôn một chiếc quạt. Đó là chiếc
quạt mà nhà vua đã ban cho quan thừa chỉ. Nhà vua nhận ra chiếc quạt
của mình và nhớ lại tất cả. Ngài hỏi:
- Ngươi với quan thừa chỉ có thân thích gì không?
- Tâu bệ hạ, mẹ con là con nuôi của quan thừa chỉ. Mẹ con con chịu
trọng ân của đức ngài. Dù việc con làm có phải gan nát óc lầy, cũng
chưa dễ gì báo đền được ơn phúc đó.
- Ngươi có được hoàng hậu tin cẩn không?
- Bẩm hoàng thượng, hoàng hậu không nghi ngờ gì con. Nhưng chắc con
không thuộc loại tâm phúc như những chị quê ở Long Hưng(2), ở Tức
Mạc(3)
Nhà vua gật đầu. Một thoáng cân nhắc, ngài hỏi:
- Ngươi có thấy quan điện tiền hay ra vào cung hoàng hậu bàn tính gì
không? - Nhà vua phải hạ mình đi hỏi một thị nữ, về chuyện riêng của
hoàng gia, quả thật là đau lòng. Bởi mấy năm nay nhà vua không được
điều hành việc triều chính. Tất cả công việc đều thâu tóm trong tay
Trần Tự Khánh, anh ruột của hoàng hậu Trần Thị Dung. Từ năm ngoái,
(Quí Mùi - 1223) Trần Tự Khánh chết, quyền hành ấy được chuyển sang
Trần Thủ Độ, em họ y - Anh em nhà nó ép ta phải ốm. Chúng bắt ta
phải ký vào chiếu do chúng thảo sẵn, để chúng lừa bịp triều đình và
sai khiến trăm họ.
Chúng giam hãm ta tại một căn nhà ẩn mãi phía sau nội điện, bốn mặt
tường cao, hào sâu, lính canh nghiêm cẩn. Ngay việc ta đi lại thăm
hỏi các con ta, chúng cũng cản trở. Thật sự chúng biến ta thành một
tên tù.
Ngẫm nghĩ giây lát, thị nữ bèn tâu:
- Trình bệ hạ, quả là quan điện tiền Trần Thủ Độ có năng lui tới
cung hoàng hậu. Nhưng các bậc bề trên bàn tính chuyện gì thì kẻ hầu
hạ chúng con không được biết. Lưỡng lự một thoáng, thị nữ lại tiếp:
- Tâu bệ hạ, người có nhắn bảo gì quan thừa chỉ, con sẽ thưa lại.
Quan thừa chỉ có nhờ tâu cùng bệ hạ rằng: “Người gắng giữ gìn tấm
thân muôn quí, để còn lo việc lớn cho thiên hạ. Bêï hạ nhất nhất
không được tỏ lộ một điều gì khinh xuất, bởi gia nhân và tai mắt họ
Trần nhan nhản đầy triều”.
Nhìn về phía non Tản, mặt trời ánh lên một màu tím sẫm, thị nữ chắp
tay vái nhà vua ba vái, rồi nói:
- Lạy trình bệ hạ, mặt trời đã gác núi phía tây, xin bệ hạ kíp trở
về hậu điện kẻo quân canh nghi ngờ.
Nhà vua chợt hỏi:
- Vậy chớ bao giờ thì ngươi lại gặp ta?
- Tâu bệ hạ. Con không được phép vãng lai vào khu hậu điện. Xin cũng
cứ vào giờ này thi thoảng bệ hạ dạo chơi quanh đây, nếu có tin tức
gì con sẽ tìm cách bẩm báo để bệ hạ tỏ tường - Xin bái biệt. Nói
xong thị nữ vái dài rồi vụt biến mất, khiến Huệ tôn ngơ ngác, vì
chưa kịp hỏi tên nàng.
Trở lại căn nhà vắng lặng như chốn mồ hoang, Huệ tôn sắp phải dùng
bữa cơm chiều đạm bạc, thường do một tên lính tốt đưa vào. Nhìn mâm
cơm, nhà vua không nén nổi cơn giận, bèn gọi tên lính quát mắng:
- Kẻ kia, về nói với chủ mày tàn ác vừa vừa chứ, không thì chết cả
ba họ chúng bay đấy. Tiếc thay ta không nghe lời mẫu hậu, để cho cái
dòng họ khố rách áo ôm nhà chúng mày lọt vào triều đình, để đến bây
giờ chúng mày tác yêu, tác quái.
Tên lính tốt nhìn lại mâm cơm vua, bây giờ nó mới nhận ra là sơ sài
đạm bạc quá. Thật chẳng hơn gì bữa cơm lính. Nhưng biết làm thế nào,
nó là lính chỉ biết tuân theo lệnh của người trên. Nó còn được quan
đô áp dặn, nếu nhà vua có thét mắng hoặc hờn dỗi không ăn thì cứ
việc trả lời: “Khắp nơi loạn lạc, triều đình không thu được thuế.
Dân trong nước chết đói gần hết rồi. Nay mai quân giặc sắp ùa vào
kinh thành. Đến gạo hẩm, cơm tấm cũng chẳng có mà ăn”. Tuy đã được
quan đô áp căn dặn, tên lính tốt cũng không dám hé răng cãi lại nhà
vua. Trái lại, nó còn thấy nhen lên một cái gì đó ở trong lòng, như
là sự thương cảm ở tình người. Nó chỉ thương ông vua mất hết quyền
bính, thân phận như một tên tù.
Đuổi tên lính và bắt nó bê cả mâm cơm đi rồi, nhà vua nằm thở. Bây
giờ ngài mới thấy thấm mệt. Vừa đói, vừa mệt, nghĩ lại lời quan thừa
chỉ dặn, nhà vua thấy hối hận: “Việc ta mắng nhiếc những kẻ họ Trần
kia, quả là khinh xuất. Kẻ kia sẽ ra sức tìm cách ám hại những bầy
tôi còn trung thành với nhà Lý”.
Đêm phủ lên kinh thành một màu huyền đục. Bốn bề im lặng. Tiếng chó
sủa thưa dần. Tiếng dế, tiếng trùng bật lên rền rĩ như tiếng những
oan hồn than khóc. Đĩa đèn của nhà vua ngọn bấc đang lập lòe, ông
biết dầu đã cạn. Nhà vua nghiến răng như muốn nghiền nát kẻ nghịch
thần bạo ngược. “Y không cho ta lấy một người thiếp hoặc một tên nô
để sai khiến. Đến dầu thắp, y cũng chỉ phát cho ta từng đêm. Mà cũng
chỉ đến giờ này là lụi bấc. Chao ôi, đạo vua tôi đến thế là cùng!
Lại còn con mụ vợ ta nữa. Gần một năm nay mụ không còn đoái tưởng gì
đến ta. Quyền bính trong hoàng gia một tay mụ thâu tóm. Quyền hành
nơi triều chính do em mụ thống lĩnh. Ta ngu tối vì quá tin kẻ ngoại
tộc, đến nỗi trở thành trò cười cho chúng nó. Chị em nhà mụ lúc nào
cũng cặp kè với nhau. Bên ngoài, chúng che dấu dưới những điều to
lớn như việc nước, việc nhà. Kỳ thự bên trong thì chúng tư thông với
nhau. Nghĩ tới đây, nhà vua rùng mình ghê tởm, ngài vội nhắm mắt
lại, miệng nam mô niệm Phật. Vì chính ngài không dám tin rằng, con
người ta dám làm những điều luân thường bại lý như vậy. Ngọn bấc
chợt bừng sáng lên rồi phụt tắt. Đúng lúc, ngoài chòi quan điểm ba
tiếng trống sang canh. Tuy căm tức nhưng Huệ tôn thầm khen cho tên
rót dầu thật là tài, và tên lính đánh trống cũng thật đúng giờ. Vì
đêm nào cũng vậy, cứ vào lúc ngọn bấc phụt tắt là trống sang canh
ngoài hoàng thành lại điểm.”
Bình tâm, nhà vua nhớ lại cuộc gặp giữa ngài với quan điện tiền chỉ
huy sứ Trần Thủ Độ, không lâu trước ngày đức vua bị bức phải ký vào
chiếu nhường ngôi.
Bữa đó trời nóng, nhà vua cởi trần, ngồi đánh cờ một mình. Vì gần
một năm nay, Huệ tôn không được ló ra ngoài, không được tiếp xúc với
ai, kể cả vợ con. Buồn đến nẫu ruột, tưởng như chứng loạn tâm lại
tái phát, nhà vua phải bầy ra chuyện giải khuây, bằng cách đánh cờ.
Cuộc cờ đã gần mãn, rút vào thế. Một bên là tốt nhập cung, chỉ cần
thọc một nước xe nách là bên kia hết cờ. Một bên chịu nước xe lệch.
Nhà vua đang mãi mê lo cho thế cuộc đôi bên, thì Trần Thủ Độ xộc
vào. Ông bước đi hùng dũng, thanh trường kiếm đeo trễ một bên hông.
Nhà vua chợt ngửng lên. Thủ Độ lướt nhanh trên bàn cờ, rồi nhìn
thẳng vào khuôn mặt nhợt nhạt của Lý Huệ tôn, ông nói:
- Tâu bệ hạ, tàn cuộc rồi, đánh ván khác thôi!
Huệ tôn nén giận đáp lời qua giọng nói run run:
- Chẳng cần đánh thì nhà ngươi cũng thắng ta rồi.
- Vậy là bệ hạ đã nắm được cái nhẽ mạnh, yếu ở đời. Tôi xin đi thẳng
vào việc.
- Ngươi cứ nói.
Huệ tôn vẫn ngồi trên chiếc giường sơn then, mắt lơ đãng ngắm nhìn
vài chiếc quân ngà lạc lõng, kỳ thực tâm trí nhà vua đang rất lao
lung, không biết Trần Thủ Độ sắp bày đặt chuyện gì đây.
Thủ Độ hết nhìn nhà vua lại nhìn ra ngoài vòm trời chói chang nắng
gắt. Ông đi đi lại lại quanh gian nhà hẹp, như đang bồn chồn chờ đón
một điều gì. Đoạn ông đứng lại trước nhà vua, nói:
- Bệ hạ biết đấy. Vận nhà Lý hết rồi!
Huệ tôn giật bắn người, nhà vua tưởng như dứt lời nói ấy, Thủ Độ sẽ
rút thanh trường kiếm chém bổ lên đầu ngài. Nhưng không, ông ta vẫn
thảng nhiên đứng đó, tay khoanh trước ngực. Phút im lặng nặng nề đầy
hăm dọa hơn cả quãng đời tai biến mà nhà vua đã trải. Đức vua chợt
nhìn nhanh ra dẻo sân rồi lại ngước lên vòm nhà, chợt thấy một con
tò vò đang vo vo giẫy dụa trong chiếc mạng nhện. Huệ tôn thầm nghĩ
đến cảnh ngộ mình.
Tự trấn tĩnh giây lát, Huệ tôn lên tiếng:
- Vậy chớ khanh muốn gì ở ta? Mà lúc này ngươi muốn gì chẳng được,
kể cả cái đầu ta.
Trần Thủ Độ nhếch mép cười:
- Bệ hạ quá lời. Hẳn ngài đã biết từ cái thuở chạy loạn Quách Bốc(4)
rồi từ ấy tới nay, cánh họ Trần chúng tôi đã vì nhà vua mà tiêu hao
điền sản. Gia nhân chúng tôi và cả cha chú chúng tôi cũng hiến dâng
tính mạng để giữ cho cái ngai vàng của bệ hạ được vững.
- Điều ấy ta biết, nhưng tiếc thay các ngươi làm những việc ấy vì sự
bành trướng thế lực của họ Trần chứ không phải vì ta, vì trăm họ. -
Huệ tôn vừa nói vừa liếc nhìn thanh trường kiếm nơi hông Trần Thủ
Độ.
- Cha con, bác cháu, anh em nhà chúng tôi dốc hết tài sản và sản
nghiệp khuông phò bệ hạ, nhưng phải thừa nhận một điều rằng bệ hạ
bất tài, nên không thâu tóm được triều đình, bệ hạ cũng mỏng đức nên
không sai khiến được thiên hạ.
Thay trời chăn dân, bệ hạ để cho trăm họ ta thán, nguyền rủa. Đất
nước yên bình hàng trăm năm mà đi về phía nào cũng thấy cảnh tiêu
điều hoang phiếu. Ngả nào cũng có người chết đói, chết dịch bệnh. Từ
đời Cao tông tới nay, dân chết đói quá nửa rồi. Bây giờ thì không
chỉ đói, rét, bệnh tật, mà còn giặc cướp, loạn lạc nổi lên như muỗi,
như ruồi. Bệ hạ thử đoái nhìn sớ tấu các nơi gửi về triều đình xem,
có nơi nào không có giặc? Đông, tây, nam, bắc các nẻo đều nổi dậy
chống lại bệ hạ. Không xa xôi gì, ngay cửa ngõ kinh thành đây,
Nguyễn Nộn cũng hùng cứ, sớm tối đánh vào cửa khuyết lúc nào không
hay. Mấy phen y đã đem quân tới Bồ Đề, nếu tôi không sớm ra tay, hẳn
là thành tan, ngói vỡ, ngai vàng sụp đổ từ lâu rồi.
Trần Thủ Độ ngừng lời, chợt thấy mặt nhà vua xám ngoét, mồ hôi toát
trắng cả ngực, cả lưng, chảy thành dòng, ướt đen cả vùng cạp quần.
Chợt trong lòng viên tướng nảy ra một ý nghĩ mơ hồ, ái ngại. Trần
Thủ Độ tự biết việc đối xử với nhà vua như vậy là bạo ngược. Giá Huệ
tôn là một người thủ đoạn, sắc sảo mưu toan chống lại ông và diệt
vây cánh của ông, cũng như thế lực của họ Trần thì lại đi một nhẽ.
Đằng này ông ta nhu nhược, chấp thuận … Chợt Trần Thủ Độ ngửng phắt
đầu lên, tay nắm chặt đốc kiếm. Dường như ông ta làm như thế là để
dứt khoát với chính mình, chặn đứng cái lối nhân theo kiểu đàn bà.
Thủ Độ tự nhủ: “Nếu lúc này còn chần chừ là mất hết cơ hội. Khi mà
Đoàn Thượng, Nguyễn Nộn hai thế lực kình chống triều đình lớn nhất
liên kết lại với nhau được, thì không những cơ đồ nhà Lý sụp đổ, mà
vây cánh họ Trần cũng không có đất để chôn”.
Hành động của Trần Thủ Độ khiến Lý Huệ tôn không còn hồn vía. Nhà
vua co rúm người lại, miệng lắp bắp:
- Ta muốn gặp lại các con. Ta chưa hề xử tệ với ông. Ta mong ông hãy
gia ân. Dù sao…
Lời van vỉ của Huệ tôn khiến Trần Thủ Độ bừng tỉnh hẳn. Nhìn tấm
thân gầy guộc, khuôn mặt sầu héo toát lên vẻ ươn hèn ngu tối của một
đấng quân vương, lòng viên tướng dấy lên nỗi khinh ghét, tởm lợm.
Một ý nghĩ thoáng nhanh trong óc ông: “Đứng đầu một dân tộc quật
cường như Đại Việt mà là kẻ ngu hèn kia sao? Tiếc thay cả dòng họ
nhà ta đi khuông phò một tên vô lại”. Đoạn ông nói, lời nói rành rõ
như một lời khuyến cáo, lời huấn dụ mà cũng là lời tâm sự thốt lên
từ đáy lòng ông:
- Đất nước ngàn cân treo sợi tóc. Bên ngoài người Tống ráo riết nhòm
ngó. Bên trong bè đảng nổi lên. Mỗi kẻ trấn trị một phương, cái họa
nồi da xáo thịt chỉ là sớm tối. Dân tình đói khổ, rên xiết vì nạn
sưu cao thuế nặng của triều đình. Nạn cướp bóc, nạn ức hiếp của giặc
giã và bọn hào lý trùm lên đám cùng đinh. Phải lấy non sông xã tắc
làm trọng.
Nói tới đây, Trần Thủ Độ liếc nhìn Lý Huệ tôn, rồi ông nói tiếp: -
Bệ hạ phải thoái vị!
Huệ tôn tuy đã lường trước được việc này, nhưng ông không ngờ nó lại
xảy ra sớm thế, khiến ông bủn rủn cả tay chân, miệng há hốc, mặt
trắng bệnh như sáp, nhưng không thốt ra được một lời, như kẻ chết
không kịp ngáp.
-Vậy ý bệ hạ thế nào? - Trần Thủ Độ gặng hỏi.
-Ý ông là ý ta. Việc phải làm thế nào thì ông cứ thế mà làm. Có điều
ta muốn biết, ai sẽ thay ta? Ông hay Nguyễn Nộn?
- Nhà vua nghĩ quẩn! - Trần Thủ Độ giậm chân thét lớn. - Nguyễn Nộn
là giặc của triều đình, bệ hạ coi tôi như một tên giặc hiếp vua? Quá
đáng, quá đáng!
Lý Huệ tôn thật sự lúng túng, ông cũng không biết nói thế nào cho
hợp ý quan điện tiền. Giây lâu, ông tiếp:
- Hay ta bắt chước người xưa, nhường thiên hạ cho ông? - Huệ tôn
ngừng lời để dò biết ý tứ Trần Thủ Độ.
- Nhà vua chưa đủ tư cách của một người hiền để làm việc đó. Thiên
hạ không phải của riêng bệ hạ mà muốn cho hay giữ thế nào cũng được.
Ngày xưa nhà Lý thay thế nhà Lê là thuận lòng dân, hợp với ý trời.
Lý Thái tổ là người mở nghiệp huy hoàng đã đưa non sông Đại Việt lên
đài vinh quang chói lọi. Công ấy, sử sách muôn đời cháu con ghi nhớ.
Nhưng hiện tình nhà Lý rối rắm quá, còn nát hơn cả nhà Lê trước nữa.
Trên khuôn tranh thảm đạm như vậy, bệ hạ định treo một tấm gương gì?
Lịch sử là chân thực nhưng sòng phẳng, không thể chơi trò điêu sảo,
mập mờ được đâu. Nói xong, Trần Thủ Độ cười sằng sặc, khiến Lý Huệ
tôn càng hoang mang khiếp sợ.
Với giọng bạc nhược, nhà vua nói:
- Ta thật sự không biết làm gì trong lúc này, mong ông hết lòng giúp
ta.
Trần Thủ Độ bèn thò tay qua tấm áo tía đại trào, nơi thêu cái đầu hổ
phù trước ngực, rút ra một tờ chiếu thảo sẵn. Đọc xong, nhà vua thất
kinh hỏi:
- “Sách lập Chiêu Thánh làm hoàng thái tử”. Lạ quá! Lạ quá! Biến
hoàng nữ thành hoàng nam, trong đời ta chưa từng thấy, mà lịch sử
các đời cũng chưa từng có.
Trần Thủ Độ cười khẩy:
- Chúng ta là những người làm ra lịch sử, bệ hạ thử xét xem, trước
bệ hạ đã có triều đại nào, chỉ hai cha con kế tiếp trị vì thiên hạ,
đã biến đổi được một dân tộc hùng anh như Đại Việt này thành một lũ
ăn mày. Cũng chỉ trong vòng mấy chục năm cha con bệ hạ đã tiêu diệt
tới nửa số dân của mình bằng đói kém, dịch bệnh. Nếu bệ hạ tiếp tục
nắm giữ ngôi trời, tôi tin với tài năng và trí tuệ của bệ hạ, chẳng
bao lâu bệ hạ sẽ hoàn tất sứ mệnh diệt chủng!
- Sao khanh quá nặng lời. Chẳng qua chỉ tại tiên đế ham mải các thú
vui, còn ta thì bệnh tật dày vò…
Với lòng khinh bỉ, Trần Thủ Độ rút chiếc bút lông thỏ đã quết son
gài sau búi tóc đưa cho nhà vua.
Lý Huệ tôn xăng xái rót vào chén trà vài giọt nước xấp xấp ngọn bút
lông, ông xoay xoay tờ chiếu rồi nắn nót viết ba chữ tên mình. Đoạn
ông đẩy tờ giấy ra xa rồi lẩm nhẩm đọc lại lời văn, và ông dừng lại
rất lâu nơi ba chữ ký, tuồng như ông có vẻ mãn nguyện vì vừa làm
được một việc độc nhất có ích trong đời…
Vừa đói, vừa mệt, vừa chập chờn hãi sợ, Huệ tôn chìm mình vào giấc
ngủ muộn.
================================================== =====
(1). Họ Trần xuất thân từ nghề đánh cá ở vùng biển Nam Định, Thái
Bình, Huệ tôn gọi với ý khinh miệt.
(2), (3). hai miền đất khi nhà Trần dời từ Chí Linh về để lập
nghiệp. Phủ Long Hưng thời Trần nay là huyện Hưng Hà - Thái Bình.
Tức Mạc nay là đất ngoại thành Nam Định.
(4). Tháng 7 năm Kỷ tỵ (1209), Cao tôn giết Bỉnh Di vô tội. Bộ tướng
của Bỉnh Di là Quách Bốc phá cửa Đại thành đánh thẳng vào cung, lập
hoàng tử Thầm em ruột Huệ tôn lên làm vua. Huệ tôn phải chạy loạn về
thôn Lưu Gia, phủ Long Hưng, gặp nhà Trần phò giúp từ đây.
Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền...!!!
Last edited by Bé Múp; 24-02-2007 at 05:32 PM..
Bé Múp
Xem hồ sơ
Gởi tin nhắn tới Bé Múp
Tìm bài gởi bởi Bé Múp
(#4)
Bé Múp
Thành viên Bài gởi: 1,416
Gia nhập: Sep 2006
Trả lời: Bão táp cung đình - Tiểu thuyết lịch sử của Hoàng Quốc Hải
- 22-02-2007, 08:32 PM
BÃO TÁP CUNG ĐÌNH
CHƯƠNG III
Tới buổi thiết triều thứ ba thì Chiêu Hoàng không chịu nổi. Cô bé
tám tuổi bậm môi ứa nước mắt bắt đền mẹ:
- Mẫu hậu ơi, sao cữu cữu ác thế, cứ bắt con phải làm vua. Con đã
bảo để chị Thuận Thiên chị ấy làm có được không? - Có phải chị thích
làm vua không chị Thuận Thiên? Chiêu Hoàng ngoái về phía Thuận Thiên
hỏi:
- Ai bảo với Chiêu Thánh chị thích làm vua? Chị ứ thèm làm vua. Chị
chúa ghét mấy cái ông quan áo thụng, râu dài, răng rụng, mồm móm cứ
quỳ mọp dưới chân em lảm nhảm cái gì như một lũ ma ấy.
Thái hậu băn khoăn không biết nói thế nào, cho đứa con yêu của bà,
hiểu được những điều phức tạp trong triều đình, cũng như trong gia
cảnh hiện nay. Con bé hóm hỉnh, thông tuệ, nhưng tính tình hay cáu
gắt, hờn dỗi thất thường, chứ không được thuần phác như con chị.
Bà cũng không hiểu tại sao trọng trách quốc gia lại đem đặt lên vai
một đứa bé. Vậy là từ nay, ngoài việc dỗ dành Chiêu Thánh ưng thuận
với ngôi trời, bà còn phải uốn nắn đưa dần con vào khuôn phép học
hành, để mai sau con còn đủ trí khôn và chữ nghĩa mà sai khiến triều
đình, chăn dắt trăm họ.
Không thấy mẹ nói gì, Chiêu Hoàng níu sã một bên vai bà xuống nũng
nịu:
- Từ mai con ứ đội cái thứ mũ miện ấy nữa đâu, nó như một cái thúng
úp chụp xuống đầu, che kín cả mắt, chẳng nhìn thấy cái gì. Lại còn
đôi hia nữa chứ, xỏ chân vào hia cứ như bị cùm ấy, đi thì không nhất
nổi chân, ngồi thì nó chọc vào khoeo sứt cả da. Này, này mẫu hậu coi
xem - Vừa nói Chiêu Hoàng vừa vén váy lên, hai vết đỏ bầm rớm máu
kéo dài suốt hai bên khoeo chân Chiêu Thánh, làm bà xót xa.
Để con gái bé bỏng của bà quên đi cái công việc bó buộc nó phải làm,
bà bầy trò chơi cho các con. Thoạt đầu là trò chơi ô ăn quan. Chỉ
một lúc sau, các con bà đã biết cách chơi và hai chị em chúng vừa
trò chuyện, vừa chơi với nhau rí ráu như hai con thỏ non. Hoàng thái
hậu bèn gọi mấy thị nữ vào chơi hầu hai chị em Thuận Thiên. Cho đến
lúc gần tàn ván chơi, tức là mỗi bên đã chiếm gần hết số “nhà”, và
cuộc chơi đi đến chỗ tranh chấp được thua. Vào cái phút trót ấy
Chiêu Hoàng nhất định không chịu chơi nữa. Mặc dù Thuận Thiên bằng
lòng trả lại các ô đã chiếm được của Chiêu Thánh, mà không bắt Chiêu
Thánh phải bỏ ra một ô nào đã chiếm được của mình. Nhưng Chiêu Thánh
quyết bỏ cuộc. Thuận Thiên dỗ em:
- Hay là hai chị em mình chơi lại từ đầu, chị cho Chiêu Thánh đi
trước.
- Em đã bảo em không thích chơi. Bắt đầu thì vui đấy. Nhưng tàn cuộc
thì chán lắm. Eo ơi, em cứ nghĩ các ô kia kìa, nó y hệt như các ngôi
nhà mình đang ở, nhưng nó tan hoang hết, có người đếùn chiếm hết,
rồi của cải, quân hầu cũng bị người ta chiếm nốt. Mọi sự đều trống
rỗng, vắng ngắt, buồn teo như lúc mặt trời lặn. Em sợ cái cảnh như
thế lắm, chị Thuận Thiên ơi. Từ rày đừng bao giờ chị rủ em chơi ô ăn
quan nữa. Này nhé, chị có thấy không, các nhà dân kẹp giữa hai nhà
quan. Đi đầu nào cũng phải qua cửa quan, phải cống. Trời, lúc chị
chưa hốt mất hai cái ô quan đầy chất đống ấy đi, sao mà em ghét thế
chứ. Là vì em cứ nghĩ đến mấy ông quan ở triều đình, giả vờ giả vịt
cúi đầu, quỳ gối, nhưng rồi cũng bắt chẹt dân phải cống như trò chị
em mình chơi đấy.
Chiêu Hoàng vươn vai ngáp dài rồi nói bâng quơ:
- Sao mà buồn thế nhỉ?
Lại quay về phía Thuận Thiên, Chiêu Hoàng gặng hỏi:
- Chị làm vua hộ em nhá.
- Chịu thôi, đã bảo chị không thích, đừng có đùn cho chị.
- Hay là chị cứ nhận giúp em vài ngày cũng được, bao giờ khỏi chân,
em lại làm. Eo ôi, chân em thế này, ngày mai lại phải mang hia thì
chết mất. Nhìn vào mắt chị, Chiêu Hoàng thấy vẻ ngập ngừng, bèn nài
nỉ - Thế chị có thương em không, chị Thuận Thiên?
Bà Trần Thị Dung thấy các con đùn đẩy ngôi trời, coi ngai vàng không
bằng mấy cái vỏ hến, lòng bà dấy lên bao nỗi xót đau. Trong khi con
bà coi việc nắm giữ ngôi báu như là một thứ tai họa, thì thiên hà
đang chém giết nhau tơi bời hầu mong chiếm đoạt. Ngay dòng họ Trần
cũng đang chạy đua với họ Đoàn(1), họ Nguyễn(2) và hàng trăm tên đầu
mục khác. Có điều chính bà, một đương kim hoàng thái hậu cũng không
tài nào hiểu nổi, rằng Trần Thủ Độ, cậu em họ bà lại gạt phắt cái ý
của nhà vua muốn truyền ngôi cho thằng cháu họ. Hoặc nếu lập con gái
làm hoàng nam để truyền ngôi, thì Huệ tôn cũng muốn truyền cho Thuận
Thiên. Thế nhưng cậu ấy không nghe. Cứ nhất mực bắt nhà vua phải
trao ngôi báu cho Chiêu Thánh. Gặng hỏi mãi, cậu ấy chỉ nói:
“Tôi làm việc này vì dân vì nước, vì mẹ con chị, vì cả dòng họ Trần
nhà ta nữa. Tôi tuyệt nhiên không mưu lợi ích cho riêng mình. Nhưng
nhiều người không hiểu, họ nguyền rủa tôi, trong đó có vợ chồng chị.
Tôi biết, họ coi tôi như một kẻ lộng hành, bức bách nhà vua, soán
đoạt ngôi trời. Ôi, tôi chán ngấy cái triều đình nhà chị lắm rồi …”
Cậu ấy là một người kiệt hiệt, nhưng lại có tính hờn mát như đàn bà.
Lòng bà ngổn ngang trăm mối. Gần một năm nay, cậu ấy không cho ba mẹ
con lai vãng tới thăm nhà vua. Lấy cớ rằng nhà vua hoàn toàn mất
trí. Mỗi khi lên cơn thường hành hung những kẻ hầu hạ, đàn bà trẻ
con đến gần e mang họa. Nghe đâu cậu ấy mới gọi được một ông lang
người Tống, hèo tay lắm. Mà bệnh tình nhà vua vài bữa nay có phần
bơn bớt. Được cái ngày nào cậu ấy cũng ghé thăm mấy mẹ con.
Chiêu Hoàng vẫn ngồi rầu rĩ với vẻ mặt cầu khẩn Thuận Thiên, thái
hậu bèn dỗ:
- Nếu con đau chân chưa đi được, ta sẽ xin với quan điện tiền cho
con nghỉ thiết triều ít ngày. Việc triều đình sẽ nhờ cậu con cáng
đáng.
- Nếu khỏi chân rồi, con không ra thiết triều nữa có được không, mẫu
hậu?
Thái hậu nghiêm mặt nói:
- Đây là việc lớn của quốc gia. Phụ hoàng con chẳng may lâm bệnh, ta
lại không sinh đặng hoàng nam, con phải thay phụ hoàng giữ gìn ngôi
báu, sao cho dòng họ Lý nhà ta muôn năm trường trị. Nay con còn nhỏ
chưa hiểu được nhẽ lý ở đời, chưa tự mình quyết được việc gì. Cho
nên các việc bên trong hoàng gia và hoàng tộc, từ nay sẽ tự ta quyết
định lấy. Còn các việc bên ngoài, ta phó mặc cho quốc cữu điện tiền
chỉ huy sứ Trần Thủ Độ trông coi. Vì quốc cữu, vừa là quan đầu
triều, lại vừa là người thân tín trong nhà.
Mặc dù thái hậu có coi Chiêu Hoàng như một người thông tuệ, một đấng
quân chủ, mà giáo huấn những điều trọng yếu nhất, có quan hệ đến sự
mất còn của nhà Lý, và sự thịnh suy của nước nhà, cũng không vì thế
mà vị vua trẻ này có thể hiểu được, và khuây lãng được nỗi ấm ức
thường ngày của một đứa bé tám tuổi. Nét mặt con bà vẫn nhăn nhó,
rầu héo như một cái cây có sâu. Bà âu yếm kéo Chiêu Thánh vào lòng,
dỗ dành, trò chuyện. Mãi một lúc lâu sau, khi thấy thái hậu sai lũ
nô tì đi kiếm bộ que chuyền về, để bà dạy vua nhỏ chơi cái trò chơi
của lũ trẻ con dân dã, Chiêu Thánh mới he hé cười. Khi lũ thị nữ lấy
về một bó que trúc đằng ngà, chúng cắt cắt xén xén cho các que thật
bằng bặn, và chọn lấy mười que đẹp nhất cùng một viên đất rắn gọt
tròn, to bằng trái chanh dâng lên thái hậu, Chiêu Hoàng ngơ ngác
không biết đó là trò chơi gì.
Để con gái ngồi đối diện với mình, xung quanh là bọn thị nữ quây
quần, thái hậu bắt đầu chơi chuyền. Khi bàn tay với những ngón tay
búp măng thon dài, trắng đẹp của bà rải que chuyền vàng óng, que nọ
cách que kia đều tăm tắp, mắt Chiêu Thánh vụt sáng, tròng mắt mở to
ra như chờ đón một điều gì vui lắm sắp đến gần. Thật ra không phải
chỉ có Chiêu Thánh vui mừng, mà khi quả cầu đất tung lên, chính thái
hậu cũng thấy lòng mình reo vui. Hình ảnh cô gái làng Ngừ(3) cái
thuở mười lăm mười sáu tuổi, chiều chiều thường tha thẩn chơi với
đám trẻ chăn trâu cùng tuổi đánh chắt đánh chuyền trên những gò, bãi
xanh ngắt vụt thức dậy trong bà. Mặt thái hậu hơi ửng hồng, thoắt bà
đã leo qua từ bàn một đến bàn mười và đang chuyền. Quả cầu tung lên,
bó que chuyền nằm gọn trong tay, đôi mắt sáng như hai viên ngọc long
lanh, bà vừa xoay trở hai đầu bó que vừa bắt lại quả cầu và lại
tung, lại xoay, lại đập đập hai đầu bó que xuống đất nhịp với lời
hát:
Đập xuống đất.
Cất tay lên.
Xoay ống nhổ.
Đổ tay chuyền.
Chuyền chuyền một
Đủ một đôi.
Chuyền chuyền….
Lời hát như không bao giờ ngừng. Trò chơi thu hút Chiêu Thánh ngay
lập tức. Vua sà vào lòng mẹ, bắt lấy quả cầu đất, vơ lấy bó que
chuyền và rải ra một cách vụng về. Bà thái hậu đỡ lấy bó que, dạy
con chơi từ từ. Chiêu Thánh lúc đầu còn lóng ngóng, tới khi vừa tung
cầu vừa bắt được một que, liền thích thú tung cả bó và quả cầu lên
rồi reo hò ầm ĩ. Bó que tản mác tung tóe, riêng hòn cái vỡ tan vụn
như ai cầm chiếc chén sành ném thật mạnh vào bức tường đá. Cặp má
Chiêu Thánh đỏ nhừ, mắt anh ánh chớp. Đám thị nữ tranh nhau đi làm
hòn cái khác. Một loáng đã có hai ba hòn đất mài gọt nhẵn nhụi. Mặt
Chiêu Thánh lại tươi tỉnh mỉm cười. Chẳng mấy chốc Chiêu Thánh đã
đánh xong bàn một, và đang lõm bõm tập bàn hai. Nắm tay nhỏ nhắn rải
bó que còn lộn xộn, ríu lại vào nhau, nên chỉ chọn được một, hai que
là đã bắt cặp nhíp tới ba, bốn que. Trò chơi hấp dẫn đã tạo cho
Chiêu Thánh một đức kiên nhẫn đến lạ lùng. Bà Thái hậu nhìn con chơi
mà lòng vui chấp chới. Nhớ cái thuở cách đây chừng mười ba, mười bốn
năm, bọn con gái cũng túm tụm chơi với nhau ngoài bãi thả trâu như
thế này. Ngày ấy, nhà vua còn là hoàng thái tử Sảm, lánh giặc về
vùng Long Hưng. Một bữa thái tử rình xem bọn con gái làng Ngừ đánh
chuyền. Rồi thái tử nhất quyết chọn cô Trần Thị Dung con nhà Trần
Lý, phú hào của vùng đất anh kiệt này để đưa về triều hầu thái tử.
Thái hậu đưa hai bàn tay lên che mặt, khẽ rùng mình. Như nỗi sợ hãi
từ cái thuở tiến kinh vẫn còn ám ảnh bà. Thái hậu vui hẳn lên khi
thấy các con bà túm tụm chơi với bọn tì nữ. Chiêu Thánh mải miết tập
đánh chuyền. Bà nghe rõ con gái bà đếm …
Que mốt.
Que mai.
Con trai.
Con hến.
Con nhện.
Giăng tơ.
Quả mơ.
Quả táo.
Cái gáo.
Lên đôi …
================================================== =====
1. Đoàn Thượng chiếm giữ vùng châu Hồng (mạn Hưng Yên, Hải Dương
ngày nay) chống lại triều đình.
2. Nguyễn Nộn chiếm cứ vùng Bắc Giang (gồm cả Bắc Ninh - Bắc Giang
ngày nay) kình chống nhà Lý.
1. Làng Ngừ có tên chữ là Phù Ngừ, thời Trần nằm trong tổng Tống
Sinh huyện Ngự Thiên, phủ Long Hưng. Phù Ngừ xưa, nay thuộc đất các
làng Ngừ, Lại (thuộc xã Liên Hiệp) và làng Tề (nay thuộc xã Phúc
Khánh) huyện Hưng Hà, Thái Bình.
Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền...!!!
Last edited by Bé Múp; 24-02-2007 at 05:33 PM..
Bé Múp
Xem hồ sơ
Gởi tin nhắn tới Bé Múp
Tìm bài gởi bởi Bé Múp
(#5)
Bé Múp
Thành viên Bài gởi: 1,416
Gia nhập: Sep 2006
Trả lời: Bão táp cung đình - Tiểu thuyết lịch sử của Hoàng Quốc Hải
- 22-02-2007, 08:36 PM
BÃO TÁP CUNG ĐÌNH
CHƯƠNG IV
Vào một buổi sớm tháng Chạp, Thăng Long còn uể oải như người ốm lâu
ngày chưa hồi sức, lại bị dìm trong bể mù dày đặc, khiến nó có bộ
mặt hư ảo. Trần Thủ Độ xúng xính trong bộ áo thụng ngồi trước nhà
bái đường trong dinh phủ của ông, chờ Hoàng tiên sinh thức giấc. Thủ
Độ là một quan võ. Uy ông trùm lên cả triều đình. Nhưng ông là người
biết giữ lễ với kẻ sĩ. Khó khăn lắm ông mới mời được Hoàng tiên sinh
về làm môn khách nhà ông. Ông trọng tiên sinh như một bậc quốc sĩ,
bậc thầy, một vị quân sư tin cậy.
Tiên sinh không phải là người xuất thân từ khoa bảng. Nhưng sức học
của ông đến các bậc tôn trưởng, bậc tăng thống cũng phải ngưỡng mộ.
Sinh ra và lớn lên vào thời buổi nhố nhăng, ông quyết giữ mình, giữ
đạo cho trong sạch. Thương dân, ông đã đôi lần dâng sớ hạch tội bọn
dối vua hại nước, và cả kế sách chấn hưng quốc gia dân tộc, nhưng
không được nhà vua đáp ứng. Cao tôn vô đạo, ngày càng dấn sâu vào
các thú vui đọa lạc. Cuộc sống của nhà vua cực kỳ xa phí. Trong khi
liền mấy năm mất mùa, dân đói chết ngợp đường, nhưng mức thuế, sưu
không hề khoan giảm. Giận bởi bậc quân trưởng ngu dốt, tham bẩn, và
cũng biết vận số nhà Lý đã hết, ông lên núi dựng lều đọc sách. Sống
chung lẫn với lâm tuyền, thảo mộc và muông thú, ông thấy yên tâm hơn
là sống giữa cái xã hội nhầy nhụa với bầy thú đội lớp người.
Bữa nọ, Trần Thủ Độ cải dạng làm một người đi hái thuốc, đột ngột ra
mắt ông. Sau một hồi quanh co về những phương thuốc trường sinh, và
những kiến thức kém cỏi về Đạo đức kinh của Lão Tử, mà ông không mấy
hiểu biết. Hoàng tiên sinh nhìn thẳng vào mắt Trần Thủ Độ hỏi:
- Có phải ông đang có một âm mưu lớn? Ông đang cần một vị quân sư?
Trần Thủ Độ lặng lẽ sụp lễ tiên sinh hai lễ, thú nhận:
- Quả là tiên sinh có con mắt xét đời của các bậc thánh. Từ ngày
lệnh huynh tôi: Thái úy phụ chính Trần Tự Khánh mất đi, nhà vua liền
đặt trọng trách đó lên vai tôi. Tự thấy bất tài, kém đức mà ngồi
trên thiên hạ có khác nào ngồi trên tổ kiến lửa. Sớm tối chưa biết
ra sao. Mà trong nước giặc giã, trộm cướp, đói kém làm cho người dân
trăm bề điêu háo, không biết làm thế nào để ổn cố được tình hình.
Phạm vào chốn rừng sâu, làm kinh động đến cuộc sống yên bình của
tiên sinh, kẻ phàm tục này vô cùng đắc tội. Xin tiên sinh rộng lòng
tha thứ. Mà nếu tiên sinh không chê kẻ này là hèn kém, bỉ lậu xin
tiên sinh xuống núi giúp đời, trị nước, chỉ bảo cho lũ chúng tôi
thấy đường sáng, bỏ đường tối.
Khách vừa dứt lời, chủ cười khanh khách mà rằng:
- Thì ra núi thái sơn ở trước mặt mà tôi không biết. Ông chính là
quan điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ? Chắc quan ông đang đi tìm một
cao sĩ nào lạc bước tới chốn lều tranh của kẻ tiều phu này, dám xin
quan ông tha tội.
Lời qua tiếng lại, chủ khách đều tỏ ra khiêm nhường.
Trần Thủ Độ hết lòng cung kính, nài gạn mãi, Hoàng tiên sinh mới
chịu nói:
- Tôi trộm được ít kiến thức của thiên hạ, sao dám lạm dụng vào việc
lớn quốc gia. Vả lại trước quan ông, Đoàn Thượng, Nguyễn Nộn cũng có
qua đây mời gọi. (Nghe nói cả Thượng và Nộn tới cầu trước mình, Trần
Thủ Độ hơi biến sắc mặt). Tiên sinh lại chậm rãi tiếp lời: - Cũng
may các ông ấy đã sớm nhận ra tôi là kẻ bất tài, yếm thế nên bỏ đi
ngay. Gia dĩ tôi đã tự hẹn với mình, thà cùng mục nát với cỏ cây còn
hơn là thờ một đức vua điên. Huệ tôn vô học, lại mất trí từ năm hăm
ba tuổi tới nay, vì thế ngài đã biến cả quốc gia này thành một lũ ăn
mày, một lũ ma đói, nay mai hẳn Đại Việt ta sẽ trở thành một quốc
gia điên. Ha ha ha…!
Cuộc hội kiến lần đầu giữa Trần Thủ Độ với Hoàng tiên sinh không dẫn
đến một kết cục nào. Nhưng tiên sinh cũng chỉ dẫn cho quan điện tiền
vài đối sách, mà Trần Thủ Độ cho là những lời chỉ giáo sâu sắc. Ông
vẫn giữ tấm lòng ái mộ tiên sinh, và đi lại tới non nửa năm trời,
tiên sinh mới chịu xuống núi về làm môn khách của họ Trần. Tiên sinh
khảng khái từ chối mọi chức tước của triều đình mà Trần Thủ Độ có
đôi lần ngỏ ý.
Trần Thủ Độ, từ khi được Hoàng tiên sinh như hổ mọc thêm cánh, nên
càng kính trọng tiên sinh và thờ ông như một bậc thầy. Thường thì
tiên sinh nghiên cứu về y lý, dược lý. Có khi tiên sinh đi chữa
bệnh, hái thuốc dăm ba ngày với một tên tiểu đồng. Các công việc mà
Trần Thủ Độ nhờ ông giúp chỉ là những việc gay cấn ở trong triều,
ngoài các trấn, lỵ, sở và vùng biên ải. Khi không quyết được, hoặc
đã quyết như thế nào, ông điều hỏi ý tiên sinh.
Sương mù nhạt dần rồi loãng ra, đã trông rõ cả hàng cột và mái ngói
dãy xuyên đường. Trong nhà, tiên sinh vẫn còn ngon giấc. Cả tiểu
đồng cũng chưa dậy quạt lò pha trà sớm cho tiên sinh. Chừng sốt
ruột, Trần Thủ Độ dấn thêm vài bước nữa vào phía nhà hậu đường. Ngay
trước cửa ra vào, đôi câu đối giấy mà tiên sinh treo còn khi ở lều
tranh, nay được treo vào hai cột bức bàn của gian giữa. Quan điện
tiền đã đôi ba lần ngỏ ý xin tiên sinh cho khảm đôi câu đối ấy, đều
bị từ chối. Tiên sinh nói:
- Tôi như cánh chim trời, nay đây mai đó, không thích tính chuyện
lâu bền. Vả lại cứ để thế cho tiện. Lỡ khi tôi không còn ưa nữa, lật
mặt sau viết được đôi khác, thích hơn, lại đỡ tốn phí.
Trần Thủ Độ lẩm nhẩm đọc một vế:
CHU ĐẠI NHO MỖI TẦM KHỔNG, NHAN LẠC XỨ
Và vế bên kia:
ĐÀO XỬ SĨ TẠI VỊ HY - HOÀNG THƯỢNG NHÂN (1)
Thật ra thì quan điện tiền không hiểu nghĩa câu đối này. Nhưng ông
cảm nhận được nó là một biểu hiện cao thượng, nếu không nói là khinh
bạc của bậc cư sĩ (2).
Mãi tới lúc trời sáng rõ, Trần Thủ Độ mới nhận ra nơi cửa ngách đã
mở. Ở đây có lối thông ra vườn thuốc. Đúng lúc có tiếng thầy trò
Hoàng tiên sinh í ới phía ngoài vườn. Quan điện tiền vừa định đi ra
lối vườn thuốc, đã thấy tiên sinh đi về phía cầu ao, ngài còn ngoái
lại dặn tiểu đồng: “Con nhớ múc nước tới rửa hết sương cho mấy luống
tam thất”.
Rửa chân tay xong, ông vào nhà thay áo, rồi ra mở cửa chính. Chợt
trông thấy Trần Thủ Độ ngồi chờ trên kỷ phía nhà bái đường, ông giật
mình lên tiếng:
- Chẳng hay có điều gì mà quan ông ghé chơi sớm thế?
Tiến lại phía nhà hậu đường, Thủ Độ nghiêng mình xá Hoàng tiên sinh
rồi hai người cùng vào nhà. Hoàng tiên sinh vừa gọi tiểu đồng pha
trà vừa nói:
- Có mấy luống tam thất, tôi đã dặn thằng nhỏ từ mấy bữa trước trời
sắp có sương muối, phải che chắn. Nó che sơ sài quá. Đêm qua sương
xuống nặng. Sớm nay thầy trò phải che lại, rồi tưới để rửa lá, không
thì hỏng hết.
- Thưa tiên sinh, chẳng hay loài thuốc này công dụng thế nào mà tiên
sinh phải nhọc sức làm vậy?
- Đây là một loại thuốc cực quí. Tôi trồng thử không chắc đã được.
Loài cây này khó tính lắm. Nó ưa ẩm thoáng nhưng phải râm mát. Vả
lại cũng lâu được thu hoạch lắm.
- Liệu có tới một vài năm không, thưa tiên sinh?
- Một vài năm là thế nào. Bảy năm đấy, quan ông ạ. Tam thất, tức là
tam chi thất diệp. Nghĩa là mỗi cây đều có ba nhánh. Mỗi nhánh một
năm rụng một lá. Bảy lần rụng lá được một lứa.
- Kỳ công quá, thưa tiên sinh. Vậy chứ ở nước ta vùng nào sản được
loại cây này?
- Nhiều nhất vẫn là vùng Quảng Nguyên. Trước đây khi còn ở trong
rừng, tôi đã trồng thử. Củ cũng to, đanh. Phẩm lượng tốt không kém
tam thất Quảng Nguyên. Dạ tốt hơn của Trung Quốc nhiều chứ ạ. Chỉ
tiếc rằng người mình không chịu trồng.
Thấy nói bảy năm mới thu hoạch một lứa, Trần Thủ Độ đã khấp khởi
mừng thầm. Vậy là ít nhất tiên sinh cũng dừng chân tại soái phủ của
ông qua một vụ tam thất. Và như vậy, ông sẽ cậy nhờ nơi tiên sinh
biết bao công việc. Ông biết, kẻ sĩ không gì có thể kìm giữ họ được.
Uy vũ ư, không bao giờ khuất phục nổi họ. Danh vọng, phú quí chăng,
họ coi không bằng chiếc dép cỏ. Điều bọn người này khả dĩ chấp nhận,
ấy là lòng chân thực và sự tôn kính đối với họ. Trần Thủ Độ rất biết
chỗ mạnh yếu của kẻ sĩ, cũng như ông biết khá rõ sự lố bịch của
những kẻ nắm quyền lực trong tay. Cho nên mối quan hệ của ông với
Hoàng tiên sinh, là mối quan hệ trong sáng như một tòa lâu đài dựng
thuần bằng kính. Phải giữ gìn cẩn trọng lắm mới được, nếu không sẽ
tan vỡ như chơi. Mà những mảnh kính khi vỡ không phải không gây chết
người.
Ông đến gặp tiên sinh hôm nay không có chuyện gì gấp gáp. Nhưng thật
khó nói. Vì đã hai mươi tháng chạp rồi, ông muốn biện một cái lễ để
đưa về gia hương của tiên sinh, gọi là chút ơn tri ngộ.
Cầm chén nước nóng trong tay, do đích thân Hoàng tiên sinh đưa mời,
Trần Thủ Độ thoáng thấy mùi thơm của kim cúc vương trong hương trà.
Ông từ tốn hụm từng hụm nhỏ, trong chiếc chén vốn đã nhỏ như cái hạt
mít. Ngay cả việc nhỏ ấy, ông cũng phải tự kiềm chế để tiên sinh
khỏi phật ý. Xuất thân từ nghề chài lưới, sông nước, quen ăn sóng
nói gió thô cằn. Học hành ít. Vốn liếng chữ nghĩa không đủ để được
bài văn khấn. Nay lại nghiễm nhiên giữ chức quan đầu triều, Trần Thủ
Độ biết mình chỉ có sở trường cầm quân đánh dẹp, còn mưu lược trị
nước, sai khiến thiên hạ, thu phục kẻ sĩ ông lại rất lơ mơ, giống
như một kẻ mù lòa nghênh ngang đi giữa chợ. Vừa toan cất tiếng nói
với tiên sinh một điều gì đấy, quan điện tiền chợt dừng cặp mắt của
mình nơi đôi liễn viết chữ rất chân phương, treo trên cột áp tường
ngay phía sau chiếc tủ chè. Quan ông lẩm nhẩm đọc từng chữ:
TRI TÚC TÂM THƯỜNG LẠC
VÔ CẦU TỰ PHẨM CAO(3)
Trần Thủ Độ hiểu được nội dung của các chữ trên. Ông có cảm giác như
mỗi chữ kia đều là một cái khóa, khóa miệng ông lại. Nhưng con người
quyết đoán của ông, không dễ chùn bước. Ông nói liền một thôi, Hoàng
tiên sinh cười đáp lễ:
- Quan ông chu đáo quá, tôi vốn quen sống trong thanh bạch. Vả lại
hai thân tôi đều khuất núi. Nội tướng tôi cũng là người cần kiệm lại
giữ nếp nhà, nên tư biện cũng sơ sài, không dám phiền đến quan ông.
Trần Thủ Độ cứ gặng đi gặng lại mãi, cuối cùng Hoàng tiên sinh miễn
cưỡng chấp thuận, nhưng ông đòi xem những thứ mà quan điện tiền có
nhã ý biếu tặng ông, nhân sắp đón tân niên. Trần Thủ Độ bèn mời tiên
sinh sang “Cung Thủy tĩnh”, nơi chỉ dành riêng cho ông nghỉ ngơi,
sau những giờ phút làm việc căng thẳng ở triều đình. Trước cửa cung
đã chực sẵn năm cỗ xe song mã và một tốp lính áp tải.
Trần Thủ Độ mở những vuông nhiều điều phủ kín các mâm lễ. Thoạt đầu
là mâm bánh dầy, bánh cốm. Mâm thứ hai gồm có năm tấm vóc, năm tấm
gấm. Mâm thứ ba có năm tấm vải, năm tấn lụa sồi. Mâm thứ tư, chất
đầy tiền đồng. Mâm thứ năm gồm một trăm đĩnh bạc, hai chục nén vàng.
Sau khi xem xong lễ vật, Hoàng tiên sinh không hề lộ nét vui buồn
trên sắc mặt. Ông quay lại vái Trần Thủ Độ hai vái, gọi là đáp lễ.
Trần Thủ Độ toan cho gia nhân bê ra xe, chở đi. Nhưng tiên sinh đã
kịp ngăn lại.
- Quan ông đối với tôi thật là ưu hậu. Một kẻ sĩ như tôi, không bằng
cấp, không chức tước, mà được một người thay mặt triều đình cư xử
như một bậc quốc sĩ. Tôi dù có lấy da ngựa bọc thây, cũng không trả
được cái ơn tri ngộ này. Lễ vật, coi như tôi đã nhận đủ, chỉ xin gửi
lại quan ông số tiền cùng vàng bạc kia vào kho của nhà nước, để chi
dùng các việc khác. Tôi biết, của cải đây là của riêng quan ông,
nhưng tôi muốn được góp phần mình vào công quỹ quốc gia, trong lúc
ngân khố nhà nước đang cạn kiệt. Cả cái mâm gấm vóc kia, cũng xin
gởi lại quan ông. Không, tôi không dám chê gấm vóc. Ở đời có ai
không thích ăn ngon, mặc đẹp. Nhưng như người xưa đã dạy: “Y phục
xứng kỳ đức”. Có nghĩa rằng quần áo phải tương xứng với đức độ mà
con người đó có được. Quan ông đừng ép tôi phải nhận, cái thứ mà tôi
cũng như gia nhân tôi không có quyền được hưởng. Tôi hiểu, luật pháp
đều do nơi tay quan ông quyết định. Nhưng nên nhớ rằng, ta còn đang
sống dưới triều đại nhà Lý, phải tuân theo luật pháp nhà Lý. Từ năm
Canh thìn (1040), Lý Thái tôn đã ban hành luật: các quan từ ngũ phẩm
trở lên mới được mặc gấm, còn vóc từ tứ phẩm trở lên mới được mặc.
Lại cái màu tía kia, phải là các bậc từ tước hầu trở lên mới được
mặc.
Nhìn gương mặt Trần Thủ Độ đanh lại, rõ ràng trong bụng ông ta đang
suy nghĩ một điều gì gay cấn. Tiên sinh lựa lời nói thêm:
- Trong buổi nhiễu nhương giao thời này, luật pháp cần phải nghiêm
từ người đứng đầu nhà nước trở đi, ngõ hầu mới khôi phục lại được kỷ
cương, lễ luật.
Đành phải nhượng bộ tiên sinh, nhưng Trần Thủ Độ hậm hực cho rằng
“bọn sĩ phu thuần là một lũ ngốc, đói rách mặc kệ, cứ khư khư giữ
lấy cái thứ đạo lý ương gàn”.
Dường như nhìn thấu cả gan ruột Trần Thủ Độ, một con người độc đoán
đến tàn bạo mà phải nhất nhất nhượng bộ, Hoàng tiên sinh ôn tồn nói:
- Nếu sớm nay, quan ông không có việc gì cần kíp lắm, tôi muốn được
hầu chuyện. Cũng là dịp ta gặp nhau cuối năm, trước khi tôi về cúng
gia tiên.
Một cơ may nằm ngoài ý muốn của Trần Thủ Độ, vì chính ông cũng đang
có đôi điều muốn bày tỏ với tiên sinh. Tuy hai người cùng ở trong
một dinh phủ, nhưng không lẽ chốc chốc lại gặp nhau, lại hỏi han bộc
bạch. Tiên sinh vừa là người cao tuổi, học rộng, lại nhất định không
chịu nhận một chức tước gì của triều đình, làm sao có thể sai khiến
được. Cho nên tiên sinh chỉ ưng thuận làm môn khách chứ không làm
chính khách. Đã gọi là khách thì khi ở khi đi, lấy gì ràng buộc được
người ta?
================================================== ======
(1) Đại ý cao sĩ tự ví mình như bậc đại nho đời nhà Chu đi tìm Khổng
Tử, Nhan Uyên lạc tới xứ này. Lại ví mình như Đào Tiềm đời Tấn từ
quan đi ở ẩn và tự coi mình như người của thời Phục Hy, Hoàng Đế.
(2) Cư sĩ: người có học thức không ra làm quan.
(3) Tự lấy làm đầy đủ thì trong lòng được yên vui.
Không cầu cạnh ai điều gì, tự nhiên phẩm giá mình đã là cao trọng.
Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền...!!!
Last edited by Bé Múp; 24-02-2007 at 05:36 PM..
Bé Múp
Xem hồ sơ
Gởi tin nhắn tới Bé Múp
Tìm bài gởi bởi Bé Múp
(#6)
Bé Múp
Thành viên Bài gởi: 1,416
Gia nhập: Sep 2006
Trả lời: Bão táp cung đình - Tiểu thuyết lịch sử của Hoàng Quốc Hải
- 23-02-2007, 12:41 PM
BÃO TÁP CUNG ĐÌNH
CHƯƠNG V
Quan Điện Tiền liền sai dọn dẹp cung Thủy Tĩnh bầy hương án, đốt lò
trầm, hâm rượu thạch xương bồ. Rồi ông đi thay mũ áo đại thần. Bữa
nay ông đội mũ tiến hiền, áo thụng dài màu tía biếc. Với khổ người
cao lớn, thân hình vạm vỡ, chân tay thô cứng, vụng về, chỉ quen
đường cung kiếm, nhưng được phủ lên người bằng thứ mũ áo đó, nom ông
lại có dáng một văn nhân hơn là một võ tướng.
Trần Thủ Độ cung kính mời Hoàng tiên sinh an tọa trên bộ ván sơn
then, có vẽ hình chim phượng múa. Hoàng tiên sinh mặc áo đạo sĩ, búi
tóc, quấn khăn vành dây màu huyết dụ. Tiên sinh có khuôn mặt xương
xương, vầng trán cao, ấn đường rộng, tròng mắt trắng đen phân biệt,
lóng lánh như có thần nhãn, lông mi rậm dài hơi xếch, mũi thẳng, hai
cánh mũi và chuẩn đầu đầy đặn. Miệng rộng, hai khóe miệng hơi cong
lên, cặp môi dày vừa phải, màu sắc tươi nhuần, lại được chiếc cằm
vuông vức, nước da sáng sủa hồng hào và bộ râu dài rậm bạc trắng như
cước, tiên sinh có vẻ ung dung siêu thoát như một nhà tu đắc đạo.
Vừa phân ngôi chủ khách xong thì lão bộc dâng hầu một tuần rượu.
Rượu hâm nóng rót vào hai chiếc chén có nắp đậy tỏa hương thơm. Chén
dâng rượu là một loại gốm cực quí men độc sắc màu tiết dê, trong
lòng láng men trắng ngả xanh. Rượu được ba tuần, Trần Thủ Độ mới
nhập đề bằng câu chuyện vừa bắt được một thị nữ, đem chiếu của Huệ
tôn sai khiến Đoàn Thượng, Nguyễn Nộn mang quân về kinh diệt trừ
gian đảng, khôi phục lại kỷ cương của nhà Lý.
Việc tầy trời thế mà Trần Thủ Độ nói như chuyện chơi, khiến tiên
sinh hơi ngạc nhiên. Ông thầm nghĩ: “Vậy là viên tướng này đã rèn
được bản lĩnh”. Tiên sinh không khỏi mừng thầm về những lời khuyên
nhủ của ông, đã được Trần Thủ Độ tiêu hóa một cách ngoạn mục đến
thế. Hoàng tiên sinh bèn hỏi:
- Vậy chớ quan ông đã xử như thế nào rồi?
- Bẩm tiên sinh, chưa có xét xử gì cả. Tôi chỉ thu giữ tờ chiếu, còn
con thị tì lại cho về cung thái hậu, ngầm sai người giám sát, vẫn
coi như không có chuyện gì.
- Trong việc này quan ông có nghi cho ai không? Đây chỉ là một hai
người vì lòng tức giận nhất thời, hay họ đã hợp nhau thành bè, đảng?
Quan ông đã cứu xét đến những điều tôi vừa nói chưa?
Trần Thủ Độ bậm môi nén giấu một điều gì bực bội, thoắt ông đã lại
bình thản đáp:
- Thưa tiên sinh, cứ theo như sự suy ngẫm của tôi, thì việc công
chúa Chiêu Thánh lên ngôi có làm cho một số người an tâm, nhưng một
số khác lại nghi ngại. Trong số những người khắc khoải lo âu về vận
mệnh nhà Lý, tôi thấy có quan thừa chỉ là người đáng lưu tâm hơn cả.
Dạ bẩm tiên sinh, quan thừa chỉ là người trung hậu, nghĩa khí, dám
xả thân vì nước. Cứ như lời văn trong tờ chiếu, tôi ngờ rằng quan
thừa chỉ là người thủ bút. Kẻ úy tử tham sinh, ngu hèn, bần tiện
không thể viết ra được lời văn hào sảng như thế. Thưa tiên sinh, tôi
đồ rằng quan thừa chỉ bất bình vì thế lực họ Trần quá lớn, nên muốn
nhờ sức Đoàn Thượng, Nguyễn Nộn chặt bớt vây cánh. Việc này quan
thừa chỉ có dự mưu, nhưng không cố kết với ai. Vì xét ra, còn ai là
người có nhân cách lớn để mà cố kết. Dạ không, không có chuyện đích
thân nhà vua thảo được. Bao nhiêu năm chầu chực bên ngai vàng tôi
biết, nhà vua mỗi khi cầm bút chỉ viết không qua ba chữ tên mình.
Nói xong quan điện tiền buông một tiếng thở dài.
Càng gần trưa, trời càng buốt giá, lão bộc gầy thêm một chiếc hỏa
lò, đặt gần nơi chủ khách hội kiến. Hoàng tiên sinh không thể nén
giấu nụ cười vui. Vì cách xét đoán bình tĩnh và sáng suốt của Trần
Thủ Độ, khiến tiên sinh tin ông ta có thể làm được nhiều việc lớn có
ích cho quốc gia. Tiên sinh vuốt chòm râu dài tới hai ba lần, dấu
hiệu chứng tỏ trong lòng tiên sinh vui lắm. Nhìn thẳng vào khuôn mặt
dạn dày sương gió của vị quan lớn đầu triều mới ngoài ba chục tuổi,
tiên sinh lại hỏi:
- Quan ông liệu định việc này ra sao?
- Bẩm tiên sinh, lòng tôi thật phân vân. Nếu ở vào vị thế của quan
thừa chỉ, hẳn tôi cũng không thể làm khác được.
- Nhưng còn đối sách của quan ông với quan thừa chỉ?
Như nhìn thấu cả gan ruột Trần Thủ Độ, Hoàng tiên sinh vuốt nhẹ chòm
râu rồi một tay che miệng, một tay cầm cả chén rượu đã nguội ngắt
ngửa cổ uống một hơi cạn. Khẽ dằn chiếc chén xuống lòng khay, tiên
sinh nói:
- Người hiền là tài sản vô giá của quốc gia. Nước không có người
hiền để treo gương đạo hạnh là nước suy. Biết chùn tay trước khi
đụng đến người hiền, ấy là dấu hiệu tốt của lương tri. Thu phục được
nhiều người hiền quy tụ, ấy là khả năng trì quốc đã ló rạng.
- Trị quốc, Trần Thủ Độ khẽ mấp máy miệng như có ý nhắc nhở Hoàng
tiên sinh. Tiên sinh dừng lời tắp lự, ông nhìn thẳng vào khuôn mặt
đầy phách lực của Trần Thủ Độ, với giọng trầm hẳn xuống, như có ý
răn dặn:
- Tôi nói trì quốc. Vẫn biết tình hình nước sôi lửa bỏng như bây
giờ, kỷ cương mục nát, rương mối rối rắm, cương thường đảo lộn, sự
hung bạo tràn lan, con giết cha, tôi giết vua, cái ác nghiễm nhiên ở
ngôi thì phải lấy việc trị quốc làm đầu. Ngay việc con giết cha, tôi
giết vua không phải một sớm một chiều đã xảy ra. Nó giống như cái
ung, cái nhọt đã tích tụ các khí chất độc từ lâu rồi. Bởi những kẻ
lèo lái con thuyền quốc gia không những không lo phòng bị những việc
ấy mà không tự biết. Nhưng nước yên rồi thì phải chuyển từ “trị”
sang “trì”, nếu không sẽ thay thế cái ác cũ bằng cái ác mới. Hiện
nay nói đến “trì” là hơi sớm. Song vì đã chớm thấy cái mầm thiện
trong quan ông ló ra, tôi phải kịp khơi lên để cho nó tỏ sáng. Thấy
tiện, tôi nói luôn để quan ông có dự liệu về sau.
Quan ông làm những việc như thế này là một sự nghiệp chính trị lớn.
Việc làm chính trị là cốt ở dùng người hiền tài.
- Làm thế nào để dùng được người hiền tài, thưa tiên sinh? Trần Thủ
Độ vội vã chen lời.
- Sửa mình. Có sửa mình thì mới dùng được người hiền tài.
- Lấy gì để sửa mình vậy?
- Lấy đạo mà sửa mình.
- Đạo là thế nào?
- Đạo là cái vừa cao minh vừa thiết thực. Người trí thì nhìn thấy
được, kẻ ngu thì sờ thấy được. Đạo là cái mà người ta tâm cảm và
trực cảm được. Người hành đạo phải hội đủ các đức nhân, nghĩa, lễ,
trí tín.
- Thưa tiên sinh, trong năm điều ấy có thể bỏ được điều nào không ạ?
Trần Thủ Độ hỏi, vì ông chợt nghĩ trong lúc nhiễu nhương như vậy,
làm sao mà giữ được đủ các thứ tín điều kia.
- Không. Không thể bỏ được điều nào, Hoàng tiên sinh nghiêm giọng
trả lời.
Trần Thủ Độ lại hỏi:
- Vậy chớ trong năm điều ấy, thì điều nào là quan yếu hơn cả.
- Năm điều đó hợp lại mới thành cái đức của người hành đạo. Cho nên
điều nào cũng quan yếu. Nhưng suy cho cùng, thì nhân là gốc của đạo,
cũng là gốc của việc chính trị. Người thức giả sửa mình cho đến bậc
nhân, rồi mới đem đạo của mình ra thi hành khắp thiên hạ. Có sửa
được mình cho ngay chính, thì người hiền tài mới theo mà giúp mình.
Nhiều người hiền tài giúp mình thì việc chính trị mới có cơ thành
tựu. Ở đời, mọi hành động của con người, không gì bằng việc chính
trị. Vì chính trị quan hệ đến sự hay dở của nhân quần, sự trị loạn
của thiên hạ.
- Thưa tiên sinh, kẻ thô lậu quê mùa như tôi có làm chính trị được
không? Vì chính trị là phải có đức qui tụ được người hiền.
Hoàng tiên sinh cười khà khà. Giọng ông trở nên khoan hòa:
- Các việc quan ông đang làm, chẳng phải làm chính trị sao? Quan ông
có phong độ của một nhà chính trị lớn. Công nghiệp của quan ông có
thể lưu dấu cho đời sau. Nhưng đúng là quan ông còn phải sửa mình
nhiều lắm, nếu không, việc lớn sẽ hỏng từ những tiểu tiết.
- Thưa tiên sinh, từ khi tiên sinh nhận lời xuống núi, nghe chỉ dẫn
của tiên sinh, anh em họ Trần nhà chúng tôi điều hành công việc
trong triều, đã làm cho đường lối ngày một tỏ sáng thêm. Đi đến đâu
dân chúng cũng theo về, hào kiệt bốn phương lác đác đã tìm đến. Song
có một điều tôi vẫn cứ băn khoăn. Trong khi thế lực của họ Trần lớn,
thì thế lực của Nguyễn Nộn, Đoàn Thượng cũng lớn. Lại còn châu Đại
Hoàng, các vùng Quảng Oai cùng mấy động, sách người Man đánh dẹp mãi
không xong. Tôi luôn luôn lo sợ, tự răn mình không được làm điều gì
xằng bậy. Nhưng đối với các bậc hiền giả, các bậc thức giả, nho sĩ,
tôi không biết cư xử thế nào cho phải đạo. Vì rằng tôi xuất thân quê
mùa, lại dốt nát, chữ nghĩa hầu như chẳng biết được là bao. Dám xin
tiên sinh vì sự nghiệp lớn của Đại Việt ta, hết lòng chỉ bảo. Tôi
hứa sớm tối sửa mình để làm việc nghĩa cho thiên hạ, quyết không phụ
lòng dạy bảo của tiên sinh.
Hoàng tiên sinh gật đầu, như một sự hài lòng về các lời nói khiêm
nhường của quan điện tiền chỉ huy sứ. Tiên sinh chậm rãi nói:
- Quan ông danh thì là điện tiền chỉ huy sứ, thâu tóm hết thảy quân
cấm vệ, nhưng thực ra, quan ông nắm giữ trọn quyền lực của triều
đình để sai khiến thiên hạ. Phàm người đã ở ngôi cao, quyền lớn là
những người dễ tự mãn. Tưởng mình ngồi trên thiên hạ, là mình giỏi
hơn thiên hạ. Nên không chịu nghe, hoặc không thể nghe được những
lời chỉ trích mình. Chừng nào quan ông còn muốn nghe lời chỉ trích
không chỉ ở miệng bọn học giả, mà ngay từ miệng đám lê dân, chừng ấy
quan ông còn sáng suốt. Vừa đây, tôi mới nghe Đoàn Thượng giết một
viên tướng giỏi. Chỉ vì viên tướng kia không chịu tiến binh theo ý
Thượng. Trước tôi còn ngờ Thượng có thể đối địch được với quan ông.
Là vì y chiếm giữ suốt một dải châu Hồng giàu có, đất rộng, dân
đông, y lại có sức khỏe hơn đời như Lã Bố, Trương Phi. Nay thì rõ
rồi. Y chỉ là giặc cỏ, với lũ quân ô hợp, sớm tối tự tan. Tôi nói
thế là vì, các việc làm của Đoàn Thượng, bộc lộ kiến thức của y,
không hơn gì lũ thất phu. Bởi chưng, mở rộng đất đai là nghiệp lớn,
là thuộc về kế sách lâu dài của một vị chủ soái. Nhưng chiếm được
thành kia, lấy được đất nọ vào lúc nào, việc ấy lại do ở các viên
tướng. Trong lúc còn đang tranh đoạt với bên ngoài, mà giết tướng
giỏi của mình, thế có khác gì tự chặt tay chân mình. Đoàn Thượng là
kẻ tự tiêu diệt mình gấp trăm lần các thế lực của triều đình, và phe
phái khác đánh dẹp hoặc tranh đoạt với y. Quan ông cứ ngẫm lời tôi
nói, xem có đúng vậy không. Đoàn Thượng đã treo một tấm gương xấu
rực sáng của kẻ thất phu, quan ông không thể xem đó là bài học quí,
để tự sửa mình.
Được, được, để tôi sẽ nói những điều mạnh, yếu nhất trong nhân cách
của quan ông, là những điều quyết định thành bại của một sự nghiệp
chính trị, sự nghiệp của một tể thần, chứ không phải sự nghiệp của
một anh ngư phủ.
Sắp nói ra những điều hệ trọng trong sự nghiệp của một quan lớn đầu
triều. Sự nghiệp ấy sẽ dẫn dắt cả quốc gia Đại Việt này tới đâu,
không phải là chuyện vui trong tiệc rượu. Hoàng tiên sinh đưa hai
tay lên sửa nắn lại vành khăn, vuốt lại nếp áo, rồi dùng mười đầu
ngón tay chải lại chòm râu rậm.
Trần Thủ Độ vẫn ngồi nghiêm chỉnh lắng nghe. Lúc này, ông như cũng ý
thức được các điều hệ trọng từ người mà ông tôn làm thầy sắp nói về
mình. Tự nhiên, ông cũng làm theo tiên sinh; sửa lại mũ áo, và nếp
ngồi cho ngay chính.
Lão bộc, lặng lẽ tiếp thêm trầm vào lò, rồi khẽ đặt bình rượu vừa
hâm và xế góc quan điện tiền đang ngồi. Xong đâu đó, lão bước ra
ngoài nhà như một cái bóng.
Hoàng tiên sinh nhận chén rượu nóng từ tay Trần Thủ Độ, nhẹ nhàng
đặt về phía mình, rồi ông nói:
- Từ bấy lâu ăn ở với quan ông, xét các việc quan ông đã thi hành ở
trong nhà cũng như ngoài cung đình, hoặc trong dân chúng, xét những
việc hiển nhiên cũng như những suy tư và các chủ trương mai hậu của
quan ông, tôi tạm qui quan ông có bảy cái mạnh đáng được giữ gìn để
làm gương sáng cho đời:
Cái mạnh thứ nhất của quan ông là tính quyết đoán. Người có tính
quyết đoán là người dám chịu trách nhiệm về công việc mình làm, và
cũng là người có khả năng đón định được thời cơ làm việc lớn. Việc
đáng quyết mà chần chừ không quyết, tức là bỏ mất thời cơ, và đã
chuyển từ cái nhân chiến thắng thành cái quả thất bại. Vì như việc
sách lập Chiêu Thánh kế vị. Việc ấy, biết bao người đã xui quan ông
phế truất Lý Huệ tôn để lên ngôi hoàng đế, nhưng quan ông nhất quyết
gạt đi. Cái khôn ngoan là ở chỗ đó. Một đứa bé tám tuổi thì biết gì
mà chấp chính, thành ra quyền hành vẫn thuộc về quan ông. Làm việc
này quan ông có hai cái lợi. Lợi thứ nhất là quan ông giữ được tiếng
tôi trung, trước sau vẫn khuông phò nhà Lý. Cái lợi thứ hai là trên
danh nghĩa nhà Lý, quan ông sai khiến thiên hạ. Triều đình không bắt
bẻ vào đâu được, các thế lực kình chống với quan ông cũng không lấy
cớ gì để tiến binh. Nói đâu xa, dạo Chiêu Thánh kế nghiệp, Nguyễn
Nộn tưởng quan ông tức vị(1) đem quân về kinh hỏi tội. Nhưng quân
đến Bồ Đề, y thấy bố cáo của triều đình, bèn tự ý lui quân. Vì rằng
y không còn danh nghĩa gì để đem quân về kinh sư nữa.
- Thưa tiên sinh, Trần Thủ Độ nói xen vào - Việc sách lập Chiêu
Thánh làm hoàng thái tử để nhường ngôi, là ý của tiên sinh chứ đâu
phải ý của tôi. Tôi chỉ biết nghe lời tiên sinh.
Hoàng tiên sinh cười rạng rỡ. Ông quơ lấy chén rượu uống một hơi can
sạch, như để tự thưởng cho cái mưu của ông đã được người học trò
dũng lược đem ra thi thố thập phần hoàn hảo. Tiên sinh nói, giọng hồ
hởi:
- Một bên là “tôi xui” quan ông, một bên là cả “triều đình xui” quan
ông. Nếu quan ông không có bản lĩnh chắc là phải nghe triều đình
chứ. Tôi nói thì dễ, chứ quan ông làm khó lắm. Sự phản trắc đầy
triều. Lúc nào cũng có kẻ rình rập. Không phải là tay trí dũng hơn
đời, không thể làm nổi các mưu sâu chước lạ. Vả lại nếu không dẹp bỏ
được lòng tham vô lối, tức là coi ngai vàng hơn xã tắc(2) để hướng
về cái cao đẹp hơn, dễ gì quan ông đã nghe tôi. Tôi chỉ lý giải một
trong bảy đức tính quí báu đó của quan ông, để tự xét mình mà thôi.
- Dạ được, tôi sẽ lần lượt nói cho đủ bảy đức tốt của quan ông:
- Một là quyết đoán.
- Hai là không thiên kiến.
- Ba là trọng người hiền.
- Bốn là không tham lợi nhỏ.
- Năm là không nghe lời gièm.
- Sáu là dũng lược.
- Bảy là biết đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết thảy.
Có bảy đức tính đó, lo gì việc kiêm tính thiên hạ.
Thấy Hoàng tiên sinh nói đến việc kiêm tính thiên hạ, Trần Thủ Độ
giật mình lạnh toát cả sống lưng. Ông phải lấy việc gọi lão bộc vào
pha trà để tự trấn tĩnh. Giây lâu, ông mới cất tiếng hỏi:
- Bẩm tiên sinh, quả là tiên sinh quá yêu, nên tiên sinh đã cho kẻ
quê mùa này nhiều thiện đức của các bậc kỳ tài trong thiên hạ.
- Quan ông điện tiền chỉ huy sứ, xin hãy cứ bình tâm. Không phải
quan ông chỉ có thiện đức cao quí, mà quan ông cũng có nhiều điều
bất thiện, còn ẩn náu kỹ càng dưới chiếc mũ tiến hiền và trong bộ tử
phục(3) hầu kia.
- Dạ, thưa tiên sinh, nếu tiên sinh dạy cho kẻ hậu sinh này biết
được những điều bất tiếu, còn tiềm ẩn trong nhân cách, để sớm tối lo
việc sửa mình, ngõ hầu mới có thể gần gũi được các bậc tài đức trong
thiên hạ, cùng lo việc nước.
Tiên sinh chậm rãi:
- Nói về những đức tốt của người là điều cực dễ. Nhưng nói về những
điều xấu, những điều ác độc còn chất chứa trong họ mới thực là khó.
Khó hơn nữa, người nghe lại là người quyền cao chức trọng, kẻ nói
mất đầu như chơi. Song, tôi vì đại nghĩa, còn vì tình tri kỷ với
quan ông, nên tôi nói mà không sợ quan ông đổi dạ.
Trên kia tôi đã nói về bảy điều thiện đức của quan ông, bây giờ tôi
nói về bảy điều bất thiện trong quan ông:
- Một là nhỡn quan hẹp.
- Hai là tri thức hẹp.
- Ba là chưa có lòng bao dung.
- Bốn là chưa thật bụng tin người.
- Năm là nặng bè đảng, nhẹ hợp quần.
- Sáu là tàn bạo.
- Bảy là chưa hết lòng thương dân. Nhiều vùng qui phụ triều đình lâu
rồi mà vẫn để dân lưu tán, đói khổ.
Cứ sau mỗi điều, Hoàng tiên sinh lại khéo để ý xem quan điện tiền
chỉ huy sứ có còn muốn nghe nữa không. Tiên sinh thấy dù Trần Thủ Độ
có là bậc thánh, cũng không thể không gai người khi nghe đủ bảy điều
xấu hoàn hảo của mình. Cho nên mặt quan ông cứ tái dần, tái dần cho
tới lúc sạm đen như người say xỉn. Và bỗng nhiên, mồ hôi trán vã ra
như người bị trúng độc.
Hoàng tiên sinh trầm hẳn giọng xuống gặng hỏi:
- Thưa quan ông, liệu tôi có quá lời chăng?
Trần Thủ Độ vụt đã tươi tỉnh hẳn lên. Ông sụp lễ Hoàng tiên sinh hai
lễ. Hoàng tiên sinh vội vàng nâng quan điện tiền dậy:
- Quan ông làm thế, tôi khó nghĩ quá. Tôi đâu dám nhận lễ của quan
ông.
- Bẩm tiên sinh, quả là tiên sinh vừa cho tôi uống một liều thuốc
tróc độc. Mà đã tróc được đôïc, thì cơ thể không khỏi mỏi mệt. Tôi
toát hết cả mồ hôi, lạnh buốt cả xương sống sau mỗi điều tiên sinh
nói. Nếu không có tiên sinh là người sáng suốt và thẳng thắn vạch
cho, tôi vẫn cứ ngỡ rằng mình thập phần hoàn hảo. Bẩm tiên sinh, về
bảy điều thiện đức mà tiên sinh chỉ ra, tôi cũng lờ mờ cảm thấy như
mình có cả. Còn như bảy điều bất thiện, thì lần đầu tiên nhờ có tiên
sinh tôi mới nhận thấy. Và xét các việc đã làm, quả tôi còn nhiều
điều dở quá. Dở quá. Từ nay tiên sinh không những là thầy tôi, mà
tôi còn thờ tiên sinh như một bậc quốc phụ. Xin cam kết với tiên
sinh, tôi quyết đổi lỗi chứ không đổi dạ thờ tiên sinh. Mong tiên
sinh chỉ giáo, nếu chẳng may có một điều nào trong bảy điều trên, nó
trở thành cố tật rồi thì có hại gì cho sự nghiệp không?
- Những điều bất thiện kia ai mà chẳng có. Nhưng ở người thường, nó
không tác hại nhiều lắm. Còn như ở người cầm cân nảy mực quốc gia,
chỉ cần một trong bảy điều trên được bành trướng ra như một thế lực,
cũng đủ tiêu tan cả nghiệp lớn.
- Nhỡn quan hẹp ư? Nhìn sao thấu được thiên hạ. Biết trong nước thế
nào, ngoài nước thế nào để sắp đặt then máy quốc gia?
- Tri thức hẹp ư? Sao có thể ngồi trên được kẻ sĩ?
- Hẹp lượng bao dung ư? Sao có thể ôm trùm được thiên hạ.
- Chưa thật bụng tin người ư? Còn ai dám tận tâm làm việc lớn?
- Nặng bè đảng ư? Làm sao mà cố kết được toàn dân?
- Tàn bạo ư? Kẻ sĩ quay mặt, người hiền bỏ đi.
- Không thương dân sao? Dân sẽ rủ nhau làm loạn.
Nghe Hoàng tiên sinh nói, Trần Thủ Độ như người ngủ mê chợt tỉnh.
Oâng tiếp lời:
- Bẩm tiên sinh, nhờ tiên sinh tận tâm chỉ bảo, tôi như người mù vừa
thấy lại mặt trời. Mong tiên sinh từ nay đừng coi tôi như một bậc tể
thần, mà hãy coi tôi như một lũ “ấu ấu tu tri” để dạy dỗ.
Hoàng tiên sinh gật gật, ông lại đưa tay lên vuốt nhẹ chòm râu. Ông
vuốt như thế mãi một lúc lâu, cứ như là ông đang kéo dài, dài mãi
những sợi râu để biến nó thành những sợi tơ trời. Bất chợt ông lại
nói:
- Cái khó không phải là con người ta còn làm điều bất thiện, mà khó
là ở chỗ, con người có tận tâm đổi lỗi để đạt tới cõi thiện?
Mới nửa chiều, sương đã giăng trắng cả kinh thành. Giá buốt lùa vào
đại sảnh. Lò than đã tàn. Chỉ có hương trầm như còn đọng lại, còn
đông kết lại cùng với những lời nói tâm huyết của hai vĩ nhân trong
một chiều sương giá. Phải chăng đây là khởi đầu buổi bình minh của
một triều đại mới?
=============================================
(1) Tức vị: lên ngôi vua.
(2) Theo sách Chu lễ: Xã: là nơi thờ thần Thổ địa. Tắc: là nơi thờ
thần Bách cốc. Dân trong một nước cần thiết nhất là ruộng đất và
thóc lúa, nên đời xưa dùng chữ Xã tắc để tượng trưng cho quốc gia.
(3) Tử phục: quần áo màu tía. Theo chế độ các nhà Lý - Trần, các
quan có tước vương, tước hầu mới được mặc áo màu tía.
Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền...!!!
Last edited by Bé Múp; 24-02-2007 at 05:37 PM..
Bé Múp
Xem hồ sơ
Gởi tin nhắn tới Bé Múp
Tìm bài gởi bởi Bé Múp
(#7)
Bé Múp
Thành viên Bài gởi: 1,416
Gia nhập: Sep 2006
Trả lời: Bão táp cung đình - Tiểu thuyết lịch sử của Hoàng Quốc Hải
- 23-02-2007, 12:44 PM
BÃO TÁP CUNG ĐÌNH
CHƯƠNG VI
Để hưng thịnh triều đại mới của Lý Chiêu Hoàng, một bà vua tám tuổi,
quan phụ quốc thái úy(1) Trần Thừa bèn hoạch định một số chính sách.
Trước hết, lấy danh nghĩa của đấng quân vương, xuống chiếu chọn con
em của quan viên trong ngoài, sung vào các sắc dịch ở nội cung. Tức
là các chức như chi hậu(2), nội nhân(3), thị nội(4). Mở đầu cho công
cuộc cải cách này, quan điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ được thăng
làm tri thành nội cung chư quân sự. Nghĩa là trước kia, quan ông chỉ
thống lĩnh quân cấm vệ trong kinh thành, nay thâu tóm hết thảy cả
quân tứ sương và quân các lộ, các đạo, các trấn trong toàn quốc. Và
các người cháu gọi Trần Thủ Độ bằng chú, bác như Trần Bất Cập được
bổ làm cận thị thực lục cục chi hậu(5). Trần Thiêm làm chi hậu
cục(6). Trần Cảnh (con nhỏ của thái uý Trần Thừa mới tám tuổi) cũng
được bổ làm chánh thủ(7).
Từ ngày Trần Cảnh vào cung, nhà vua có bạn, cảm thấy đỡ buồn hơn.
Trần Cảnh cũng bằng tuổi với vua. Cảnh có dáng người phổng phao. Mặt
mũi khôi ngô. Đôi mắt sáng như sao. Da trắng hồng, cặp môi đỏ mọng
như môi Phật. Cảnh tính nết thuần hậu, ít nói. Tư chất thông tuệ,
nhân cách đàng hoàng. Thường chơi với đám trẻ con các nhà dân dã.
Chơi trò gì Cảnh cũng chóng bắt chước được chúng, rồi chẳng mấy chốc
lại vượt lên bọn chúng. Khi thắng, Cảnh bắt chúng vòng tay làm kiệu
rước. Một hôm Chiêu Hoàng đi qua, thấy thế thích lắm, sà vào chơi.
Đám trẻ có đứa biết Chiêu Hoàng là vua. Chúng hét lên: “Vua đấy! -
Vua đấy!”. Lũ trẻ sợ quá, chạy tán loạn. Chỉ còn trơ lại Trần Cảnh
đứng một mình. Chiêu Hoàng bèn nắm lấy chéo áo Trần Cảnh:
- Tại sao thấy ta, chúng nó bỏ chạy?
- Tâu, bệ hạ là vua. Chúng nó sợ.
- Ta có làm gì đâu mà chúng nó sợ?
- Phép nước là thế. Dân chúng không được nhìn mặt thiên tử, nói gì
chơi.
- Thế sao ngươi không chạy, ngươi không sợ ta chứ gì?
- Tâu, thần còn chạy đi đâu được nữa. Ngày nào bệ hạ cũng bắt vào
chầu. Bây giờ lại đang nắm áo.
Chiêu Hoàng lại túm chặt vạt áo Trần Cảnh hơn nữa lôi xềnh xệch vào
tận phía trong tiện điện(8). Nhà vua vừa buông áo Trần Cảnh, liền
chạy vòng về phía sau bức bình phong lấy ra một chiếc hộp. Chiêu
Hoàng mở hộp tung lên một nắm que chuyền bằng ngà, và hòn cái bọc
gấm có nhồi bông, độn sỏi. Nhà vua ra hiệu cho Trần Cảnh ngồi xuống
cạnh mình, mặt tươi hớn hở hỏi:
- Chơi nhá. Ngươi có biết chơi không?
Cảnh lắc đầu. Và nói lí nhí trong cổ họng:
- Trò chơi con gái.
- Sao, ngươi không biết chơi à? Ta dạy. Người xuống. Trông đây này.
Chiêu Hoàng thoăn thoắt rải que, tung hòn cái, đánh một mạch từ bàn
một đến bàn ba mới hỏng. Chợt dừng, thấy Trần Cảnh lơ đãng nhìn ra
ngoài sân. Nữ chúa bực lắm, hỏi:
- Vậy chớ ngươi biết chơi những trò gì?
- Tâu bệ hạ, thần biết đánh đáo, đá cầu, đi kheo, kéo co, bơi trải,
chèo thuyền, đánh cờ, chơi ô ăn quan… Nhiều trò chơi lắm. Nhưng phải
ở ngoài hoàng thành mới có người biết chơi.
- Vậy chớ có trò gì chơi một mình được, ngươi chơi thử, ta coi.
- Dạ, tâu bệ hạ, chỉ có chèo thuyền, đi kheo thì chơi một mình được.
Nhưng phải ở ngoài sông, hồ hoặc bãi cát cơ.
- Còn trò gì khác nữa, ngươi chơi một mình được?
Ngẫm nghĩ một lát, bỗng mặt Trần Cảnh bừng sáng lên như chợt nhớ ra.
Cảnh thưa:
- Tâu bệ hạ, thần có thể đá cầu một mình được.
- Vậy ngươi đá cầu, ta coi.
Lần trong túi có đồng tiền đồng, lại có cả mảnh giấy bản, tập viết
bẩn quá. Cảnh xé đi, tiện tay đút luôn vào túi. Trần Cảnh hý hoáy
gói một lát được quả cầu be bé, xinh xinh. Cảnh bèn đá với cả hai
bàn chân, nom dẻo quẹo. Hai bàn chân cứ nhịp nhàng đưa lên đặt
xuống. Quả cầu cứ nảy lên theo nhịp đá của chân, nom nó như mọc lên
từ giữa hai bàn chân của Trần Cảnh. Chiêu Hoàng thích quá reo to:
- Ôi, giỏi quá! Ngươi giỏi quá!
Trần Cảnh giật mình ngoái nhìn Chiêu Hoàng, quả cầu rơi nhẹ xuống
thềm nhà. Chiêu Hoàng nhặt quả cầu lên xem, rồi đá thử. Nữ chúa vừa
buông quả cầu ra khỏi tay, chưa kịp giơ chân lên, nó đã rơi xuống
đất. Làm lại tới cả chục lần, lần nào cũng dúi dụi suýt ngã, không
sao bắt chước Trần Cảnh để chân có thể đón được cầu.
Thấy nữ chúa chơi với Trần Cảnh, đám nội nhân không dám vào, chỉ
đứng từ xa ngó lại. Nhờ có những trò chơi đó mà Chiêu Hoàng đâm
quyến luyến Trần Cảnh. Chiêu Hoàng tính tinh nghịch, có khi Trần
Cảnh bưng chậu nước đứng hầu cho nữ chúa rửa tay. Với các nội nhân
khác, nữ chúa rửa tay mà không thèm nhìn mặt. Nhưng với Trần Cảnh
thì Chiêu Hoàng vừa rửa tay vừa trêu chọc. Hai tay nữ chúa cứ ngâm
chìm vào chậu, có khi còn ấn xuống, làm Trần Cảnh phải đỏ mặt tía
tai, gắng gượng lắm mới giữ cho chậu nước khỏi đổ vào người Chiêu
Hoàng. Có khi Chiêu Hoàng còn té cả nước vào mặt quan chánh thủ.
Trần Cảnh vẫn cứ ngậm tăm không dám nói năng gì. Được thể, Chiêu
Hoàng càng trêu. Có lần Cảnh bê khăn trầu, Chiêu Hoàng lấy cả khăn
ném cho Cảnh. Cảnh sợ quá bèn lạy: “Bệ hạ tha tội cho thần”. Chiêu
Hoàng cười sằng sặc: “Tha tội cho ngươi!”.
Ở mãi trong chốn cung cấm tẻ buồn, nay được Trần Cảnh chầu hầu, cũng
như là chuyện có bầu có bạn. Vì thế Chiêu Hoàng cũng bớt được cái
tính cáu gắt, đăm chiêu. Nhưng Cảnh chỉ hầu cận ban ngày. Tối đến
không có người chơi, nữ chúa lại càng buồn. Thuận Thiên lớn tuổi
hơn, lại ham mải các việc dung công ngôn hạnh, nên không còn hợp với
Chiêu Hoàng nữa. Bởi vậy, có khi tối đêm còn cho gọi Trần Cảnh vào
hầu. Trần Cảnh tuy gần gũi đức vua, song vẫn còn bẽn lẽn lắm, thường
bị đức vua bắt nạt. Có lần đi chơi đêm, Cảnh giả vờ trốn đứng vào
bóng tối, Chiêu Hoàng tìm được, nắm lấy tóc Cảnh kéo ra chỗ sáng.
Trần Cảnh đứng ngoài sáng, Chiêu Hoàng lại giẫm vào bóng Cảnh. Cứ
chơi mãi cái trò ấy có khi tới khuya, nội nhân phải ra mời tới hai
ba lần, nữ chúa mới chịu về nghỉ.
Đôi trẻ quyến luyến nhau như thế, không qua được mắt bà thái hậu
Trần Thị Dung, và đức ông Trần Thủ Độ .
================================================== =====
1.Thái uý: Chức quan trong hàng tam công - quan lớn nhất trong
triều: Thái uý - Tư Đồ - Tư Không. Trước nhà Tống thường gọi: Thái
sư, thái bảo. Sau này nhà Lê gọi: Thiếu sư - Thiếu phó - Thiếu bảo.
Đại khái đều rập theo nhà Tống hoặc nhà Minh.
2. Chi hậu: chức quan hầu bên vua, giữ việc truyền lệnh và dẫn người
vào, ra.
3. Nội nhân: chức quan để sai bảo ở trong cung.
4. Thị nội: chức quan chầu hầu trong cung.
5. Cận thị thự lục cục chi hậu: chức chi hậu ở sáu cục của Cận thị
thự là giữ việc hầu gần bên vua.
6. Chi hậu cục: Cục phụ trách truyền lệnh và dẫn người ra, vào cung
vua.
7. Chánh thủ: chức quan hầu cận để sai bảo.
8. Tiện điện: nhà riêng để nghỉ ngơi của vua.
Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền...!!!
Last edited by Bé Múp; 24-02-2007 at 05:40 PM..
Bé Múp
Xem hồ sơ
Gởi tin nhắn tới Bé Múp
Tìm bài gởi bởi Bé Múp
(#8)
Bé Múp
Thành viên Bài gởi: 1,416
Gia nhập: Sep 2006
Trả lời: Bão táp cung đình - Tiểu thuyết lịch sử của Hoàng Quốc Hải
- 23-02-2007, 06:57 PM
BÃO TÁP CUNG ĐÌNH
CHƯƠNG VII
TỪ KHI KÝ VÀO CHIẾU CẦU HIỀN VÀ SAI Nguyễn Nộn, Đoàn Thượng hội quân
ở kinh sư trừ gian đảng, thượng hoàng Lý Huệ tôn không có hồi âm gì
của quan thừa chỉ, ruột ngài nóng như đang ủ một lò lửa. Ngài linh
cảm như có một tai hoạ gì lớn sắp xảy ra. Chiều chiều, ngài thường
đi dạo trên quãng đường quen thuộc trong khuôn viên xem có thấy tên
thị nữ, người của quan thừa chỉ, thường hay lui tới, báo tin. Nhưng
tuyệt vô âm tín. Ngài cũng không được biết tí gì về công việc ở
trong triều, mà con gái ngài được người ta đặt vào ngôi quân trưởng,
đang làm cái trò trống gì. Ngài muốn gặp vợ con quá chừng, nhưng
không thể nào vượt qua được khu cấm địa này. Ngay cả Trần Thủ Độ,
ngài cũng mong ông ta đến. Bây giờ ngài không sợ nữa. Người ta đã
tước hết thảy quyền bính của ngài rồi, còn gì nữa để mà mất. Ngài ao
ước gặp Trần Thủ Độ để xỉ mắng ông ta một trận, cho bõ sự căm hờn
chất chứa trong lòng ngài từ bấy lâu nay. Nhưng nghĩ lại, Huệ tôn tự
nhủ: “Có lẽ mình phải cầu xin ông ta, để có cơ may còn được gặp con
cái. Nếu không, chết thối rữa ra ở chốn lãnh cung này cũng không ai
biết”. Ngài lại nghĩ: “Trăm điều chỉ tại con mụ vợ ta thôi. Nó thông
đồng với anh em chú cháu nhà nó để hại ta. Nếu không có nó làm nội
ứng, ngày đêm năn nỉ với ta, thì làm sao ta ưng thuận để cho Trần Tự
Khánh rước xa giá về cung, từ mùa xuân năm Bính tí (1216) ở Cứu
Liên(1). Cũng từ đấy, quyền hành ta lại trao vào tay thằng anh ruột
nó. Trần Tự Khánh được ta cho làm thái uý phụ chính. Lão anh cả Trần
Thừa cũng được giao làm nội thị phán thủ. Thế là công việc trong
ngoài triều chính đã lọt vào tay anh em nhà nó. Vây cánh nhà nó càng
ngày càng lớn, lấn át cả ta để sai khiến thiên hạ”.
Lý Huệ tôn cứ dằn vặt mình tại sao bỏ đường sáng, nhảy vào đường
tối. Ông tiếc, cái năm Quí Dậu (1213), rồi lại năm Giáp Tuất (1214),
hai lần Trần Tự Khánh đến cửa khuyết tạ tội xin đón xa giá, ông đều
chối từ. Lần thứ nhất ông đã giáng Trần Thị Dung từ nguyên phi xuống
hàng ngự nữ. “Lúc ấy ta đã thấy có điều đáng ngờ: xa giá đi về nẻo
nào rồi bọn Trần Tự Khánh cũng tìm ra. Vậy thời chỉ có Ngự nữ -
người vợ yêu của ta vẫn lén lút thông tin cho cánh họ Trần, nên
chúng mới biết”. Nhà vua chép miệng “Tiếc thay, hồi ấy nếu ta cứ
nghe thái hậu, dụ cho Trần Tự Khánh đến, rồi giết đi thì đâu còn tai
hoạ lớn cho ngày nay”. Càng nghĩ, máu trong người càng uất lên. Huệ
tôn tự thấy mình có tội với các tiên đế. “Vậy là ta đã đem cả cơ
nghiệp của tổ tông xây đắp nên, trao vào tay một lũ quyền gian. Mà
kẻ môi giới lại chính là mụ vợ ta. Chao ôi, lịch sử khéo lặp lại. Sự
nghiêng đổ thành trì, ai ngờ lại chính do tay một mụ đàn bà. Nhà
Đinh mất nghiệp cũng chỉ một tay Dương thị tư thông với Lê Hoàn. Xa
nữa, nhà Hán, nhà Đường bên Trung Quốc, suýt mất nghiệp lớn, cũng
chỉ do mấy con mụ Lữ Hậu, Võ Tắc Thiên gây nên. “Bây giờ lại đến
lượt ta!”.
Huệ tôn cứ ngày đêm nguyền rủa mình mãi không thôi. Cuối cùng, nhà
vua nghĩ, phải làm thế nào thoát ra khỏi cảnh sống dở chết dở này.
Nhà vua chợt nhớ tới lời dặn của quan thừa chỉ qua con thị tì bữa
trước: “ Bệ hạ nên sớm dứt bỏ chốn cung cấm thâm nghiêm. Bệ hạ hãy
tỏ ra thối chí…”
Nghĩ vậy, nhà vua bèn viết mấy chữ gửi cho Trần Thủ Độ. Sau vài dòng
thăm hỏi chiếu lệ, Huệ tôn viết:
“Ta vốn chuộng cảnh nhàn, lại không đủ sức đi đó đây. Nghĩ mãi, chỉ
có gửi thân nơi cửa Phật là hợp với sở nguyện của ta. Vậy ta mong
nhà ngươi nghĩ đến chút tình ưu nghĩa xưa ta đối với thái hậu Trần
thị, cũng như mấy anh em khanh được cất nhắc chầu hầu. Hãy gia ân
yới ngày đại cát này, cho ta vào làm lễ tế cáo trong điện chí
kính(2), trong nhà thái miếu(3), rồi vĩnh biệt các con ta. Sau đó ta
cũng xin trụ trì tại chùa Kim Liên, là ngôi chùa mà các tiên đế đã
tạo dựng”.
Viết xong, Lý Huệ tôn ôm mặy khóc hu hu.
Mơ về một ngôi chùa sắp tới, nhà vua sẽ trụ trì với các đấng thiền
sư mà trước đây nhà vua đã đôi lần lui tới viếng thăm.
Bỗng Huệ tôn nhớ lại gần chục năm trước, thấy tình cảnh đất nước bê
bối, ngổn ngang, nhà vua muốn chấn hưng, đã toan mời một vị thiền sư
lỗi lạc, thông hiểu cả tam giáo(4), về triều làm quốc sư. Nghe danh
Hiện Quang thiền sư, năm mười tuổi một đã xuất gia, ở chùa Lục Tổ,
được ngài Thường Chiếu thu nạp làm đệ tử, nay nổi tiếng khắp nước.
Huệ tôn phái người đem lễ vật tới cầu hai ba lần, nhà sư đều lánh
mặt, không tiếp. Tới lần thứ năm, ngài sai thị giả trả lời:
“Xin sứ giả về tâu lại với nhà vua, bần đạo hiện nay sinh trưởng ở
đất nhà vua, ăn lộc của nhà vua, ở trong núi làm chùa thờ Phật trong
bao năm rồi, công đức còn chưa được bao nhiêu, rất đỗi thẹn thùng.
Nếu nay về hầu cận đức vua, không những chẳng được ích gì, lại sao
nhãng trong việc tu hành, như thế chỉ để mọi người chê bai mà thôi.
Phương chi hiện nay Phật pháp có bề hưng thịnh, các bậc Sư, Tượng
đầy dẫy đang hành hoá tại nơi điện các, cớ chi đức vua lại cứ đoái
đến một kẻ thô lậu, bần hàn, mặc manh áo vá đi kiếm ăn trong núi sâu
này làm chi?”.
Nhớ lại, Huệ tôn càng buồn. Ngài cho rằng vận số nhà Lý đã hết, nên
chẳng cầu được người hiền. Âu cũng là do tiên đế để lại. Ngay thời
tiên đế đã có việc bắt các nhà sư phải hoàn tục(5). Hẳn rằng các
thuyền sư vẫn chưa nguôi oán giận? Nghe nói, Tăng phó Nguyễn Thường
đã từng can phụ vương: “Chúa thượng chơi bời không điều độ, chính sự
của triều đình thì rối loạn, lòng dân trái lìa, đó là triệu bại
vong”. Tiếc thay, phụ hoàng đã chẳng nghe. Tăng phó liền bỏ đi. Còn
ta, cầu mãi chẳng được người tài. Cho đến bây giờ, sự sụp đổ sờ sờ
ra trước mắt. Biết đấy, mà khoanh tay thúc thủ.
Nhận được thư của Lý Huệ tôn, Trần Thủ Độ mừng lắm. Chính ông cũng
băn khoăn không biết phế Huệ tôn bằng cách nào. Giam lỏng mãi như
thế cũng không được. Lỡ đang thiết triều, Chiêu Hoàng đòi đi thăm
phụ vương thì sao? Ăn nói thế nào với các bậc đại thần. Nay Huệ tôn
lại tự khơi đúng ý ta. Vậy là trời giúp ta. Ta tránh được tiếng ác.
Nhưng tại sao ông ta lại cứ khăng khăng muốn ở chùa Kim Liên? Chùa
nào mà chẳng do các tiên đế nhà Lý xây cất. Nói cho đúng, không có
nhà Lý thì làm gì có chuyện chùa chiền, thờ tự sùng thịnh như ngày
nay.
Dù Huệ tôn đòi hỏi không có gì quá đáng, Trần Thủ Độ vẫn cứ còn phải
cân nhắc. Ông ngờ trong việc này, còn dính dáng tới một vị đại thần
nào chăng? Về phần quan thừa chỉ, ông đã dùng kế điệu hổ ly sơn, sai
giữ chức an phủ sứ Nghệ An. Ông cũng ngầm gài người theo dõi các
hành vi của quan thừa chỉ.
Rồi cái ngày đại cát mà Lý Huệ tôn mong mỏi cũng đã đến. Ông chỉ
được tới điện chí kính, chứ không được tới nhà thái miếu. Trần Thủ
Độ lấy cớ rằng, nhà thái miếu chỉ mở cửa khi làm lễ Hiến phù(6),
cùng các ngày lễ tế Giao(7), ngày tết Nguyên đán, ngày vua mới đăng
quang(8).
Ngôi chùa mà Huệ tôn tự chọn cũng không được. Thay vì chùa Kim Liên
nằm mãi ven bờ hồ Dâm Đàm(9), Huệ tôn được nhận vào chùa Chân Giáo -
ngôi chùa nằm ngay trong hoàng thành. Trần Thủ Độ viện rằng, sức nhà
vua yếu, không nên đi xa kinh thành, ngự y khó bề săn sóc. Vả lại
Chân Giáo là ngôi chùa do Thái tổ nhà Lý lập ra từ năm Giáp tí
(1024) để nhà vua tiện ra vào lễ Phật. Nay Huệ tôn vào tu ở đó là
hợp hơn cả. Chẳng biết Huệ tôn có kịp nghĩ ra, chứ việc Trần Thủ Độ
ngăn không cho ông viếng nhà thái miếu, xét về lý, quả là như vậy.
Nhưng ẩn ý Trần Thủ Độ không muốn nhân dịp này, các đại thần lại lũ
lượt theo hầu vua cũ. Biết đâu chẳng có người bầy cho Huệ tôn nhân
đó mà tập hợp bè đảng, chiêu nhóm những người có lòng hướng về nhà
Lý. Còn như lễ tế trong điện chí kính, đó là việc riêng của hoàng
gia, triều đình không can dự. Huệ tôn chẳng còn kiếm được cớ gì để
gặp các đại thần. Ngay cả việc giữ nhà vua trong ngôi chùa Chân
Giáo, cũng không ngoài ngụ ý quản thúc. Thủ Độ hiểu rằng từ chùa Kim
Liên, có thể xuống thuyền ra sông Cái rồi đi các ngả; Huệ tôn dễ
dàng rơi vào tay các thế lực khác đang kình chống với ông.
Buổi lễ tế cáo ở điện chí kính diễn ra thật buồn tẻ. Mãi xế chiều
mới có kiệu đến rước nhà vua. Trước đấy, người ta bàn đến nát nước,
dùng lễ nghi gì đối với Huệ tôn. Cuối cùng, người ta phải chấp nhận,
coi Huệ tôn như một đấng đương kim hoàng thượng. Phẩm phục của Huệ
tôn vẫn không có gì thay đổi.
Nom nhà vua mặt buồn thiu. Tới lúc này, ngài không còn hy vọng gặp
lại các con. Bởi từ tảng sáng, ngài đã dậy chờ người ta đến rước đi.
Hoặc nói cho đúng là chờ người ta mở cửa cho đi. Suốt một đêm dài
thức trắng, ngài nghĩ về các con. Ngài ao ước thấy mặt Chiêu Thánh,
Thuận Thiên hai nàng công chúa yêu mà gần trọn một năm ngài không
được gặp. Thật tình, đôi lúc nhà vua cũng có ý muốn gặp cả “người
kia” nữa. Nhưng cứ nghĩ đến cách xử bạc của bà ta, nhà vua lại nổi
uất lên.
Sai quan nội hầu dẫn kiệu tới rước Huệ tôn, còn Trần Thủ Độ đón xa
giá của Lý Chiêu Hoàng từ phía điện Thiên An. Kiệu của Chiêu Hoàng
tới trước cung Ngoạn Thiềm, thì gặp kiệu của Huệ tôn cũng vừa tới.
Chiêu Hoàng xuống kiệu, lon ton chạy tới trước kiệu vua cha, vừa
thét gọi lạc cả giọng, vừa phủ phục xuống lễ thượng hoàng. Kiệu của
bà thái hậu Trần Thị Dung và công chúa Thuận Thiên cũng vừa tới.
Nhìn nét mặt sầu khổ cùng tấm thân héo úa của vua cha, Chiêu Hoàng
bật khóc nức nở. Thuận Thiên cũng níu lấy vua cha mà khóc.
Bà thái hậu chợt thấy chồng, đã giọt ngắn giọt dài. Bà vội lấy chéo
khăn lau nước mắt, rồi nhón một khẩu trầu bỏ vào miệng nhai cho đỡ
xúc động.
Huệ tôn cố ngăn, dù chỉ một lần, không để cho tình cảm lấn át, ông
khuyên các con hãy bình tâm. Ông biết cái bóng lờ mờ đứng phía sau
kia là ai rồi. Nhưng ông không hề ngoảnh lại phía đó. Đỡ Chiêu Thánh
dậy, ông vỗ về khuyên bảo hai chị em phải gắng gỏi lên, rồi ông dẫn
các con đi bộ vào điện chí kính.
Thượng hoàng và nhà vua đã dẫn bộ, nên Trần Thủ Độ và bà thái hậu
cùng các quan nội hầu, cũng phải xuống kiệu đi theo. Trần Thủ Độ tỏ
ra bực bội trước sự mềm yếu của mẹ con bà thái hậu, và vẻ cứng cỏi
chưa từng thấy ở Huệ tôn.
Đèn nhang và các vật hiếu kính, đã bầy sẵn trên các mâm thờ trong
điện. Mấy đỉnh trầm cũng vừa nhen đốt toả hương thơm ngào ngạt. Lý
Huệ tôn tự tay thỉnh một hồi ba tiếng chuông, ông lầm rầm khấn vái.
Chiêu Hoàng, Thuận Thiên bám riết hai bên tả hữu vua cha. Bà thái
hậu vẫn giữ một khoảng cách ở phía sau. Nếu như lúc này Huệ tôn
ngoảnh lại, nhìn thấu tâm can bà qua khuôn mặt đau đớn kia, chắc
những nỗi oán giận chất chứa bấy lâu trong lòng ngài, cũng sẽ vơi
nguôi ngay. Nhưng ông đã không ngoảnh lại. Huệ tôn khấn lễ khá lâu.
Khi tới trước bàn thờ vua cha và mẫu hậu, Huệ tôn nấc lên. Ông nói
giọng đẫm đầy nước mắt: “Trăm lạy mẫu hậu, ngàn lạy mẫu hậu hãy tha
thứ cho con. Con đã không nghe mẫu hậu, để con yêu nghiệt nó dẫn cả
dòng họ nhà nó vào áp chế triều đình. Cơ đồ nhà Lý hầu tan nát, tội
lớn tại con. Con xin vua cha, mẫu hậu cùng tiên tổ hãy cáo cấp trước
hoàng thiên hậu thổ, về tội soán đoạt của anh em chú cháu nhà nó.
Hãy vì trăm họ mà tru diệt hết cả cánh họ Trần nhà chúng nó, thì dù
thân con có vùi nơi chín suối cũng được hả hê lòng dạ…”.
Chiêu Hoàng, Thuận Thiên ngơ ngác không hiểu vua cha nguyền rủa ai.
Nhưng lọt tai thái hậu từng lời; từng lời như những mũi tên thuốc
độc bắn vào trái tim tan nát của bà. Người bà như hụt hẫng. Trước
mắt bà như có trăm ngàn ngọn bạch lạp lung linh, bay nhảy hỗn loạn.
Mắt hoa lên, bà lịm đi rồi khuỵu xuống. Trước khi ngã, bà còn kêu
được mấy lời: “Bệ hạ! Bệ hạ, oan cho thiếp!”
Biết có thái hậu ở phía sau, nghe rõ cả lời kêu than của bà, Huệ tôn
vẫn không thèm ngoảnh lại. Trong khi đó, Thuận Thiên, Chiêu Thánh
vẫn chăm chú theo dõi vua cha, không hề biết ở phía sau, mẫu hậu vừa
lịm ngất, Huệ tôn ghé tai nói nhỏ với Chiêu Hoàng: “Nếu Trời - Phật
độ trì, lớn lên con khôi phục được kỷ cương sáng rõ. Con nhớ trừ hết
phe đảng họ Trần”. Xong, ông trút bỏ lớp áo ngự, để lộ ra tấm áo hoà
thượng và nếp mũ nhà sư. Huệ tôn giơ một bàn tay lên đặt trước ngực,
tay kia ông xoa đầu vĩnh biệt các con. Rồi ông đi thẳng về chùa Chân
Giáo. Từ nay ông mang pháp hiệu: Huệ quang thuyền sư.
================================================== =
1. Khoảng phía nam sông Thiên Đức, nay thuộc huyện Văn Giang, Hưng
Yên.
2. Điện chí kính: Nơi thờ phụng tổ tiên của nhà vua từ năm đời trở
lại.
3. Nhà thái miếu: Nơi thờ phụng từ khởi tổ họ nhà vua trở đi.
4. Tam giáo gồm: Nho giáo, Lão giáo, Phật giáo.
5. Nghe lời tâu của Thái phó Đàm Dĩ Mộng, năm Mậu ngọ (1198), Cao
tôn xuống chiếu thải bớt nhà sư, bắt phải hoàn tục, hạn chế việc cấp
độ tiệp cho những kẻ muốn xuất gia.
6. Hiến phù: lễ thắng trận, đem tù binh về dâng trước nhà thái miếu.
7. Lễ tế trời đất thường vào dịp đầu năm.
8. Đăng quang: Ngày lễ vua mới lên nối ngôi.
9. Dâm Đàm: tên cũ của Hồ Tây.
Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền...!!!
Last edited by Bé Múp; 24-02-2007 at 05:42 PM..
Bé Múp
Xem hồ sơ
Gởi tin nhắn tới Bé Múp
Tìm bài gởi bởi Bé Múp
(#9)
Bé Múp
Thành viên Bài gởi: 1,416
Gia nhập: Sep 2006
Trả lời: Bão táp cung đình - Tiểu thuyết lịch sử của Hoàng Quốc Hải
- 23-02-2007, 06:59 PM
BÃO TÁP CUNG ĐÌNH
CHƯƠNG VIII
Việc Chiêu Hoàng, Trần Cảnh quyến luyến nhau không qua mắt được Trần
Thủ Độ và bà thái hậu Trần Thị Dung, mà còn không qua được mắt đám
nội nhân. Vì thế tiếng tăm bay đi khắp kinh thành. Chuyện đến tai
một số vị đại thần. Nhiều bậc lão thần đã xì xào bàn tán. Ngay
chuyện ấy cũng đã đến tai Trần Thủ Độ.
Trần Thủ Độ mừng vì cháu ông được vua nhỏ mến yêu. Nhưng lo, nếu có
người đàn hặc giữa chốn triều chính, không phải không có tội. Mà tội
khi quân, tội quân thần điên đảo vẫn được xếp hàng đầu trong tội ngũ
nghịch. Quan tri thành nội ngoại chư quân sự bèn thỉnh quan anh là
thái uý phụ quốc, và bà chị là thái hậu tới cung Thuỷ Tịnh để hội
kiến.
Hai anh em ruột cũng là hai bên cha mẹ của đôi trẻ đều vui mừng vì
anh em chúng quí mến nhau. Tính con trẻ, ưa có bầu có bạn, đó là lẽ
thường. Nhưng đây lại là nghĩa vua tôi mới khó xử.
Theo Trần Thủ Độ “Việc này cực kỳ hệ trọng. Trong lúc thế sự phiền
hà, kỷ cương chao đảo, người cầm quyền phải giữ nghiêm phép nước.
Coi chừng có kẻ cáo giác thì chết cả họ chứ không phải chuyện chơi”.
Bà thái hậu còn chưa hết xúc động sau buổi lễ tế cáo trong điện chí
kính, nay lại đến việc này. Ruột bà rối như một búi tơ giũ rối. Bà
ân hận vì gần trọn một năm, bà bỏ mặc Huệ tôn cho Trần Thủ Độ chăm
sóc. Tin ở quan điện tiền nói về sức khoẻ, tật bệnh và thuốc thang
chạy chữa cho nhà vua, nên bà chỉ chú trọng công việc trong hoàng
gia. Ai ngờ, thời gian đã dày xéo lên đức vua, với bao nỗi xót đau
còn hằn ghi nơi khuôn mặt ngài. Bà biết đức vua căm giận bà ghê gớm.
Vốn là một người nông nổi yếu đuối, mà đức vua đã găm sâu sự hờn oán
như vậy, chắc là người bị đoạ đầy cực nhọc lắm. Hẳn là trong thời
gian ấy, nhà vua vẫn tỉnh táo, chứ không phải là chứng điên lại kịch
phát như Trần Thủ Độ đã dối bà. Cứ nom cái mắt nhà vua với cách khu
xử, đủ biết là hành động của người trí chứ không phải của kẻ khờ.
Tiếc thay, ta đã quá tin Thủ Độ, bỏ mặc đức vua đằng đẵng gần một
năm ròng. Nhớ những ngày còn long đong, mấy anh em Trần Tự Khánh,
Trần Thủ Độ, Trần Thừa xông pha đánh dẹp, tranh giành với các thế
lực khác, lắm phen điêu đứng, không nơi tá túc. Cũng không được nhà
vua coi cánh họ Trần như một lực lượng cần vương. Thậm chí còn bị
thái hậu coi như một lũ giặc cỏ. Ngay bà, đã được nhà vua đưa về ở
trong nội điện, thái hậu vẫn nghi ngờ muốn giết. Nhiều phen thái hậu
sai bỏ thuốc độc vào thức ăn. Nhà vua phải chia sẻ bữa ăn của mình.
Đúng là cơm chan nước mắt. Ngày đêm bồn chồn lo lắng. Nếu không có
nhà vua đứng ra che chắn, đùm bọc, thì tính mệnh cũng khó toàn, nói
chi đến ngày nay. Cả mấy anh em họ Trần cũng thế, nếu không có ta
sớm khuya bầy tỏ, sao nhà vua có thể tin dùng và trao quyền bính.
Bữa trước, nhà vua nguyền rủa ta. Sự thật quả là như vậy. Nhưng ta
vì vô tình làm các việc đó. Phần bởi vì thương tôn tộc. Phần nghe
lời chỉ dẫn của các bậc cha anh. Chao ôi, ai ngờ các việc ta làm đó,
lại là làm hại cơ nghiệp nhà Lý. Mà rồi chẳng biết họ Trần có nên
cơm cháo gì không. Phận ta từ nay, chồng còn cũng coi như thân goá.
Nhà vua đã xuất gia, với lòng căm giận ta và phe cánh nhà ta, chẳng
bao giờ còn đoái tưởng nữa. Ta biết trông cậy vào ai. Cưỡng lại anh
em nhà mình ư? Không được. Các con ta còn quá nhỏ. Ngôi quân trưởng
giữ hờ, nếu không có người phụ chính cứng cỏi, mẹ con ta mất mạng
như chơi. Ôi, nếu như ta cứ yên phận là một cô gái quê thì đâu đến
nông nỗi! Đời thật đắng cay, trớ trêu. Ta thiết gì ngôi cao lộc
trọng mà tranh giành. Con ta bắt buộc ở ngôi, ngày đêm khóc lóc, nó
cứ đùn đẩy mãi cho con Thuận Thiên mà không được…
Sực nhớ đến lời khuyến cáo của Trần Thủ Độ, bà thái hậu liền hỏi:
- Nguy cấp lắm sao? Chỉ có hai đứa trẻ là anh em họ chơi thân với
nhau, cũng làm cho cả triều đình xôn xao sợ hãi. Cả ông nữa, ông
thống soái. Bà thái hậu nhìn thẳng vào mắt Trần Thủ Độ với giọng
giễu cợt gặng hỏi:
- Ông cũng lo lắng lắm sao? Rồi bà nhìn về phía Trần Thừa: - Còn anh
cả, ý anh thế nào? Cùng lắm thì cho chúng nó lấy nhau. Nhẽ đời phải
thế thì ta cứ thế mà làm. Tôi không thấy có gì đáng phải hãi sợ
trong câu chuyện này.
Nói rồi bà thở nhẹ, như vừa trút đi một gánh nặng. Bà mở vuông khăn,
lấy ra một khẩu trầu.
Quan phụ quốc thái uý Trần Thừa với vẻ băn khoăn nhìn em gái, nói:
- Việc tầy trời mà cô nói cứ như trò chơi con trẻ. Phép nước chứ đâu
phải chuyện chơi. Ý chú Thủ Độ thế nào. Tôi chắc chú đã có kế sách
rồi. Ít lâu nay tôi thấy trong công việc, chú sáng ra nhiều lắm. Chú
sai khiến cắt đặt mọi điều đều khuôn theo ý chú, cơ mưu như thần.
Nghiệp họ Trần dấy lên tự đây chăng?
Trần Thủ Độ không phải không lo phòng bị. Mối lo lớn nhất trong lúc
này là các đại thần chống lại ông. Tối kỵ là việc để cho họ, dù công
khai hay ngấm ngầm liên kết được với Nguyễn Nộn, Đoàn Thượng. Nhưng
khi chợt thấy thái độ coi thường của bà thái hậu với câu nói khùng:
“Cùng lắm thì cho chúng nó lấy nhau”, tự nhiên trong đầu ông nảy ra
một kế. Lại tiếp đến ý của ông anh: “Việc tày trời mà cô nói cứ như
trò chơi con trẻ”. Trần Thủ Độ như vồ lấy cái ý nhát sợ ấy của ông
anh. Thế là xong. Tương kế tựu kế. Ông nghĩ: “Xưa nay, mọi việc thế
gian đều như trò chơi con trẻ. Cái khéo là ở sự bầy đặt cuộc chơi”.
Kế sách coi như đã quyết ở trong đầu. Nhưng ông vẫn còn băn khoăn,
nếu như có Hoàng tiên sinh ở nhà để vấn kế thì yên tâm biết mấy.
Phải gấp gấp ra tay. Không thể nấn ná đợi chờ. Thời cơ mấy khi tạo
được. Ý đã quyết, Trần Thủ Độ liền nói thẳng với ông anh, bà chị về
mọi nhẽ tồn vong, rồi ông chốt câu chuyện lại: “Nếu anh cả và chị
tin tôi. Nội trong ba ngày nữa mọi việc sẽ xong. Kẻ nào chống lại,
tôi diệt. Tôi cũng nói trước, việc này thành, tức là trời đem nghiệp
lớn quốc gia trao vào tay họ Trần ta. Chẳng may việc bại, thì chết
cả họ, đừng có oán tôi. Nhớ rằng các việc tôi làm đều không phải để
cho tôi”.
Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền...!!!
Bé Múp
Xem hồ sơ
Gởi tin nhắn tới Bé Múp
Tìm bài gởi bởi Bé Múp
(#10)
Bé Múp
Thành viên Bài gởi: 1,416
Gia nhập: Sep 2006
Trả lời: Bão táp cung đình - Tiểu thuyết lịch sử của Hoàng Quốc Hải
- 23-02-2007, 07:02 PM
BÃO TÁP CUNG ĐÌNH
CHƯƠNG IX
Vào một đem cuối tháng mười một năm Ất dậu (1225), trời tối mịt mù,
gió rét căm căm, Trần Thủ Độ đem hết gia thuộc vào trong cung cấm
rồi sai đóng chặt cửa thành lại. Quân tứ sương(1) chẹn đứng bốn cửa
đông - tây - nam - bắc hoàng thành. Quân thánh dực, quân hổ bôn ém
dầy đặc trong tử cấm thành. Trên các trục đường từ các lộ Hồng,
Khoái, Bắc Giang, Quốc Oai, Trường Yên đổ về kinh đều tăng số quân
kỵ, quân bộ đóng giữ, canh phòng, tuần tra cẩn mật, tưởng đến một
cánh chim cũng khó lọt qua được. Lệnh truyền: “Nội bất xuất, ngoại
bất nhập”(2).
Vào một đêm như thế, quan thái phó Phùng Tá Chu được triệu vào cung.
Quan thất kinh vì nhận thấy giọng nói thì thầm và bước đi êm nhẹ như
những bóng ma của bọn lính trong đêm tối, ông linh cảm như có một
tai họa gì khủng khiếp sắp giáng xuống đất Thăng Long. Vừa hoang
mang, vừa tò mò, quan thái phó đoán già đoán non các việc có thể xảy
ra. Nhưng ông không hình dung được một việc gì rõ ràng, mà nó chỉ
mông lung mờ ảo như đám sương mù tháng chạp. Gần đây, việc quan thừa
chỉ đang trấn trị châu Nghệ An được triều hồi về kinh, rồi lại hấp
tấp đi nhiệm sở tại Trường Yên, khiến một số sủng thần cũng phải ngơ
ngác, còn các quan khác hết đỗi hoang mang.
Vào tới nội điện, ông được diện kiến trước hết là quan tri thành nội
ngoại chư quân sự Trần Thủ Độ. Bạch lạp sáng choang, soi rõ khuôn
mặt quan ngài đằng đằng sát khí. Nhưng rất lạ, ông niềm nở mời quan
thái phó vào cửa, cứ như là sắp có yến tiệc gì đây. Tiếp đó, lại
thấy lấp ló có quan thái úy phụ quốc Trần Thừa, và cả bà thái hậu
Trần Thị Dung cũng có mặt. Đọc những nét hiện trên khuôn mặt của ba
người này, ông đủ biết triều chính đang có chuyện gì lớn lắm, nghiêm
trọng lắm. Đến nỗi ông không dám cắt lời hỏi, mà chỉ rút nhẹ tờ hỏa
lệnh gài trong khuôn mũ, kính cẩn đưa trả cho Trần Thừa, và khép nép
nhìn bà thái hậu như muốn nói: “Thần xin phụng mạng”.
Phùng Tá Chu chưa kịp ngồi thì Trần Thủ Độ từ cửa tò vò đi vào, tay
vẫn đặt hờ trên đốc kiếm nói: “Việc đã gấp lắm rồi. Anh cả và chị
nói luôn để cho ông Chu thảo chiếu ngay!”. Nói xong, ông đi liền.
Chỉ nghe tiếng vọng chân ông ở mãi phía ngoài thềm.
Qua giờ Tý thì quan thái phó đã thảo xong chiếu, đọc thử cho bà thái
hậu và anh em Trần Thủ Độ nghe. Trần Thừa gật gù hỏi: “Chú Đôï thấy
thế nào?”.
Trần Thủ Độ bảo: “Được” rồi quay ra. Đêm ấy Phùng Tá Chu phải ngủ
lại trong cung.
Tin tức các nơi báo về đều không có động tĩnh gì. Sáng hôm sau đến
giờ thiết triều, các quan văn võ tới chầu, nhưng cửa điện vẫn đóng
im ỉm không được vào, Trần Thủ Độ uy nghi trong bộ võ phục đứng trên
lầu Vọng Nguyệt nói xuống: “Nhà vua đã có chồng rồi”. Các quan đều
nói: “Được! Xin cho vào lạy mừng”.
Nữ chúa Chiêu Hoàng trang điểm lộng lẫy ngồi lọt thỏm trong ngai
vàng. Xế phía bên tả ngai vàng, Trần Cảnh đứng cạnh quan thái úy phụ
quốc Trần Thừa. Bà thái hậu ngồi trước ngai. Các quan từ nhất phẩm
trở xuống đều quì lạy. Nữ chúa ban tờ chiếu cho quan hàn lâm thị
độc. Ông vái nhà vua ba vái rồi quì đọc.
Giọng quan thị độc sang sảng. Ông đọc thong thả từng lời, từng lời
như thấu tận tim óc mọi người. Đọc xong, triều nội vẫn im phăng
phắc. Các quan, ai nấy đều cảm thấy đây là việc làm không bình
thường của hoàng gia, nhưng không có gì trái đạo. Bà thái hậu đứng
lên nói vài lời:
- Xưa nay, việc hôn nhân là đạo thường trong thiên hạ. Nhà vua tuy
tuổi còn nhỏ, nhưng đã sớm phải gánh vác việc lớn quốc gia. Thượng
hoàng bệnh trọng, đã xuất gia. Ta lại là đàn bà không biết thế nào
mà lo liệu. Nay bệ hạ ưng thuận quan chánh thủ Trần Cảnh để có bầu
có bạn sớm hôm học hành, mai đây còn lo việc lớn cho trăm họ. Mong
các quan gắng sức khuông phò…”
Thái hậu vừa dứt lời, các quan đồng thanh chúc cuộc trăm năm của vua
nhỏ:
“Thiên tuế! Thiên tuế!”
Vậy là cuộc hôn nhân được sắp đặt do cơ mưu và cũng do sức ép của
Trần Thủ Độ đã êm xuôi. Những ngày sau đó, Trần Thủ Độ cho người đi
tung tin khắp các châu, quận, trấn, lộ rằng Chiêu Hoàng nữ chúa đã
lấy chồng, xem các đầu mục, nhất là hai viên tướng phản loạn đang
trấn giữ hai vùng phía đông, phía bắc kinh thành có phản bác gì
không. Tịnh không có gì xảy ra. Cũng không có chuyện vì nữ chúa lấy
chồng mà các tướng phản loạn dấy binh. Phải chăng việc lấy vợ lấy
chồng là đạo thường trong thiên hạ như lời bà thái hậu. Nếu vậy, quả
là ông đã đi một nước cờ liều, nhưng lại thắng to. Điều ông sợ nhất
vẫn là các quan đại thần ra mặt chống đối, hoặc ngấm ngầm kết liên
với các thế lực của Đoàn Thượng, Nguyễn Nộn. Nếu hai người ấy hòa
hợp với nhau, lại thêm có chiếu cần vương của Huệ tôn, thì dù ông có
đởm lược như Lý Thường Kiệt, Lý Đạo Thành cũng phải tự trói tay mà
chịu chết. May thay, họ lại án binh bất động.
Lại nói về thầy trò Hoàng tiên sinh bữa nọ đang hái thuốc trong rừng
sâu, chợt có người khách thương đem muối từ đồng bằng lên đổi lấy
trầm hương, tùng hương, họ nói lại sự việc mới xảy ra ở kinh kỳ.
Nghe xong, tiên sinh mỉm cười sung sướng, thầm khen: “Thủ Độ quả là
một tay anh hùng, một tay gian hùng. Giỏi! Y cực giỏi. Đế nghiệp
chắc chắn về tay họ Trần”.
Mười ngày sau vụ nhân duyên của Chiêu Hoàng - Trần Cảnh. Hoàng tiên
sinh về tới kinh.
Vừa trông thấy Trần Thủ Độ, Hoàng tiên sinh đã kính cẩn vái chào.
Hành vi đó khiến Thủ Độ phát hoảng lên. Vì từ khi mời được Hoàng
tiên sinh hạ sơn, Trần Thủ Độ vẫn thờ ông như một bậc sư phụ. Còn
ông, tuy giữ lễ với người quyền lực nhất triều, nhưng vẫn bảo tồn
được cái phần kiêu hãnh của một bậc quốc sĩ, theo đúng đạo trung
dung. Không kính quá, cũng không thường quá. Song bữa nay, có gì như
trái với lệ thường, khiến Trần Thủ Độ phải cúi rạp mình xuống vái ba
vái để đáp lễ tiên sinh. Thủ Độ tuy đã là một tay có tài tế thế,
song vẫn không hiểu được thâm ý của họ Hoàng. Điều đó có nghĩa rằng,
Hoàng tiên sinh muốn khen người học trò của ông thuộc loại: “hậu
sinh khả uý”. Tiên sinh thầm nghĩ: “Trong lúc thế cuộc rối ren, ta
gợi cho ông ấy phải sắp lại cuộc cờ. Phải loại bỏ vai trò của đức
vua điên. Chỉ nên lợi dụng cái danh của ông ta để điều hành việc
triều chính, và sai khiến thiên hạ. Chính tiên sinh đã gợi cho Trần
Thủ Độ một vài việc cần làm. Ví như việc sách lập Chiêu Thánh làm
hoàng thái tử, rồi đưa “Hoàng thái tử” lên kế nghiệp. Tiếp đó ông ta
lại nghĩ ra chuyện đưa luôn thằng bé tám tuổi, cháu ông ta vào chầu
hầu vua nhỏ, với chức chánh thủ. Vậy thời thằng bé ấy, kết duyên với
con bé kia, là chuyện đương nhiên. Vì cha chú chúng đã có chủ ý”.
Sực nhớ đang trò chuyện với Trần Thủ Độ, Hoàng tiên sinh nói như
người vừa mới chợt nghĩ ra:
- Thế tất còn một việc trọng yếu sau cuộc hôn nhân này, tới lúc nào
mới được thực thi? Thưa quan ông.
Trần Thủ Độ giật nảy mình như người dẫm phải gai. Ông tự hỏi: “Ông
già này như biết hết ruột gan ta. Thật không có việc gì có thể qua
được mắt tiên sinh”. Thay vì trả lời, Trần Thủ Độ mỉm cười và hỏi
lại:
- Xin tiên sinh dạy cho, nên làm vào lúc nào là tốt nhất?
Hoàng tiên sinh lại nghĩ: “Con người này tuy ít học, nhưng sáng ý lạ
thường. Chỉ gợi cho ông ta một bước, là ông ta bước tiếp cả một
chặng dài. Thuần những bước đi chắc nịch. Ông ta thuộc loại người đa
mưu túc trí, nếu được dẫn dắt vào con đường lương thiện, hẳn nhiên
sẽ trở thành con người đức độ, làm rường cột cho quốc gia. Ông ta
thuộc loại người có thể chia sẻ quyền lợi chứ không chia nhường
quyền lực. Gặp lúc hiểm nghèo có thể nhún chứ không lui. Trong lúc
thế nước ngàn cân treo sợi tóc, hoạ nồi da xáo thịt đang hăm doạ
muôn dân; phải có những người đại hùng, đại trí như thế này mới mong
gỡ được thế cuộc. Ở ông ta cái thiếu không phải là trí hoặc dũng, mà
là nhân. Nếu ông ta tu chính để thành người nhân nghĩa nữa, chắc
chắn ông ta sẽ trở nên một bậc thánh”. Giây lâu, tiên sinh mới lại
hỏi:
- Việc này quan ông làm càng sớm càng tốt. Bởi có chính danh vị mới
định được danh phận.
Hoàng tiên sinh thấy trong lòng êm nhẹ, bởi thế nước có cơ an thịnh.
Tiên sinh cũng tin nơi Trần Thủ Độ, có thể lèo lái được con thuyền
quốc gia, tới bến bờ đắc thắng. Vả lại, trong triều cũng còn nhiều
bậc lỗi lạc, có thể giúp rập thêm vào. Tiên sinh đang có ý muốn trở
lại chốn sơn lâm, hoặc chu du thiên hạ làm thuốc, cứu nhân độ thế.
Cũng muốn nhân dịp này bày tỏ với Trần Thủ Độ đôi điều, ngõ hầu mới
có thể khai triển trong việc an dân hưng quốc. Trần Thủ Độ khiêm nhã
chắp hai tay nói:
- Xin lĩnh ý tiên sinh. Rồi ông tiếp : - Bẩm tiên sinh, từ ngày được
tiên sinh chỉ giáo, tôi cũng làm được đôi điều khả dĩ thành tựu.
Song le, việc học hành chữ nghĩa kém cỏi, thành thử làm việc trước
chưa lường được việc sau. Nhiều điều còn mù mờ rối rắm, như người
lạc vào rừng giữa đêm tối. Chỉ mong có dịp gần, sớm chiều được tiên
sinh chỉ bảo, họa may mới có thể tránh được sự bại vong.
Có nhẽ Trần Thủ Độ đã gợi trúng điều Hoàng tiên sinh đang suy ngẫm,
ông hồ hởi đáp:
- Quan ông đối với ta ưu hậu quá, khiêm nhường quá. Chẳng hay cuộc
tiếp kiến dạo trước, những lời nói thẳng của ta có làm quan ông phật
ý? Ta cứ áy náy mãi, là bởi: “Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy”(3).
- Bẩm tiên sinh, nhờ có tiên sinh sáng suốt vạch ra những điều bất
thiện ẩn náu trong con người tôi, tôi lấy đó làm bài học răn mình,
lúc nào cũng sợ hãi như người cầm roi mục giong cương ngựa thiên lý.
Hoàng tiên sinh cười ha hả, vuốt chòm râu bạc, vẻ đắc ý, ông nói:
- Ta với quan ông, tình là bầu bạn, nghĩa là thầy trò. Quan ông đối
với ta, tình là chỗ quan dân, nghĩa là sự trên dưới.
Trần Thủ Độ xua tay:
- Không dám! Không dám! Tiên sinh dạy quá lời.
Hoàng tiên sinh lại nói:
- Tựu trung, cả nghĩa lẫn tình giữa quan ông với ta có thể qui về
mấy chữ sau đây:
TƯƠNG THỨC MÃN THIÊN HẠ
TRI ÂM NĂNG KỶ NHÂN(4).
Ta nói để quan ông rõ. Kẻ sĩ chết vì người tri kỷ.
- Xin đa tạ tiên sinh!
Hoàng tiên sinh với giọng trầm ấm, rủ rỉ nói với Trần Thủ Độ những
điều tâm huyết mà bấy lâu ông hằng ấp ủ.
- Sớm muộn gì thì thiên hạ cũng về tay họ Trần. Sự nổi loạn của các
sắc mục miền xuôi, của các người Man miền ngược, quan ông ra tay
bình định một sớm một chiều là qui phục hết. Điều đáng lo ngại của
quan ông là hai thế lực to lớn của Nguyễn Nộn ở phía Bắc, Đoàn
Thượng ở phía Đông. Đoàn Thượng như bữa trước ta đã nói. Y sẽ tự
tan. Còn Nguyễn Nộn hết thời cơ rồi. Vả lại ông ta không phải là
địch thủ của quan ông. Cứ dùng chính lệnh của triều đình mà sai
khiến. Hai người này không thể liên kết với nhau để thành một đại
lực lượng, chống lại quan ông. Ví rằng cả hai người đó đều là những
kẻ vị kỷ chứ không vị nhân. Nghiệp lớn không thể rơi vào tay họ
được.
Hoàng tiên sinh ngừng lời, như vẫn còn muốn kiểm xét xem những điều
gì thật cần thiết, thật có ích cho việc hưng quốc an dân, ông sẽ hết
lòng bầy tỏ với Trần Thủ Độ.
Giây lâu tiên sinh lại nói:
- Mai đây khi đã kiêm tính được thiên hạ, tiên sinh nói tiếp - Có
mấy việc lớn quan ông phải lưu ý làm ngay.
Việc đầu tiên là phải lo chấn chỉnh lại bộ máy hành chính quốc gia.
Trước hết, phải dùng được người tốt, người tài giỏi. Dùng được người
tốt, người tài giỏi thì trị an, dùng phải kẻ xấu thì nguy loạn. Một
nước trị hay loạn là do ở vua và quan giỏi hay dở. Vì thế, việc dùng
người là khâu then chốt nhất của một triều đại. Việc hình luật mà
quan ông đang sửa sang, phải gấp gáp. Một nước văn hiến không thể
không có luật pháp. Luật pháp có rồi lại phải nghiêm. Ngay đến đức
vua cũng không được đứng trên luật pháp.
Quan ông cũng nên xét lại các chính lệnh của nhà Lý để mà di phong
dịch tục. Điều gì hay phải giữ. Đại Việt từ khi lập quốc, chỉ đến
nhà Lý mới được xem là một triều đại có văn hiến. Về chiến công thì
oanh liệt, về chính trị thì nhân từ.
Các chính sách như ngụ binh ư nông và tổ chức quân đội, là một chính
sách lỗi lạc. Giữ binh lính ở việc làm ruộng việc, là phục việc nguy
hiểm vào nơi thuận tiện. Nhất là việc tổ chức quân đội, đến nhà Tống
còn phải học(5).
Việc an dân và việc binh bị, quan ông đã có nhiều chủ kiến hay, ta
không bàn tới nữa. Ngừng một lát tiên sinh lại tiếp:
Mấy chục năm gần đây, nhiều người bài xích đạo Phật, bắt sư hoàn
tục. Không nên quên rằng nhà Lý gốc ở Phật, mà dựng được một quốc
gia hùng cường, thuần ái. Không những thế, nhà Lý còn kiêm dùng được
cả ba đạo: Nho - Lão - Thích. Ngay nhân tài cũng từ cửa đó mà ra.
Các khoa thi tam giáo đã lựa được biết bao tài năng cho đất nước.
Ngày nay có nhiều người cho rằng, Phật giáo nặng về mê tín dị đoan.
Đâu phải thế. Dị đoan là bọn đồng cốt. Còn Phật, chủ về cả thế tục
lẫn tâm linh. Căn cốt của Phật là giác ngộ và giải thoát. Nên nhớ
rằng nếu khờ dại mà tước đi của con người phần tâm linh, thì họ sẽ
bơ vơ không nơi an trụ thân tâm, sẽ cô đơn hoang dã như loài thú.
Nói cho đúng thì Phật liên kết chúng sinh lại, cũng như nỗi đau trần
thế liên kết mọi con người. Hoặc giả không có Phật Thích-ca mâu-ni,
thì con người cũng tạo ra Phật để mà tin thờ, để mà gởi gắm cho vơi
vợi nỗi đơn côi. Phần tâm linh đã vậy, còn phần dân trí thì sao?
Phải lo mở mang việc học để khai phóng dân trí. Dân trí mở mang rồi,
thì lo đến việc trì quốc, chứ đừng khư khư mãi chính sách trị quốc.
Giữ nước là công việc của trăm họ, của muôn dân, còn trị nước chỉ là
công việc của một dúm người trong bộ máy quan liêu. Chính sách gì
của triều đình, quan ông cũng phải chú trọng trước hết đến việc dùng
kẻ sĩ, trọng người hiền. Với loại người này chỉ có dùng đức để
thuyết phục, dùng lễ để sai khiến, chứ dùng quyền uy, phú quí họ coi
khinh không bằng cọng cỏ. Chung qui, kẻ sĩ thì dễ thờ mà khó làm cho
họ đẹp lòng. Còn bọn tham bẩn thì khó thờ mà dễ làm cho chúng đẹp
lòng. Một nước muốn cất mình lên, chỉ có thể trông cậy ở lớp người
hiền tài.
Hoàng tiên sinh nói như giãi bày hết cả gan ruột mình, như muốn
truyền thụ tất cả những gì ông thu nhận được qua chữ nghĩa thánh
hiền, cũng như những gì ông đã suy nghiệm gần mãn cuộc đời, hoặc nếm
trải qua cuộc sống đắng cay của đám cùng đinh dân dã, vẫn chưa có cơ
may thi thố.
Trần Thủ Độ rất đỗi cảm kích tấm lòng ưu nghĩa của tiên sinh. Mỗi
lời nói của tiên sinh đều giản dị dễ hiểu, dễ nghe nhưng lại ẩn chứa
những đạo lý sâu sắc mà tiên sinh iu ấp suốt đời. Phương chi những
điều ấy lại được thi thố đầy đủ thì dân nào chẳng giàu, nước nào
chẳng mạnh.
Thấy Hoàng tiên sinh ngưng lời, và sắc diện tiên sinh hơi mỏi mệt,
Trần Thủ Độ lựa hỏi:
- Bẩm tiên sinh, tiên sinh đi khắp trong dân chúng cũng như trong
đám quan quân, chẳng hay có dư luận gì về kẻ ngu dại này đang nắm
trọng trách quốc gia, xin tiên sinh cho biết để hoạ may còn đổi lỗi?
- Hễ đã có làm bất cứ một điều gì là đều có dư luận. Huống chi quan
ông là bậc tể thần, mỗi việc làm của quan ông là đụng đến cả rường
mối quốc gia. Sao lại không có dư luận?
Mọi người đều ưa quan ông cả ư?
Mọi người đều ghét quan ông cả ư?
Sự ưa ghét ấy đều không thật. Vì ở đời có người thiện, kẻ ác. Nếu
người thiện ưa mà kẻ ác không ghét, là không thật. Hoặc kẻ ác ghét
mà người thiện không ưa cũng không thật. Cho nên làm việc gì mà
người thiện ưa, kẻ ác ghét, ấy là thật. Biện biệt như thế mới thấy
rõ người hay kẻ dở ở đời.
Trần Thủ Độ vẫn còn một điều áy náy, với vẻ khoái hoạt, ông hỏi:
- Thưa tiên sinh, vừa rồi tiên sinh có dạy phải sửa sang hình luật.
Chẳng hay làm thế nào để hình luật ban ra cho hợp lý, từ người trí
đến kẻ ngu đều chấp nhân được.
Suy nghĩ giây lâu, Hoàng tiên sinh đáp:
- Hãy xem xã hội như một ngôi nhà chung, mỗi người đều phải có trách
phận giữ gìn. Qui ước chung để giữ gìn “ngôi nhà xã hội” đó, là luật
pháp. Pháp luật hay luật lệ gì cũng đều do con người làm ra. Cho nên
nó phải phù hợp trước hết với cuộc sống của con người và không trái
với lương tâm. Ấy là hợp đạo lý. Việc tối kỵ là chỉ san định những
điều có lợi riêng cho các người cầm quyền, mà thiệt hại cho dân
chúng, thì đấy sẽ là đầu mối của sự loạn.
Thoáng gợn một nét buồn, Hoàng tiên sinh cáo từ.
Trần Thủ Độ xúc động tới mức chưa kịp nói lời cảm tạ, Hoàng tiên
sinh đã khuất sau dãy xuyên đường.
==================
1.Quân tứ sương: quân canh gác bốn cửa thành.
2. Đây là lệnh giới nghiêm, cấm người ở trong thành không được đi
ra, ở ngoài thành không được vào, ai ở yên vị trí đó.
3. Nghĩa là: Một lời đã nói ra, bốn ngựa đuổi khó kịp. Nghĩa bóng:
Phát ngôn phải thận trọng. Lời nói ra khó thu về.
4. Có nghĩa: Bạn bè biết nhau đầy rẫy trong thiên hạ. Nhưng thực ra
tri âm được mấy người
5. Tống sử nói về “ An Nam hành binh quân pháp” (“Phép dùng bình của
người An Nam”) có đoạn viết: “Thái Diên Khánh là tri châu ở đất Hoạt
thường học được phép tổ chức quân đội của An Nam, xin bắt chước qui
chế chia ra từng bộ phận. Dâng lên vua Thần tông (1068 - 1084) được
vua khen”.
Trong “Vân đài loại ngữ”, Lê Quý Đôn có thuật lại về “Thái Diên
Khánh truyện” rằng: “Diên Khánh thường theo phép hành binh của An
Nam. Bộ đội chia làm các hạng: Chính binh và Phiên binh... Diên
Khánh ghi chép tất cả rồi dang thư lên vua Thần tông bên Tầu, được
vua khen”.
Theo tác giả Pierre Pasquier trong “Annam d’autrefois” đã viết:
“L’Annam a connu le soldat laboureur avant la Rome antique” - “Nước
Nam biết dùng binh làm ruộng trước cả nước La Mã cổ xưa”.